Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

tiểu luận môn ngân hàng quốc tế hoạt động rửa tiền và phòng chống rửa tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.32 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
LỚP CAO HỌC NGÂN HÀNG ĐÊM 4 – K 21
*
ĐỀ TÀI:
* Hoạt động rửa tiền và phòng chống rửa tiền
Giảng viên: PGS.TS. Trương Thị Hồng
Nhóm thực hiện: 1. Trần Phương Linh
2. Trần Văn Lợi
3. Nguyễn Thị Kim Ngọc
4. Lê Nguyễn Quốc Trung
Lớp - Khóa: NH Đêm 4 – K21
TP.Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2013
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG, CHỐNG
RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 1
I. Tổng quan về hoạt động rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân
hàng trên thế giới 1
1.1. Tổng quan về hoạt động rửa tiền 1
1.1.1 Định nghĩa hoạt động rửa tiền 1
1.1.2 Các giai đoạn của rửa tiền 2
1.1.3 Các phương thức rửa tiền 3
1.1.4 Tác động của rửa tiền 4
1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng 4
1.2.1. Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng 4
1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng 6
1.3. Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới 9
1.3.1. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền 9
1.3.2. Phòng, chống rửa tiền tại một số nước trên thế giới 11


1.3.2.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ 11
1.3.2.2. Phòng, chống rửa tiền tại Singapore 12
II. Thực trạng rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam 13
2.1 Thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam 13
2.1.1. Các biểu hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam 13
2.1.2. Những phương thức rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam 14
2.2 Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam 16
2.2.1. Các phương thức phòng, chống rửa tiền trong thời gian qua 16
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
2.2.2. Đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam trong
thời gian qua 20
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ NÉT TỔNG QUAN VỀ THIÊN ĐƯỜNG THUẾ 25
I. Tổng quan về thiên đường thuế 25
1.1 Định nghĩa 25
1.2 Các nhân tố cần xem xét trong việc xác định một khu vực là “thiên đường thuế” hay không? 26
II. Một số thiên đường thuế trên thế giới hiện nay 26
1. Tiểu bang Delaware, Mỹ 27
2. Quần đảo Virgin (British Virgin Islands) 29
3. Bermuda 33
4. Cayman Islands 34
5. Thụy Sỹ - Thiên đường của các ngân hàng 35
6. Singapore 43
7. Luxembourg 43
8. Hồng Kông 43
KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động rửa tiền
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Hoạt động rửa tiền đã và đang trở thành một mối nguy cơ lớn đối với nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo ước tính của các chuyên gia Liên Hiệp Quốc và thống kê của Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), hàng năm số

tiền được bọn tội phạm tẩy rửa khoảng 400-500 tỷ USD, trong đó khoảng 60-70% là tiền mặt. Một trong
những thủ đoạn rửa tiền phổ biến là thông qua hệ thống ngân hàng, điều đó có nghĩa là những quốc gia có hệ
thống tài chính ngân hàng sơ khai, lỏng lẻo luôn là điểm đến tiềm năng của bọn tội phạm rửa tiền. Tác hại của
việc rửa tiền không chỉ làm mất sự kiểm soát của các chính sách kinh tế, mà còn làm suy yếu khu vực kinh tế
tư nhân, lũng đoạn hệ thống tài chính, bóp méo hoạt động ngoại thương, ngăn cản hội nhập quốc tế. Chính tác
hại to lớn của việc rửa tiền như trên, rất nhiều các tổ chức chính phủ và phi chính phủ được phân công thực
hiện công tác phòng, chống rửa tiền như: Ngân Hàng Thế Giới (WB), Qũy Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ủy Ban
Giám Sát Ngân Hàng Basel, Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính (FATF), v.v… Ở các nước phát triển như : Mỹ,
Anh, Nga, Úc, Pháp, … Luật Phòng, chống rửa tiền đã được hình thành và triển khai một cách hiệu qủa. Tại
Việt Nam, vấn đề phòng, chống rửa tiền là một trong những vấn đề tương đối mới mẻ. Trước đây phòng,
chống rửa tiền được đề cập đầu tiên thông qua Công Ước Viên (Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn
bán bất hợp pháp ma túy và chất hướng thần năm 1988) mà Việt Nam tham gia. Và sau này là Nghị Định số
74/2005/NĐ-CP ngày 7 tháng 6 năm 2005 của Chính Phủ về phòng, chống rửa tiền. Ngày 18/06/2012, Quốc
Hội đã thông qua Luật Phòng chống rửa tiền số 07/2012/QH13, góp phần xây dựng khung pháp lý cho công tác
phòng chống rửa tiền tại Việt Nam
“Thiên đường thuế”
“Thiên đường thuế” là nơi có mức thuế suất thấp và mức độ bảo mật thông tin tài sản của các doanh
nghiệp và cá nhân rất cao. Ngoài ra, thủ tục thành lập doanh nghiệp lại dễ dàng với lệ phí thành lập và duy trì
doanh nghiệp thấp.Nhờ những lợi thế trên mà các “thiên đường thuế” thu hút được dòng vốn đầu tư khổng lồ.
Rất nhiều doanh nghiệp đã được thành lập tại các quốc gia và vùng lãnh thổ này để đầu tư sang các quốc gia
khác.Và cũng bởi các quy định quá thông thoáng nên những các quốc gia và vùng lãnh thổ trên được xem là
nơi dung túng cho việc trốn thuế và dẫn đến mối lo ngại về hoạt động không hợp lệ của các doanh nghiệp
như lừa đảo, rửa tiền, chuyển giá, thao túng hoặc tài trợ khủng bố.
Hoạt động rửa tiền và Thiên đường thuế là hai chủ đề hay cần nghiên cứu trong môn học Ngân hàng
quốc tế này.
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ PHÒNG,
CHỐNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
I. Tổng quan về hoạt động rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
trên thế giới

1.1. Tổng quan về hoạt động rửa tiền
1.1.1 Định nghĩa hoạt động rửa tiền
Rửa tiền là khâu cuối cùng và quan trọng nhất trong những hoạt động phạm pháp nhằm đem lại
những tài khoản kếch xù. Lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí Mỹ vào năm 1973 trong vụ bê bối tài chính
Watergate nổi tiếng nước Mỹ nhưng phải đợi 5 năm sau đó thuật ngữ “rửa tiền” mới chính thức được sử
dụng trong một số văn bản pháp lý của tòa án Mỹ. Thuật ngữ này trở nên phổ biến trong những thập kỉ
gần đây bởi tính phổ biến và ảnh hưởng của chúng.
 Theo Tổ chức chống rửa tiền quốc tế - FATF (Finance Action Task Force): Rửa tiền là việc giúp
đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật; việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất,
việc cất giấu, di chuyển hay chuyển quyền sở hữu tài sản phạm pháp; việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng
tài sản phạm pháp.
 Theo Công ước Vienna (1988) và Công ước Palermo (2000) của Liên Hợp Quốc: Rửa tiền là các
hoạt động:
• Hoán chuyển hoặc chuyển nhượng tài sản khi biết tài sản đó có nguồn gốc từ các hành vi phạm
tội, hoặc
• Tham gia vào hành vi nhằm mục đích giấu giếm hoặc che đậy nguồn gốc phi pháp của tài sản
hoặc tiếp tay cho bất kỳ cá nhân nào tham gia vào hành vi này, hoặc
• Giấu giếm hoặc che đậy bản chất thực, nguồn gốc, địa điểm, việc định đoạt, sự chuyển dịch,
các quyền liên quan đến tài sản hoặc quyền sở hữu tài sản khi biết rằng tài sản đó có được từ
hành vi phạm tội, hoặc
• Có được, chiếm hữu hoặc sử dụng tài sản khi tại thời điểm tiếp nhận nó đã biết rằng tài sản này
có được từ hành vi phạm tội.
 Theo Nghị định số 74/2005/NĐ-CP Ngày 07/06/2005 của Chính phủ về phòng, chống rửa tiền: rửa
tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các
hoạt động:
• Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội
mà có;
1
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
• thu nhận, chiếm dữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận

chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có;
• đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che
đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di
chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có”.
Như vậy, một cách khái quát thì rửa tiền là toàn bộ các hoạt động được tiến hành một cách
cố ý nhằm hợp pháp hóa tiền và tài sản có nguồn gốc từ tội phạm.
1.1.2 Các giai đoạn của rửa tiền
 Giai đoạn sắp xếp (placement): Đưa tiền bẩn vào hệ thống kinh tế tài chính
Tội phạm tìm cách đưa các khoản tiền có nguồn gốc từ hành vi phạm tội vào hệ thống tài chính để
chuẩn bị thực hiện bước tiếp theo. Giai đoạn này là giai đoạn dễ bị phát hiện nhất trong quy trình rửa tiền.
Mục đích của bước này là biến đổi hình thái ban đầu của các khoản thu nhập phạm pháp và tách chúng
khỏi tổ chức tội phạm nhằm tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Một số thủ đoạn phổ biến là
chia nhỏ tiền bất chính để gửi vào các ngân hàng nhiều lần để số lượng mỗi lần không đến mức phải khai
báo, mua các công cụ tiền tệ hay hàng hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu tiền ra nước ngoài
 Giai đoạn phân tán (layering): Quay vòng tiền
Trong giai đoạn này, những kẻ rửa tiền sử dụng tiền bẩn để thực hiện càng nhiều giao dịch tài
chính càng tốt, đặc biệt là các giao dịch xuyên quốc gia, như chuyển đổi qua lại giữa các tài khoản ngân
2
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
hàng, các quốc gia, đầu tư dự án, chuyển đổi thành chứng khoán, séc du lịch nhằm tạo ra một mạng lưới
giao dịch chằng chịt, phức tạp và khó lần dấu vết, che dấu nguồn gốc của tài sản.
 Giai đoạn quy tụ (integration): Hội nhập tiền đã rửa vào hệ thống kinh tế tài chính
Dù tiền bẩn có được quay vòng qua bao nhiêu giao dịch thì đích đến cuối cùng vẫn là tổ chức tội
phạm ban đầu. Một số thủ đoạn tiêu biểu là làm sai lệch hóa đơn trong giao dịch XNK, chuyển tiền qua
một ngân hàng hợp pháp thông qua một ngân hàng trá hình hay công ty ma ở nước ngoài Sau đó những
kẻ rửa tiền sẽ đầu tư tiền này vào các hoạt động kinh tế hợp pháp và có thể sử dụng cho tất cả các mục
đích.
Yêu cầu cơ bản để việc rửa tiền được thành công là phải khéo léo xóa được mọi dấu vết giấy tờ
giao dịch. Tránh khai báo hải quan, xâm nhập cài người vào hệ thống ngân hàng, trì hoãn cung cấp chứng
từ là những thủ đoạn phổ biến giúp bọn tội phạm đạt mục đích này.

1.1.3 Các phương thức rửa tiền
Theo phạm vi thực hiện, thì có 5 trường hợp rửa tiền cơ bản:
• Trường hợp 1: “tiền bẩn” được tẩy rửa và sử dụng ngay trong nước.
Đây là quá trình mà số tiền bất hợp pháp được hình thành, được tẩy rửa cũng như được tái
đầu tư qua hệ thống tài chính của nước đó.
• Trường hợp 2: “tiền bẩn” được hình thành ở trong nước, sau đó chuyển
ra nước ngoài để tẩy rửa trong hệ thống tài chính khác và cuối cùng đem trở lại lưu thông trên
thị trường trong nước.
• Trường hợp 3: “tiền bẩn” được hình thành ở nước ngoài, được tẩy rửa
ở nước đó hay nước khác và cuối cùng được đầu tư cho các nước đang phát triển.
• Trường hợp 4: “tiền bẩn” được rửa và rút khỏi hệ thống tài chính của
một nước đang phát triển để sử dụng ở nước khác, không quay lại đầu tư cho nước đó.
• Trường hợp 5: “tiền bẩn” sau khi rửa được chuyển vào một nước đang
phát triển nhưng không phải để đầu tư mà được lưu thông tản mạn, tiêu thụ khắp nơi.
Theo nội dung hoạt động, rửa tiền biểu hiện theo một số phương thức như:
• Rửa tiền thông qua đầu tư nước ngoài.
• Rửa tiền thông qua các công ty bảo hiểm.
• Rửa tiền bằng cách sử dụng hóa đơn, chứng từ giả.
• Rửa tiền tại các sòng bạc.
3
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
• Rửa tiền thông qua xổ số và cá cược hợp pháp.
• Rửa tiền thông qua đầu tư chứng khoán.
• Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
1.1.4 Tác động của rửa tiền
Ảnh hưởng của rửa tiền đến nền kinh tế vĩ mô:
• Sự lưu chuyển các luồng tiền trong thế giới ngầm gây ra những đột
biến trong cầu tiền tệ và bất ổn định lãi suất cũng như tỷ giá hối đoái.
• Hoạt động kinh tế ngầm tác động xấu đến hướng đầu tư, chuyển từ các
khoản đầu tư cẩn trọng sang đầu tư rủi ro cao làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.

• Hoạt động rửa tiền làm giảm tính hiệu quả của các công cụ tiền tệ của
chính phủ, kích thích các hành vi tội phạm kinh tế như trốn thuế, tham ô, mua bán nội gián, gian
lận thương mại, tăng tính bất ổn của nền kinh tế.
• Các giao dịch ngầm làm suy giảm hiệu quả kinh tế của các giao dịch
hợp pháp, gây mất lòng tin đối với thị trường.
• Hệ thống ngân hàng tài chính bị suy yếu, thậm chí có thể bị thao túng
bởi các băng nhóm tội phạm.
• Các con số thống kê bị bóp méo, gây khó khăn cho việc hoạch định
chính sách và giảm hiệu quả điều tiết của chính phủ.
Rửa tiền không chỉ là vấn đề của các thị trường tài chính hàng đầu thế giới mà ngay cả các quốc
gia đang trong quá trình hội nhập vào hệ thống tài chính quốc tế cũng không tránh khỏi. Đặc biệt khi các
thị trường mới nổi mở cửa nền kinh tế và lĩnh vực tài chính thì họ dể dàng trở thành mục tiêu của các hoạt
động rửa tiền. Nói cách khác rửa tiền đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế vĩ mô nói chung
và lĩnh vực tài chính nói riêng.
1.2. Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
1.2.1. Các dấu hiệu nhận biết rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Có thể phân loại, định dạng và nhận biết một số dấu hiệu đáng ngờ ở các giao dịch mà bọn tội
phạm lợi dụng để rửa tiền như sau:
• Thứ nhất, thông qua thông tin về khách hàng
4
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Ngân hàng hoàn toàn có đủ cơ sở để nghi ngờ bất cứ một khách hàng nào có thái độ miễn cưỡng
khi cung cấp các thông tin, chứng từ thông thường theo quy định của ngân hàng trong quan hệ giao dịch
với khách hàng. Đặc biệt là những khách hàng cung cấp ít thông tin, cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc
khi nộp đơn xin mở tài khoản tại ngân hàng, những khách hàng này đã cung cấp những thông tin mà nếu
muốn xác minh được những thông tin đó thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn hoặc phải trả chi phí rất cao.
• Thứ hai, các tài khoản giao dịch đang bị điều tra hoặc bị khởi kiện.
Nhân viên ngân hàng thường chú ý đến các chủ tài khoản đang bị điều tra, khởi kiện hoặc liên
quan đến các vụ án đang được xét xử tại tòa án, hoặc nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền.
• Thứ ba, thông qua tính chất, đặc điểm của giao dịch

 Các giao d ị ch không mang l ợ i ích v ề m ặ t kinh t ế
Các giao dịch này có đặc điểm không phù hợp với các hoạt động thông thường của khách hàng. Ví
dụ như việc sử dụng thư tín dụng và một số biện pháp tài chính thương mại để chuyển tiền từ quốc gia này
sang quốc gia khác. Tuy nhiên, việc chuyển tiền này lại không phù hợp với các hoạt động kinh doanh
thông thường của khách hàng. Một trường hợp điển hình khác là các giao dịch qua các tài khoản mà trước
đó hầu như không có giao dịch nào, nhưng hiện tại lại có rất nhiều giao dịch một cách bất thường mà chủ
tài khoản này không đưa ra được sự giải thích hợp lý cho việc liên tục sử dụng tài khoản ở mức độ cao.
 Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt giá trị lớn

Một là, mua hoặc bán ngoại tệ bằng tiền mặt với số lượng lớn cho dù khách hàng có tài khoản
trong ngân hàng.
Hai là, thường rút tiền mặt từ tài khoản với số lượng lớn, mà số tiền này dường như không phục vụ
cho các hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Ba là, rút tiền mặt với số lượng lớn từ tài khoản vừa mới bất ngờ nhận được một khoản chuyển tiền
vô cùng lớn từ nước ngoài.
Bốn là, gửi tiền mặt với số lượng lớn vào tài khoản bằng cách chia nhỏ số tiền mặt muốn gửi thành
nhiều khoản khác nhau. Tuy nhiên, nếu tính tổng số tất cả các khoản tiền gửi đã chia nhỏ thì giá trị rất lớn.
Năm là, các khách hàng thường xuyên gửi tiền mặt với số lượng lớn vào ngân hàng, nhưng tiền rút
ra khỏi tài khoản thường bằng séc chi trả cho các cá nhân, hay công ty không có quan hệ kinh doanh với
khách hàng.
 Các giao dịch liên quan đến các tài khoản trong ngân hàng có một số đặc điểm bất thường

5
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Một là, tài khoản có tốc độ chu chuyển tiền trong ngày rất cao. Điều này thể hiện ở việc thay đổi
đột biến doanh số giao dịch trên tài khoản. Doanh số giao dịch lớn trong một thời gian ngắn nhưng số dư
tài khoản nhỏ.
Hai là, các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một tài khoản
thành một khoản tiền lớn và ngược lại. Trong một thời gian rất ngắn, tiền được chuyển lòng vòng qua
nhiều tài khoản khác nhau.

 Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền ra nước ngoài
Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, các giao dịch liên quan đến
chuyển tiền ra nước ngoài là phổ biến. Tuy nhiên trong số các giao dịch đó, cũng có những giao dịch với
mục đích bất thường. Nhân viên ngân hàng có thể nhận biết được qua mục đích, tính chất của việc chuyển
tiền. Sau đây là một số dấu hiệu điển hình mà ngân hàng cần quan tâm, lưu ý:
o Việc một khách hàng vãng lai chuyển tiền ra nước ngoài mà không đưa ra lý do hợp pháp.
o Một khách hàng chuyển tiền tới chi nhánh nước ngoài, công ty con, hoặc ngân hàng có trụ sở
tại một quốc gia nơi mà buôn lậu, tham nhũng, sản xuất và buôn bán ma túy thường xuyên
diễn ra.
 Các giao dịch liên quan đến hoạt động đầu tư

Một là, hoạt động mua bán chứng khoán không phù hợp với vị thế hiện tại của khách hàng, hoặc
khách hàng đầu tư chứng khoán bằng tiền mặt một cách khác thường với số lượng lớn.
Hai là, vốn đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có nguồn gốc từ các nước có tỷ lệ
tội phạm cao như: Ý, Nga, Macao … hay từ các nước có hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền còn
yếu kém như các nước Châu Phi.
• Thứ tư, thông qua các khoản vay có hoặc không có thế chấp
Các khoản vay được trả bằng tiền mặt, ngoại tệ hoặc các công cụ thanh toán khác mà người cho
vay không được tiết lộ.
Các khoản cho vay được đảm bảo bằng tài sản của bên thứ ba mà không có mối liên hệ minh bạch
với khách hàng.
1.2.2. Điều kiện phát sinh rửa tiền qua hệ thống ngân hàng.
• Thứ nhất, hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa đầy đủ.
Rửa tiền là một vấn đề mang tính toàn cầu. Bọn tội phạm thường lợi dụng những sơ hở trong các
quy định về giám sát của ngân hàng để thực hiện hành vi rửa tiền. Do đó, điều đầu tiên phải kể đến đó là
6
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
hệ thống tài chính tiền tệ đang trong giai đoạn phát triển với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám
sát từ phía các tổ chức tài chính là một trong những nguyên nhân tạo cơ hội thực hiện rửa tiền qua hệ
thống ngân hàng.

• Thứ hai, bộ máy tổ chức về phòng, chống rửa tiền còn hạn chế
Về công tác quản lý: ngân hàng trung ương thiếu một cơ quan đầu mối về phòng, chống rửa tiền.
Cơ quan này có nhiệm vụ tiếp nhận thông tin về các giao dịch đáng ngờ từ các ngân hàng thương mại
trong nước, cũng như tập hợp danh sách các giao dịch đáng ngờ từ các nước trên thế giới.
Về phía các ngân hàng thương mại: thiếu cán bộ, hệ thống công nghệ thông tin còn tương đối lạc
hậu và chưa có quy trình về phòng, chống rửa tiền.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thường phải đối mặt với nhiều rủi ro. Do
đó, các ngân hàng phải xây dựng các quy trình giám sát, kiểm toán nội bộ thực sự chặt chẽ. Tuy nhiên,
trong hầu hết các ngân hàng, việc xây dựng các quy trình giám sát về phòng, chống rửa tiền còn thiếu
hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Các ngân hàng không áp dụng các quy định trong việc nhận dạng và
thực hiện nguyên tắc hiểu biết khách hàng.
• Thứ ba: một số quy định về thanh toán tạo thuận lợi cho hoạt động rửa tiền.
Tín dụng chứng từ (LC) là một trong những công cụ được bọn tội phạm rửa tiền ưa thích sử dụng
nhất, là vì các giao dịch “ma” thanh toán bằng phương thức này ít bị nghi ngờ và có thể qua mặt ngân
hàng và cơ quan pháp luật. Một trong những yếu tố hấp dẫn của LC là “các ngân hàng giao dịch trên cơ sở
các chứng từ chứ không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác có liên quan đến chứng từ”,
tức là ngân hàng phát hành LC sẽ thanh toán khi nhận được các chứng từ phù hợp với các điều kiện và
điều khoản của LC chứ không phải chờ khi hàng đến rồi mới thanh toán. Đối với những LC thanh toán
bằng vốn tín dụng, ngân hàng có thể tham gia can thiệp vào một số điều kiện, điều khoản của LC nhằm
tránh rủi ro cho khách hàng và gián tiếp là tránh rủi ro cho ngân hàng tài trợ. Ngoài ra, sau khi cho vay
thanh toán LC, ngân hàng còn theo dõi, kiểm tra hàng hóa. Tuy nhiên, đối với LC thanh toán bằng vốn tự
có và ký qũy đủ 100% thì các ngân hàng thường chỉ tư vấn chứ không can thiệp vào nội dung LC và cũng
không phải kiểm tra, theo dõi hàng hoá đã được nhận hay chưa. Thêm vào đó ngân hàng không yêu cầu
nhà nhập khẩu bổ sung tờ khai hải quan sau khi hoàn tất thủ tục nhận hàng. Điều này tạo điều kiện tội
phạm mở LC “ma” với yêu cầu về chứng từ đơn giản để người thụ hưởng là đồng bọn của chúng có thể dễ
dàng xuất trình chứng từ yêu cầu thanh toán. Theo điều 15 của UCP 600: “khi ngân hàng phát hành xác
định việc xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán”, khi đó ngân hàng phát hành thực hiện ghi nợ tài
khoản thanh toán của nhà nhập khẩu. Đến thời điểm này ngân hàng đóng hồ sơ LC mà không có tờ khai
7
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21

hải quan, nhà nhập khẩu nhận bộ chứng từ nhưng không đi nhận hàng vì thực tế đó chỉ là giao dịch “ma”,
tiền được chuyển ra nước ngoài không gặp trở ngại nào. Phương thức nhờ thu chứng từ cũng được bọn tội
phạm lợi dụng để rửa tiền. Thủ thuật có thể được thực hiện như sau: nhà xuất khẩu là đồng bọn của nhà
nhập khẩu thông qua ngân hàng chuyển giao chứng từ và chỉ thị nhờ thu. Theo đó, bộ chứng từ được gửi
đến ngân hàng xuất trình để nhờ thu, ngân hàng này xuất trình bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu và yêu cầu
thanh toán. Biết rằng bộ chứng từ là giả mạo nhưng nhà nhập khẩu vẫn đồng ý thanh toán cho nhà xuất
khẩu, và tất nhiên nhà nhập khẩu cũng sẽ không đi nhận hàng. Những giao dịch không có thật này, thường
được bọn tội phạm thanh toán bằng vốn tự có để tránh việc ngân hàng kiểm tra hàng hóa như trong trường
hợp giao dịch nhập khẩu được ngân hàng tài trợ bằng vốn tín dụng.
Ứng trước một phần tiền hàng là một trong những điều kiện mua bán bình thường trong hợp đồng
thương mại quốc tế. Để nhà xuất khẩu có thể ứng trước một phần tiền hàng từ nhà nhập khẩu, thì giữa nhà
xuất khẩu và nhập khẩu phải có hợp đồng mua bán hàng hóa với điều khoản thanh toán trước cho nhà xuất
khẩu một số tiền nhất định, để làm cơ sở cho việc ngân hàng chuyển tiền thanh toán. Như vậy tại thời
điểm thanh toán ngân hàng chưa có đầy đủ chứng từ thanh toán. Nếu đây là những giao dịch thật thì
không có vấn đề gì phải bàn, nhưng nếu đó là thủ thuật của bọn tội phạm lợi dụng để rửa tiền thì là chuyện
khác. Ngân hàng có thể bị cáo buộc là đã tiếp tay cho bọn tội phạm rửa tiền. Có ngân hàng cẩn thận hơn
yêu cầu khách hàng bổ sung tờ khai hải quan và các chứng từ khác khi hoàn tất việc nhận hàng. Nhưng
giao dịch “ma” nhằm mục đích rửa tiền thì làm gì có hàng để nhận. Do vậy nhà nhập khẩu sẽ không thể bổ
sung các chứng từ theo yêu cầu của ngân hàng. Ngân hàng chỉ còn biết rút kinh nghiệm lần sau sẽ không
chấp nhận chuyển tiền cho nhà nhập khẩu này nữa.
Lợi dụng bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Nhà xuất khẩu A (trong nước) ký hợp đồng xuất khẩu
“ma” với nhà nhập khẩu B (nước ngoài), trong đó quy định nhà xuất khẩu A phải cung cấp cho nhà nhập
khẩu B một bảo lãnh ngân hàng trị giá 10% giá trị hợp đồng để đảm bảo cho việc giao hàng. Nhà xuất
khẩu A ký qũy 100% để ngân hàng phát hành bảo lãnh. Khi đến hạn giao hàng nhà xuất khẩu A cố tình
không giao hàng và để cho ngân hàng phải thanh toán cho nhà nhập khẩu B tiền phạt không thực hiện hợp
đồng. Như vậy, tiền được chuyển ra nước ngoài, với bề ngoài có vẻ hợp pháp. Trong trường hợp ngân
hàng quan tâm đến tổn thất của khách hàng thì được nhà xuất khẩu A trả lời rằng: “mặc dù phải thanh toán
tiền phạt không thực hiện hợp đồng nhưng trong thương vụ này công ty vẫn có lãi vì đã ký hợp đồng với
nhà nhập khẩu khác với giá cao hơn nhiều”. Lý giải này có vẻ xóa tan nghi ngờ của ngân hàng.
Lợi dụng bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: nhà nhập khẩu B (trong nước) ký hợp đồng nhập khẩu

“ma” với nhà xuất khẩu A (nước ngoài), trong đó quy định nhà nhập khẩu B phải trả trước 20% trị giá hợp
8
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
đồng khi nhận được bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước do ngân hàng của nhà xuất khẩu A phát hành. Khi
nhận được bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, nhà nhập khẩu B xuất trình thư bảo lãnh và đề nghị ngân hàng
của mình thực hiện chuyển tiền cho nhà xuất khẩu A bằng vốn tự có của mình. Tất nhiên nhà nhập khẩu B
chẳng bao giờ yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước mặc dù nhà xuất khẩu A
không thực hiện các cam kết theo hợp đồng.
Bên cạnh rửa tiền thông qua các giao dịch “ma”, bọn tội phạm còn thực hiện rửa tiền thông qua
những giao dịch có thật, nhưng thủ thuật tinh vi hơn, đó là hạ giá hoặc nâng giá hàng hóa. Khoản chênh
lệch giữa giá thực tế và giá nhập khẩu chính là khoản tiền phi pháp mà bọn tội phạm muốn tẩy rửa. Sau vụ
11/9, Mỹ nghi ngờ mạng lưới Al Qaeda có thể đã sử dụng thủ thuật nâng giá xuất khẩu mật ong để chuyển
tiền giữa Mỹ và Trung Đông. Phân tích của hai giáo sư Đại học quốc tế Florida cho thấy giá xuất khẩu
mật ong đến Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập, Cô-oét, Ả Rập xê-út, Yemen cao hơn giá xuất khẩu mật ong
đến các nước khác đáng kể. Bộ Ngân khố Mỹ đã ra lệnh cho các ngân hàng phong tỏa tài khoản của ba
Công ty bán mật ong cho Yemen, vì nghi ngờ các Công ty này có thể là một bộ phận của mạng lưới Al
Qaeda.
1.3. Phòng, chống rửa tiền ở một số nước trên thế giới
1.3.1. Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền
Một trong những quy định quốc tế đầu tiên là Bản tuyên bố về ngăn ngừa tội phạm sử dụng hệ
thống ngân hàng cho mục đích rửa tiền của Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng. Bản tuyên bố này đưa ra
các chính sách và thủ tục cơ bản mà giám đốc ngân hàng cần bảo đảm có sẵn trong tổ chức của mình để
hỗ trợ cho việc chống rửa tiền. Về cơ bản, có bốn nguyên tắc được đưa ra trong Bản tuyên bố này, đó là:
(i) Nhận dạng khách hàng đúng cách; (ii) Tiêu chuẩn đạo đức cao và tuân thủ luật pháp; (iii) Hợp tác với
các cơ quan thi hành pháp luật; và (iv) Các chính sách và thủ tục để bảo đảm tuân thủ Bản tuyên bố này
Do mối quan ngại về tình trạng buôn bán ma túy bất hợp pháp trên quốc tế ngày càng tăng và những
khối lượng tiền khổng lồ liên quan được đưa vào hệ thống ngân hàng. Chương trình Liên Hợp Quốc về
Kiểm soát ma túy (UNDCP) đã khởi xướng một hiệp định quốc tế về chống buôn bán ma túy bất hợp pháp và
rửa tiền. Trong năm 1988, Công ước của Liên Hợp Quốc về chống buôn bán bất
hợp pháp ma túy (Công

ước Viên) đã được thông qua, có
169 nước tham gia vào Công ước này và có hiệu lực từ tháng 11 năm
1990.
Công ước này chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các
vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng
Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó. Tuy nhiên,
9
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Công ước Viên chỉ quy định tội buôn bán ma túy bất hợp pháp là tội phạm nguồn và không xử lý các khía
cạnh mang tính phòng ngừa.
Tổ chức quốc tế quan trọng nhất trong việc phòng, chống rửa tiền là Lực
Lượng Đặc Nhiệm Tài
Chính (FATF) do nhóm G-7 thành lập tại Paris năm
1989. Đó là tổ chức liên chính phủ nhằm phát triển và
khuyến khích các tổ chức
cảnh sát trong việc chống rửa tiền. Việc thành lập tổ chức này xuất phát từ ý
tưởng cho rằng hoạt động rửa tiền là tội phạm kinh tế rất phức tạp, do đó nó
không thể được kiểm soát
một cách hiệu quả bởi những phương pháp làm luật
thông thường. Kết quả là cần thiết phải tập hợp các
cơ quan chức năng như: Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, Cảnh sát… để phòng, chống rửa tiền.
Điều đó sẽ tạo ra sự phối hợp toàn diện để giải quyết vấn đề phức tạp này.
Nhiệm vụ đầu tiên của FATF là giúp các nước thành viên ban hành các quy định về phòng, chống rửa
tiền mà mục tiêu cuối cùng là ban hành được Luật Chống Rửa Tiền. Theo hướng này, tháng 4 năm
1990
,
FATF đã ban hành 40 khuyến nghị nhằm tìm kiếm sự nhất trí giữa các nước trong việc ban hành luật và
thống nhất hành động của các ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu được từ hoạt động buôn bán ma tuý
chuyển qua các tổ chức tài chính. Mặc dù các gợi ý về luật pháp được đưa ra, nhưng FATF vẫn tiến hành đánh
giá việc thực hiện của các nước thành viên thông qua nỗ lực của từng nước trong việc ban hành các quy định

về phòng, chống rửa tiền. Một chức năng khác của FATF là cung cấp các trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức
ngoài nhóm như: Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG), Lực lượng đặc nhiệm tài chính
khu vực Caribe (CFATF), Hội đồng châu Âu, Nhóm chống rửa tiền khu vực Đông và Nam Phi (ESAAMLG),
Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền khu vực Nam Mỹ (GAFISUD)
Mặc dù không thể khẳng định rằng FATF đã hạn chế được tất cả các giao
dịch rửa tiền trong giao
dịch quốc tế, nhưng FATF đã có ảnh hưởng tích cực
trong việc tạo ra những quy tắc và luật lệ quốc tế về
phòng, chống rửa tiền. Qua
việc đánh giá các nước trong việc thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền,
FATF đã yêu cầu các nước thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp, mà còn phải thực hiện luật
đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra một diễn đàn hợp tác phòng, chống rửa tiền trên phạm vi
quốc tế và đã thúc đẩy các hoạt động phối hợp xuyên quốc gia về phòng, chống rửa tiền. Một ví dụ điển hình
là sự phối hợp giữa Mỹ và Colombia trong việc điều tra hoạt động rửa tiền của Tập đoàn Cali vào những
năm 90.
FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những nước và những tổ chức khủng bố liên
quan đến rửa tiền. Mục đích của “danh sách đen” này là “chỉ tên và làm xấu hổ” các nước được coi là thiên
đường của việc rửa riền. Danh sách đen này bao gồm: Ecuado, Iran, Pakistan, North Korea, Ethiopia,
Angola, Turkmenistan, Sao Tome and Principe. Khi danh sách được công bố, hàng loạt các ngân hàng đã cắt
10
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
bỏ quan hệ đại lý với các ngân hàng tại các nước trong danh sách trên. Mặc dù, một mặt các nước trên đều
phản đối danh sách này, mặt khác hầu hết họ đều nỗ lực ban hành hoặc sửa đổi các luật lệ và quy định cho phù
hợp với các khuyến nghị của FATF, đồng thời tích cực hợp tác quốc tế toàn diện và thực hiện báo cáo các
giao dịch đáng ngờ để cố gắng ra khỏi danh sách trên.
1.3.2. Phòng, chống rửa tiền tại một số nước trên thế giới.
1.3.2.1. Phòng, chống rửa tiền tại Mỹ.

Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và nghiêm khắc nhất trên thế
giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải tuân theo.

Với mục tiêu tìm cách chống lại nạn rửa tiền và tài trợ khủng bố trên tất cả các mặt trận, bao gồm
cả tích cực theo đuổi điều tra tài chính. Nhìn chung, chiến lược phòng, chống rửa tiền của Mỹ tập trung vào
ba mục tiêu chính: (i) Để hiệu quả hơn, tiến hành cắt đứt sự tiếp cận hệ thống tài chính tài quốc tế của tội
phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố; (ii) Tăng cường khả năng của chính quyền liên bang hướng đến các tổ
chức rửa tiền và các hệ thống tài trợ khủng bố; (iii) Tăng cường và cải tiến biện pháp phòng, chống rửa
tiền cho các nhà cung cấp dịch vụ tài chính để cải thiện hiệu quả những nỗ lực tuân thủ và thực thi pháp
luật để ngăn ngừa và ngăn chặn lạm dụng.
Để cụ thể hóa chiến lược trên, Mỹ kiểm tra các tổ chức tài chính trong việc tuân thủ các quy định của
hệ thống, và thực thi những yêu cầu thông qua hành vi dân sự và hình sự. Bên cạnh đó, Mỹ đánh giá các lĩnh
vực khác nhau để xác định lỗ hổng chống rửa tiền, nhằm áp đặt các biện pháp kiểm soát thích hợp. Tính minh
bạch và trách nhiệm được khuyến khích trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, cũng như trong các lĩnh vực phi tài
chính có liên quan. Và Mỹ cũng xem xét khu vực tư nhân là một thành phần quan trọng trong việc thực hiện
chiến lược phòng, chống rửa tiền. Trong thời gian qua, Chính phủ Mỹ đã có những nỗ lực trong các khu
vực then chốt sau đây: (i) Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan; (ii) Đảm bảo rằng các cơ quan thực thi
pháp luật và Lực Lượng Đặc Nhiệm Tài Chính sử dụng và chia sẻ cơ sở dữ liệu tài chính và các công cụ
phân tích; (iii) Tập trung nhân viên thực thi pháp luật và các nguồn lực khác vào các mục tiêu và các hệ
thống tài chính có mức độ ảnh hưởng cao nhất; (iv) Cải cách các cơ quan lập pháp và hành pháp; (v) Gia
tăng các hoạt động hợp tác quốc tế; (vi) Nâng cao sự hỗ trợ lẫn nhau giữa chính phủ Mỹ với cộng đồng tài
chính; và (vii) Giúp chính quyền địa phương điều tra và truy tố tội phạm tài chính và rửa tiền.
Với các chiến lược và nỗ lực như trên, hàng năm FinCEN nhận được hơn 14,7 triệu báo cáo giao dịch,
trong đó chủ yếu là báo cáo giao dịch vượt ngưỡng
(hơn 13,67 triệu giao dịch), báo cáo giao dịch đáng
ngờ (hơn 0,66 triệu giao
dịch) ….
11
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Qua đó, hàng năm Mỹ đã đưa ra hơn 1000 trường hợp xét xử theo loại tội phạm rửa tiền và số trường
hợp bị kết án có xu hướng giảm qua các năm.
Bên cạnh kết quả như trên, hệ thống phòng, chống rửa tiền của Mỹ còn tồn tại một số lỗ hỗng như: (i)
Các biện pháp liên quan đến những người có quan hệ chính trị không áp dụng một cách rõ ràng cho các Công

ty dịch vụ tiền tệ, lĩnh vực bảo hiểm, các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng hóa; (ii) Không có quy định rõ
ràng yêu cầu các công ty bảo hiểm, các công ty dịch vụ tiền tệ, hoặc các nhà tư vấn đầu tư và kinh doanh hàng
hóa có các chính sách và thủ tục đối với các giao dịch không trực tiếp; (iii) Các yêu cầu của Đạo luật bí mật
ngân hàng không áp dụng cho các chi nhánh nước ngoài và văn phòng của Các công ty bảo hiểm nhân thọ.
1.3.2.2. Phòng, chống rửa tiền tại Singapore

Không giống như Mỹ, Singapore đã thông qua một phương pháp tiếp cận đa phương để đối phó với
các rủi ro rửa tiền. Các nỗ lực chống rửa tiền hướng vào khung pháp lý, thể chế, chính sách một cách toàn
diện và đầy đủ, tỷ lệ tội phạm trong nước ở mức thấp, không khoan dung cho tham nhũng trong nước, một bộ
máy tư pháp hiệu quả, một nền văn hóa tuân thủ đã được thiết lập từ lâu và các biện pháp giám sát được thực
hiện đầy đủ và hiệu quả.
Singapore cho rằng họ đã đi đầu trong theo dõi và làm gián đoạn hành vi rửa tiền thông qua các thông
tin tình báo và quyền lực pháp lý khác. Và họ đã xác định các yếu tố chính của chiến lược chống rửa tiền và
tài trợ khủng bố như sau: (i) Xác định các khu vực ưu tiên cao cho hành động dựa trên đánh giá rủi ro của các
mối đe dọa lớn và các lỗ hổng về hành vi rửa tiền và tài trợ khủng bố; (ii) Thực hiện các tiêu chuẩn quốc
tế một cách nghiêm chỉnh, đặc biệt là 40+9 khuyến nghị của FATF; (iii) Duy trì một chế độ hình phạt
nghiêm khắc chống lại nạn buôn bán ma túy, khủng bố và các tội phạm nghiêm trọng khác; (iv) Thực
thi pháp luật hiệu quả là biện pháp ngăn chặn mạnh mẽ; (v) Áp đặt các tiêu chí lựa chọn chặt chẽ đối với
các định chế tài chính muốn gia nhập ngành tài chính của Singapore; (vi) Bảo đảm hiệu quả giám sát các
định chế tài chính hoạt động tại Singapore; (vii) Thuê chuyên gia và những chuyên viên nòng cốt để phát triển
và thực hiện các chính sách và biện pháp phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố; (viii) Thực hiện sự phối hợp
và hợp tác cao giữa các cơ quan chính phủ; (ix)
Cung cấp hỗ trợ pháp lý khác thông qua các kênh chính
thức và không chính
thức, bao gồm cả việc chia sẻ thông tin và tình báo.
Để tăng cường các biện pháp phòng, chống rửa tiền, chính phủ Singapore đã quan tâm nhiều hơn đến
loại hình kinh doanh và nghề nghiệp phi tài chính nhạy cảm với rửa tiền. Và họ đã đưa ra các sáng kiến mới
bao gồm: (i) Ban hành quy định phòng, chống rửa tiền đối với các hoạt động casino; (ii) Thực hiện một
hệ thống khai báo cho du khách xuất nhập cảnh để kịp thời phát hiện vận chuyển tiền hoặc công cụ chuyển
nhượng vô danh; (iii) Mở rộng yêu cầu phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố trong môi giới hàng hóa kỳ

12
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
hạn; (iv) Mở rộng chương trình tiếp cận lĩnh vực kinh doanh và ngành nghề phi tài chính bao gồm cả luật sư,
đại lý bất động sản, kim hoàn và các doanh nghiệp nói chung; (v) Xây dựng
hướng dẫn thi hành Luật xã
hội; (vi) Nghiên cứu một khuôn khổ pháp lý phòng, chống rửa tiền chi tiết hơn đối với các nhà cung cấp
dịch vụ cho doanh nghiệp; (vii) Đánh giá tham nhũng, buôn bán ma túy và các tội phạm nghiêm trọng khác
để điều chỉnh các quy định có liên quan, và có tính đến các yếu tố phản hồi về các vấn đề thực hiện.
Thông qua phương pháp tiếp cận như trên, số lượng báo cáo giao dịch
đáng ngờ tăng đều qua các
năm,
với
6.356 báo cáo, chủ yếu là từ các ngân hàng
2.063 báo cáo, các công ty bảo hiểm 2.964 báo cáo ….
II. Thực trạng rửa tiền và phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.1 Thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.1.1. Các biểu hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
Cho đến nay có rất nhiều biểu hiện rửa tiền qua hệ thống ngân hàng được các nước trên thế giới ghi
nhận. Tại Việt Nam, mặc dù hiện tại chưa có vụ án rửa tiền nào được đưa ra xét xử, nhưng như thế không phải
là chúng ta không có rửa tiền. Trong thời gian qua, Cục phòng, chống rửa tiền đã nhận được hàng trăm
báo
cáo giao dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng, với các hành vi rửa tiền
được biểu hiện như: khách hàng
có thái độ miễn cưỡng khi cung cấp các thông tin theo quy định của ngân hàng, các khách hàng đang bị điều
tra, khởi kiện hoặc nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc tế, các giao dịch không mang lợi ích về mặt
kinh tế, các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn, các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển
tiền quốc tế, các giao dịch liên quan đến các hoạt động đầu tư.
Bảng: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được thống kê theo biểu hiện rửa tiền.
Loại biểu hiện 2006 2007 2008 2009
Thái độ miễn cưỡng khi cung cấp thông tin 0 1 4 6

Khách hàng đang bị điều tra, khởi kiện hoặc nằm trong danh sách
cảnh báo rửa tiền của quốc tế
3 5 18 25
Các giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế 0 1 4 5
Các giao dịch gồm nhiều khoản tiền mặt có giá trị lớn 1 1 2 4
Các giao dịch liên quan đến các cuộc chuyển tiền quốc tế 1 4 14 17
Các giao dịch liên quan đến các hoạt động đầu tư 0 0 1 3
Tổng cộng 4 11 43 60
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
Số liệu báo cáo giao dịch đáng ngờ trên cho thấy các loại giao dịch có tính chất biểu hiện như: các giao
13
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
dịch mà khách hàng đang bị điều tra khởi kiện, hoặc
nằm trong danh sách cảnh báo rửa tiền quốc tế, các
giao dịch liên quan đến
chuyển tiền quốc tế là những giao dịch có nguy cơ rửa tiền cao. Nhìn chung,
những giao dịch có nguy cơ rửa tiền cao như trên là đều thuộc nhóm khách hàng quốc tế, vào năm 2009, các
giao dịch đáng ngờ có biểu hiện này chiếm 70% các giao dịch đáng ngờ. Trong khi đó, tại các nước có hệ
thống phòng, chống rửa tiền hiệu quả như: Mỹ, Anh, Úc thì con số này chỉ ở mức 35-50%. Nói như vậy
không có nghĩa là cơ cấu biểu hiện rửa tiền của Việt Nam hoàn toàn khác với cơ cấu biểu hiện rửa tiền của
các nước có hệ thống phòng, chống rửa tiền hiệu quả, mà sự khác biệt về cơ cấu biểu hiện rửa tiền này chủ
yếu là do tại Việt Nam chưa có hệ thống kiểm soát rửa tiền hữu hiệu. Để phát hiện những giao dịch đáng ngờ
có biểu hiện là những giao dịch không mang lợi ích về mặt kinh tế, những giao dịch liên quan đến hoạt
động đầu tư thì đòi hỏi Việt Nam có hệ thống kiểm soát rửa tiền hiệu quả, các tổ chức tín dụng phải có chính
sách nhận biết khách hàng và được trang bị các phần mềm phục vụ công tác chống rửa tiền.
2.1.2. Những phương thức rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
Theo Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, trong thời gian qua tội phạm rửa tiền đã lạm dụng hệ
thống ngân hàng Việt Nam để tiến hành rửa tiền thông qua các phương thức sau:
Phương thức 1: Bọn tội phạm qua mặt hệ thống kiểm soát của các ngân hàng bằng cách chia nhỏ
tiền sau đó chuyển dần ra nước ngoài. Đây được xem là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng “đào hối” từ các

hành vi rửa tiền của tội phạm trong nước và quốc tế.
Phương thức 2: Một số đối tượng nước ngoài dùng các chứng từ giả để mở tài khoản tại các ngân
hàng Việt Nam để thực hiện các giao dịch chuyển tiền đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khuyến cáo.
Phương thức để thực hiện thủ đoạn này như sau: các đối tượng thực hiện mở tài khoản cá nhân tại các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam để thực hiện các giao dịch chuyển tiền có giá trị lớn từ ngân hàng nước ngoài
gửi về. Sau khi chủ tài khoản này rút tiền, một thời gian sau ngân hàng ở nước ngoài có thông báo đề nghị
thu lại số tiền đã bị rút với lý do giao dịch bị giả mạo.
Phương thức 3: Các đối tượng thông qua hệ thống ngân hàng để thực hiện lừa đảo tín dụng. Bọn tội
phạm thường giả danh các tập đoàn hay các khách hàng nước ngoài đến các ngân hàng đề nghị cho ngân
hàng vay khoản tiền lớn với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường nhiều lần, thời gian vay dài hạn
nhưng yêu cầu “lại quả” trước cho chúng một khoản tiền lớn tương đương 5-10%.
14
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Phương thức 4: Các công ty tại các nước ngoài dùng tiền bất hợp pháp sau một thời gian phân chia
lòng vòng để xóa dấu vết, sau đó dùng chính số tiền này để mua cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ
phần tại Việt Nam. Sau một thời gian chuyển lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh này ra nước ngoài.
Phương thức 5: Rửa tiền thông qua nghiệp vụ chuyển tiền của ngân hàng thương mại.
Với hơn 4 triệu kiều bào sống tại hơn 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hằng năm số kiều bào
này chuyển về nước một lượng lớn ngoại tệ trợ cấp thân nhân trong nước và đầu tư. Đây là một trong những
nguồn cân đối quan trọng trong cán cân ngoại hối Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực của kiều hối như:
là nguồn cân đối quan trọng trong cán cân ngoại hối, làm gia tăng đầu tư trong nước, … thì nó cũng có
những mặt trái như: bọn tội phạm lợi dụng chính sách kiểm soát kiều hối nới lỏng của nhà nước, để chuyển
tiền về Việt Nam phục vụ các hoạt động phạm pháp, cũng như là thực hiện các hoạt động rửa tiền.
Phương thức 6: Thông qua việc mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng thương mại để phục vụ việc
giao dịch chứng khoán. Hiện nay ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại thực hiện mở tài khoản tiền gửi
cho các khách hàng kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, nguồn gốc thu nhập để mua cổ phiếu chưa được
ngân hàng quan tâm đúng mức. Nguồn tiền ban đầu đưa vào tài khoản để kinh doanh chứng khoán có thể là
tiền bất hợp pháp, nhưng sau một thời gian kinh doanh chứng khoán, tiền được rút ra từ ngân hàng đã được
“ngụy trang” là tiền hợp pháp. Đây được xem là hành vi rửa tiền khá đơn giản trong bối cảnh hệ thống kiểm
soát rửa tiền qua hệ thống ngân hàng của chúng ta còn khá sơ khai.

Bảng: Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được thống kê theo
phương thức rửa tiền.
Phương thức rửa tiền 2006 2007 2008 2009
Phương thức thứ nhất 0 1 4 5
Phương thức thứ hai 2 2 5 9
Phương thức thứ ba 1 2 4 7
Phương thức thứ tư 0 0 0 1
Phương thức thứ năm 1 6 29 36
Phương thức thứ sáu 0 0 1 2
Tổng cộng 4 11 43 60
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
15
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Trong số 118 báo cáo giao dịch đáng ngờ mà Cục phòng, chống rửa tiền nhận được từ năm 2006 đến
năm 2009, thì có đến 72 báo cáo giao dịch đáng ngờ được thực hiện thông
qua nghiệp vụ chuyển tiền giữa
các ngân hàng thương mại, chiếm 56,25% số
lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ, trong khi đó các phương
thức rửa tiền khác như: rửa tiền qua hoạt động giao dịch chứng khoán, đầu tư vào cổ phiếu của các
ngân hàng thương mại, thì ít được bọn tội phạm quan tâm. Điều này phản ánh một thực tế là trong thời
gian qua bọn tội phạm tại Việt Nam ưa thích thực hiện rửa tiền thông qua nghiệp vụ chuyển tiền giữa các
ngân hàng thương mại, vì ưu điểm của phương thức rửa tiền này là chỉ trong thời gian ngắn bọn tội phạm
có thể tạo ra hàng trăm giao dịch chuyển tiền để tiến hành tẩy rửa.
2.2 Thực trạng phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
2.2.1. Các phương thức phòng, chống rửa tiền trong thời gian qua
Trước nguy cơ Việt Nam sẽ là điểm đến của bọn rửa tiền quốc tế, đặc biệt là rửa tiền qua hệ thống
ngân hàng. Trong thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện một số biện pháp cơ bản làm giảm nguy cơ lợi dụng
hệ thống ngân hàng để thực hiện các hành vi rửa tiền, cụ thể như sau:
 Xây dựng hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
Quy định pháp luật đầu tiên của Việt Nam về phòng, chống rửa tiền được nhắc đến trong điều 251 Bộ

Luật hình sự năm 1999 được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21/12/1999 và được sửa đổi, bổ sung tại kỳ
họp thứ 5, Quốc hội khóa XII thông qua ngày 19/06/2009. Điều luật đã nêu bật lên được nội hàm cơ bản
của hành vi rửa tiền, cụ thể đã nêu lên nguồn gốc của khoản tiền bất hợp pháp là tiền do phạm tội mà có và
các phương thức phạm tội của hành vi rửa tiền, đó là
thông qua các giao dịch ngân hàng hoặc các giao
dịch khác để hợp pháp hoá
tiền, tài sản do phạm tội mà có. Đồng thời điều luật này cũng đưa ra các khung
hình phạt khác nhau đối với các mức độ phạm tội khác nhau, với mức phạt tù tối
đa đến 15 năm đối với các
hành vi phạm tội có giá trị lớn và đặc biệt nghiêm
trọng.
Tiếp theo, Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua ngày
12/12/1997 và có hiệu lực
ngày 01/10/1998, tại điều 19 đã có quy định về trách nhiệm của các TCTD đối với các khoản tiền có nguồn
gốc bất hợp pháp.
Nghị Định 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 của Chính Phủ về phòng, chống rửa tiền được ban
16
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
hành tạo cơ sở pháp lý cũng như thể hiện cam kết đối với quốc tế về việc phòng, chống rửa tiền. Nghị Định
này quy định: các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm phòng, chống rửa tiền; các biện pháp phòng, chống rửa
tiền; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền; và hợp tác quốc tế về rửa tiền.
Điểm
nổi bật nhất của Nghị định này là đưa ra các quy định nhận biết
khách hàng, quy định mức giá trị giao
dịch bằng tiền mặt từ 200 triệu đồng trở lên, hay giao dịch tiền gửi tiết kiệm từ 500 triệu đồng trở lên phải
báo cáo theo quy định, và 13 dấu hiệu của giao dịch đáng ngờ.
Luật phòng chống rửa tiền số 07/2012/QH13 được Quốc hội đã thông qua ngày 18/06/2012, có hiệu
lực vào ngày 01/01/2013. Luật phòng chống rửa tiền được ban hành nhằm tạo lập khung pháp lý cho hoạt
động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam, giải quyết những vấn đề còn tồn tại của Nghị định 74/2005/NĐ-
CP. Cơ chế phòng, chống rửa tiền theo Luật PCRT 2012 được thực hiện chủ yếu thông qua việc thiết lập

một cơ chế thu thập, xử lý các thông tin về nhận dạng khách hàng, thông tin về giao dịch bất thường, giao
dịch có giá trị lớn để xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất, sàng lọc, xác định các giao dịch có nguy cơ liên
quan đến hành vi rửa tiền được thực hiện thông qua các giao dịch tại các tổ chức tài chính, các tổ chức, cá
nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan. Theo đó, tổ chức tài chính phải áp dụng các biện
pháp nhận biết khách hàng trong trường hợp: Khách hàng mở tài khoản hoặc thiết lập giao dịch với tổ chức
tài chính; Khách hàng thực hiện giao dịch không thường xuyên có giá trị lớn hoặc thực hiện giao dịch
chuyển tiền điện tử mà thiếu thông tin về tên, địa chỉ, số tài khoản của người khởi tạo; Có nghi ngờ giao
dịch liên quan đến hoạt động rửa tiền; Có nghi ngờ về tính chính xác của các thông tin nhận biết khách
hàng đã thu thập trước đó.
 Thành lập cơ quan chuyên trách về phòng, chống rửa tiền.
Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng, chống rửa tiền) được thành lập theo
quyết định số 1003/2005/QĐ-NHNN ngày 08/07/2005 của Ngân hàng Nhà nước là đơn vị trực thuộc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, được thành lập với mục tiêu là cơ quan đầu mối, để tiếp nhận xử lý và phân tích
thông tin, có quyền yêu cầu các cơ quan, cá nhân tổ chức liên quan cung cấp tài liệu hồ sơ và thông tin liên
quan đến các giao dịch đã báo cáo; phổ biến các văn bản và thông tin cho các cơ quan chức năng, thu thập các
báo giao dịch đáng ngờ từ các tổ chức tín dụng.
Với các chức năng như trên, Cục phòng, chống rửa tiền không có chức năng điều tra, những thông
tin về các trường hợp rửa tiền tiềm năng được chuyển
đến Bộ Công An để tiến hành điều tra. Liên quan đến
17
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
chức năng tình báo tài
chính, Cục này nhận các báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các TCTD thông qua
giấy tờ. Còn đối với các giao dịch phải báo cáo theo quy định, do thiếu hệ thống công nghệ thông tin về
phòng, chống rửa tiền, nên Cục này chưa có khả năng tổng hợp được các giao dịch phải báo cáo theo quy
định. Tuy nhiên, các TCTD phải có trách nhiệm lưu trữ thông tin về các giao dịch này, khi cần Cục phòng,
chống rửa tiền có thể yêu cầu các TCTD cung cấp thông tin về các giao dịch này bất cứ lúc nào.
Bảng : Số lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ được Cục phòng, chống rửa tiền thu thập.
Loại đơn vị báo cáo 2006 2007 2008 2009
Ngân hàng TMCP 3 7 8 14

Ngân hàng TM Nhà nước 0 3 28 35
Các ngân hàng liên doanh 0 0 0 1
Các ngân hàng nước ngoài 1 1 6 9
Các tổ chức tín dụng khác 0 0 1 1
Tổng cộng 4 11 43 60
Nguồn: Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
Theo thống kê, từ khi thành lập vào tháng 7/2005 đến cuối năm 2009, cơ quan này chỉ nhận được 118
báo cáo giao dịch đáng ngờ, và chỉ có 37 báo cáo giao dịch đáng ngờ được chuyển sang Bộ Công An để tiến
hành điều tra, nhưng không nhận được bất cứ phản hồi nào từ Bộ Công An. So sánh tổng số báo cáo giao
dịch đáng ngờ với số lượng các tổ chức trong nước phải báo cáo, thì đây là tỷ lệ là rất thấp.
 Tăng cường phối hợp phòng, chống rửa tiền giữa các cơ quan có liên quan.
Ngày 13/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 470/QĐ-TTg về việc thành
lập Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền do Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng làm Trưởng ban.
Các Phó trưởng ban là Thống đốc NHNN Việt Nam và lãnh đạo Bộ Công An, 11 ủy viên là lãnh đạo
các
Bộ, ngành liên quan. NHNN là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo,
NHNN thành lập tổ thường trực
giúp việc Ban Chỉ đạo và nhiều hoạt động khác phục vụ cho công tác phòng, chống rửa tiền.
Việc thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền sẽ giúp chính phủ nâng cao hiệu quả chỉ đạo và
điều phối hoạt động giữa các Bộ, ngành trong công tác
phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam, và
theo đó Ban chỉ đạo có các
nhiệm vụ quyền hạn như:
(i) Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng chiến
lược, chủ trương, chính sách, chương trình,
kế hoạch, cơ chế, giải pháp trong công tác phòng, chống rửa tiền;
18
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
(ii)
Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều

phối hoạt động, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá công
tác phòng, chống rửa tiền trên lãnh thổ Việt Nam.
(iii) Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc triển khai
thực hiện nghĩa vụ thành viên của Việt Nam
trong Nhóm châu Á - Thái Bình
Dương về chống rửa tiền (APG) và tiến tới thực hiện đầy đủ
40+9 khuyến nghị của FATF;
(iv) Phối hợp với các lực lượng nòng cốt trong công tác chống khủng bố nhằm nghiên cứu, đề xuất cơ
quan có thẩm quyền ban hành chính sách pháp luật, xây dựng biện pháp chống tài trợ khủng bố
trên lãnh thổ Việt Nam;
(v) Giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, ban hành chủ trương, chính sách về hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực phòng, chống rửa tiền phù hợp từng thời kỳ.
 Nâng cao nhận thức của ngân hàng thương mại trong phòng, chống rửa tiền.
Bên cạnh việc ban hành các quy định yêu cầu các TCTD xây dựng các quy trình phòng, chống rửa tiền,
Ngân hàng Nhà nước cũng tổ chức các buổi tọa đàm cho các lãnh đạo ngân hàng thương mại để nâng cao nhận
thức phòng, chống rửa tiền.
Tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hầu hết có các
chương trình đào tạo nhân
viên về phòng, chống rửa tiền, tổ chức cho nhân viên tham gia tập huấn trong và ngoài nước về phòng,
chống rửa tiền nhằm hạn chế rủi ro uy tín của ngân hàng.
Đối với các ngân hàng thương mại trong nước, hầu hết đã ban hành các quy trình, quy định nội bộ
về phòng, chống rửa tiền theo yêu cầu tại Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005. Tuy nhiên, việc
triển khai thi hành các quy
trình, quy định nội bộ này chỉ thực sự có ở các ngân hàng lớn có uy tín như:
Vietcombank, Vietinbank, BIDV, ACB, Sacombank Các ngân hàng này đã có các chương trình đào tạo về
phòng, chống rửa tiền cho nhân viên làm công tác chuyển tiền, nhân viên mới tuyển dụng …
 Hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền.
Hợp tác quốc tế không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho các bên tham gia, mà nó còn củng cố mối
quan hệ của các quốc gia. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền cũng không là ngoại lệ, nó
giúp các quốc gia dễ dàng trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ công nghệ …

Nhận thức được tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống rửa tiền, ngày
19
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
4/5/2007, Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên thứ 33 của Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về phòng,
chống rửa tiền, tiến tới thực hiện đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền, đồng thời tham gia
đầy đủ và nhận đánh giá đa phương của APG về Việt Nam. Hiện Việt Nam đã được APG đánh giá đa
phương lần thứ nhất vào năm 2009.
Trong thời gian qua, bên cạnh việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, Ngân hàng
Nhà nước đã tích cực tìm
kiếm các đối tác hỗ trợ Việt Nam trong công tác
phòng, chống rửa tiền. Qua đó, Ngân hàng Nhà nước
và một số cơ quan chức năng khác đã nhận được sự hỗ trợ của WB, IMF, ADB, UNODC cho các dự án
về phòng, chống rửa tiền.
Cùng với việc tìm kiếm đối tác hỗ trợ Việt Nam trong công tác phòng,
chống rửa tiền, trong thời
gian qua Ngân hàng Nhà nước đã ký bản ghi nhớ trao
đổi, cung cấp thông tin với Đài Loan, Nga, Hàn
Quốc, Úc, Anh, Malaysia,
Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông và tiếp tục đàm phán ký kết trao đổi thông
tin với Nhật, Mỹ, Pháp, Hà Lan, Thái Lan, Lào, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ, Áo, Ấn Độ và
Canada. Và cũng trong thời
gian này, Ngân hàng Nhà nước nhận được một
lượng đáng kể các yêu cầu tương trợ tư pháp để điều tra và
đối phó với các hoạt động rửa tiền của các cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, và các cá nhân, tổ chức
Việt Nam ở nước ngoài.
2.2.2. Đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam
trong thời gian qua.
 Những kết quả đạt được
Nhìn tổng quát, với sự nỗ lực to lớn của Ngân hàng nhà nước, trong thời gian qua công tác phòng,
chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận đó là:

Một là, Chính phủ đã ban hành Nghị định
74/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 về phòng, chống
rửa tiền. Và Luật phòng chống rửa tiền được Quốc Hội thông qua ngày 18/06/2012 là một bước tiến lớn
cho thấy quyết tâm thực hiện tốt công tác phòng chống rửa tiền của Việt Nam
Hai là, Trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (nay là Cục phòng,
chống rửa tiền) được thành
lập vào ngày 08/07/2005, là đơn vị trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, hoạt động có hiệu quả, tiếp
nhận, tổng hợp các báo cáo giao dịch đáng ngờ, thông báo kịp thời chọ Bộ Công an xử lý.
20
Đề tài: Hoạt động rửa tiền và các thiên đường thuế Nhóm 3B-lớp NH Đêm 4 –K21
Ba là, Hầu hết các ngân hàng thương mại đều ban hành qui định nội bộ về
phòng, chống rửa tiền, và
ở một số ngân hàng hàng lớn như: Vietcombank,
Vietinbank đã thành lập bộ phận chuyên trách về phòng,
chống rửa tiền.
Bốn là, Việt Nam đã được kết nạp làm thành viên thứ 33 của Nhóm Châu Á Thái Bình Dương về
phòng, chống rửa tiền và đã được tổ chức này đánh giá đa phương vào năm 2009.
Năm là, hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế đặc
biệt là WB, IMF, ADB.
 Những tồn tại.
- Các ngân hàng thương mại chưa tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật về phòng,
chống rửa tiền.
Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành như Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày
07/06/2005, chỉ mang tính hình thức và có tính thực tiễn thấp. Do vậy, các quy trình chống rửa tiền được
thiết lập tại các ngân hàng thương mại mang tính đối phó.
Thực tế, Nghị định số 74/2005/NĐ- CP được ban hành ngày 07/06/2005, có hiệu lực từ 01/08/2005,
nhưng đến cuối năm 2009, Cục Phòng, chống rửa tiền mới chỉ nhận được 118 báo cáo giao dịch đáng ngờ.
Đây là con số khá thấp so với số lượng ngân hàng, tiềm năng rửa tiền tại Việt Nam
- Cơ sở vật chất của các ngân hàng thương mại, Cục Phòng, chống rửa tiền chưa thể đáp ứng
được yêu cầu phòng, chống rửa tiền.

Tại Việt Nam một năm bình quân có hơn 6 triệu giao dịch trị giá từ 200 triệu đồng trở lên. Do vậy,
số lượng các báo cáo mà các ngân hàng gửi về Cục
phòng, chống rửa tiền rất lớn, trong khi hệ thống
công nghệ thông tin tại các
ngân hàng thương mại cũng như tại Cục phòng, chống rửa tiền chưa thể đáp ứng
được yêu cầu này.
Thực tế hiện nay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, chưa có một ngân hàng nào có chương
trình tiên tiến phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Đa số việc theo dõi khách hàng nằm trong danh sách
rửa tiền đều thực hiện một cách thủ công. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phòng, chống rửa
tiền, trong thời gian quan các ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam như:
Vietcombank, ACB, BIDV
đã tiến hành thuê tư vấn lựa chọn công nghệ phục vụ công tác phòng, chống rửa tiền. Tuy nhiên để có phần
21

×