Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

cơ sở hình thành tư tưởng hồ chí minh, trong các cơ sở đó, cơ sở nào quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.89 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
Đề tài 1…………………………………………………………………….4
A. Mở đầu 4
B. Nội dung 5
I. Khái quát về tư tưởng hồ chí minh 5
1. Khái niệm tư tưởng 5
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh 5
II Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh …….5
1. Nhân tố khách quan 5
1.1 Bối cảnh xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh 5
a. Tình hình thế giới 6
b. Tình hình Việt Nam 7
1.2 Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh 8
a. Giá trị truyền thống dân tộc 8
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại 9
c. Chủ nghĩa Mác -Lênin 11
2. Nhân tố chủ quan …12
III. Nhân tố quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh 12
1. Chủ nghĩa Mác -Lênin 12
2. Con người Hồ Chí Minh 15
a. Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh 15
b. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn 16
C. Kết luận 18
ĐỀ TÀI 1:
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các cơ sở đó, cơ sở nào
quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
A. MỞ ĐẦU

Hồ Chí Minh đã có những đóng góp to lớn về lý luận và tư tưởng cho nhân


loại . Tư tưởng đó vẫn vẹn nguyên giá trị thời đại.
Trong thế giới ngày nay, khó tìm đâu ra một nhân vật đã "trở thành huyền
thoại ngay khi còn sống", một con người hội đủ khát vọng của các dân tộc dù màu
da, tiếng nói, chủng tộc, tôn giáo, văn hóa khác nhau….
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nêu rõ: “Chủ tịch Hồ Chí Minhlà linh hồn, là
ngọn cờ chói lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng,
chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc. Tư tưởng
Hồ Chí Minhlà di sản tinh thần vô giá sẽ mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng ta, của nhân dân ta. Chúng ta phải tiến hành cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách sâu rộng, thiết thực,
hiệu quả trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, khơi dậy và phát huy các giá
trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc phục sự suy thoái về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các tệ nạn xã hội.
Để “Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, chúng ta cần nắm được cơ
sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các cơ sở đó, cơ sở nào quyết định bản
chất cách mạng và khoa của tư tưởng Hồ Chí Minh.
B. NỘI DUNG

I. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Khái niệm tư tưởng.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm “tư tưởng” không phải
là ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng mà có nghĩa là một hệ thống
những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học
(thế giới qua và phương pháp luận) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của
một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại
chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dựa trên những định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các nhà khoa học đã dưa ra định nghĩa:

“Tư tưởng Hồ Chí Minhlà một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết hợp
tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người”.
Tư tưởng Hồ Chí Minhbao gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc; về chủ nghĩa vã
hội và con đường đi lên chú nghĩa xã hội; về Đảng Cộng Sản Việt Nam; về đại
đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì
dân; về văn hóa, đạo đức,v.v
II. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Nhân tố khách quan.
Tư tưởng Hồ Chí Minhkhông phải là sản phẩm chủ quan, phản ánh tâm lý,
nguyện vọng của nhân dân Việt Nam đổi với lãnh tụ kính yêu của mình. Tư tưởng
Hồ Chí Minhlà sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu
khách quan và sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng đặt ra từ đầu thế
kỷ XX đến nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minhđược hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những
điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và thời đại mà Ngừơi đã sống và hoạt
đông. Thiên tài của Hồ Chí Minhlà ở chỗ Người đã nắm bắt chính xác xu hướng
phát triển của thời đại để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc mình.
1.1. Bối cảnh xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Tình hình thế giới.
Hồ Chí Minhbước vào vũ đài chính trị khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
đã bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Năm 1912, Hốp-xơn (người Anh) đã
mô tả tường tận đặc điểm kinh tế - chính trị của chủ nghĩa đế quốc. Lênin dựa trên
quan điểm của Hốp-xơn đưa ra định nghĩa nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc
gắn liền đặc điểm kinh tế là các nước lớn xâm chiếm thuộc địa và chia nhau xong
đất đai thế giới.Theo Lênin, thế giới phân chia đa số (70%) các dân tộc bị áp bức,
số ít (30%) các dân tộc đi áp bức. Đặc điểm chung là diện tích và dân số các thuộc

địa lớn gấp nhiều lần so với diện tích và dân số các nước chính quốc. Đây là tư
tưởng cơ bản của Quốc tế cộng sản và là cơ sở để chỉ đạo cách mạng thế giới. Tại
Đại hội V quốc tế cộng sản (1924) Hồ Chí Minhđã đưa ra con số đầy thuyết phục
như: thuộc địa của Anh lớn gấp 252 lần diện tích nước Anh, dân số thuộc địa Anh
lớn gấp 8,5 lần dân số nước Anh.
Bên cạnh mâu thuẫn vốn có là mâu thuẫn giữa Tư sản và Vô sản, khi chủ
nghĩa tư bản chuyển tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa vừa tranh
giành, xâm chiếm thuộc địa vừa nô dịch các dân tộc thuộc địalàm sâu sắc hơn cái
mâu thuẫn vốn có, làm nảy sinh mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa các nước thuộc
địa và các nước Chủ nghĩa Đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh
mẽ nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi. Chủ nghĩa Mác-Lêninphát triển mạnh
mẽ, sâu rộng, thâm nhập vào phong trào cách mạng thế giới, trở thành hệ tư tưởng
tiên tiến của thời đại.
Chủ Nghĩa Tư bản phát triển không đều, một số nước Tư bản gây chiến
tranh chia lại thuộc địa dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ nhất (8-1914 đến 11-1918),
và nó là một nguyên nhân bùng nổ cuộc Cách Mạng Tháng 10 (1917). Thắng lợi
của Cách Mạng Tháng 10 Nga với sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên đã
mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội
trên phạm vi quốc tế thúc đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc trên
toàn thế giới, làm phát sinh mâu thuẫn mới giữa Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa
Xã hội.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin có vai trò quan trọng đối với sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minhvà tạo tiền đề bỏ qua Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội
ở Việt Nam.Tư tưởng Hồ Chí Minhđược hình thành dần dần từ cảm tính đến lý
tính nhằm tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Việc xuất hiện tư
tưởng Hồ Chí Minhlà nhu cầu tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam.
b. Tình hình Việt Nam
* Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, nền
nông nghiệp lạc hậu, trì trệ.Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối

nội, đối ngoại bảo thủ, phản động… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội
tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Không tạo ra tiềm lực vật chất
và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa
thực dân.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và Hiệp định Patơnốt (1884)
được ký kết, xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới và trở thành xã hội thuộc
địa nửa phong kiến. Trong lòng xã hội thuộc địa, mâu thuẫn mới bao trùm lên mâu
thuẫn cũ, nó không thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà là cơ sở để duy trì mâu thuẫn cũ, làm
cho xã hội Việt Nam càng thêm đen tối. Các phong trào vũ trang kháng chiến
chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước… lãnh đạo họ là các sĩ phu văn thân
mang cốt cách phong kiến nhưng đều thất bại: như Trương Định, Đồ Chiểu, Thủ
Khoa Huân. Nguyễn Trung Trực (Nam Bộ); Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng,
Trần Tấn, Đặng Như Mai.
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc: giai cấp công
nhân, Tư sản dân tộc, tiểu tư sản ra đời, các cuộc cải cách dân chủ tư sản ở Trung
Quốc của Khang Hiểu Vi, La Khải Siêu (dưới hình thức Tân Thư, Tân Sinh) tác
động vào Việt Nam làm cho phong trào yêu nước chống Pháp chuyển dần sang xu
hướng dân chủ tư sản gắn với phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội của
Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Duy
Tân của Phan Chu Trinh,… do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo. Nhưng do bất cập
với xu thế lịch sử nên đều thất bại. Tình hình đen tối như không có đường ra.
Chính lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện. Mặc dù rất khâm phục, nhưng
người không đồng tình với con đường cứu nước của các sĩ phu, văn thân yêu nước.
Người đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới.
* Quê hương và gia đình
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, gần gũi với nhân dân, cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu
nước, thương dân sâu sắc… Ông chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải
cách về chính trị, xã hội của mình.Hồ Chí Minhđã tiếp thu một cách sâu sắc tư
tưởng thương dân của người cha. Sau này gặp trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã

được nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của Người “lấy dân
làm gốc”.Bà Hoàng Thị Loan là một người phụ nữ Việt Nam giàu lòng nhân hậu,
chịu thương chịu khó.Các anh và chị của Người cũng tham gia các hoạt động yêu
nước chống Pháp, bị bắt, giam cầm và lưu đầy nhiều năm.
Nghệ Tĩnh, nơi Người sinh ra cũng là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước,
chống giặc ngoại xâm và cũng là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong
lịch sử chống giặc ngoại xâm (Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung…); các
lãnh tụ yêu nước cận đại (Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,…) và biết bao con
người ưu tú khác của dân tộc VN.
Hơn nữa ngay từ nhỏ Người đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị
bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương.Những
năm ở Huế, Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn,
bạc nhược của bọn quan lại Nam triều.
Tất cả những điều đó đã thôi thúc Người phải sớm ra đi tìm một con đường
mới để cứu dân, cứu nước
1.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Giá trị truyền thống dân tộc.
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã
tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền
thống tốt đẹp, cao quý.
- Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ
nước. Từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ nhân vật truyền thuyết đến các
tên tuổi sáng ngời trong lịch sử: Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trãi,… đều đã phản ánh chân lý đó một cách hùng hồn. chủ nghĩa yêu
nước là dòng chủ lưu chảy suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam được hun đúc nên bởi cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân
dân Việt Nam.Bởi vậy, ở mỗi người dân Việt Nam gắn mình với vận mệnh của Tổ
quốc, của dân tộc thì chủ nghĩa yêu nước ấy lại nhân sức mạnh của bản thân, biến
thành một sức mạnh thúc đẩy mình vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, mọi thử
thách gian nan. Chính từ thực tiễn, Hồ Chí Minhđã đúc kết chân lý ấy: “Dân ta có

một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam trở thành động lực tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ, hành động
trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh- Nguyễn Ái Quốc, là cơ sở dẫn Người đến với
chủ nghĩa Mác -Lênin, tiếp thu lý luận cách mạng và khoa học đó, để thực hiện sự
nghiệp giải phóng dân tộc, hoài bão của các thế hệ cách mạng Việt Nam. “Lúc đầu,
chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Và khi Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu
nước đúng đắn thì chủ nghĩa yêu nước được nâng lên một tầm cao mới: giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
- Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, “lá lành
đùm lá rách” trong hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này được hình thành cùng
với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên
nhiên và với giặc ngoại xâm.Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam có sự
phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn bền vững. Vì vậy Ngườiđã chú ý kế
thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, nhấn mạnh bốn chữ “đồng”
(đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Truyền thống đoàn kết, đoàn kết là sự gắn bó, hợp tác với nhau để tạo
nên sức mạnh. Truyền thống đoàn kết được hình thành cùng với sự hình thành của
dân tộc Việt Nam và là nguồn cội của sức mạnh dân tộc Việt: Đoàn kết gia đình,
đoàn kết cộng đồng và dòng họ, đoàn kết trong cộng đồng làng xã, đoàn kết quốc
gia dân tộc,…
- Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng
tạo trong sản xuất và chiến đấu, đồng thời cũng là một dân tộc ham học hỏi, cầu
tiến bộ, không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại, từ
Nho, Phật, Lão của phương Đông đến tư tưởng văn hóa hiện đại của phương Tây.
Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải
biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị của riêng mình.

Hồ Chí Minhlà hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minhxuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được
hấp thụ một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng.Khi ra nước ngoài, Người
không ngừng làm giàu trí tuệ mình bằng tinh hoa văn hóa của nhân loại.
 Văn hoá phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng
của Nho giáo, Phật giáo, và tư tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông.
- Nho giáo: Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về
đạo đức và phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình
trị. Đặc biệt, Nho giáo đề cao văn hoá, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong
dân.Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ đại. Tuy nhiên, Hồ
Chí Minhcũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực duy tâm, lạc hậu, như bảo
vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp -quân tử và tiểu nhân, trọng nam khinh
nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách. Hồ Chí Minhđã chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất
nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
- Phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối
với Việt Nam. Hồ Chí Minhtiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha,
từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân ;là nếp sống có
đạo đức,trong sạch, giản dị,chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình đẳng, dân chủ,
chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất
tác, nhất nhật bất thực”;là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với
các dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân chống kẻ thù dân
tộc.
Ngoài ra, Hồ Chí Minhcòn kế thừa nhiều tư tưởng của các nhà tư tưởng
phương Đông như: Lão tử, Mặc tử, Quản tử. Đặc biệt là tư tưởng Tam dân của Tôn
Trung Sơn (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc).
Người viết : “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giê xu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác –Lênin có
ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm
là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.

Không những vậy,Hồ Chí Minhcòn nghiên cứu tiếp thu ảnh hưởng của
nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây.
Hồ Chí Minhchịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách
mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền của Đại cách mạng Pháp (1791), tư tưởng dân chủ, về quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776).
Trước khi ra nước ngoài, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái.
Lần đầu sang Pháp Hồ Chí Minhđã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm chất cao
thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do,
bình đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà Khai sáng Pháp
như: Voltaire, Rousso, Montesquieu.
Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, Người quan niệm Tôn giáo
là văn hoá.Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng nhân ái.Hồ Chí
Minhtiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hoá Đông - Tây để phục vụ cho cách mạng
Việt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính
mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
c. Chủ nghĩa Mác -Lênin.
Chủ nghĩa Mác Lê Nin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm 3 bộ phận cấu
thành:
Triết học giúp Hồ Chí Minhhình thành thế giới quan, phương pháp biện
chứng, nhân sinh quan, khoa học, cách mạng, thấy được những quy luật vận động
phát triển của thế giới và xã hội loài người.
Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển
gắn với quá trình sản xuất, thấy được bản chất bốc lột của chủ nghĩa Tư bản đối
với công nhân, xóa bỏ bóc lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa và sự chuyển biến tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa cộng sản.
Chủ Nghĩa xã hội khoa học vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển
của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên
tắc, con đường, học thức, phương pháp của giai cấp công nhân, nhân dân lao động

để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng
sản.
Như vậy, chủ nghĩa Mác Lê Nin với bản chất Cách mạng và khoa học của
nó giúp Người chuyển biến từ Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt
thành người cộng sản, chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, liên minh công nông trí thức và vai trò lãnh
đạo của đảng cộng sản trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
2. Nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minhlà người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc
lập, sáng tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp
sâu sắc suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới.
- Có ý chí nghị lực kiên cường, những phẩm chất được tôi luyện đã quyết
định việc Hồ Chí Minhtiếp thu, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa
của dân tộc, thời đại thành những tư tưởng đặc sắc độc đáo của mình.
- Có tấm lòng yêu nước, thương dân, thương yêu những con người cùng khổ
vô bờ bến, một chiến sĩ cộng sản quả cảm, nhiệt thành sẵn sàng hy sinh cho tổ
quốc, nhân dân, dân tộc và nhân loại.
- Người không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức vốn trí thức đồ
sộ của nhân loại, tiếp thu kinh nghiệm, bề dày của phong trào cộng sản và chủ
nghĩa quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí
tuệ của Hồ Chí Minhđã giúp Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu
được các giá trị văn hoá nhân loại.
III. Nhân tố quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng
Hồ Chí Minh.
1. Chủ nghĩa Mác -Lênin
Chủ nghĩa Mác -Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định
đến quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là

cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ
Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn ái Quốc -Hồ Chí Minhđã có bước phát
triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi
lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lý luận
Mác -Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những nhân tố tích
cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để
tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì
vậy, trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minhthì chủ nghĩa Mác
–Lênin có vai trò to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.
Chủ nghĩa Mác -Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới
quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, của các Đảng cộng sản và công
nhân trong đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
HồChí Minhđi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác -Lênin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác -Lênin cũng có nghĩa là đến với con
đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người tìm thấy con đường cứu nước
chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế
giới".
Đến với chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minhcó
bước nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản, kết hợp dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội;
nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ mới trên lập trường của chủ
nghĩa Mác -Lênin.Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí
Minhluôn khẳng định: Chủ nghĩa Mác -Lênin là chủ nghĩa chân chính
nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, "muốn cách mạng thành công, phải
đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lê-nin". Đối với Người, chủ

nghĩa Mác -Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để
giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời
chủ nghĩa Mác –Lênin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều
và chủ nghĩa xét lại.
Tư tưởng Hồ Chí Minhlà "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại"
Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minhbắt nguồn từ chủ nghĩa Mác -Lênin, lấy
chủ nghĩa Mác -Lênin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minhcũng là
sự kế thừa, phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi
bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây. Hồ Chí Minhđã
từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập, tiếp thu những học
thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử. Người
nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.Chủ
nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều
kiện nước ta.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minhnằm trong hệ tư tưởng Mác -Lênin, bắt
nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng không hoàn toàn đồng
nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh
hoa văn hóa truyền thống Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ
nghĩa Mác -Lênin, trên nền tảng chủ nghĩa Mác -Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minhlà kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo
đó như thế nào?
Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minhlà luận điểm về chủ

nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người
là "Bản án chế độ thực dân Pháp" (xuất bản năm 1925) và "Đây công lý
của thực dân Pháp ở Đông Dương" đã vạch trần bản chất và những thủ
đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối
với các dân tộc thuộc địa, nêu rõ nỗi đau khổ, của kiếp nô lệ, nguyện
vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân
tộc thuộc địa.
Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minhtiếp thu,
vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin một cách sáng tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của
các nước thuộc địa, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân
thống trị và bè lũ tay sai với toàn thể nhân dân, dân tộc, không phân biệt
giai cấp, tôn giáo Theo Người, ở Việt Nam cũng như ở các nước
phương Đông, do trình độ sản xuất kém phát triển nên sự phân hóa giai
cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây. Từ
đó, Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân
chính với chủ nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa dân tộc là
động lực lớn của đất nước". Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân
danh Quốc tế Cộng sản là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt
vời".
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minhluôn
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.Người khẳng
định, phải đi từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc
không thoát khỏi kiếp ngựa trâu thì ngàn năm giai cấp cũng không được
giải phóng. Đường lối của cách mạng Việt Nam là đi từ giải phóng dân
tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản của
toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng
liên minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản.

Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minhđã có những phát hiện sáng
tạo về Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân
chiếm đa số dân cư; xác định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp
chủ nghĩa Mác -Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước". Đảng vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp, vừa đại diện cho lợi
ích của dân tộc.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là
đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ
đầu, Hồ Chí Minhđã xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực,
bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố,
không chịu hạ vũ khí.
Kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt
động quân sự của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn
đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, Người đã sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện
đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan điểm về chiến tranh nhân
dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về xây dựng lực lượng
vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân tự vệ;
về nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại
Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng
được dân tộc, xã hội và con người. Vì vậy, chủ trương tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược (miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính cách mạng cao và
phù hợp với thực tiễn đất nước.
Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
"từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không

phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Vì vậy, nhiệm vụ
quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội,
có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học
tiên tiến".
2. Con người Hồ Chí Minh.
a. Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minhđã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú
thêm hiểu biết của mình, hình thành nên những cơ sở quan trọng để tạo nên những
thành công trong những lĩnh vực hoạt động lý luận.
Người cũng đã khám phá ra quy luật hoạt động vận động của xã hội, đời
sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái
quát thành lý luận, đem lý luận cỉ đạo thực tiễn và được chỉ đạo trong thực tiễn.
Nhờ vậy mà lý luận của Hồ Chí Minhmang giá trị khách quan, cách mạng và khoa
học.
b. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt đông thực tiễn
Phong cách độc lập, tự chủ, sáng tạo là đặc trưng nổi bật, bao trùm nhất,
điển hình cho phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Đặc trưng này được thể hiện ngay
khi người còn ngồi trên ghế nhà trường, cho đến khi lựa chọn con đường cứu
nước.Chính nét đặc sắc này đã làm nên phong cách tư duy của người vừa mang
tính độc lập vừa có tính thời đại, vừa có giá trị phổ biến bền vững vừa có tính độc
lập rất riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người giàu trí tuệ mà còn là một
người giàu tình cảm, có ý chí nghị lực phi thường.Ở người, ý chí, tình cảm cách
mạng và tri thức khoa học thống nhất trong tư duy, trong hành động và trong quá
trình vạch ra đường lối cho cách mạng Việt Nam.
Mọi suy nghĩ, sáng tạo của người đều xuất phát từ thực tiễn, cách mạng và
thời đại. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn mà người đưa ra những luận điểm
đúng đắn nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minhđã trở thành một vĩ nhân với phong cách tư duy độc

lập, tự chủ, sáng tạo gắn với thực tiễn là bởi vì người “đã biết làm giàu vốn trí tuệ
của mình bằng những di sản quý báu của văn hóa nhân loại. Người biết kế thừa các
học thuyết một cách có phê phán, chọn lọc, không bao giờ sao chép máy móc cũng
không bao giờ phủ nhận một cách giản đơn mà có sự phân tích sâu sắc để tìm ra
yếu tố tích cực, làm giàu thêm vốn kiến thức và hành trang tư tưởng của mình”.
Quan điểm biện chứng của Hồ Chí Minhthể hiện rõ nét trong cách tiếp cận
với các học thuyết cách mạng.Hồ Chí Minhluôn coi các học thuyết chỉ là công cụ
để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc và đem lại hào bình, tự do, hanh phúc cho
nhân dân.Trong “con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Mác-Lênin” Hồ Chí Minhviết
“tôi tham gia Đảng xã hội Pháp chẳng qua là vì các ông bà ấy đã tỏ ra đồng tình
với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức…hồi ấy trong các chi bộ của
Đảng xã hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên ở lại trong quốc tế thứ hai,
hay là nên tổ chức một quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia quốc tế thứ ba của Lê-
nin. Điều mà tôi muốn biết hơn cả mà cũng chính là điều mà mà người ta không
thảo luân trong cuộc họp là: Vậy thì quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc
địa? …trong một cuộc họp tôi đã nêu câu hỏi ấylên, câu hỏi quan trọng nhất đối
với tôi. Có mấy đồng chí đã trả lời: đó là quốc tế thứ ba, chứ không phải quốc tế
thứ hai và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc” Luận cương của Lê- nin về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa” đăng trên báo Nhân Đạo …Luận cương của Lê- nin làm cho
tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo” Hỡi đồng bào bị đày đọa đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
Cùng với tư tưởng đạo đức tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minhlà một đóng góp
có giá trị vào triết học về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh nói
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”

C. KẾT LUẬN

Tóm lại, tư tưởngHồ Chí Minhlà sản phẩm tổng hòa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minhtổng kết, chuyển hóa sắc
sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí
Minhđãtrở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại. Chúng ta phải biết coi trọng, học tập
và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minhnhư Đảng và Nhà nước đã phát động. Biết phát
huy cao độ những thứ quý giá trong di sản tinh thần vô giá đó. Làm cho tư tưởng
của Người sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân ta.

×