Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

lich sử đảng trường đào tạo cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.77 KB, 51 trang )

CÂU 1: VÌ SAO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ( 3/2/1930) LÀ TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ,
LÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG
VIỆT NAM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC?
I. Đảng CSVN ra đời (3/2/1930) là tất yếu của lịch sử
1.Hoàn cảnh lịch sử :
a/Thế giới:
- Từ TK XIX- XX, trên thế giới xuất hiện những mâu thuẫn mới trong XH TBCN.
+ Mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản
+ Mâu thuẫn giữa nhân dân các nước thuộc địa và các nước tư bản chính quốc
+ Mâu thuẫn giữa các nước TBCN phát triển trước và các nước TBCN mới phát triển.
=> các mâu thuẫn này dẫn đến chiến tranh đế quốc.khi các nước tbcn chuyển sang tbđq ,chúng sẽ tăng
cường bóc lột nhân dân thuộc địalàm cho nhân dân thuộc địa đã khổ thì ngày càng khổ hơn
- Sang đầu TK XX, những mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt nên dẫn đến CTTG lần 1 (1914-1918).
-Ảnh hưởng của cn Mac :cn Mac ra đời đã được HCM đọc,nghiên cứu và HCM đã truyền bá tư tưởng M
và cho cán bộ VN
-1917 :CMT10 Nga thành công dưới sự lãnh đạo của Lenin, nó cổ vũ cho ptr gpdt của các nước trên
TG.Nga là mẫu hình đầu tiên giải quyết vấn vđ cm bằng con đường cmvs
-1919: qtcs được thành lậptruyền bá tư tưởng Mac lenin vào vn.qtcs ra đời giúp đỡ cho cmvn rất
nhiều :bồi dưỡng ,đào tạo cán bộ;cung cấp kinh phí đi lại,hoạt động cho cmvn, chỉ đạo về mặt đường lối…
b/ Trong nước:
-Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo,
phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
+ Về chính trị: chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách
cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực,
tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị
của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong
trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
+Về kinh tế: chúng triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn bạo
nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt
ra hàng trăm thứ thuế vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến… đẩy nhân dân ta vào cảnh
bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.


+ Về văn hóa – xã hội: chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, sùng Pháp,
nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
- Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi
lớn, tạo ra sự phân hóa xhhai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ
phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu
là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa
thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực
dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ
1
chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
trước khi ĐCSVN ra đời, gc công nhân chưa thực hiện sứ mệnh gpdt, khi ĐCSVN ra đời, gc công nhân
đã thấy được sứ mệnh lịch sử của mình:đó chính là sứ mệnh gpdt. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam
đặt ra, cần được giải quyết.
2.Trong bối cảnh đó, rất nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân ta nổ ra:
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến
trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác
nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông
Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn
Thái Học… lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân
Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do các pt ko giải quyết được >< cơ
bản của cnvn(các pt yêu nước đều theo xu hướng phong kiến và dân chủ), những người đứng đầu các cuộc
khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội
Việt Nam và gc lãnh đạo đúng đắn. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước. Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và
thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
yc phải có 1 gc, 1 đường lối cứu nước mới
KL: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI ( 3/2/1930) LÀ TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ vì phù hợp với

ql vận động của nhân loại vào cuối tk 19, đầu tk 20, đáp ứng được đòi hỏi khách wan của dân tộc vn(giải q
được 2 >< cơ bản)
II. Đảng CSVN ra đời là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam của Nguyễn Ái Quốc.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi
tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý
luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong
Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo
vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã
giúp Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của
mình.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn
trở. Từ đây, Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
1
; xác định những vấn đề cơ bản của đường
2
lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng
nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một
chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt
mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ViệtNam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta, tìm ra con đường đúng đắn giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và

công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng 1l-1924,
Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập
và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)… nhằm tuyên truyền chủ
nghĩa Mác – Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về
mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
+CT :đường lối thể hiện trong việc xuất bản tp “đường kach mệnh”
+TT :xuất bản các tờ báo để chỉnh đốn tt cho nhân dân vn:sự thật, tạp chí tư tín qt
+Tổ chức :thông wa việc thành lập hội VNCM thanh niên (đội tiên phong của tổ chức ĐCSVN)
Chủ nghĩa Mác – Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam đón nhận như”người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”.
Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính
trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm
cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải
có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày l-l-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành lập. Điều đó
phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách
mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân
và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc – cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng
3
lỗi lạc của dân tộc Việt Nam – là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ
chức cộng sản.

Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng
thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước
ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá
trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng
chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi
thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con
đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội, giải phóng con người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai
cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
ta.
Câu 2: Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong cao trao giải phóng dân tộc 1939 – 1945
và tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám 1945?
Trả lời:
1, Đặc điểm tình hình thế giới và trong nước những năm 1930 – 1940:
+ Thế giới:
- Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ ngày 1/9/1939. Đức tấn công BaLan.
ko gây bất ngờ cho đ vì đ ta đã lường trc 11/1939 đ ta tổ chức hn 6 đã phân tích ,dự báo về cttg 2 và
nguy cơ ctr fx, đây là thử thách nhưng cũng là thời cơ cho các nước thuộc địa giành chính quyền
- Chiến tranh Vệ Quốc của nhân dân Liên Xô diễn ra từ ngày 22/6/1941 đến ngày 9/5/1945tính ch
cuộc chiến đã thay đổi :fx >< ptrao yêu chuộc tự do hòa bìnhvn chăm chú theo dõi cuộc chiến tranh này

để vn chớp thời cơ là cmt8 .13/08/45 nhật tuyên bố rút khỏi ĐD
- Cuộc chiến tranh Châu Á – Thái Bình Dương bùng nổ ngày 7/12/1941 xphat từ Nhật tấn công Trân
Châu Cảng mỹ trực tiếp nhảy vào cuộn chiến (cuối 44 đầu 45 N bắt nhân dân vn nhổ lúa trồng đay, thầu
dầu2 tr ng chết
+ Trong nước:
- Thực dân Pháp ra sức bóc lột đàn áp nhân dân nạn đói xảy ra nghiêm trọng ở phía Bắc, hơn hai
triệu người Việt Nam bị chết đói dẫn đến mâu thuẫn giữa dân tôc Việt Nam với thực dân Pháp và phát xít
Nhật.
4
- Sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa: Binh Biến, Đô lương, Bắc Sơn. Còn ở Nam Kỳ Sài Gòn các
cuộc khởi nghĩa cũng thất bại do thực dân Pháp ra sức truy bắt, đàn áp tất cả các đồng chí cách mạng
nguyên nhân do thời cơ chưa tới, chưa chin muồi.
Bài học: Các cuộc khởi nghĩa đều thất bại do thời cơ chưa đến và chưa có đường lối lãnh đạo đúng đắn.
2, Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cao trào giải phóng dân tộc và cách mạng tháng Tám 1945?
a, Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Trước tình hình đó Đảng ta đã nhận định và phân tích tình hình được thể hiện ở 3 hội nghị trung ương VI.
VII, và VIII như sau.
* Hội nghị trung ương lần thứ VI: diễn ra ngày 6 – 11 – 1939 , ban chấp hành Trung ương Đảng được
triệu tập tại Bà Điểm ( Hóc Môn, Gia Định) do đồng chí Nguyễn Văn Cừ – Tổng bí thư của Đảng chủ trì.
Đảng chủ trương phải đặt nhiệm vụ “ Chống đế Quốc, giành độc lập dân tộc” lên hàng đầu, nhiệm vụ chống
phong kiến và các nhiệm vụ dân chủ khác phải rải rác thực hiện từng bước, phục tùng và phục vụ nhiệm vụ
chống đế quốc. Đảng nhận định Đông Dương đã bị lôi cuốn vào guồng máy chiến tranh do đế quốc gây ra.
Đặc điểm cơ bản của tình hình Đông Dương lúc này chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã
hội thuộc địa nửa phong kiến đến mức quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết. Mâu thuẫn gay gắt nhất lúc
ấy là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương. Đảng khẳng định rằng vấn đề sống cò của các
dân tộc Đông Dương được đặt ra trước mắt thành một vấn đề khẩn cấp và hết sức quan trọng” Bước đường
sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất
cả ách ngoại xâm vô luân da trắng hoặc da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc” và Đảng cho rằng: “ Cuộc
khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc đấu tranh lần này sẽ nung nấu cách mạng Đông Dương
bùng nổ và tiền đồ cách mạng Đông Dương sẽ vinh quang, rực rỡ” Tuy “ Cách mạng phản đế và cách mạng

giải phóng dân tộc” cao hơn, thiệt dụng hơn, song nếu không làm đươc cách mạng thổ địa thì cách mạng
phản đế khó thàng công. Tính chất cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương không thay đổi.
Đảng xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai,
giải phóng các dân tộc Đông Dương , làm cho Đông Dương hòan toàn độc lập, cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc Đông Dương vẫn phải bao gồm 2 nội dung là chống đế quốc và phong kiến. Đó là 2 nhiệm vụ cơ
bản của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ( lúc đó gọi là cách mạng tư sản dân quyền) do giai cấp công
nhân lãnh đạo, cách mạng phản đế và cách mạng điền địa là hai bộ phận khăng khít, là hai cái mấu chốt của
cách mạng tư sản dân quyền, không giải quyết được cách mạng điền địa thì không giải quyết được cách
mạng phản đế. Trái lại, không giải quyết được cách mạng phản đế thì không giải quyết đươc cách mạng điền
địa. – Cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được nhưng nó phải được ứng dụng một cách khéo
léo thế nào để thực hiện được. Nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là đánh đổ đế quốc. Đảng nhấn mạnh : “
Tất cả mọi vấn đề của cách mạng, kể cả vấn đề điền địa cũng phải nằm vào cái đích ấy mà giải quyết” đây là
chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược. Để tập trung lực lượng đánh đổ đế quốc, Đảng chủ
trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất mà thay bằng khẩu hiệu tịch ký ruộng đất của đế quốc Pháp
và của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chưa đánh vào toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến. Đảng
chủ trương tạm gác khẩu hiệu lập chính quyền XôViết – công – nông – binh thay khẩu hiệu lập chính quyền
cộng hòa dân chủ. Đảng chỉ ra rằng mặt trận dân chủ thích hợp với hoàn cảnh trước kia, do đó chủ trương
lập mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay mặt trận dân chủ Đông Dương. Hội nghị Trung
ương Đảng tháng 11 – 1939 đánh dấu sự chuyển hương cơ bản về chỉ đạo chiến lược và phương pháp cách
mạng của Đảng. Điều đó thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Phong trào cách
mạng Việt Nam có những bước tiến mới.
* Hội nghị Trung ương lần thứ VII ( tháng 11 – 1940).
Hội nghị Trung ương lần thứ VII ( tháng 11 – 1940) diễn ra ở Đình Bảng ( Bắc Ninh) do đồng chí
Trường Chinh lúc đó làm bí thư Đảng ủy Bắc Kỳ đứng ra tổ chức. Hội nghị chỉ ra kẻ thù của nhân dân Đông
Dương lúc này là thực dân pháp và phát xít Nhật ( Ngày 22/9/1940 Nhật Bản đã vào nước ta). Hội nghị đã
đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nhgị sự của cách mạng Đông Dương. Hội nghị quyết
định đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì cả nước chưa có thời cơ ( cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23
– 11 – 1940) . Hội nghị đã cử đồng chí Trường Chinh làm tổng bí thư lâm thời của Đảng.
* Hội nghị Trung ương lần thứ VIII ( tháng 5 – 1941):
5

Tháng 2/1941 đồng chí Nguyễn Aí Quốc từ Trung Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng
Việt Nam. Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị ngày 10 đến ngày 19 – 5 – 1941. người triệu tập và
chủ trì hội nghị Trung ương Đảng tại Bắc Pó ( Cao Bằng). Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong
nước, hội nghị đã quyết nghị những vấn đề sau đây:
- Phải đặt quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của giai cấp, bộ phận. Lợi ích của dân tộc vàlợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động là thống nhất nhưng lợi ích của giai cấp, các bộ phận chỉ có thể
giải quyết được một khi lợi ích của dân tộc được bảo đảm. Đảng chỉ rõ “ Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc
gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn măm cũng không đòi lại
đươc” Vì vậy hội nghị vẫn tiếp tục đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu “ Đánh đổ địa chủ chia
ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu: “ Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và việt gian chia cho dân
cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Hội nghị quyết định thành lập mặt trận Việt
Minh để đoàn kết, tập hợp lực lượng, nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, xúc tiến ngay công tác chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện tại. Để đưa
cuộc khởi nghĩa vũ trang thắng lợi cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng và hình thức tồ chức thích
hợp, tiến hành xây dựng căn cứ địa, hội nghị cũng đặc biệt chú trọng, gấp rút đào tạo cán bộ, chuẩn bị cho
cơn bão táp cách mạng mới. Hội nghị bầu ra ban chấp hành trung uơng Đảng, bầu đồng chí Trường Chinh
làmTổng bí thư, bầu ban thường vụ gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt.
Hội nghị lần thứ VIII ban chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược cách mạng
được vạch ra từ hội nghị lần thứ VI ( Tháng 11/ 1939) . Sự chuyển hướng này vô cùng đúng đắn, kịp thời,
chứng tỏ tư duy chiến lược sắc bén của đảng và của Nguyễn Aí Quốc – Hồ Chí Minh kể từ đây cách mạng
Việt Nam rẽ theo ngọn cờ giải phóng dân tộc, gấp rút chuẩn bị về mọi mặt để tiến lên giành độc lập tranh lấy
chính quyền.
b, Xây dựng lực lựơng chính trị và lực lượng vũ trang:
* Chuẩn bị về lực lựng chính trị: Thành lập mặt trận Việt Minh để đoàn kết tất cả các giai cấp. Năm
1943 Đảng đưa ra đề cương văn hóa Việt Nam.
* Chuẩn bị về lực lượng vũ trang: Thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày 22 – 12 –
1944 làm nhiệm vụ vận động tuyên truyền quần chúng.
* Chuẩn bị căn cứ địa cách mạng: Xây dựng và củng cố các đoàn thể của Việt Minh ở nông thôn và
thành thị. Ở Hà Nội tổ chức Việt Minh được phát triển trong các nhà máy, trường học. Ngoài ra còn ở Cao

Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Bình, Hà Tuyên.
* Chuẩn bị về người lãnh đạo: Đứng đầu là Hồ Chí Minh.
* Chuẩn bị về thời cơ cách mạng: Nghệ thuật chớp thời cơ của đảng.
Sự chủ động nhạy bén, sáng tạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình đấu tranh giành chính quyền.
Ngày 1/9/1939. Phát Xít Đức tấn công BaLan sau đó tuyên chiến với Anh và Pháp, chiến tranh thế giới thứ
hai bùng nổ, đế quốc Pháp lao vào cuộc chiến, chính phủ Pháp thi hành các biện pháp đàn áp lực lượng dân
chủ trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa.
Do sớm dự báo được tình hình, nên Đảng ta không bị bất ngờ về cuộc chiến này. Thông báo khẩn cấp
ngày 10 – 3 – 1938 nghị quyết ban chấp hành Trung ương ngày 29/3/1938 và tuyên ngôn Đảng cộng sản
Đông Dương với thời cuộc ngày 29/3/1938 đã chỉ rõ chiến tranh sẽ nổ ra, cần tập trung mũi nhọn chống bọn
phát xít gây chiến.
Ngay sau khi chiến tranh nổ ra, trung ương Đảng gửi thông báo cho các cấp cán bộ Đảng, vạch rõ cách
mạng Đông Dương sẽ tiến tới mục tiêu giải phóng dân tộc, chỉ thị cho tòan Đảng, chỉ đạo cho toàn Đảng bí
mật rút vào bí mật và chuyển hướng hoạt động. Điều đó chứng tỏ sự nhạy bén, chủ động của Đảng ta trước
những diễn biến mau lẹ của thời cuộc.
-Mùa thu năm 1940, lợi dụng lúc Pháp thua Đức, Nhật vào Đông Dương. Ngày 22/9/1940. Chúng tiến vào
Lạng Sơn và đổ bộ vào. Ngày 23/9/1940. Pháp ký hiệp định đầu hàng, dâng nước ta cho Nhật. Từ đó nhân
dân ta một cổ hai tròng chịu ách áp bức của đế quốc Pháp và Phát xít Nhật. Trước tình hình đó Đảng ta đã
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược thông qua các hội nghị Trung ương lần thứ VI ( tháng 11/ 1939). Hội nghị
trung ương Lần thứ VII ( tháng 11/1940) và hội nghị Trung ương lần thứ VIII ( tháng 5/ 1951). Đã hoàn
6
chỉnh đường lối giải phóng dân tộc, là một trong những nhân tố đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Nghệ thuật chớp thời cơ: Đó là bản lĩnh vượt khó khăn, thử thách của thời kỳ bị khủng bố, là sự năng
động, sáng tạo trong việc đưa ra những chủ trương mới thời kỳ dân chủ 1936 – 1939, là trí tuệ trong việc
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược thời kỳ 1936 – 1939 và là nghệ thuật trong việc đánh giá đúng tình thế và
thời cơ cách mạng để lãnh đạo tòan dân đứng lên giành chính quyền. Đường lối đó đã thể hiện sự đúng đắn,
chủ động, sáng tạo nhanh chóng và kịp thời của đảng ta qua từng giai đoạn, chuẩn bị những điều kiện chủ
quan cần thiết để chớp thời cơ giành chính quyền cách mạng.
c, Cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa giành chính quyền:

- Cuối năm 1941, cuộc chiến thế giới đã đi đến giai đoạn kết thúc ở Đông Dương mâu thuẫn Nhật –Pháp
lên đến đỉnh điểm. Ngày 3/9/1945 Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương.
Ngay đêm đó, ban thường vụ trung ương họp hội nghị mở rộng tại Đình Bảng ( Từ Sơn – Bắc Ninh).
Ngày 12/9/1945 Đảng chỉ ra “ Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”
- Chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một
cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sụ chín muồi. Tuy vậy, hiện đang
có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa chín muồi.
- Chỉ thị xác định: Thay khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp” bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít
Nhật”.
- Chỉ thị chủ trương: Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi
nghĩa. Hình thức tuyên truyền: cổ động, tổ chức vàđấu tranh lúc này phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ
tiền khởi nghĩa như tuyên truyền, xung phong, biểu tình, tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho
thóc của Nhật để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc.
- Chỉ thỉ nêu rõ phương châm lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng phần, mở rộng
căn cứ địa. Tiêu biểu ở miền Bắc có Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên…
- Chỉ thị dự kiến những điều kiện thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân đồng minh kéo
vào Đông Dương đánh Nhật, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn quân đồng minh để phía sau sơ hở, quân đội
viễn chinh Nhật mất tinh thần.
- Phong trào phá kho thóc Nhật đã tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển tiếp theo của cao trào
“kháng Nhật cứu nước”.
- Chỉ thị “ Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã chứng tỏ đảng ta rất chủ động trong
việc năm bắt tình hình cách mạng, kịp thời đề ra những chủ trương đúng đắn, phù hợp tiên lược được tình
hình để có hành động kịp thời, sẵn sàng cho những thời khắc quyết định của cách mạng, bản chỉ thị đã tạo
nên một bước ngoặc lịch sử, chuyển phong trào cách mạng từ thời kỳ vận động chính trị là chủ yếu sang thời
kỳ phát động đấu tranh vũ trang khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở các địa phương.
- Ngày 9/5/1945, phát xit Đức đầu hàng quân ở Đông Dương, quân Nhật bắt đầu rệu rã. Ngày
14/8/1945 quân Nhật hạ vũ khí đầu hàng đồng minh, đẩy Nhật đóng chiếm ở Đông Dương vào thế tuyệt
vọng, như rắn mất đầu hoang mang cực độ.
d.dự báo chính xác khả năng xuất hiện thời cơ
- Ngày 13/8/1945, trung ương Đảng họp hội nghị toàn quốc tại Tân Trào ( Tuyên Quang). Hội nghị

nhận định đây là cơ hội tốt cho nhân dân ta đứng lên giành chính quyền và phát động tổng khởi nghĩa, giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân đồng minh tiến vào nước ta.
- Ngày 16/8/1945 quốc dân đại hội khai mạc tán thành chủ trương tổng kghở nghĩa của Đảng và mười
chính sách lớn của Việt Minh, quyết định thành lập ủy ban giải phóng dân tộc thông qua Quốc Kỳ, Quốc Ca,
Quốc Huy của đất nước, thảo luận, bổ xung và thông qua một số chính sách cần phải thực hiện ngay sau khi
tổng khởi nghĩa thắng lợi, hội nghị thông qua mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa.
- Ngay sau hội nghị Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “ Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, tòan
quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
- Với chủ trương, đường lối và phương pháp chỉ đạo của đảng, Tổng khởi nghĩa thành công nhanh
chóng, thắng lợi hòan tòan triệt để, ít tổn thất cho cách mạng, chỉ trong vòng 15 ngày Tổng khởi nghĩa lần
lượt thành công trên khắp các địa phương trong cả nước chủ trương đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cước
7
nước và tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền trên phạm vi cả nước là vô cùng kịp thời, chính xác
và nhanh chóng.
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là một minh chứng tuyệt vời cho bản lĩnh và trí tuệ của
Đảng cộng sản Việt Nam.
d
4, Liên hệ thực tiễn thời cơ ,vận hội cách mạng Việt Nam hiện nay:
Trải qua 25 năm thực hiện đường lối đổi mới ( từ đại hội VI đến hết nhiệm kỳ đại hội X ) và 20 năm
( 1991 – 2010) thực hiện cương lĩnh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã thu được
những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử và một lần nữa chứng minh vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối
vơi sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Hiện nay trong giai đọan cách mạng mới. Thế giới đã có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp khó
lường, hòa bình, hợp tác, phát triển và hội nhập vẫn là xu thế lớn, những xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến
tranh, cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt, các yếu tố đe dọa an ninh, các nước lớn dùng
mọi thủ đọan thậm chí cả hành động quân sự dưới mọi chiêu bài để can thiệp. Những vấn đề tòan cầu như
biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…. Không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia. Mà muốn giải quyết được
phải có sự chung tay góp sức của tất cả các nước trên thế giới. Song chế độ chính trị, lợi ích của mỗi nước
lại khác. Số nước do Đảng cộng sản là Đảng duy nhất cầm quyền không nhiều trong khi sự chia sẻ trên tinh
thần đoàn kết, hy sinh giúp đỡ của các nước có chế độ cộng sản cầm quyền lãnh đạo đối với nước ta đã thay

đổi nhiều. Xu thế hòa, bình hữu nghị vẫn là chính, nhưng việc tính toán để bảo vệ quyền lợi của mỗi quốc
gia cũng thay đổi, quốc gia nào cũng toan tính riêng. Trong bối cảnh phức tạp hơn tòan cầu hóa, hội nhập và
cách mạng khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ. Đấu tranh giai cấp và dân
tộc vẫn diễn biến phức tạp. Trong đó có Đông – Nam Á, tranh chấp lãnh thổ biển đảo vô cùng nóng bỏng.
Trong nước tuy có thành tựu và kinh nghiệm của 25 năm đổi mới tạo ra thế lực mới cho đất nước
nhưng nước ta vẫn phải đứng trước nhiều thách thức lớn đan xen nhau tác động tổng hợp và diễn biến phức
tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ
quan liêu tham nhũng còn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “ tự diễn biến”,
“ tự chuẩn hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện “ Diễn biến hòa bình” gây bạo
loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “ Dân chủ”, “ Nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Trong bối cảnh thời cơ và thách thức đan xen như vậy, vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng cực kỳ
quan trọng và luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương
đươc vai trò lãnh đạo. Đảng phải tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và
tính tiền phong để xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo
khoa học. Muốn vậy cần tập trung vào một số vấn đề sau:
- Một là đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và đổi mới tư duy để lãnh đạo tòan diện đất nước phù
hợp với diễn biến nhanh chóng, mau lẹ của thực tế phù hợp với đướng lối đổi mới của cách mạng Việt Nam,
phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân
dân.
- Hai là nêu cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, nhất là ngưới đứng đầu cấp ủy. Điều lệ
đảng ghi rõ, cấp ủy là cơ quan lãnh đạo của đảng giữa hai kỳ đại hội. Như vậy, cấp ủy nhất là người đứng
đầu cấp ủy có vai trò trách nhiệm quyết định đối với hoạt động và hiệu quả lãnh đạo và cũng là biểu hiện tập
trung của Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng.
- Ba làđổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội một cách toàn diện trên
các mặt: phong cách, nội dung, phương pháp về phong cách lãnh đạo phải gần dân, nghe dân, học dân và
trọng dân theo tư tưởng “ Lấy dân làm gốc” và “ Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, giám sát”. Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng các hành động thiết thực cụ thể trong công việc, trong quan hệ
với nhân dân, đồng chí, đồng nghiệp, gia đình.
- Bốn là Mở rộng dân chủ ngoài xã hội, thực hành dân chủ thực sự trong đảng. Nhà nước ta là nhà

nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, biết kế thừa những tinh hoa dân chủ của nhà
nước pháp quyền trong lịch sử và đã, đang phát triển lên tầm cao mới, khác hẳn về bản chất và cao hơn gấp
8
vạn lần so với dân chủ tư sản. Nhưng chưa tuyên truyền giáo dục cho người dân hiểu đúng về dân chủ đi
liền với kỷ cương nên một số người đã cố tình lợi dụng dân chủ để gây rối, chia rẽ tác động xấu đến trật tự,
an toàn xã hội.
- Năm là tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đòan kết nhất trí của đảng là sức mạnh vô địch của đảng.
Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức Đảng, đảng viên bằng kỷ luật của mình, buông lỏng kỷ luật, sớm
hay muộn Đảng sẽ bị suy yếu, tan rã.
Hồ Chủ Tịch đã khẳng định: Kỷ luật Đảng là “kỷ luật sắt”. Nghĩa là “nghiêm túc và tự giác”. Ai ai cũng
phải phục tùng kỷ luật và chịu các hình thức kỷ luật, ( nếu có khuyết điểm, sai lầm)
Do vậy cần tăng cường kỷ luật sắt, tạo sự đòan kết, nhất trí của đảng và sự đồng thuận của xã hội. Đây
chính là sức mạnh vô địch của đảng “ Cần giữ gìn sự đòan kết nhất trí của Đảng như gìn giữ con ngươi của
mắt mình”
CÂU 3: Tình thế hiểm nghèo của cách mạng Việt Nam sau tháng 8/ 1945? Chủ trương, biện pháp của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thử thách để bảo vệ
thành quả cách mạng?
Trả lời:
- Tình thế hiểm nghèo của cách mạng Việt nam sau tháng 8/ 1945:
Khó khăn và thử thách:
- Về kinh tế: Nền kinh tế của nước ta vốn nghèo nàn lạc hâu đã bị kiệt quệ do chính sách bóc lột của Thực
dân Pháp và sau đó là Phát xít Nhật.
• Công nghiệp lúc bấy giờ lạc hậu đình đốn, thương nghiệp ngừng trệ, hàng hóa khan hiếm, tài chính can
kiệt, kho bạc trống rỗng, nông nghiệp tiêu điều, hơn 50% ruộng đất ở Bắc Bộ bị bỏ hoang do lũ lụt và hạn
hán, nguy cơ nạn đói mới xảy ra.
• Nạn đói khủng khiếp trong lịch sử dân tôc từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945 đã cướp đi sinh mệnh
của 2 triệu đồng bào ta chưa kịp khắc phục thì nạn đói mới đe dọa cuộc sống mới của nhân dân.(hơn 80 năm
trời p xâm chiếm vn, p chỉ vơ vét, chiến tranh thiên tai xảy ra liên mien)
- Về VH - GD: Trình độ văn hóa của nhân dân thấp kém 95% dân số không biết chữ. Các tê nạn xạ hội,
hủ tục và lối sống lạc hậu qua hằng năm dưới các triều đại phong kiến và hơn 80 năm dưới chế độ thực dân

đế quốc, phát xít là gánh nặng cho nhà nước cách mạng non trẻ.(do p thi hành chính sách văn hóa nô
dịch,khai thác triệt để nhân dân và hình thức gd phong kiến, khai thác hình thức mê tín dị đoan)
- Về chính trị: Nạn ngoai xâm và nội phản đe dọa đến sự sống còn của chính quyền cách mạng.(dưới sự
thỏa thuận của những nước thắng trận , MB và BTB phải đương đầu với những tên ĐQ :mỹ và tưởng (m hỗ
trợ về vctt cho tưởng  cho dán thông báo bắt vn tuân theo quy định của chúng, tưởng thu mua lương thực
1 cách cưỡng bức  nạn đói them trầm trọng
“quốc dan chưa tới ,trông trời trông đất
Quốc dân đã tới, tối trời tối đất”
+Miền n phải đối phó với đq(p và bại binh của nhậtp ko công nhận chính quyền của ta,thả tù binh chính
trị của p,lấy vũ khí của n cho quân p,thay vì giải giới quân n thì p lại giao cho bại binhn là cảnh sátvn chỉ
độ lập có 29 ngày
• Trong nước, các thế lực phản động và tay sai của thực dân Pháp đã ngóc đầu hoạt động chống phá (Đại
Việt quốc gia XH Đảng, Đại Việt quốc dân Đảng, Việt nam phục quốc…), cùng bọn phản động lưu vong ở
nước ngoài về nước chống phá chính quyền cách mạng rất quyết liệt như: Việt Nam quốc dân Đảng, Việt
Nam cách mạng đồng minh Hội. hcm nói “chúng nhiều như nấm mọc sau mưa”các thành viên cùa 2 tổ chức
việt quốc, việt cách chiếm 1 số địa điểm hn phá hoại khối đoàn kết của nhân dân taCách mạng Việt
Nam chưa có một thời kỳ nào đối phó với nhiều thế lực, đảng phái chính trị phản động trong những năm
1945-1946.
9
• . Cách mạng Việt Nam chưa có một thời kỳ nào đối phó với nhiều thế lực, đảng phái chính trị phản
động trong những năm 1945-1946.
• Từ bên ngoài, với danh nghĩa đồng minh vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật, ở miền Bắc 20 vạn
quân Tưởng Giới Thạch ồ ạt chiếm đóng các thành phố, thị xã dọc biên giới Việt-Trung. Ở phía Nam từ vĩ
tuyến 16 trở vào, ngày 19/9/1945 quân độ Anh vào Sài Gòn. Ngày 23/09/1945 được sự hậu thuẫn của quân
Anh, thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, bắt đầu cuộc xa6nm lược Việt Nam lần thứ 2. Cùng lúc đó trên đất
nuo71cco1 khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ được giải giáp. Chưa bao giờ trên đất nước ta trong cùng một
lúc lại có nhiều kẻ thù xâm lược như vậy.
• Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các nước đồng minh chiến thắng chủ nghĩa phát xít đã
d6an thỏa hiệp, phân biệt dẫn đến sự thù địch. Mỹ thao túng các nước đồng minh, dung túng và mở đường
cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Ở trong khu vực, chính quyền Tưởng Giới Thạch là đồng minh chiến

lược của Mỹ, Lào và Campuchia đã bị Pháp quay trở lại chiếm đóng. Thù trong giặc ngoài cấu kết với nhau
nhằm tiêu diệt nhà nước CM còn non trẻ, Đảng có nguy cơ mất vai trò cầm quyền. Chính quyền cách mạng
đang đứng trước một tình thế hiểm nghèo, thách thức mới.
trong 3 giặt đó thì giặc ngoại xâm là wan trọng nhất nhưng giặc đói và giặc dốt phải giải quyết đầu tiên
Chủ trương, biện pháp của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm lãnh đạo đất nước vượt qua
khó khăn, thử thách bảo vệ thành quả chách mạng:
- Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và quốc tế, đánh giá thái độ, âm mưu của các thế lực Đế quốc
với cách mạng Việt Nam và Đông Dương, ngày 25/11/1945 trung ương Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến
quối”. Chỉ thị đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách của nhân dân ta lúc này là: củng cố chính quyền cách
mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
- Thực hiện chủ trương đề ra Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành các nhiệm vụ cụ thể sau:
a) Xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân và củng cố mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân từ trung
ương đến cơ sở.
- 3/9/1945 chính phủ họp phiên đầu tiên đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách: giải quyết nạn đói, nạn dốt, tổng
tuyển cử, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò và cấm hút thuốc phiện, tự do tín
ngưỡng, lương giáo đoàn kết.
- Ở trung ương: tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước ngày 6/1/1946, thành lập chính phủ liên hiệp kháng
chiến (2/3/1946), Quốc hộ thông qua Hiến pháp (9/11/1946).
- Ở địa phương: tổ chức bần Hội đồng nhân dân các cấp và thành lập các ủy ban hành chính chính thức
thay cho các ủy ban hành chính lâm thời trước đây.
- Như vậy trong một thời gian ngắn, một nhà nước mới thực sự là của nhân dân của Việt Nam có quốc
hội, có hiến pháp, có chính phủ, có các cơ quan dân chủ và cơ quan hành chính các cấp được xây dụng và
từng bước kiện toàn.Việt Nam giải phóng quân được củng cố và phát triển sau đó đổi tên thành vệ quốc
đoàn (9/1945)và đến tháng 5 năm 1946 đổi thành quân đội quốc gia Việt Nam.
- Để tăng cường sức mạnh toàn dân, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng khối
Đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở phát triển các đoàn thể cứu quốc trong mặt trân Việt Minh.Theo sáng kiến
của chủ Tịch Hồ Chí Minh hội liên hiệp quốc dân được thành lập (29/5/1946)nhằm tập hợp những lực lượng
chưa có điều kiện tham gia Việt Minh.Trong thời gian này tổng liên đoàn lao động Việt Nam 20/10/1946
cũng được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng hơn nữa cuộc vận động tổ chức công nhân ,lao động và
phụ nữ.

b) Khôi phục kinh tế xây dựng đời sống mới về văn hóa, giáo dục:
 Giệt giặc đói :
- Biện pháp trước mắt : Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào lập“Hũ gạo tiết kiệm”.Tổ chức
“Ngày đồng tâm” thực hiện nhường cơm sẻ áo để cứu đói
- Biện pháp lâu dài : Phát động phong trào thi đua tăng gia sản xuất với khẩu hiệu “ không một tất đất bỏ
hoang”, “ tất đất tất vàng” ,củng cố đê điều ,chia ruộng cho dân nghèo,giảm tô 25%,bãi bỏ thuế thân và các
thứ thuế vô lý khác.
- Kết quả : đến cuối năm 1946 nền nông nghiệp được phục hồi sản lượng tăng lên và nạn đói được đẩy
lùi.
10
 Diệt giặc dốt:
- Để tiêu diệt giặc dốt, ngày 8/9/1945 Chính phủ lâm thời ký sắc lệnh thành lập “Nha bình dân học vụ”.
Ngày 4/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống nạn thất học. Toàn dân hưởng ứng lời kêu gọi.
Phong trào xóa nạn mù chữ phát triển rộng khắp trên cả nước, lôi cuốn tất cả mọi người dân Việt Nam.Đến
đầu tháng 3/1946 ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có gần 3 vạn lớp học với 81 vạn học viên,các trường tiểu
học,trung học phát triển mạnh.Chỉ trong một năm đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
- Cùng với việc xây dựng nền giáo dục thì nền văn hóa mới cũng được Đảng và Chính phủ quan tâm xây
dựng ngay từ khi cách mạng thành công. Dựa trên 3 nguyên tắc: đại chúng hóa, dân tộc hóa, khoa hoạc hóa,
các hoạt động văn hóa nghệ thuật văn nghệ phát triển mạnh mẻ và rộng lớn hướng vào mục tiêu phụng sự
dân tộc, phục vụ Tổ quốc.
 Giải quyết khó khăn về tài chính :
- Chính phủ đã thành lập quỹ độc lập ,phát động tuần lễ vàng…để kêu gọi nhân dân giúp Chính
phủ.Nhân dân đã hăng hái đóng góp sau một thời gian ngắn Chính phủ đã thu được 20 triệu bạc và 370 kg
vàng
- Ngày 31/01/1946 Chính phủ ra sắc lệnh hành tiền Việt Nam.
- Ngày 23/11/1946 Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam.
c) Kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam bộ:
- Ở miền Nam ngày 23/9/1945, ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn tiến hành xâm lược
Việt Nam lần thứ 2, Hội nghị của xứ ủy Nam bộ được triệu tập và ra quyết định phát động nhân dân kháng
chiến chống Pháp.

- 25/10/1945 Hội nghị các bộ Đảng Nam bộ chủ trương tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tiếp
tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến.
- 21/11/1945 Hội nghị quân sự của Xứ ủy Nam bộ quyết định xây dựng các căn cứ địa kháng chiến
lân dài.
- Thực hiện chỉ thị kháng chiến toàn quốc, 12/1945 Ủy ban kháng chiến miền Nam được thành lập,
chính quyền cách mạng ở cả vùng tực do và bị chiếm đều được xây dựng và củng cố.
- Ở miền Bắc và miền Trung, Đảng và Chính phủ phát động phong trào Nam tiến chi viện cho cuộc
kháng chiến của đồng bào Nam bộ.
d) Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao:
 Thực hiện sách lược hòa hoãn nhân nhượng với quân Tưởng ở miền Bắc ,tập trung chống thực dân
pháp ở miền Nam (9/1945 đến 3/1946).
- Đánh giá âm mưu thủ đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng việt nam ,Đảng ta xác định : quân
Tưởng ra sức thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta,lật đỗ chính quyền ,song kẻ thù chính của nhân dân ta là
thực dân Pháp xâm lược ,phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
- Muốn tập trung thực lực chống thực dân pháp cần phải nhân nhượng hòa hoãn vơi quân Tưởng để
có thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt và chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến toàn quốc có thể
xảy ra.
- Đảng ta xác định phương trâm trong quan hệ với quân Tưởng thêm bạn bớt thù trên cơ sở phát huy
thực lực của ta.
• Nội dung hòa hoãn với Tưởng:
Với khẩu hiệu Hoa – Việt thân thiện ta tổ chức tiếp đón quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa khi chúng kéo
vào nước ta.
+ Về kinh tế ,cung cấp lương thực thực phẩm cho quân Tưởng cho lưu hành đồng tiền quan kim trên
thị trường,
+ Về chính trị chủ trương mở rộng thành phần chính phủ liên hiệp lâm thời trong đó có đại biểu của
việt quốc và Việt Cách (hai tổ chức theo chân quân Tưởng về nước ) mở rộng thêm 70 ghế quốc hội cho
Việt Quốc và Việt Cách không qua bầu cử…Để tránh sự công kích của kẻ thù ,ngày 11/11/1945 Đảng Cộng
Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán nhưng thật chất là đang rút vào hoạt động bí mật,Đảng giữ vai trò lãnh
đạo cách mạng thông qua hệ thống,chính sách của Nhà Nước,thông cán bộ trong bộ máy chính quyền các
cấp và đặt biệt là thông qua lãnh tụ của Đảng là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

11
+ Về quân sự ,chúng ta chủ trương chánh mọi xung đột với quân Tưởng.
+ Nguyên tắc hòa hoãn với quân Tưởng : nhân nhượng nhưng giữ vững bản chất của chính quyền là
chính quyền của cách mạng ,giữ vững độc lập chủ quyền và sự lãnh đạo của Đảng.
+ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “Hoa-Việt thân thiện”, với những nhân nhượng về kinh
tế, chính trị và những biện pháp đau đớn ta đã vô hiệu hóa 20 vạn quân Tưởng, đấu tranh kiên quyết với 2
Đảng phản động là Việt Quốc và Việt Cách, giữ vững chính quyền cách mạng.
 Thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với Pháp,đẩy nhanh quân Tưởng về nước(từ tháng 3 đến tháng
12-1945)tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng cách mạng.
- Sau hiệp ước Hoa-Pháp, ngày 28/2/1946, quân Tưởng đồng ý cho quân Pháp ra miền Bắc. Ngày
3/3/1946 Ban Thường vụ ra chỉ thị tỉnh hình và chủ Trương.Chủ tịch Hồ Chi Minh và ban thường vụ Trung
ương đã quyết định chon giải pháp hòa hoãn dàn xếp với Pháp ,vì “ Vấn đề lúc này không phải là muốn hay
không muốn đánh .Vấn đề là biết mình ,nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và
nước ngoài mà chủ Trương cho đúng”.
- Thực hiện chủ Trương đó ,ngày 6/3/1946 chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Vũ Hồng Khánh đại
diện cho chính phủ Việt Nam đã kí với Pháp bản Hiệp định Sơ Bộ với nội dung:
+ Một là chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do nằm
trong khối liên hiệp Pháp.
+ Chấp nhận quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng với 15 ngàn quân,trong 5 năm rút dần 1/5
số quân.
+ Đình chỉ xung đột mở tiếp các cuộc đàm phán chính thưc để tìm một giải pháp hòa binh cho xung
đột Pháp – Việt.
- Tuy nhiên thực dân Pháp luôn giữ thái độ ngoan cố hiếu chiến.Để tỏ thiện chí hòa bình của Việt
Nam. Ngày 9/3/1946 Trung ương ra chỉ thị “Hòa để tiến” nêu rỏ “chúng ta hòa với Pháp để dành thời gian,
bảo toàn thực lực, giữ vững lập trường, càng mau tiến tới độc lập hoàn toàn”.Sau Hiệp định sơ bộ đã diễn ra
các hoạt động ngoại giao: cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với Đô đốc Đắc-găng-li ơ trên Vịnh Hạ long ngày
24/3/1946, tiếp theo là Hội nghị trù bị ở Đà Lạt và sau đó là Hội nghị Phôngtennơblô nhưng đều bế tắc.
Đang thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách, ngày 14/9/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện
Chính phủ Pháp bản Tạm ước với thiện chí tiếp tục nhân nhượng Pháp, cố gắng đàm phán ngoại giao để giải
quyết quan hệ Việt-Pháp.

- Như vậy trong vòng 16 tháng Đảng ta đã có những biện pháp sáng suốt linh hoạt mềm dẻo trong
việc đối phó cùng một lúc với kẻ thù.Đảng ta đã tự bảo vệ thành công chính quyền cách mạng trong bối
cảnh lịch sử cực kỳ khó khăn trong những năm 1945-1946. Đảng đã thực hiện thành công chính sách ngoại
giao thêm bạn bớt thù, khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, kéo dài
thời gian hòa bình, không bị lôi kéo vào những cuộc chiến tranh khi chúng ta chưa chuẩn bị. Qua đó có thể
thấy với đường lối chủ trương, biện pháp kịp thời, đúng đắn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
cách mạng nước ta vượt qua tình thế hiểm nghèo cả khó khăn và thách thức, chủ động, chuẩn bị lực lượng
cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Liên hệ thực tiễn:
Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức
mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy
lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương
và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động
tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn
nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”
12
hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa
xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp.
Nhìn chung, tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức đan xen đối với sự
phát triển của đất nước trong 5 năm tới.
Nếu như ở Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta đưa ra chủ trương "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực"(4), thì đến Đại hội X (năm 2006), Đảng đã bổ sung thêm: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác"(5). Tại Đại hội XI vừa qua, trong bối cảnh
toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ, Đảng ta đã phát triển quan điểm này thành: "Chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế".
Quan điểm mới này này đã thể hiện bước đi và lộ trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới.

Việt Nam tham gia vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc,
giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Trong tiến trình đó, Việt
Nam đặt ưu tiên cao và trước tiên cho việc hội nhập kinh tế quốc tế thông qua các hoạt động mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học
công nghệ tiên tiến cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả vào các tổ chức quốc tế và
khu vực, như Liên hợp quốc; Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương (APEC); Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
Có thể nói, ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Kết quả đạt được từ những nỗ lực ngoại giao đã củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế; giữ vững an ninh; tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những định hướng lớn về đối ngoại của Đại hội XI:
- Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm nêu trên, Đại hội XI đã đề ra những định
hướng lớn cho công tác đối ngoại thời gian tới. Trong đó, định hướng tổng thể, bao trùm là nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu; còn định hướng cụ thể gồm
có:
- Về quan hệ song phương: Tiếp tục phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Việt
Nam sẽ ưu tiên phát triển quan hệ hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên
giới, đồng thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ chốt.
- Là thành viên ASEAN: Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng
Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng
của ASEAN trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
- Về ngoại giao đa phương: Với phương châm là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,
Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ
chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, đặc biệt là Liên Hợp quốc.
- Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh
phi truyền thống, nhất là vấn đề biến đổi khí hậu.
- Về biên giới lãnh thổ : thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới
biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và

nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển.
- Về các lĩnh vực khác : Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại đảng với các đảng cộng sản,
công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và các đảng khác, tiếp tục coi trọng và nâng cao hiệu quả
công tác ngoại giao nhân dân.
Từ chủ trương “là bạn và đối tác tin cậy” của Đại hội IX, Đại hội XI bổ sung thêm Việt Nam là thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.Xây dựng cộng đồng ASEAN trở thành một trọng tâm đối ngoại.
Đại hội XI khẳng định Việt Nam là thành viên ASEAN, cam kết phấn đấu cùng các nước xây dựng thành
công Cộng đồng ASEAN.Các hoạt động đối ngoại sẽ được triển khai đồng bộ, toàn diện trên cơ sở phát huy
13
tiềm lực của mọi lực lượng và thực thi trên mọi kênh, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên
mặt trận đối ngoại.
-CÂU 4: Đường lối k/c chống Pháp và sự lãnh đạo của Đảng ta nhằm đánh bại thực dân Pháp x/l và
can thiệp Mỹ ?
I/ Âm mưu, kế hoạch, hành động của thực dân Pháp: đánh nhanh, thắng nhanh, tiến quân lên chiến khu
Việt Bắc đánh thẳng vào trung tâm lãnh đạo CMVN của Đảng ta để giành nhanh chính quyền miền Nam.
- So sánh lực lượng giữa ta và Pháp:
+ Ta mạnh về tinh thần, đó là có sự ủng hộ của quần chúng nhân dân VN và cả nhân dân lao động trên TG
nhưng ta lại yếu về vật chất, đó là vũ khí, phương tiện chiến tranh.
+ Ngược lại, Pháp mạnh về vật chất: vũ khí tối tân, phương tiện chiến tranh nhưng Pháp lại không được sự
ủng hộ của quần chúng nhân dân VN và nhân dân lao động trên TG.
 Vậy từ sự so sánh này thì để chuyển hóa lực lượng, để đánh được thực dân Pháp , ta phải huy
động sức mạnh của toàn dân tộc để đánh thực dân Pháp.
II/ Đường lối kháng chiến chống Pháp:
1/ Cơ sở hình thành đường lối: trên cơ sở thực tế của cuộc k/c chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và thể
hiện trên các văn kiện : Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25/11/1945); Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của TW
Đảng ( 12/12/1945) ; Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến
nhất định thắng lợi của tổng bí thư Trường Chinh.
Thực lực của CMVN lúc bấy giờ: “biết người biết ta” để từ đó đề ra những nội dung, đường lối kháng
chiến chống Pháp phù hợp, kịp thời, đúng đắn.

2/ Nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp:
- Cuộc kháng chiến có 2 nhiệm vụ cơ bản: vừa kháng chiến vừa kiến quốc,2 nhiệm vụ này có mối quan hệ
mật thiết với nhau, ko thể tách rời nhau, bổ sung hỗ trợ nhau
+ Ngày 25/11/1945 TW Đảng ra chỉ thị “ Kháng chiến kiến quốc” với 2 nhiệm vụ : chống Pháp và xây
dựng đất nước.Chỉ thị khẳng định :
+Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc CM giải phóng dân tộc
+ Khẩu hiệu vẫn là: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.
+Đảng ta khẳng định : kẻ thù của ta lúc này là bọn thực dân Pháp xâm lược.
+Lực lượng kháng chiến: Lập mặt trận dân tộc thống nhất, phát huy khối đoàn kết toàn dân.
+Lãnh đạo cuộc kháng chiến : Đảng - Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đoàn thể chính trị xã hội.
+phương châm cuộc kháng chiến:toàn dân, toàn diện,lâu dài, tự lực cánh sinh.
1. kháng chiến toàn dân là tất cả già trẻ gái trai không phân biệt đảng phái tôn giáo, hễ là người việt
nam là phải đứng lên chiến đấu, thực hiện mỗi người dân là 1 chiến sỹ, mỗi làng xóm là 1 pháo đài
- kháng chiến toàn diện là thực hiện đoàn kết toàn dân đánh địch về mọi mặt
+, chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân tăng cường xây dựng đảng chính quyền các đoàn thể nhân dân,
đoàn kết với miêm ( camphuchia) – lào là các yêu chuộng tự do hòa bình
+, quân sự: thực hiện vũ trang dân xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân
và đất đai, thực hiện du kích chiến, đánh chính quy, bảo toàn thực lực kháng chiến lâu dài
+, kinh tế: yêu thổ kháng chiến ( phá hoại kinh tế cuộc sống địch ) xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập
chung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng
+, văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến xây dựng nền văn hóa dân chủ theo 3 nguyên tắc: dân tộc –
khoa học – đại chúng
+, ngoại dao: thực hiện thêm bạn kết thù, liên hiệp với dân tộc pháp, chống phản động thực dân pháp sẵn
sàng đàm phán nếu pháp công nhận việt nam độc lập
- kháng chiến lâu dài:Là chống âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của pháp để có thời gian phát huy yếu tố
thiên thời địa lợi nhân hòa của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh
14
hơn địch và đánh thắng địch
- dựa vào sức mình là chính: phải tự cung tự cấp về mọi mặt vì ta bị bao vây 4 phía chưa được nước nào
giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh khi có điều kiện tranh thủ sự giúp đỡ các nước song cũng không được ỉ lại

+ VD: Trong lịch sử của dân tộc VN, đã có những cuộc chiến đấu huy động sức mạnh toàn dân tộc như :
dưới thời nhà Lý,bằng trí thông minh và lòng dũng cảm, nhân dân ta dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt đã
kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai (1075 – 1077
- Knghiệm CM thế giới: cuộc c/t vệ quốc của nhân dân LX khi mà để chiến thắng phát xít Đức , nhân dân
Liên Xô đã huy động sức mạnh của toàn dân để chiến thắng phát xít trong cuộc chiến tranh vệ quốc của
nhân dân LX.
- Truyền thống dân tộc: mỗi khi có giặc ngoại xâm, cha ông ta lại huy động sức mạnh toàn dân
- Cn Mác – Lênin nói về cuộc c/t CM : CM là sự nghiệp của QC va c/t CM cũng là sự nghiệp của QC. Vì
vậy để đánh thắng thực dân Pháp thì ta phải huy động được sức mạnh toàn dân
=> Từ CMTG, ta sẽ vận dụng vào CMVN để mà đánh thực dân Pháp bằng cách huy động sức mạnh của
toàn dân tộc
Kết luận : Vậy đây là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện , lâu dài và dựa vào sức mình là chính.
- Từ những khẳng định trên, Đảng ta đề ra những nhiệm vụ cho CMVN là:
+ Củng cố chính quyền CM
+ Chống thực dân Pháp xâm lược
+ Bài trừ nội phản.
+ Cải thiện đời sống nhân dân.
+ Kiến quốc để phát triển lực lượng CM nhằm đủ mạnh để đánh thắng kẻ thù.
+ Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng kẻ thù nhằm có thời gian tập trung lực lượng chống Pháp.
- Giữa kháng chiến kiến quốc có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ, gắn bó , không thể tách rời, nó bổ sung,
hỗ trợ lẫn nhau thúc đẩy cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Đó là: Cách mạng muốn đứng vững phải biết
bảo vệ, phải đồng thời thực hiện 2 mặt song song.
3.1) quá trình đ lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối kc chống pháp (Cơ sở lí luận):
+chú trọng xây dựng quân đội quốc gia và lực lượng công an Việt Nam
15
Xd, bảo vệ chính quyền cm. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, tổ chức việc tiến hành Tổng
tuyển cử, thành lập Chính phủ, soạn thảo Hiến pháp, kiện toàn chính quyền từ trung ương đến cơ sở, mở
rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đảng rút vào hoạt động bí mật để tránh sự công kích của các thế lực
thù địch
-tiến hành kc chống p ở nam bộ:ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ Việt

Nam ký với đại diện chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ (ngày 6-3-1946).
+Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng.
+Về phía quân Pháp, khi vào miền Bắc được quy định rõ về địa điểm, thời gian và số lượng.
+Điều 3 của Hiệp định sơ bộ quy định: "Hai bên (Việt Nam và Pháp) đình chiến để mở cuộc đàm phán
chính thức và trong khi đàm phán, quân đội hai bên đóng đâu vẫn cứ đóng đấy".
+Bài trừ nội phản (Bọn phản động trong nước):tìm cách phân hóa và xử trí bọn phản động chống lại
chính quyền DCND hoặc tìm cách lôi kéo những phần tử còn có tinh thần yêu nước.
-chăm lo cải thiện đời sống nhân dân
+Về kinh tế - tài chính, Đảng tổ chức lạc quyên cứu đói, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, khôi phục các nhà
máy, hầm mỏ, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, tịch thu ruộng đất của địa chủ, phản động, chia lại
ruộng đất, giảm tô cho nông dân, phát động nhân dân tự nguyện đóng góp tiền của thông qua "Tuần lễ
vàng", "Quỹ độc lập", thực hiện chế độ đảm phụ quốc phòng
+Về văn hóa - xã hội, Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ tệ nạn xã hội, thực
hiện nền giáo dục mới, phát động phong trào "bình dân học vụ" để diệt "giặc dốt"
+ chú trọng xây dựng quân đội quốc gia và lực lượng công an Việt Nam.
+ Về chính trị: tiếp tục kiện toàn và ổn định bộ máy nhà nước; thống nhất quân, chính, dân trong toàn
quốc;Phải cô lập kẻ thù, kéo thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích
cực ủng hộ ta, chống lại thực dân phản động Pháp.
+ Về ngoại giao: luôn nắm vững nguyên tắc “ thêm bạn bớt thù” tạo sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân QT
-> 1950, hầu hết các nước XHCN đều thiết lập ngoại giao với nước ta.
+ Về KT: x/d nền KT k/c theo ng/tắc vừa k/c vừa kiến quốc, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp về
mọi mặt, ra sức phá KT địch, ko cho chúng lấy chiến tranh nuôi c/t, chú trọng p/t nông nghiệp, thủ CN,
thương nghiệp và CN : đều có bước p/t
+ Về lĩnh vực VH – GD – y tế: từng bước h/đ có k/q. Xóa bỏ nền VH nô dịch, ngu dân, x/lược của t/d
Pháp và x/d nền VH dân chủ mới, dựa trên 3 ng/tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa, mở lại
trường học, nâng cao dân trí, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan,…
Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao
 Thực hiện sách lược hòa hoãn nhân nhượng với quân Tưởng ở miền Bắc ,tập trung chống thực dân
pháp ở miền Nam (9/1945 đến 3/1946).
- Đánh giá âm mưu thủ đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng việt nam ,Đảng ta xác định : quân

Tưởng ra sức thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta,lật đỗ chính quyền ,song kẻ thù chính của nhân dân ta là
thực dân Pháp xâm lược ,phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
- Muốn tập trung thực lực chống thực dân pháp cần phải nhân nhượng hòa hoãn vơi quân Tưởng để
có thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt và chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến toàn quốc có thể
xảy ra.
- Đảng ta xác định phương trâm trong quan hệ với quân Tưởng thêm bạn bớt thù trên cơ sở phát huy
thực lực của ta.
• Nội dung hòa hoãn với Tưởng:
Với khẩu hiệu Hoa – Việt thân thiện ta tổ chức tiếp đón quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa khi chúng kéo
vào nước ta.
+ Về kinh tế ,cung cấp lương thực thực phẩm cho quân Tưởng cho lưu hành đồng tiền quan kim trên
thị trường,
+ Về chính trị chủ trương mở rộng thành phần chính phủ liên hiệp lâm thời trong đó có đại biểu của
việt quốc và Việt Cách (hai tổ chức theo chân quân Tưởng về nước ) mở rộng thêm 70 ghế quốc hội cho
Việt Quốc và Việt Cách không qua bầu cử…Để tránh sự công kích của kẻ thù ,ngày 11/11/1945 Đảng Cộng
Sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán nhưng thật chất là đang rút vào hoạt động bí mật,Đảng giữ vai trò lãnh
đạo cách mạng thông qua hệ thống,chính sách của Nhà Nước,thông cán bộ trong bộ máy chính quyền các
cấp và đặt biệt là thông qua lãnh tụ của Đảng là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Về quân sự ,chúng ta chủ trương chánh mọi xung đột với quân Tưởng.
+ Nguyên tắc hòa hoãn với quân Tưởng : nhân nhượng nhưng giữ vững bản chất của chính quyền là
chính quyền của cách mạng ,giữ vững độc lập chủ quyền và sự lãnh đạo của Đảng.
+ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “Hoa-Việt thân thiện”, với những nhân nhượng về kinh
tế, chính trị và những biện pháp đau đớn ta đã vô hiệu hóa 20 vạn quân Tưởng, đấu tranh kiên quyết với 2
Đảng phản động là Việt Quốc và Việt Cách, giữ vững chính quyền cách mạng.
 Thực hiện sách lược tạm hòa hoãn với Pháp,đẩy nhanh quân Tưởng về nước(từ tháng 3 đến tháng
12-1945)tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng cách mạng.
- Sau hiệp ước Hoa-Pháp, ngày 28/2/1946, quân Tưởng đồng ý cho quân Pháp ra miền Bắc. Ngày
3/3/1946 Ban Thường vụ ra chỉ thị tỉnh hình và chủ Trương.Chủ tịch Hồ Chi Minh và ban thường vụ Trung
ương đã quyết định chon giải pháp hòa hoãn dàn xếp với Pháp ,vì “ Vấn đề lúc này không phải là muốn hay
không muốn đánh .Vấn đề là biết mình ,nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và

nước ngoài mà chủ Trương cho đúng”.
16
- Thực hiện chủ Trương đó ,ngày 6/3/1946 chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Vũ Hồng Khánh đại
diện cho chính phủ Việt Nam đã kí với Pháp bản Hiệp định Sơ Bộ với nội dung:
+ Một là chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do nằm
trong khối liên hiệp Pháp.
+ Chấp nhận quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng với 15 ngàn quân,trong 5 năm rút dần 1/5
số quân.
+ Đình chỉ xung đột mở tiếp các cuộc đàm phán chính thưc để tìm một giải pháp hòa binh cho xung
đột Pháp – Việt.
- Tuy nhiên thực dân Pháp luôn giữ thái độ ngoan cố hiếu chiến.Để tỏ thiện chí hòa bình của Việt
Nam. Ngày 9/3/1946 Trung ương ra chỉ thị “Hòa để tiến” nêu rỏ “chúng ta hòa với Pháp để dành thời gian,
bảo toàn thực lực, giữ vững lập trường, càng mau tiến tới độc lập hoàn toàn”.Sau Hiệp định sơ bộ đã diễn ra
các hoạt động ngoại giao: cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với Đô đốc Đắc-găng-li ơ trên Vịnh Hạ long ngày
24/3/1946, tiếp theo là Hội nghị trù bị ở Đà Lạt và sau đó là Hội nghị Phôngtennơblô nhưng đều bế tắc.
Đang thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách, ngày 14/9/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện
Chính phủ Pháp bản Tạm ước với thiện chí tiếp tục nhân nhượng Pháp, cố gắng đàm phán ngoại giao để giải
quyết quan hệ Việt-Pháp.
- Như vậy trong vòng 16 tháng Đảng ta đã có những biện pháp sáng suốt linh hoạt mềm dẻo trong
việc đối phó cùng một lúc với kẻ thù.Đảng ta đã tự bảo vệ thành công chính quyền cách mạng trong bối
cảnh lịch sử cực kỳ khó khăn trong những năm 1945-1946. Đảng đã thực hiện thành công chính sách ngoại
giao thêm bạn bớt thù, khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, kéo dài
thời gian hòa bình, không bị lôi kéo vào những cuộc chiến tranh khi chúng ta chưa chuẩn bị. Qua đó có thể
thấy với đường lối chủ trương, biện pháp kịp thời, đúng đắn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo
cách mạng nước ta vượt qua tình thế hiểm nghèo cả khó khăn và thách thức, chủ động, chuẩn bị lực lượng
cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
III/ Từ đường lối Đảng ta đề ra, Đ ta đã lãnh đạo đường lối k/c chống thực dân Pháp và gặt hái được
những thành tựu là:
- Thực hiện đường lối k/c của Đảng, của chủ tịch, nhân dân ta vừa đánh giặc vừa x/d lực lượng vũ trang,
lực lượng c/trị và đã vận dụng sáng tạo chiến lược, chiến thuật mà nhờ đó ta đã chuyển dần được tình thế bắt

đầu từ chiến thắng Việt Bắc – Thu Đông đến chiến thắng Biên Giới ,…đã đánh dấu sự trưởng thành vượt
bậc của quân và dân ta.
- ĐH lần 2 của Đảng đã được khai mạc tại Tuyên Quang (2/1951) và đề ra nhiều nhiệm vụ cho CMVN.
- Đổi tên Đảng CSĐD , lấy tên là Đảng LĐVN.
- Phát huy đà thắng lợi, toàn Đảng toàn dân toàn quân không ngừng tấn công địch trên tất cả các mặt nhất
là trên mặt trận quân sự. Cục diện c/t ngày càng có lợi cho ta.
- 9/1953: TW Đảng thông qua KH tác chiến và nhất là chiến dịch lịch sử ĐBP. Cuối cùng thực dân Pháp
đã bị ta đánh bại phải ngồi vào bàn kí hiệp định Giơnevơ. thắng lợi của hiệp định Giơnevơ đã phá tan âm
mưu của Mỹ muốn QT hóa cuộc c/tr Đông Dương.
- MB được g/phóng làm cơ sở cho cuộc đ/t thống nhất nước nhà.
IV/ LIÊN HỆ THỰC TIỄN
- Đường lối CMVN ngày nay có 2 nhiệm vụ chiến lược:
1/ Xây dựng thành công CNXH: Là 1 xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh do
nhân dân làm chủ, có nền KT p/t cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, hp , có điều kiện p/t toàn diện; các d/tộc
trong cộng đồng VN bình đẳng, đ/k, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền XHCN
của n/dân, vì n/d do ĐCS lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên TG.
2/ Bảo vệ vững chắc tổ quốc VN XHCN: phát huy mạnh mẽ sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hệ thống
c/trị, thực hiện tốt m/tiêu, n/vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời, bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và
chế độ XHCN; giữ vững ổn định c/trị, trật tự, an toàn XH, chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu,
17
h/động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống….tiết tục mở rộng quan hệ hợp tác QT
trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng.
Câu 5.Quá trình hình thành, phát triển, hoàn chỉnh đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
Đảng ta nhằm đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai
ở miền Nam (1954-1975)?
1.Đặc điểm, tình hình cách mạng miền Nam những năm 1954-1955 trở đi và âm mưu, kế hoạch hành
động của đế quốc Mĩ và tay sai:

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ( tháng 5/1954), đất nước ta tạm thời bị chia cắt(tại vĩ tuyến 17) thành 2
miền và có 2 chế độ chính trị khác nhau:
-Miền Bắc: hoàn toàn giải phóng và đi theo con đường XHCN
-Miền Nam:đế quốc Mĩ tìm mọi cách thế chỗ của Pháp ở miền Nam Việt Nam, với âm mưu từng bước
biến miền Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới ở Đông Nam Á để tấn công và thôn tính miền
Bắc.
2.Đường lối kháng chiến chống Mĩ hay nói cách khác đường lối cách mạng miền Nam
a. Vào tháng 6/1956 , đồng chí Lê Duẩn Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã dự thảo bản Đề cương cách mạng miền
Nam ở Việt Nam. Bản đề cương đã làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận và thực tiễn cách mạng miền Nam .
b.Tháng 12-1957, Nghị quyết 13 của BCH Trung ương Đảng khóa II nhận định: “Ta đồng thời chấp hành
hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN”.
c.Tháng 1-1959,Nghị quyết 15 của BCH Trung ương Đảng khóa II làm rõ hơn đường lối cách mạng miền
Nam.Nghị quyết xác định nhiệm vụ trước mắt là : đoàn kết toàn dân , kiên quyết đấu tranh chống đế quốc
Mĩ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tâp đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm tay sai, thực hiện độc lập dân
tộc và thống nhất nước nhà.
Con đường phát triển của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.Chủ
trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất riêng cho miền Nam, có cương lĩnh phù hợp nhằm tập hợp
rộng rãi mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ đấu tranh chống Mĩ và tay sai. Nghị quyết 15 của Ban chấp
hành Trung ương khóa II phản ánh đúng nhu cầu lịch sử, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đồng
bào miền Nam, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam.
d. Đảng bộ Nam Bộ và Liên khu V đã quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 xuống tận cơ sở
.Phong trào đồng khởi nổ ra, đầu tiên là phong trào đồng khởi ở Bến Tre, sau đó lan rộng ra các tỉnh Tây
Ninh, Mỹ Tho, Tân An, Trà Vinh, Bạc Liêu,, Rạch Giá, Cà Mau, Long Xuyên,Châu Đốc, Sóc Trăng, Cần
Thơ đồng loạt nổi dậy làm chủ khoảng 2/3 số ấp, xã.Phong trào đồng khởi về cơ bản đã làm tan rã bộ máy
chính quyền của địch ở cơ sở nông thôn toàn miền Nam. Phong trào đồng khởi đã giáng một đòn bất ngờ
vào chế độ Mỹ Diệm ở miền Nam, làm cho đế quốc Mĩ phải rơi vào thế bị động lúng túng, buộc phải thay
đổi chiến lược đối phó với cách mạng miền Nam.Phong trào đồng khởi thực tế đã chuyển cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tấn công.Trên đà thắng lợi, ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam ra đời,trực tiếp lãnh đạo thống nhất phong trào cách mạng miền Nam. Đây là một bất ngờ
của Mĩ Diệm đã chuyển cách mạng miền Nam từ tư thế giữ gìn lực lương sang thế tấn công.

-tw cục miền nam dc thành lập đẽ đưa ra nd cụ thể vể mn
-đh 3 đã đề ra đường lối chủ trương về cmmn
-Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tiến hành tại Hà
Nội. Đại hội đã thảo luận và thông qua đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
+sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước hết phải nhằm mục tiêu biến miền Bắc thành căn
cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước, hậu thuẫn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước
nhàCải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất. Hai mặt này có quan hệ tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau
cùng phát triển, trong đó cải tạo xã hội chủ nghĩa cần đi trước một bước để mở đường.
18
-Đại hội đã xác định:Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Đồng thời phải
tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, nhằm thay đổi căn bản đời sống
tư tưởng, tinh thần và văn hoá của xã hội, phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Phương châm lúc này là đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên chủ nghĩa xã hội, nhằm
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho cuộc
đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trên cơ sở đường lối chung, Đại hội lần thứ III đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961-1965). Phương hướng của kế hoạch 5 năm là "chúng ta cần phải chuyển sang lấy xây
dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước
đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho
nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa"
2
.
Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm là:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; đồng thời
ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nhẹ,
phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị
cơ sở để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ

và công thương nghiệp tư bản tư doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, mở
rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nâng cao năng
lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, tăng cường đào tạo đội ngũ công nhân lành
nghề; xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật, xúc tiến thăm dò tài nguyên thiên nhiên và tiến hành điều tra cơ
bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hoá xã hội chủ nghĩa.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta được
ấm no, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang thêm phúc lợi công cộng, xây dựng
đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Đi đôi và kết hợp với phát triển kinh tế cần ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường an ninh trật tự, bảo vệ
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá III gồm 48 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết. Bộ
Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Lê
Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Quá trình Đ lãnh đạo thực hiện:Năm 1961, Đảng ta họp các hội nghị Trung ương: về công tác xây dựng
Đảng trong quá trình lãnh đạo thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa (4-1961), về phát triển nông
nghiệp (7-1961), về phát triển công nghiệp (7-1961), về công tác thương nghiệp và giá cả (12-1964), v.v
KQ:Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã hoà chung vào không khí thi đua sôi nổi, lao động
sáng tạo. Do đó, mặc dù kế hoạch 5 năm mới thực hiện được trong 4 năm và phải bước vào chống chiến
19
tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, nhưng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và
sự nỗ lực của nhân dân, miền Bắc đã căn bản hoàn thành các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đề ra.
* Ý nghĩa: là Đại hội xây dựng CNXH ở miền Bắc, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
3.Quá trình Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối cách mạng miền Nam, bổ sung phát triển
hoàn thiện.
a.Đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt(1961 – 1965)
-Tháng 10-1961 Trung ương Cục miền Nam được thành lập để trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền
Nam, đẩy mạnh xây dựng lực lượng cả quan sự lẫn chính trị trên cả ba vùng chiến lược.Chủ trương của
Đảng: “Đảng bám dân, dân bám đất,du kích bám địch”
Quá trình hình thành và nội dung đường lối

Khi Mỹ thực hiện “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, các Hội nghị của Bộ chính trị đầu năm 1961 và đầu
năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững và phát triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc “đồng khởi”
năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên
quy mô toàn miền. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng,
giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang lên một bước mới ngang
tầm với đấu tranh chính trị. Thực hành kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị song song, đẩy mạnh
đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (11/1963), ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế,
hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng
Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu
tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu
cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm căn cứ địa, hậu
phương đối với cách mạng miền Nam , đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối phó
với âm mưu đánh phá của địch.
Mĩ –ngụy dự định thực hiện những mục tiêu của “Chiến tranh đặc biệt” trọng tâm là mục tiêu “bình định”
trong vòng 18 tháng, bắt đầu từ giữa năm 1961 bằng kế hoạch Stalây- Taylo.Đến đầu năm 1964 , khi 18
tháng đã qua , miền Nam vẫn chưa được “bình định”. Lợi dụng tình thế, tháng 9-1964, Bộ chính trị cử Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh và một số tướng lĩnh cao cấp tăng cường chỉ đạo cách mạng miền Nam. Trong
Đông –Xuân 1964-1965 , các chiến lược dịch An Lão, Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài liên tiếp diễn ra thắng
lợi, làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.Cách mạng miền Nam vừa được quyền chủ động và tạo
thế trận mới cho cách mạng, vừa làm phá sản một hình thức chiến tranh, đẩy Mĩ và chính quyền ngụy vào
thế bị động chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
b. Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” 1965-1968
Trước hành động gây “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế
quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965) đã tập trung đánh giá tình hình
và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng cuộc “chiến tranh cục bộ”
mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong
thế thua, thế thất bại và bị động cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn chiến lược. Từ sự phân tích và nhận
định đó, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược trong toàn

quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
- Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: nêu cao khẩu hiệu: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Kiên
quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kì tình huống nào, nhằm bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực
hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.
- Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ
của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền
Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cố gắng đến mức độ
20
cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi
quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
- Tư tưởng và phương châm đấu tranh ở miền Nam : giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến
công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương châm: kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính
trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu
tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.
- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền
Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên
sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích
cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra
cả nước.
- Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước,
miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì xã
hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc
lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên không tách rời nhau mà mật thiết gắn bó với
nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ý nghĩa của đường lối
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Trung ương lần thứ 11
và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:

- Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự
kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
- Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành
đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ
khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.
- Đó là đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính được phát
triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
“Chiến tranh đặc biệt”thất bại, để cứu vãn chính quyền Ngụy quyền của Mĩ ở miền Nam, Mĩ đem quân tới
để thực hiện mục tiêu “Bình định và tìm diệt”.Mĩ đưa ồ ạt vào miền Nam với 54 vạn quân Mĩ, và 7,2 vạn
quân chư hầu tăng cường chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã kịp thời nhận định và đưa ra phương châm chỉ đạo chiến lược tại Hội nghị
Trung ương lần thứ 11; 12 khóa III: Mĩ đưa quân vào miền Nam nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch
vẫn không thay đổi lớn, vì thế, cuộc kháng chiến vẫn giữ vững và phát triển chiến lược tiến công.Mĩ thua
trận đầu tiên ở Núi Thành –Quảng Nam và rút vào Đà Nẵng. Mĩ đánh phá miền Bắc, chiến tranh lan ra cả
nước, năm 1965 cả nước chống Mĩ cứu nước. Đến đây,Đảng nhận định: Giữ thế chiến lược, trường kì, tranh
thủ sự giúp đỡ của quốc tế với phương châm chỉ đạo chiến lược với 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh
vận.Chủ trương của Đảng thể hiện sự quyết tâm cao, tạo sự đồng thuận của cả nước,cả thế giới giúp nhân
dân ta.Phát huy thắng lợi của hai cuộc phản công chiến lược, nghị quyết 14 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa III “Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định
cho sự nghiệp chống Mĩ cứu nước” đêm 30 – 1-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã được phát động trên
toàn miền Nam. Hầu hết cơ quan đầu não của địch từ trung ương đến địa phương bị ta tấn công và tiêu
diệt.Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 là một đòn chiến lược đánh vào tận hang ổ của kẻ
thù.Chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ bị thất bại.
Cuộc tổng tiến công chiến lược này đã làm cho thế chiến lược của Mỹ bị đảo lộn, ý chí xâm lược của
chúng bị lung lay, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc vô điều kiện và
ngồi vào bàn đàm phán tại Pari.
21
c. Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. (1969 -1975)

Sau những thất bại liên tiếp từ năm 1965 – 1968, đế quốc Mỹ đã chuyển sang tiến hành chiến lược “Việt
Nam hóa và Đông Dương hóa chiến tranh”. Thực chất của chiến lược chiến tranh này là Mỹ trang bị vũ khí
quân sự hiện đại cho Ngụy quân, Ngụy quyền Gòn để thực hiện âm mưu thâm độc của chúng là dùng người
Việt đánh người Việt, tiếp tục thực hiện chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, rút dần quân Mỹ về nước.
Để củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta, ngày 1/1/1969 trong thư chúc mừng
năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.
- Tháng 1/1970 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18 ( khóa III) họp đã đề ra chủ
trương mới chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Tháng 6/1970 Hội nghị Bộ
chính trị đã chủ trương chuyển hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính, tập trung ngăn chặn và đẩy
lùi chương trình “bình định” của địch.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Theo
đó, quân Mỹ và quân chư hầu phải rút về nước, bộ đội chủ lực của ta được tồn tại ở miền Nam Việt Nam.
Song đế quốc Mỹ vẫn âm mưu tiếp tục duy trì chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, lén lút tuồn vũ
khí, gài cố vấn ở lại hỗ trợ, chỉ huy chính quyền và quân đội của chế độ Sài Gòn Đế quốc Mỹ ra sức lấn
chiếm vùng giải phóng, đẩy lực lượng ta ra sát biên giới, loại Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam và Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra khỏi đời sống chính trị ở miền Nam nước ta.
Đế quốc Mỹ còn xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt hòng ngăn cản sự phát triển sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Trước tình thế mới, tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã họp Hội nghị lần thứ
21. Hội nghị đã ra Nghị quyết về "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ
của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới".
Hội nghị đã phân tích thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: "Trải qua 18 năm đấu tranh
kiên cường, đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhân dân cả nước ta đã liên tiếp đánh bại 4 chiến lược của 4
đời tổng thống kế tiếp nhau xâm lược nước ta". Hội nghị đã rút ra những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi, và
bước đầu tổng kết những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hội nghị còn
nhận định: "Tình hình miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng:
1) Do ta tích cực đấu tranh trên 3 mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao buộc địch từng bước thực hiện
Hiệp định Pa-ri.
2) Do địch ngoan cố gây chiến, ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại
địch, giành thắng lợi hoàn toàn.

Hội nghị nhấn mạnh: Chúng ta hết sức tranh thủ khả năng thứ nhất và chuẩn bị sẵn sàng cho khả năng thứ
hai.
Sau khi chỉ ra một số nhược điểm, khuyết điểm của ta từ sau Hiệp định Pa-ri, Hội nghị khẳng định: "Con
đường cách mạng miền Nam Việt Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta
cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng
miền Nam tiến lên".
Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng miền Nam trong giai đoạn này là: "Tiếp tục thực hiện chiến lược cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện một miền Nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập,
phồn vinh, tiến tới hòa bình, thống nhất nước nhà".
22
Về phương châm và hình thức đấu tranh, Nghị quyết Hội nghị xác định: "Cách mạng miền Nam phải nắm
vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, tình hình cụ thể từng vùng, thậm
chí tùy thuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức và chiến thuật tiến công hoặc phòng ngự một cách linh hoạt,
sắc bén, đồng thời giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt của ta, làm suy yếu và tan rã lực lượng quân
sự, chính trị của địch, làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch ngày càng thay đổi có lợi cho ta. Nhất định
chúng ta phải mạnh cả về quân sự và chính trị, trên cả ba vùng chiến lược".
Hội nghị cũng đã chỉ rõ nhiệm vụ của miền Bắc một mặt phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi hiện có,
ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, một mặt, "phải tiếp tục làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với
cách mạng miền Nam và tích cực đấu tranh để Hiệp định Pa-ri về Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh".
Hội nghị còn xác định: Trong bất kỳ tình huống nào, phải nắm vững lực lượng vũ trang, củng cố, phát
triển và tăng cường ba thứ quân thật mạnh, đi đôi với việc xây dựng lực lượng chính trị mạnh để bảo vệ
thành quả cách mạng và đưa cách mạng tiếp tục tiến lên; ra sức giành dân và giành quyền làm chủ của nhân
dân ở khắp nông thôn và thành thị; làm tốt công tác binh vận; đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị đòi
hòa bình, dân chủ, dân sinh, đòi thi hành Hiệp định Pa-ri; ra sức củng cố vùng giải phóng; tăng cường công
tác mặt trận và công tác Chính phủ cách mạng lâm thòi; kịp thời vạch trần âm mưu và hành động vi phạm
Hiệp định Pa-ri của địch trước dư luận trong nước và quốc tế; nâng cao công tác tổ chức của Đảng lên ngang
tầm nhiệm vụ chính trị trước mắt
Hội nghị BCHTƯ (khóa III) lần thứ 21 đã đề ra chủ trương, biện pháp cơ bản để mở ra con đường đưa
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ miền Nam tiến sang giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh cách mạng
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Hội nghị Quân ủy Trung ương, tháng 3-1974, đã cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 21 và đã để ra chủ
trương kiên quyết phản công và tiến công địch, vận dụng linh hoạt phương châm và phương thức đấu tranh
trên cả ba vùng chiến lược.
Nghị quyết 21 BCHTƯ Đảng và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương liền được các cấp ủy Đảng, lãnh đạo
các chiến trường, các mặt trận, cán bộ, đảng viên và nhân dân triệt để tổ chức thực hiện.
Đến cuối năm 1974, cách mạng hai miền đã có những bước phát triển thuận lợi. Ở miền Nam, quân và dân
ta chủ động tiến công và phản công, đánh bại kế hoạch lấn chiếm của địch, buộc địch phải quay về giữ các
đô thị, các vùng giao thông huyết mạch và địa bàn có ý nghĩa chiến lược trọng yếu. Trên miền Bắc, các quân
đoàn, binh đoàn chủ lực lần lượt ra đời. Đường Trường Sơn - tuyến vận tải chiến lược chi viện cho chiến
trường miền Nam được tiếp tục phát triển, áp sát các chiến trường Tây Nguyên, Đông Nam Bộ
Trên cơ sở của Nghị quyết 21 BCHTƯ (khóa III), và trước sự chuyển biến của tình hình, từ ngày 30-9 đến
8-10-1974, Bộ Chính trị đã họp để bàn về chủ trương giải phóng miền Nam. Và từ ngày 18-12-1974 đến 8-
1-1975, Bộ Chính trị tiếp tục họp để bổ sung, hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm
1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh, trong quá trình thực hiện kế hoạch hai năm 1975-1976, chúng ta cần
phải tranh thủ thời cơ, nếu có thời cơ vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay
trong năm 1975. Chính nhờ có phương án thứ 2 này mà quân và dân ta đã chủ động tạo ra và chớp lấy thời
cơ hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ngay trong năm
1975.
- Trong những năm 1970 – 1971 Đảng đã chỉ đạo cách mạng miền Nam tiếp tục giữ vững và phát triển lực
lượng, từng bước đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa và Đông Dương hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Mùa
xuân năm 1972 Đảng chỉ đạo cuộc tiến công chiến lược vào Thành cổ Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông
Nam Bộ để buộc địch phải chấm dứt chiến tranh, thương lượng ở thế thua.
23
- Trước tình hình đó đế quốc Mỹ đã điên cuông đối phó bằng cách “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở
miền Nam, mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai bằng những thủ đoạn chiến tranh hủy diệt tàn
bạo nhất, song cũng không cứu vãn nổi tình hình. Ngày 27/1/1973, Mỹ đã phải ký kết Hiệp định Pari chấm
dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút quân về nước.
- Mặc dù bị thất bại nặng nề, phải ký vào Hiệp định Pari chấp nhận rút quân về nước, nhưng đế quốc Mỹ
vẫn ngoan cố không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, tiếp tục tiến hành chiến tranh để áp đặt chủ
nghĩa thực dân kiểu mới và chia rẻ lâu dài đất nước ta. Ngay sau khi Hiệp định Pari được kí kết, dươi sự chỉ

đạo của Mỹ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ngang ngược phá hoại Hiệp định, liên tiếp mở các cuộc hành
quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
- Sau Hiệp định Pari, Đảng đã chủ trương giữ vững thời cơ, nắm vững chiến lược tiến công, phát triển lực
lượng, tiến tới giải phóng miền Nam. Nhận thấy thế và lực của ta đã hơn địch, ta có thời cơ chiến lược để
giải phóng miền Nam. Hội nghị Bộ chính trị tháng 1/1975 đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất
tổ quốc theo kế hoạch hai năm 1975 – 1976. Nếu thời cơ thuận lợi đến thì quyết tâm giải phóng miền Nam
trong năm 1975.
- Đảng đã chỉ đạo chọn Tây Nguyên làm chiến trường trọng điểm và mở màn chiến dịch Tây Nguyên bằng
cuộc tấn công thị xã Buôn Ma Thuột ( 10/3/1975), giải phóng Tây Nguyên. Tiếp đến mở chiến dịch Huế –
Đà Nẵng, giải phóng Huế ( 25/3/1975) và Đà Nẵng ( 29/3/1975). Ngày 31/3/1975 Bộ chính trị quyết định
giải phóng Sài Gòn trước tháng 5/1975, chỉ đạo tập trung mọi lực lượng cho trân quyết chiến cuối cùng này.
Ngày 9/4/1975 chiến dịch giải phóng Sài Gòn được mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức mở màn,
đến trưa ngày 30/4/1975 kết thúc thắng lợi. Đến ngày 2/5/1975 miền Nam Việt Nam hoàn toàn được giải
phóng. Tổ quốc ta đã hoàn toàn thống nhất, Bắc – Nam sum họp một nhà, Non sông thu về một mối.
→ Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở miền Nam từ tháng 7/1954 đến tháng
4/1975 trên cơ sở phương hướng chiến lược, đường lối chung đúng đắn, Đảng ta đã nếu cao quyết tâm hành
động, tìm tòi sáng tạo trong phương pháp cách mạng, chỉ đạo linh hoạt cuộc cách mạng miền Nam, đánh
thắng địch từng bước, làm thất bại từng chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, cuối cùng thực
hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 giành thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam
thống nhất đất nước.
4.Ý nghĩa lịch sử của sự thắng lợi của đường lối cách mạng miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước(1954 -1975) là một trong những thắng lợi vĩ đại
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi đó đã chấm dứt
117 năm chống lại các thế lực thực dân , đế quốc xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, kết
thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự
nghiệp thống nhất Tổ quốc.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước khẳng định tính đúng đắn, khoa học và sáng tạo của
đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lí luận Mác- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Đó là đường lối
kháng chiến độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự thực hiện hóa của sợi chỉ đỏ: kết hợp mục
tiêu độc lập dân tộc với CNXH tạo nên xung lực cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Lý luận cách mạng sáng

tạo, đường lối đúng đắn đã trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp yếu
tố trong nước với quốc tế, bạn bè,phối hợp nhịp nhàng sức mạnh của hai miền Nam –Bắc để đi tới thắng lợi
cuối cùng.
-Chính sức mạnh của CNXH, sức mạnh của chính nghĩa, sức mạnh của các dân tộc đang đấu tranh cho hòa
bình, độc lập, đã góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
-Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước đã mở ra một thời kì mới cho dân tộc Việt Nam, thời
kì cả nước thống nhất đi lên CNXH. Việt Nam trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào đấu tranh vì độc
lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội.
Câu 6: Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc và vai trò của miền Bắc XHCN đối với
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
a/Đặc điểm miền Bắc vào thời kì quá độ lên CNXH
*thuận lợi
24
-Được sự giúp đỡ của các nước XHCN như Liên Xô, Trung Quốc giúp cho máy móc, trang thiết bị, kĩ
thuật; đào tạo đội ngũ cán bộ để xây dựng nguồn nhân lực . Cử chuyên gia sang, viện trợ về vốn cơ chế quản
lí ,mô hình CNXH
-Miền bắc được hòa bình, giải phóng
*khó khăn xuất phát điểm rất thấp,lạc hậu ,kém phát triển
-về kinh tế XH: NN chủ yếu sản xuất nhỏ, ruộng đất chia nhỏ lẻ tẻ, tư dy của nông dân hạn chế; ruộng đất
bị bỏ hoang do chiến tranh tàn phá, phương tiện sản xuất NN quá thô sơ. Ngành CN mất cân đối, cơ sở sản
xuất rất nhỏ, thương mại bị chia cắt kém phát triển. trình độ dân trí thấp, trình độ cán bộ còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu mới của CM, thương mại bị chia cắt ko thống nhất kém phát triển
+nguồn lực con người lđ: trình độ dân trí còn thấp,chỉ bt đọc bt viết và tiểu học,trình độ cán bộ còn rất hạn
chế,chưa đáp ứng dc y/c mới của xhcn(những giáo dân mb di cư vào nam mất đi nguồn nhân lực lđ)
+Mô hình, con đường đi lên CNXH chưa rõ, vừa xây dựng vừa tìm tòi,học hỏi mô hình của lx và tq. Bị các
thế lực thù địch phản động chống phá.
b.đường lối cmchcn ở mb
Đại hội đã thảo luận và đánh giá cách mạng hai miền đang có những bước tiến quan trọng. Từ nhận định
đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ chiến lược của cách mạng cả nước và nhiệm vụ của từng miền; chỉ rõ vị trí, vai
trò của cách mạng từng miền và mối quan hệ giữa cách mạng hai miền

[2]
.
Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc:Sau khi hòan thành việc khắc phục hậu quả do cuộcKháng chiến chống
Pháp để lại và thực hiện những nhiệm vụ bước đầu của chính quyền dân chủ nhân dân theo kinh nghiệm
của Liên Xô vàĐông Âu sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội quyết định sẽ đưa miền Bắc đi lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa đồng thời đưa ra nhận định công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc sẽ có
vai trò quyết định nhất với sự phát triển của toàn bộ cách mạng VN và với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Đại hội khẳng định đứa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắ lênchủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng miền Nam :Do Pháp không thực hiện Tổng tuyển cử theo Hiệp định Geneva
1954 và việc vận động thực hiện hiệp định bị chính quyền Diệm đàn áp do sợ thất bại nên Việt Nam chưa
thống nhất được
[3]
. Đại hội do đó đã quyết định sẽ tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam và nhận định cuộc cách mạng này có vai trò quyết định trực tiếp với sự nghiệp giái phóng miền Nam.
Quan hệ cách mạng hai miền :Đại hội nhận định cách mạng hai miền có quan hệ mật thiết, gắn bó và tác
động lẫn nhau nhằm hòan thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa
bình thống nhất đất nước.
Kế họach 5 năm lần thứ nhất 1960-1965 :Nhằm thực hiện mục tiêu tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội đề ra Kế họach 5 năm lần thứ nhất 1960-1965, nhiệm vủ chủ yếu của Kế
hoạch này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, lấy phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng, đồng thời ra
sức phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp.
c/ Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc
*Đảng lãnh đạo hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của CMDTDC, khôi phục kinh tế (1954-1957)
dân chủ (1954-1957)
Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã chỉ rõ: công việc trước mắt là ổn định đời sống nhân dân, chống
chính sách cưỡng ép di cư vào Nam của địch, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi nền kinh tế quốc
dân. Trong đó, phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp là vấn đề trọng tâm chủ trương đúng đắn của
Đảng, có ý nghĩa lớn đối với việc cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho công cuộc cải tạo nông nghiệp
và xây dựng mô hình quản lý nông nghiệp phù hợp với tình hình đất nước.
-Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa II (5-1955) nêu rõ chủ trương: để củng

cố miền Bắc, trước hết cần phải hoàn thành cải cách ruộng đất và coi đây là chính sách bất di bất dịch.Tháng
25

×