Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường đào tạo cán bộ lê hồng phong thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.53 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
__________

ĐÀO THỊ HOÀNG LAN

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN
TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG
PHONG
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

- VINH, 2010 1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cán bộ là khâu then chốt, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất
bại của sự nghiệp cách mạng. Đảng ta khẳng định cán bộ là nguyên nhân của
mọi nguyên nhân, vấn đề cán bộ và cơng tác cán bộ có vị trí, vai trị đặc biệt
quan trọng trong cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Mỗi
giai đoạn cách mạng cần có đội ngũ cán bộ phù hợp, đáp ứng yêu cầu và đòi
hỏi của giai đoạn cách mạng ấy. Vấn đề này phụ thuộc và quyết định bởi công
tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ. Do vậy, trong sự nghiệp đổi mới tồn
diện, cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta rất quan tâm đến công
tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Đi đơi với nâng cao dân trí, Đảng cũng hết
sức chú trọng đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ IX xác định tăng nhanh năng lực nội


sinh về khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đào
tạo đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố... Tiêu chí con người Việt
Nam trong giai đoạn mới là: Có bản lĩnh chính trị, có lý tưởng cách mạng, có
khả năng sáng tạo, làm chủ được tri thức hiện đại, quyết tâm xây dựng đất
nước phát triển sánh kịp các cường quốc trên thế giới. Để đáp ứng được các
tiêu chí đó, giáo dục đào tạo phải thực sự đảm đương vai trò lớn lao mà các
nhà giáo và những nhà quản lý giáo dục là những người thực hiện. [2].
Chỉ thị 40 - CT/TW của Ban Bí thư về việc xây dựng nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cũng xác định phát triển
giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người [10]. Thời gian qua, chúng ta xây dựng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đơng đảo, có phẩm chất đạo đức và ý
thức chính trị tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngày càng được nâng
cao. Đội ngũ nhà giáo đã đáp ứng được cơ bản yêu cầu nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng. Tuy nhiên, trước tình hình mới của sự phát triển đội ngũ nhà giáo,
cán bộ quản lý giáo dục cịn có những bất cập hạn chế, chất lượng chun
mơn nghiệp vụ có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi phải tăng cường
xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, một cách toàn diện.

2


Trong quá trình hội nhập quốc tế, vừa hội nhập vừa bảo vệ độc lập chủ
quyền theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần phải thấm nhuần
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ý nghĩa to lớn của sự nghiệp đào tạo
các thế hệ cán bộ cho cách mạng. Ngày nay, giáo dục đang chịu sự tác động
của cải cách giáo dục mang tính quốc tế, thể hiện trong tinh thần mang tính
khuyến nghị của UNESCO, xây dựng nền giáo dục thế kỷ XXI với các mục

tiêu: “Học để biết”, “Học để làm”, “Học để chung sống”, “Học để làm
người”. Mọi người đều có cơ hội “học tập suốt đời”. Trong mơ hình xã hội
học tập điều này tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã chỉ rõ: “Sự học hỏi là
vô cùng, học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời”, một người cách mạng
hoạt động và học tập cho đến phút cuối cùng. Mục tiêu, yêu cầu, nội dung
giáo dục đã có nhiều thay đổi, địi hỏi phẩm chất đạo đức, tư tưởng lối sống,
năng lực nghiệp vụ của nhà giáo rất cao.
Trong giai đoạn đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, từ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, đòi hỏi những cán bộ được đào tạo phải có bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức năng lực phù hợp với yêu cầu cách mạng, bước vào thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong bối cảnh quốc tế có
những diễn biến phức tạp; thuận lợi và khó khăn; thời cơ và thách thức đan
xen; tác động lẫn nhau đang đặt ra những yêu cầu và những đòi hỏi rất cao
cho công tác đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước.
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội là một
trường thuộc hệ thống các trường Chính trị tỉnh, thành phố. Trong hệ thống
giáo dục quốc dân, các trường Chính trị tỉnh, thành phố nói chung và Trường
ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội nói riêng là những cơ sở đào tạo
mang nhiều nét đặc thù, khơng hồn tồn giống như các trường đại học, cao
đẳng hoặc bất cứ một cơ sở đào tạo nào khác trong cả nước. Hơn nữa, do đặc
thù của địa bàn Thủ đơ, trình độ dân trí, trình độ của cán bộ, cơng chức nhìn
chung cao hơn nhiều tỉnh, thành khác trong cả nước; hoạt động của các cơ
quan Đảng, chính quyền, đồn thể của Hà Nội cũng có nhiều điểm khác so
với các tỉnh, thành khác. Vì vậy, yêu cầu về chất lượng của đội ngũ giáo viên
cũng có nhiều điểm khác so với đội ngũ giáo viên của các trường Chính trị
tỉnh, thành phố khác; các trường đại học, cao đẳng, các trường khác thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân.
3



Đội ngũ giáo viên Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội là
bộ phận cấu thành quan trọng trong nguồn nhân lực của Thành phố, thực hiện
nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, cơng chức, có vai trò quan trọng
trong việc tạo ra, phát triển và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công
chức của Thành phố. Muốn nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao năng lực
cho đội ngũ cán bộ, công chức của Thành phố, trước hết đòi hỏi phải nâng cao
chất lượng cho đội ngũ giáo viên. Hiện nay, đội ngũ giáo viên của Trường
ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội cịn nhiều bất cập như: cơ cấu, qui
mơ đội ngũ giáo viên cịn bất hợp lý, năng lực, trình độ chuyên môn về giảng
dạy và nghiên cứu khoa học cịn nhiều hạn chế..., nhìn chung chưa đáp ứng
kịp với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, u cầu của cơng cuộc
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Thủ đô trong giai đoạn
hiện nay cũng như trong một tương lai gần ( từ 2010 - 2015 ). Điều đó làm
ảnh hưởng khơng nhỏ đến chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cho Thành phố.
Từ thực tế trên, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng cho đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức của Hà Nội trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế là một việc làm cấp thiết.
Với mục đích nâng cao chất lượng, xây dựng đội ngũ giáo viên của
Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội, đáp ứng kịp thời với yêu
cầu xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của Thủ đơ trong
giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tôi lựa chọn đề tài
nghiên cứu: “ Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội ”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường ĐTCB Lê Hồng
Phong Thành phố Hà Nội.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu: Chất lượng đội ngũ giáo viên Trường ĐTCB
Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Trường
ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
4


4. Giả thuyết khoa học:
Bằng việc đề xuất được các giải pháp quản lý có cơ sở khoa học và có
tính khả thi thì sẽ nâng cao được chất lượng đội ngũ giáo viên Trường ĐTCB
Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề quản lý chất lượng đội ngũ giáo
viên Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý chất lượng đội ngũ giáo
viên Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
- Khảo sát tính khả thi của các giải pháp đề xuất.
6. Phương pháp nghiên cứu:
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra.
- Lấy ý kiến chuyên gia.
6.3. Phương pháp thống kê tốn học:
Sử dụng cơng thức tốn học trung bình cộng.

7. Những đóng góp chính của đề tài:
- Hệ thống cơ sở lý luận về chất lượng của đội ngũ giáo viên (đặc biệt là
giáo viên giảng dạy về lý luận chính trị và quản lý hành chính nhà nước) với
đối tượng người học chủ yếu là cán bộ, công chức. Từ đó có một cách nhìn
tổng quan hơn về quan điểm của Đảng về đội ngũ giáo viên.
- Đánh giá thực trạng chất lượng của đội ngũ giáo viên Trường ĐTCB
Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội. Từ đấy rút ra được những nguyên nhân
tồn tại về chất lượng của đội ngũ giáo viên Trường ĐTCB Lê Hồng Phong
Thành phố Hà Nội. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
của Trường ĐTCB Lê Hồng Phong về giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Đề ra các giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo,
bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, hiện đại cho
5


Thành phố Hà Nội trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
- Vận dụng các giải pháp quản lý vào thực tiễn của Trường ĐTCB Lê
Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
8. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, mục lục, danh mục các ký
hiệu viết tắt, tài liệu tham khảo, phụ lục nghiên cứu, luận văn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài.
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.2. Một số khái niệm được sử dụng trong nghiên cứu đề tài
1.3. Chất lượng đội ngũ giáo viên
1.4. Tầm quan trọng của việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên
Chương 2. Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên Trường Đào tạo cán

bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
2.1. Khái quát một số nét về đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội
Thành phố Hà Nội và yêu cầu về đội ngũ cán bộ chính trị của Thành
phố
2.2. Q trình hình thành và phát triển Trường Đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong Thành phố Hà Nội
2.3. Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên Trường Đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong Thành phố Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội.
3.1. Những cơ sở pháp lý và quan điểm xây dựng các giải pháp
3.2. Những mục tiêu cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên
3.3. Một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội
3.4. Tổ chức thực hiện các giải pháp
3.5. Khảo sát ý kiến về tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước
Hệ thống các trường Chính trị tỉnh, thành phố là một hệ thống đào tạo
mang nhiều tính đặc thù. Sự ra đời và nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống các
trường này xuất phát từ yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, cơng chức

cho hệ thống chính trị cấp cơ sở. Hệ thống chính trị của Việt Nam có nhiều
điểm khác biệt so với hệ thống chính trị của các quốc gia khác trên thế giới.
Thêm vào đó, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, có trình độ phát triển
thấp, điều kiện kinh tế - xã hội nghèo nàn, lạc hậu hơn nhiều các quốc gia
khác trong khu vực và trên thế giới. Tổ chức, hoạt động của bộ máy các cơ
quan, tổ chức của Nhà nước còn chưa theo kịp với sự phát triển của kinh tế xã hội. Cơ cấu, qui mơ, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, cơng chức nói
chung cịn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ, cơng
chức của nước ta cũng có nhiều vấn đề bất cập, lạc hậu hơn so với nhiều quốc
gia khác trong khu vực và trên thế giới. Điều đó dẫn đến, trong hệ thống các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, công tác xây dựng, phát triển đội
ngũ giáo viên cũng có nhiều vấn đề bất cập, năng lực của đội ngũ giáo viên
nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một
cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về vấn đề năng
lực và nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên các trường Chính trị tỉnh,
thành phố nói chung và đội ngũ giáo viên của Trường Đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong Thành phố Hà Nội nói riêng.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Hiện nay, để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà
nước ta rất chú trọng việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Coi phát triển
nguồn nhân lực là một trong những vấn đề mấu chốt mang tính quyết định đến
q trình phát triển của quốc gia. Một số cơ sở đào tạo, bộ, ngành, uỷ ban nhân
nhân các cấp đã triển khai một số nghiên cứu về nâng cao chất lượng, năng lực
7


đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung hoặc đội ngũ cán bộ, cơng chức của
ngành mình, cấp mình. Trong những năm gần đây, một số dự án nước ngoài

phối hợp với Bộ Nội vụ, Học viện Hành chính Quốc gia có thực hiện một số
chương trình về nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên giảng dạy về quản lý
hành chính nhà nước (như Dự án SIDA Thuỵ Điển năm 2000, Dự án DANIDA
của Chính phủ Đan Mạch năm 2005...). Tuy nhiên, các chương trình này chủ
yếu dành cho các giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia, sự tham gia
của giáo viên các trường Chính trị tỉnh, thành phố rất hạn chế, hơn nữa các
chương trình này chủ yếu bước đầu thực hiện huấn luyện về phương pháp
giảng dạy hành chính hiện đại mà khơng thực hiện nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện về vấn đề năng lực và nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên nói chung,
giáo viên của các trường Chính trị tỉnh, thành phố, Trường ĐTCB Lê Hồng
Phong Thành phố Hà Nội nói riêng.
Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội là một cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho Thành phố, với 60 năm xây dựng và
trưởng thành. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được Thành phố giao, đội
ngũ giáo viên của Nhà trường có nhiều điểm khác biệt so với đội ngũ cán bộ,
công chức của các sở, ngành; của các trường đại học, cao đẳng và các cơ sở
đào tạo khác trên địa bàn Thành phố (về qui mô, cơ cấu, lĩnh vực chuyên mơn
đào tạo mang tính chất đặc thù...). Điều đó dẫn đến vấn đề nâng cao chất
lượng cho đội ngũ giáo viên của Nhà trường tất yếu có nhiều điểm khác biệt
so với vấn đề nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc các
sở, ngành, uỷ ban nhân dân của Thành phố; của đội ngũ giảng viên các trường
đại học, cao đẳng, các cơ sở đào tạo khác. Tuy vậy, cho đến nay Thành phố
Hà Nội cũng chưa có một nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu, tồn diện,
có hệ thống về vấn đề này.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.2.1. Khái niệm về giáo viên
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Giáo viên được hiểu là những người
dạy học ở các nhà trường, các cơ sở giáo dục hoặc tương đương" [45] để chỉ
những người dạy học ở các cấp, bậc học.

Luật Giáo dục nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành
năm 1997 đã đưa ra định nghĩa về pháp lý đầy đủ về nhà giáo và những tiêu
chuẩn của một nhà giáo [31]. Luật Giáo dục nước CHXHCN Việt Nam ban
8


hành năm 2005 đã rất chú trọng đến vai trò, vị trí của nhà giáo. Nhà giáo có
nghĩa là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong các nhà trường và cơ
sở giáo dục khác [32].
Để chỉ những người làm công tác dạy học ở các trường, các cơ sở giáo
dục ( gồm giáo viên, giảng viên ). Luật Giáo dục quy định gọi chung là Nhà giáo.
“ Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
+ Phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt;
+ Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
+ Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp;
+ Lý lịch bản thân rõ ràng ”. [32]
Nhiệm vụ của nhà giáo:
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy
đủ và có chất lượng chương trình giáo dục.
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của Pháp luật
và điều lệ của Nhà trường.
- Giữ gìn phảm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; Tơn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích
chính đáng của người học.
- Không ngừng học tập rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức trình
độ chính trị, chun mơn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu
gương tốt cho người học.
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của Pháp luật.
1.2.2. Khái niệm về đội ngũ, đội ngũ giáo viên
1.2.2.1. Về đội ngũ

Từ điển Bách khoa Việt Nam đã định nghĩa: "Đội ngũ là khối đông
người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một
lực lượng" [44].
"Đội ngũ là tập hợp gồm một số đông người cùng chức năng, nhiệm vụ
hoặc nghề nghiệp hợp thành lực lượng trong hoạt động trong hệ thống (tổ
chức)" [5].
1.2.2.2.Về đội ngũ giáo viên
"Đội ngũ giáo viên là những chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, họ
nắm vững tri thức, hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào và có khả năng
cống hiến sức lực, tồn bộ tài năng của họ đối với giáo dục" [16].
9


"Đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục là một tập thể người, bao gồm cán
bộ quản lý, giáo viên và nhân viên nếu chỉ để ý đến đặc điểm của ngành thì đội
ngũ đó chủ yếu là đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý giáo dục" [16].
Từ những quan niệm nêu trên của các tác giả, ta có thể hiểu đội ngũ
giáo viên như sau:
Đội ngũ giáo viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học - giáo
dục, được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ, có đầy đủ
các tiêu chuẩn của một nhà giáo cùng thực hiện các nhiệm vụ và được định hướng
các quyền lợi theo Luật Giáo dục và các Luật khác được Nhà nước quy định.
1.2.3. Khái niệm về quản lý, quản lý nguồn nhân lực, quản lý đội
ngũ giáo viên
1.2.3.1. Khái niệm quản lý
Khái niệm quản lý xuất hiện đã từ lâu và ngày càng hoàn thiện cùng
với sự phát triển của lịch sử xã hội lồi người. Có nhiều quan niệm khác nhau
về quản lý, sau đây là một số quan niệm chủ yếu:
Theo Đại Bách khoa tồn thư Liên Xơ (cũ) thì Quản lý là chức năng
của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ

thuật), nó bảo tồn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động,
thực hiện những chương trình mục đích hoạt động.
Theo nhà giáo Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là những tác động có
định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ
chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định". [40]
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng
các hoạt động kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo ( lãnh đạo ) và kiểm tra.
Ta có thể hiểu quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, phát triển phù hợp với
quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và đúng ý chí của người quản lý.
Như vậy quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của
chủ thể ( người hoặc tổ chức quản lý ) lên khách thể ( đối tượng quản lý ) về
các mặt chính trị, kinh tế văn hố, xã hội…bằng hệ thống các luật lệ, các
chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm
tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng

10


quản lý có thể trên quy mơ tồn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể
là con người cụ thể, sự vật cụ thể.
1.2.3.2. Quản lý nguồn nhân lực
Quản lý nguồn nhân lực là một trong những chức năng quản lý của
người quản lý, thể hiện trong việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và phát
triển các thành viên của tổ chức. Quản lý nguồn nhân lực là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm tạo ra nguồn lực con người theo
yêu cầu phát triển của xã hội.
1.2.3.3. Quản lý đội ngũ giáo viên

Trong giáo dục đào tạo quản lý nguồn nhân lực đồng nghĩa với quản lý
đội ngũ giáo viên vì vậy việc xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên nhằm đáp
ứng về chất lượng mà xã hội yêu cầu là nhiệm vụ trọng tâm của quản lý
nguồn nhân lực.
Quá trình quản lý nguồn nhân lực, quản lý đội ngũ giáo viên cũng phải
thực hiện các nội dung như: Kế hoạch hóa đội ngũ giáo viên, tuyển dụng, lựa
chọn giáo viên, định hướng, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt, thuyên
chuyển…
Quản lý đội ngũ giáo viên chúng ta cần phải chú ý một số yêu cầu
chính sau đây:
- Trước hết phải giúp cho đội ngũ giáo viên phát huy được vai trò chủ
động, sáng tạo, khai thác ở mức cao nhất năng lực, tiềm năng của đội ngũ để
họ có thể cống hiến được nhiều nhất cho việc thực hiện mục tiêu giáo dục đào
tạo đề ra.
- Nhằm hướng giáo viên vào phục vụ những lợi ích của tổ chức, cộng
đồng và xã hội. Đồng thời phải đảm bảo thoả đáng lợi ích vật chất, tinh thần
cho giáo viên.
- Nhằm đáp ứng mục tiêu trước mắt và mục tiêu phát triển lâu dài của
tổ chức, đồng thời phải được thực hiện theo quy chế, quy định thống nhất trên
cơ sở luật pháp của nhà nước.
1.2.4. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại
Trong xu thế hội nhập hiện nay, với xu thế học suốt đời của mỗi một
giáo viên thì quá trình đào tạo, bồi dưỡng, đào tạo lại có ý nghĩa rất quan
trọng. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học - cơng nghệ thì kiến thức
của con người phải được cập nhật thường xuyên. Vì vậy công tác đào tạo, bồi
11


dưỡng được xác định là nhiệm vụ trọng tâm cần phải tiến hành thường xuyên,
liên tục.

1.2.4.1. Khái niệm đào tạo
Đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho người đó
lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống
nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận
một sự phân công nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội
duy trì và phát triển nền văn minh lồi người.
"Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn
nhất định" [45]. Đào tạo là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương
pháp những kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và
chuẩn bị toàn thể cho người học đi vào cuộc sống tự lập, góp phần xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Như vậy có thể hiểu đào tạo là quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp, giáo dục phẩm chất đạo đức, thái độ cho người học để có thể trở
thành người lao động có kỹ thuật, kỷ luật, có năng suất và hiệu quả. Đào tạo
là chức năng quan trọng, thuộc quá trình cơ bản của giáo dục.
1.2.4.2. Bồi dưỡng
UNESCO cho rằng bồi dưỡng với ý nghĩa nâng cao nghề nghiệp. Quá
trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức
hoặc kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao
động nghề nghiệp.
Theo Từ điển Tiếng Việt "Bồi dưỡng là tăng thêm năng lực, hoặc phẩm
chất" [45].
Theo GS.TS Nguyễn Minh Đường: "Bồi dưỡng có thể coi là q trình
cập nhật kiến thức hoặc kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học,
bậc học và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ" [16].
Bồi dưỡng: Theo nghĩa rộng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình
thành nhân cách và phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục
đích đã chọn; theo đánh giá hẹp là: trang bị thêm những kiến thức, kỹ năng
nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực

cụ thể.
Từ các khái niệm trên ta có thể hiểu bồi dưỡng giáo viên là quá trình
tác động tới tập thể, cá nhân, giáo viên, tạo cơ hội cho giáo viên tham gia vào
12


các hoạt động dạy học, giáo dục, học tập trong và ngồi nhà trường, để họ có
thể cập nhật, bổ sung kiến thức kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ nhằm nâng
cao phẩm chất và năng lực sư phạm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp giáo dục đào tạo.
1.2.4.3. Đào tạo lại
Khái niệm đào tạo lại mới được hình thành từ những năm cuối thế kỷ XX.
Đào tạo lại là quá trình hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, thái độ mới làm cho người lao động có cơ hội để học tập một
lĩnh vực chun mơn mới, nhằm mục đích cung cấp tri thức mới hoặc thay
đổi công việc, nghề nghiệp.
1.3. CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

1.3.1. Quan niệm về chất lượng nói chung
- Khái niệm chất lượng đội ngũ là một khái niệm rộng. Chất lượng là cái
tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự việc, hiện tượng.
- Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một đối tượng, tạo cho đối
tượng đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn.
- Chất lượng là cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật, làm cho sự vật
này khác sự vật kia.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị
những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương
đối của sự vật, phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan
của sự vật, chất lượng biểu hiện ra bên ngoài, qua các thuộc tính. Nó là cái
liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một, gắn bó với sự vật như một tổng

thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật. Về căn bản chất lượng
của sự vật bao giờ cũng gắn với tính quy định về số lượng của nó và khơng
thể tồn tại ngồi tính quy định ấy. Một sự vật là một thể thống nhất giữa số
lượng và chất lượng. [47].
Không có sự vật nào lại khơng có tính quy định về chất lượng, khơng
có sự tồn tại nào lại thiếu tính quy định về chất lượng. Mỗi vật thể, sự vật
khác nhau đều có tính quy định chất lượng khác nhau.
Chất lượng của các sự vật, hiện tượng được biểu hiện thơng qua các
thuộc tính của nó. Mỗi sự vật bao gồm nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính tham
gia vào việc quy định chất lượng của sự vật không giống nhau. Các thuộc tính
bản chất tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, giữ vai trị quyết định
của sự vật làm cho nó khác với cái khác, nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì sự
13


vật khơng cịn. Các thuộc tính khơng bản chất khơng giữ vai trò như thế, để
thể hiện sự vật.
Như vậy, khái niệm chất lượng phản ánh mặt vô cùng quan trọng của
sự vật, hiện tượng và quá trình của thế giới khách quan.
1.3.2. Vấn đề chất lượng đội ngũ giáo viên
1.3.2.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên
Chất lượng đội ngũ giáo viên được bao hàm nhiều yếu tố: Trình độ
được đào tạo của từng thành viên trong đội ngũ, thâm niên cơng tác trong tổ
chức, nhận thức chính trị, thái độ công dân…
Từ quan niệm về chất lượng đội ngũ đã nêu trên, ta thấy, chất lượng đội
ngũ giáo viên là tồn bộ thuộc tính, những đặc điểm của đội ngũ giáo viên.
Những thuộc tính, cấu trúc này gắn bó với nhau trong một tổng thể thống nhất
tạo nên giá trị và sự tồn tại của đội ngũ, làm cho đội ngũ giáo viên khác với
đội ngũ khác.
Chất lượng đội ngũ giáo viên được thơng qua các thuộc tính bản chất sau:

- Số lượng thành viên trong đội ngũ:
Số lượng đội ngũ giáo viên được xác định trên cơ sở lớp học, số học
sinh và định mức biên chế theo quy định của Nhà nước. Số lượng giáo viên là
một yếu tố định hướng của đội ngũ nó rất quan trọng nhưng chưa nói lên
được điều gì ngồi vấn đề chất lượng, số lượng, còn phải xem xét thấu đáo
đến cơ cấu đội ngũ.
- Cơ cấu đội ngũ gồm:
+ Cơ cấu theo mơn dạy hay cịn gọi là cơ cấu bộ mơn.
+ Cơ cấu theo trình độ đào tạo.
+ Cơ cấu theo độ tuổi.
+ Cơ cấu theo giới tính.
- Phẩm chất của đội ngũ:
Đó là những phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của các thành viên
trong đội ngũ.
- Trình độ của đội ngũ:
Đó là hệ thống tri thức mà mỗi thành viên nên có được, đó là những tri
thức liên quan đến môn học mà giáo viên phụ trách.
- Năng lực của đội ngũ.
Đó là khả năng để thực hiện một hoạt động nào đó, hoặc là phẩm chất,
tâm lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó.
14


Trên đây là 5 yếu tố cơ bản biểu hiện chất lượng của đội ngũ; có thể
biểu diễn theo sơ đồ:
Sơ đồ 1.1: Các yếu tố cơ bản biểu hiện chất lượng của đội ngũ
Phẩm chất

Trình độ


Năng lực

Sở trường

Cơ cấu

1.3.2.2. Nội dung các yếu tố của chất lượng đội ngũ giáo viên
- Số lượng thành viên của đội ngũ giáo viên:
Số lượng là tính quy định của vật thể, nó là khái niệm định tính, chỉ
nói lên đặc điểm của vật thể như dài - ngắn, to - nhỏ, nhiều - ít… Số lượng
cũng là ranh giới của vật thể, vì thế nếu có sự thay đổi số lượng đến một mức
độ nào đó có thể làm bản chất của sự vật thay đổi.
Đội ngũ giáo viên là biểu hiện tổ chức xã hội vì thế số lượng của đội
ngũ giáo viên là biểu thị về mặt định lượng của đội ngũ, nó phản ánh quy mơ
của đội ngũ.
Số lượng đội ngũ giáo viên phụ thuộc vào sự phân chia của tổ chức.
Hàng năm căn cứ kế hoạch phát triển số lớp học ta xác định số lượng giáo
viên cần có cho một nhà trường. Hoặc trên cơ sở số lượng giáo viên hiện có ta
có kế hoạch tuyển sinh cho năm học mới. Đó là cơ sở cho việc lập kế hoạch
đào tạo hàng năm.
Số lượng giáo viên của một trường phụ thuộc vào nhu cầu đào tạo, quy
mô phát triển của nhà trường và các yếu tố khác như: chỉ tiêu biên chế, chế độ
chính sách ...
Muốn nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, người cán bộ quản lý
phải đảm bảo cân bằng về số lượng của đội ngũ với nhu cầu đào tạo, quy mô
phát triển của nhà trường. Nếu phá vỡ hoặc không đảm bảo sự cân bằng sẽ có
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đội ngũ.
- Phẩm chất của đội ngũ giáo viên:
Phẩm chất đội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố quan trọng nhất
quyết định chất lượng đội ngũ giáo viên. Bác Hồ đã dạy người cán bộ cách

mạng vừa phải có đức vừa phải có tài, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì
15


cũng hỏng, có tài mà khơng có đức thì là người vô dụng; cán bộ "vừa hồng,
vừa chuyên". Hồng là đức, là phẩm chất chính trị, chun là chun mơn, là
năng lực.
Phẩm chất của đội ngũ giáo viên là cái tạo ra sức mạnh cho đội ngũ,
trước hết phải thể hiện ở sự thống nhất, giác ngộ cách mạng, giác ngộ XHCN
với lý tưởng nghề nghiệp. Người giáo viên phải thấm nhuần chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm đường lối giáo dục cách
mạng của Đảng và của nhà nước. Phải gắn niềm tin cách mạng với niềm tin
nghề nghiệp, phải yêu nghề, gắn bó với nghề, gắn bó với sự nghiệp trồng người.
Bên cạnh đó người giáo viên phải có tâm hồn trong sáng, tình cảm cao
thượng, có lối sống lành mạnh, giản dị, nhân văn. Phải yêu thương học sinh
như con của mình, thực hiện tốt khẩu hiệu " tất cả vì học sinh thân u ".
Ngồi ra người giáo viên phải có phẩm chất đó là sự thống nhất giữa
tính mục đích và tính kế hoạch trong tổ chức các hoạt động sư phạm; giữa
tính tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm với tính tự chủ, tính ngun tắc,
sáng tạo, lịng vị tha.
Qua đó ta nhận thấy phẩm chất của đội ngũ giáo viên là tổng hợp của
nhiều yếu tố đó là thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan CSCN;
phẩm chất về tư cách đạo đức, phẩm chất về ý chí tạo nên nhân cách của đội
ngũ giáo viên.
- Trình độ đội ngũ giáo viên:
Trình độ được hiểu là mức độ về sự hiểu bản chất, về kỹ năng được xác
định hoặc đánh giá theo một tiêu chuẩn nhất định vào đó. Trình độ của đội
ngũ giáo viên đó là những hệ thống kiến thức liên quan đến mơn học mà
người giáo viên đó đảm nhận giảng dạy. Ngồi ra người giáo viên phải có
những hiểu biết về ngoại ngữ, tin học, phương pháp nghiên cứu khoa học,
những hiểu biết về xã hội. Ngồi kiến thức chun mơn, sự hiểu biết về xã hội và

các kiến thức khác bổ trợ có ảnh hưởng tích cực rất lớn đối với người giáo viên.
Luật Giáo dục 2005 nước CHXHCN Việt Nam quy định chuẩn trình độ
đào tạo của các nhà giáo nói chung là:
+ Có bằng tốt nghiệp Trung cấp Sư phạm đối với giáo viên mầm non,
giáo viên tiểu học.
+ Có bằng tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp Cao
đẳng và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên trung
học cơ sở.
16


+ Có bằng tốt nghiệp Đại học sư phạm hoặc bằng tốt nghiệp Đại học và
có chứng chỉ bồi đưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên THPT.
+ Có bằng tốt nghiệp Trung cấp nghề, Cao đẳng nghề hoặc nghệ nhân,
cơng nhân kỹ thuật có tay nghề cao đối với giáo viên hướng dẫn thực hành ở
cơ sở dạy nghề.
+ Có bằng tốt nghiệp ĐHSP hoặc bằng tốt nghiệp Đại học khác và có
chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm hoặc đối với giáo viên Trung học
chuyên nghiệp.
+ Có bằng tốt nghiệp Đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao đẳng, đại học, bằng thạc sỹ trở lên
đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sỹ, có bằng
tiến sỹ đối với nhà giáo giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận án tiến sỹ . [32]
- Năng lực của đội ngũ giáo viên:
Năng lực được hiểu bao gồm các yếu tố chuyên môn, phẩm chất, tâm
lý, kỹ năng để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả. Kỹ năng được hiểu
là khả năng vận dụng những kiến thức được học được tìm hiểu trong hoạt
động sư phạm và biến nó thành kỹ xảo. Kỹ xảo là khả năng đạt đến mức
thành thục.
Hệ thống kỹ năng gồm có: kỹ năng nền tảng và kỹ năng chuyên biệt.

+ Kỹ năng nền tảng bao gồm những nhóm sau:
. Nhóm kỹ năng thiết kế.
. Nhóm kỹ năng nhận thức
+ Kỹ năng chuyên biệt gồm:
. Nhóm kỹ năng giảng dạy.
. Nhóm kỹ năng giáo dục.
. Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học.
. Nhóm kỹ năng hoạt động xã hội.
. Nhóm kỹ năng tự học, tự nghiên cứu.
Qua đó ta thấy hệ thống trí thức và kỹ năng trong mỗi một giáo viên thể
hiện năng lực sư phạm của người giáo viên đó cùng với tư cách đạo đức,
phẩm chất hợp thành một thể hoàn chỉnh, giúp cho từng giáo viên và đội ngũ
giáo viên có thể hồn thành nhiệm vụ của mình đáp ứng u cầu ngày càng
cao của sự nghiệp giáo dục đào tạo.
- Cơ cấu đội ngũ giáo viên:
Cơ cấu được hiểu: Là cách tổ chức các thành viên nhằm thực hiện chức
năng của chỉnh thể. Cơ cấu của đội ngũ giáo viên là cấu trúc bên trong của đội
17


ngũ, sẽ được nghiên cứu trên các tiêu chí có liên quan đến các giải pháp phát
triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Các tiêu chí cơ bản là:
+ Cơ cấu chuyên môn (theo môn dạy) hay cịn gọi là cơ cấu bộ mơn:
Đó là tình hình về tỷ lệ giáo của các mơn hiện có ở trường, sự thừa thiếu giáo
viên ở mỗi môn học. Cái này phải phù hợp với định mức quy định thì ta có cơ
cấu chun mơn hợp lý. Ngược lại thì phải có sự điều chỉnh, nếu khơng sẽ
ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả đào tạo.
+ Cơ cấu theo trình độ đào tạo: là sự phân chia giáo viên theo tỷ lệ của
các trình độ đào tạo. Đó là tỷ lệ giáo viên có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ, đại học
ở các bộ môn. Xác định cơ cấu trình độ hợp lý cũng là một giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Số giáo viên chưa đạt chuẩn phải được
đào tạo để nâng chuẩn. Tuỳ thuộc vào điều kiện hiện có cụ thể của từng
trường, các trường phải lực chọn phương án tối ưu trong công tác lựa chọn
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
+ Cơ cấu độ tuổi:
Phân tích giáo viên theo độ tuổi, nhằm xác định cơ cấu đội ngũ theo
từng nhóm tuổi, đảm bảo sự cân đối giữa các thế hệ: già, trẻ, trung niên của
đội ngũ để có thể vừa phát huy được tính năng động, sáng tạo của tuổi trẻ,
kinh nghiệm nghề nghiệp của tuổi già.
+ Cơ cấu giới tính:
Cơ cấu giới tính mục đích đảm bảo tỷ lệ giữa giáo viên nam và giáo
viên nữ. Phù hợp với từng ngành nghề đào tạo. Cơ cấu giới tính liên quan đến
chất lượng và hiệu quả đào tạo của nhà trường. Hiện nay chúng ta đang thực
hiện bình đẳng giới, tuy nhiên trên thực tế các trường có tỷ lệ giáo viên nữ
cao thường có bị ảnh hưởng đến kế hoạch đào tạo của nhà trường vì theo chế
độ quy định, người phụ nữ được nghỉ, ngồi ốm đau ra cịn chế độ nghỉ thai
sản, con nhỏ; Thông thường số ngày nghỉ của phụ nữ trong năm cao hơn nam
giới.
Nghiên cứu cơ cấu giới tính trong đội ngũ giáo viên là để có tác động
cần thiết thơng qua quản lý nhân sự để nâng cao chất lượng, hiệu suất công
tác của mỗi một cá nhân và tồn đội ngũ giáo viên.
Tóm lại, chất lượng đội ngũ giáo viên phải hiểu bao gồm những yếu tố
trên, mỗi yếu tố đều có vị trí quan trọng và giữa các yếu tố đó có quan hệ
khăng khít với nhau, có tác động qua lại lẫn nhau, nương tựa nhau hợp thành
một hệ thống hoàn chỉnh làm cho đội ngũ giáo viên phát triển.
18


1.3.3. Quan niệm về nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Tất cả các nước trên thế giới muốn phát triển giáo dục phải đầu tư xây

dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Giáo viên phải là chuyên
gia trong một hoặc nhiều lĩnh vực, đòi hỏi trình độ đào tạo giáo viên ngày
càng cao. Giáo viên phải thường xuyên cập nhật các kiến thức mới, phải tự
học tập rèn luyện để nâng cao trình độ chun mơn, trình độ lý luận và nghiệp
vụ sư phạm.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là làm cho chất lượng đội ngũ
giáo viên ngày càng hoàn thiện hơn. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
thực chất là quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ, làm cho đội ngũ trưởng
thành ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là con đường làm giàu kiến
thức, kỹ năng, thái độ để giáo viên vững vàng về nhân cách nghề nghiệp. Xây
dựng và phát triển đội ngũ có sự cân đối về lực lượng, chất lượng và cơ cấu sẽ
góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giáo dục - đào tạo trong giai đoạn
hiện nay.
1.4. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

1.4.1. Vai trò của giáo dục đào tạo nói chung, đào tạo cán bộ nói
riêng trong sự phát triển kinh tế - xã hội
1.4.1.1 Vai trò của giáo dục trong phát triển kinh tế - xã hội
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, hiện tượng này được biểu
hiện ở chỗ: thế hệ đi trước truyền lại kinh nghiệm xã hội cho thế hệ đi sau; thế
hệ sau lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội đó để tham gia đời sống xã hội,
tham gia lao động sản xuất và các hoạt động xã hội khác. Muốn duy trì và
phát triển xã hội nhất định phải thực hiện chức năng giáo dục của mình. Đó là
chức năng tất yếu, không thể thiếu của xã hội. Sự tiến bộ của xã hội là thế hệ
đi sau phải lĩnh hội được tất cả những kinh nghiệm của xã hội mà các thế hệ
đi trước đã tích luỹ được và truyền lại. Nhờ giáo dục các thế hệ đi sau tiếp tục
duy trì và đẩy mạnh hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động khác, hoàn
thiện và giữ vững các mối quan hệ xã hội tiếp tục truyền lại cho thế hệ sau kế tiếp.

Khơng có họat động giáo dục thì khơng có sự tái sản xuất các hoạt động khác.
Các nhà xã hội học giáo dục coi giáo dục là một quá trình xã hội hoá
liên tục ở tất cả các phương thức sản xuất xã hội, trong các giai đoạn lịch sử
19


phát triển của xã hội lồi người, khơng hồn tồn phụ thuộc vào tính chất, cơ
cấu của xã hội.
Ngày nay, giáo dục được coi là nền móng cho sự phát triển của khoa
học - công nghệ, là động lực của sự phát triển kinh tế. Đảng và Nhà nước ta
luôn đánh giá cao vai trò của giáo dục. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
khẳng định "giáo dục vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước" [14]. Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định "Muốn tiến hành cơng nghiệp hóa - hiện
đại hoá thắng lợi phải phát triển giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con
người yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững"; Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương Đảng khố VIII một lần nữa khẳng
định vai trị của giáo dục: "giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước; phải coi trọng
đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển". [15]
Trước đây một số quan niệm cho rằng khi xét đến các nhân tố của sự
phát triển, người ta quan tâm đến các nguồn lực như tài nguyên, vốn, thì ngày
nay nhân tố con người được đặt lên hàng đầu. Con người là nguồn lực quan
trong nhất trong các nguồn lực của sự phát triển, con người là nguồn lực cơ
bản tạo ra mọi nguồn lực. Con người được giáo dục, có khả năng giải quyết
một cách đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả những vấn đề của sự phát triển kinh
tế xã hội đặt ra.
Con đường cơ bản tạo ra nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội đó chính là giáo dục - đào tạo. Con người được giáo dục

vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Chính vì vậy Đảng ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển.
1.4.1.2. Vai trò của đào tạo cán bộ chính trị trong sự phát triển kinh tế
- xã hội
Đào tạo nghề nghiệp, đào tạo cán bộ là một bộ phận quan trọng hệ thống
giáo dục - đào tạo. Mục tiêu của đào tạo nghề nghiệp được Luật Giáo dục năm
2005 xác định là đào tạo người lao động có kiến thức, có kỹ năng nghề nghiệp
ở các trình độ khác nhau, có đạo đức lương tâm nghề nghiệp, có ý thức tổ chức
kỷ luật, tác phong lao động cơng nghiệp, có đủ sức khoẻ, tạo cho người lao
động có việc làm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. [32]
20


Đào tạo nghề nghiệp là một công việc không dễ dàng, đào tạo cán bộ
đặc biệt là cán bộ quản lý các cấp của Đảng và chính quyền càng khó khăn.
Người cán bộ quản lý nói chung phải được đào tạo chun mơn ở các nhà
trường, qua q trình cơng tác được bồi dưỡng, tu dưỡng rèn luyện, có phẩm
chất tham gia công tác quản lý mới được quy hoạch đào tạo. Theo quan điểm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ cách mạng không chỉ là cầu nối giữa
nhân dân với Đảng, với nhà nước, cán bộ vừa phải là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phong trào cách mạng quần
chúng chỉ dành thắng lợi khi có đường lối đúng đắn, được tổ chức chặt chẽ,
đặc biệt phải lựa chọn đào tạo ra những người lãnh đạo tương xứng. Có cán
bộ tốt mới có phong trào tốt. Bác đã từng căn dặn: " Huấn luyện cán bộ là
công việc của Đảng " [26]. Do đó đào tạo đội ngũ cán bộ là yêu cầu quan
trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Đào tạo cán bộ trước hết cần tập
trung về những kiến thức về lý luận chính trị, lãnh đạo, quản lý khoa học xã
hội và những kiến thức chuyên môn phù hợp với công việc được giao. Giúp
cho cán bộ có năng lực trình độ nhất định để phân tích, luận giải những vấn

đề về chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng viên cơ sở đó vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn của địa phương, của đơn vị, của lĩnh vực mà cá nhân
được phân công phụ trách. Đồng thời thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp cán
bộ có khả năng phân tích, xử lý các tình huống, hình thành phương pháp luận,
nhận thức khoa học và giải quyết các vấn đề nhanh nhạy và hiệu quả.
Để thực hiện tốt công tác cán bộ phải rà sốt, đánh giá trình độ cán bộ
các cấp đặc biệt là cán bộ chủ chốt về trình độ chun mơn, lý luận chính trị,
hình thành đào tạo, năng lực cơng tác để có kế hoạch đào tạo cho cơng tác
quy hoạch cán bộ. Việc đào tạo cán bộ phải cân đối giữa các vùng, các ngành,
các lĩnh vực, phải có tầm nhìn để đón đầu giai đoạn phát triển của địa
phương, đơn vị. Phải đào tạo, đào tạo lại một số cán bộ đương nhiệm, đồng
thời phải đào tạo số cán bộ diện quy hoạch.
Vì vậy cơng tác đào tạo cán bộ có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.4.1.3. Vai trị của giáo viên trong cơng tác đào tạo cán bộ
Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục nước ta hiện nay là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Đội ngũ giáo viên là nhân tố quan
trọng và chủ yếu nhất quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo vai trò chủ đạo
trong quá trình giáo dục đào tạo ở các nhà trường, các sở giáo dục. Điều 14
21


Luật Giáo dục 2005 đã chỉ rõ : “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc
đảm bảo chất lượng giáo dục”. [32]
Đội ngũ giáo viên là người trực tiếp thực hiện các mục tiêu chiến lược
của các trường, các cơ sở đào tạo. Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định
chất lượng giáo dục. Đảng và Nhà nước ta coi trọng đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp giáo dục, là chiến
sỹ trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, có trách nhiệm truyền bá cho thế hệ trẻ lý
tưởng và đạo đức cách mạng của giai cấp cơng nhân, tinh hoa văn hố của

dân tộc và nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và
vẻ vang về nếu khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục và Bác đã xác định
nhiệm vụ của các thầy giáo và cô giáo rất vẻ vang. [25]
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang bước vào thời kỳ phát triển
theo hướng cơng nghiệp hố - hiện đại hố. Mục tiêu đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp, ngành giáo dục đang đứng trước
những cơ hội và thách thức. Đội ngũ giáo viên là nhân vật trung tâm, đóng vai
trị chủ đạo trong việc tổ chức, lãnh đạo quá trình hình thành nhân cách con
người. Đảng khẳng định giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục
và được xã hội tôn vinh đồng thời xác định khâu then chốt để thực hiện chiến
lược phát triển giáo dục, đặc biệt phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hoá
đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục về chính trị, tư tưởng,
đạo đức và năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Luật Giáo dục khẳng định vai trò
của nhà giáo là: "nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất
lượng giáo dục. Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện và nêu gương
tốt cho người học. Nhà nước ta tổ chức bồi dưỡng nhà giáo, có chính sách
đảm bảo các điều kiện cần thiết về vật chất, tinh thần để nhà giáo thực hiện
nhiệm vụ của mình, giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn
vinh nghề dạy học".[32].
Đánh giá về vai trò của nhà giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Có gì vẻ
vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản. Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng
là thầy giáo vẻ vang nhất, dù tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng
huân chương song người thầy giáo tốt là người anh hùng vô danh" [25].

22


1.4.2. Tầm quan trọng của việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng

đội ngũ giáo viên
Chất lượng đội ngũ giáo viên tác động trực tiếp đến chất lượng giáo
dục đào tạo. Trong sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo của đất nước, khâu
then chốt là đội ngũ giáo viên và các nhà quản lý giáo dục. Muốn đào tạo
được nhiều nhân tài cho đất nước thì phải có các nhà giáo giỏi. Muốn trị giỏi
thì thầy phải giỏi. Giáo viên tốt thì ảnh hưởng tốt, giáo viên xấu thì ảnh hưởng
xấu vì vậy ngành giáo dục - đào tạo phải coi việc xây dựng và phát triển đội
ngũ giáo viên giỏi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi
mới và phát triển giáo dục.
Trong quá trình phát triển giáo dục đào tạo của đất nước, đội ngũ giáo
viên ở các cấp học, ngành học tuy ngày càng lớn mạnh cả về số lượng, chất
lượng, hình thức đào tạo được thay đổi theo phương thức đa dạng hố; quy
mơ đào tạo ngày càng được mở rộng. Nhưng so với yêu cầu phát triển thì đội
ngũ giáo viên ở hầu hết các bậc học, ngành học còn thiếu và đặc biệt là thiếu
giáo viên có trình độ cao và các chuyên gia đầu ngành về giáo dục.
Lĩnh vực đào tạo nghề nghiệp số lượng giáo viên có tăng nhưng không
đáng kể. Hiện nay ở các trường trung cấp chuyên nghiệp, trường dạy nghề
giáo viên trình độ chuyên mơn cịn thấp; một số trường đại học mới thành lập
đội ngũ giáo viên có trình độ đang rất thiếu. Hệ thống giáo viên các trường
Đảng mang tính đặc thù riêng, ngồi vấn đề được đào tạo về chun mơn,
nghiệp vụ phải được đào tạo qua Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, cho nên đội ngũ chuyên gia giỏi ở các trường này còn thiếu
nhiều. Người giáo viên ở các trường Chính trị phải là người có trình độ
chun mơn cao, am hiểu về xã hội, có kiến thức thực tiễn. Bên cạnh giảng
dạy phần lý luận cho học viên, giáo viên phải có kinh nghiệm thực tiễn để liên
hệ truyền thụ cho học viên, để học viên nên có những kinh nghiệm giải quyết,
xử lý những vấn đề xảy ra ở cơ sở.
Ta thấy rằng, giáo viên có một vị trí hết sức quan trọng trong việc đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, đưa đất nước phát triển ngang tầm các cường quốc trên thế giới. Chúng

ta phải "đi tắt, đón đầu" để đuổi kịp các nước tiên tiến. Một trong những biện
pháp để phát triển giáo dục - đào tạo là xây dựng các biện pháp quản lý để
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên hệ thống trường
Chính trị nói riêng.
23


Tóm lại, cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Trường ĐTCB Lê Hồng Phong Thành phố Hà Nội phải dựa trên định hướng
chiến lược phát triển giáo dục đào tạo 2001 - 2010 và những năm tiếp theo;
Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Nghị quyết Trung
ương 3 khoá VII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hố hiện đại hóa đất nước; Pháp lệnh Thủ đơ Hà Nội...
Trên đây là cơ sở lý luận của việc tìm các giải pháp quản lý nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Những giải pháp cụ thể còn được xác định
qua cơ sở nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên.

24


Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƯỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ
HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ YÊU CẦU VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH TRỊ CỦA
THÀNH PHỐ

2.1.1. Đặc điểm lịch sử, vị trí kinh tế - xã hội của Thủ đơ ảnh hưởng
đến sự hình thành, phát trin ngun nhõn lc và đội ngũ cán bộ, công

chức
Ngy 29/5/2008, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã thông qua nghị quyết mở rộng địa giới hành chính Thủ đơ Hà Nội, hợp
nhất Tỉnh Hà Tây, 4 huyện của Tỉnh Hịa Bình và huyện Mê Linh của Tỉnh
Vĩnh Phúc về Hà Nội. Theo kết quả Tổng điều tra dân số ngày 01/4/2009, dân
số Hà Nội là 6.448.837 người và rộng 3.344,47 km2. Thủ đô Hà Nội đã trở
thành một trong 17 Thủ đơ có diện tích lớn nhất thế giới. Thành phố Hà Nội
có 29 đơn vị hành chính, bao gồm: 11 quận và 18 huyện với 577 xã, phường,
thị trấn.
Hà Nội là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - khoa học kỹ thuật, là
đầu mối giao lưu kinh tế của cả nước, là nơi hội tụ các cơ quan lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước, các tổ chức nghiên cứu khoa học và đào tạo đầu đàn. Hiện
nay, ở Hà Nội có 79 trường đại học và cao đẳng, 34 trường trung học chuyên
nghiệp, 41 trường dạy nghề, 112 viện nghiên cứu chun ngành, ngồi ra cịn
có các tổ chức quốc tế, các cơng ty nước ngồi hoạt động trong các ngành
cơng nghiệp tiên tiến, mũi nhọn... Đây chính là yếu tố ảnh hưởng lớn và trực
tiếp đến chất lượng nguồn lao động, đến việc phân bổ, sử dụng lao động trên
địa bàn Hà Nội, tạo điều kiện cho Hà Nội có cơ hội hồ nhập vào q trình
phát triển năng động của các nước trong khu vực và trở thành động lực phát
triển của cả nước.
Với vị trí là Thủ đơ của cả nước, Hà Nội có điều kiện thuận lợi trong
giao lưu và hợp tác quốc tế, nhanh chóng được tiếp cận với những thành tựu
khoa học kỹ thuật và tinh hoa văn hoá của thế giới, đây là cơ hội lớn cho
người lao động Thủ đô tiếp thu và bắt kịp với trình độ quản lý và sử dụng các
công nghệ hiện đại của thế giới.

25



×