Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng lao động ở công ty tư vấn đầu tư và xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.7 KB, 90 trang )


1

Lời nói đầu
Lao động là nguồn gốc tạo ra mọi của cải vật chất, văn hoá tinh
thần, là một trong ba yếu tố không thể thiếu được của bất kì quá trình
sản xuất nào, nó là yếu tố năng động và cách mạng nhất quyết định
quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội nói chung và của doanh
nghiệp nói riêng.
Trong hoạt động kinh tế, người ta thấy có một sự chuyển từ những
thông số vật chất bên ngoài con người sang những vấn đề bên trong
con người liên quan đến những hiểu biết và hoạt động sáng tạo của
con người: không ngừng nâng cao chất lượng sức lao động; những
hình thức sử dụng linh hoạt "nguồn lực tiềm năng" của con người; kết
hợp sự nỗ lực chung của tập thể quần chúng công nhân; quan tâm đến
các yếu tố văn minh thẩm mỹ của sản xuất và chất lượng công việc, là
những vấn đề quan tâm của nhà sản xuất-kinh doanh hiện nay. Chính
những vấn đề này đòi hỏi công tác tổ chức quản lí và sử dụng lao động
phải luôn có sự thay đổi trong tư duy, tìm những hình thức, phương
pháp, cơ chế quản lí mới, nhằm đem lại hiệu quả cao. Tức là, các
doanh nghiệp phải có sự đổi mới cải tiến công tác quản lí lao động
trong doanh nghiệp mình. Với nhận định như trên, sau thời gian học
tập nghiên cứu tại trường và thực tập tại Công ty Tư vấn Đầu tư &
Xây dựng, em đã chọn đề tài:
nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng lao động ở công ty tư vấn
đầu tư và xây dựng.
Nội dung của chuyên đề bao gồm ba phần:
Chương I: Lí luận chung về quản lí và sử dụng lao động.
Chương II: Thực trạng công tác quản lí và sử dụng lao động ở




2

công ty tư vấn đầu tư và xây dựng.
Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lí và sử dụng lao động ở công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng.

Chương I
Lí luận chung về quản lí và sử dụng lao động
I. Một số khái niệm:
1. Lao động:
Lao động là hoạt động chỉ có ở con người, là hoạt động quan
trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh
thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là
nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước nói chung và của mỗi
doanh nghiệp- đơn vị kinh tế nói riêng. Do đó, khi nói đến quản lí và
sử dụng lao động cũng chính là nói đến quản lí và sử dụng con người
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Lao động luôn được diễn ra theo một quá trình. Quá trình lao
động là tổng thể những hành động của con người để hoàn thành một
công việc nhất định.
Quá trình lao động là hiện tượng kinh tế xã hội vì thế, nó luôn
được xem xét trên hai mặt vật chất và xã hội.
+ Về mặt vật chất: Quá trình lao động dưới bất kì hình thái kinh tế
xã hội nào muốn tiến hành được đều phải gồm ba yếu tố: Bản thân lao
động-Đối tượng lao động-Công cụ lao động.
+ Về mặt xã hội: Quá trình lao động được thể hiện ở sự phát sinh
những mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau.
Trong quá trình lao động tập thể, con người không những tác động
vào giới tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau, trao đổi hoạt động với


3



nhau, ràng buộc nhau bởi rất nhiều những mối quan hệ mang tính
chất xã hội. Chính nhờ những mối quan hệ đó, con người đã lao động
cải tạo giới tự nhiên một cách có hiệu quả, đồng thời có điều kiện
ngày càng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu khác nhau của mình.
Trong xã hội hiện đại, các mối quan hệ lao động được hình thành
giữa chủ tư liệu sản xuất với người lao động, giữa chủ quản lí điều
hành cấp trên với quản lí điều hành cấp dưới và giữa những người lao
động với nhau. Những mối quan hệ phức tạp, đan xen, bện quyện vào
nhau đó hình thành tính tập thể, tính xã hội của lao động.
2. Tổ chức lao động:
Ngày nay, lao động sản xuất đã trở thành những hoạt động của
tập thể con người, là quá trình kết hợp giữa con người với công cụ lao
động và đối tượng lao động, nhằm cải biến đối tượng lao động thành
vật phẩm tiêu dùng, thoả mãn nhu cầu của con người. Nói cách khác,
có lao động sản xuất thì có tổ chức lao động sản xuất.
Vậy, tổ chức lao động sản xuất là tổ chức quá trình hoạt động của
con người, dùng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động
nhằm đạt được mục đích của sản xuất.
Trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì trình độ tổ chức
lao động cũng khác nhau. Tổ chức lao động ở hình thái kinh tế xã hội
sau bao giờ cũng cao hơn trình độ tổ chức lao động ở hình thái kinh tế
xã hội trước đó.
Tổ chức lao động là một bộ phận không thể tách rời của tổ chức
sản xuất. Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp là tổng thể những
biện pháp nhằm kết hợp một cách có hiệu quả nhất con người với tư

liệu sản xuất, không chỉ trong các quá trình lao động mà cả trong các
quá trình tự nhiên.

4

Tổ chức lao động giữ vị trí quan trọng trong tổ chức sản xuất là


do vai trò của con người quyết định. Vai trò tích cực sáng tạo của con
người không chỉ ở điều khiển máy móc, thiết bị, các loại công cụ mà
còn sáng tạo ra dụng cụ hiện đại hơn, chinh phục tự nhiên, tạo điều
kiện phát triển hơn nữa cá nhân con người nhằm tăng năng suất lao
động.
Tổ chức lao động trong các doanh nghiệp bao gồm những nội
dung sau:
+ Xây dựng qui chế phân công lao động hợp lí sao cho sự phân
công đó phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình
độ văn hoá, trình độ chuyên môn của người lao động, tạo điều kiện
không ngừng tăng năng suất lao động.
+ Chú ý hoàn thiện và tổ chức phục vụ môi trường làm việc như
trang bị đầy đủ thiết bị, phù hợp với các yêu cầu của động tác lao
động, đảm bảo vệ sinh an toàn lao động sao cho người lao động yên
tâm làm việc và đạt được hiệu suất cao nhất.
+ Nghiên cứu và phổ biến các phương pháp, thao tác lao động hợp
lí nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ hao phí lao động và
đảm bảo an toàn cho người lao động.
+ Cải thiện điều kiện lao động nhằm giảm nhẹ sự nặng nhọc của
công nhân, giữ gìn và tăng cường sức khoẻ cho người lao động, tạo
những điều kiện lao động thuận lợi.
+ Hoàn thiện định mức lao động bao gồm nghiên cứu các dạng

định mức lao động và điều kiện áp dụng chúng trong thực tiễn, xây
dựng các định mức lao động, lao động có căn cứ kĩ thuật.

5

+ Tổ chức và thực hiện chế độ trả lương hợp lí cũng như chế độ
khuyến khích vật chất làm đòn bẩy động viên người lao động.
3. Quản lí lao động:



Bất kì một quá trình lao động xã hội hoặc lao động cộng đồng nào
được tiến hành trên qui mô lớn đều cần có hoạt động quản lí để phối
kết hợp các công việc nhỏ lẻ với nhau. Như Mác đã nói:”Người chơi vĩ
cầm có thể tự điều khiển mình nhưng một giàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng”.
Do đó, có thể kết luận rằng quản lí đóng một vai trò rất quan
trọng trong việc phối hợp các hoạt động mang tính chất cộng đồng nói
chung và các hoạt động sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp
nói riêng để đạt được hiệu quả tối ưu.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lí, tuy nhiên, có thể
hiểu một cách tương đối cặn kẽ về quản lí thông qua hai khái niệm
sau:
-Khái niệm thứ nhất: Quản lí là sự tác động có hướng nhằm mục
đích chung để biến đổi đối tượng quản lí từ trạng thái này sang trạng
thái khác bằng những phương pháp tác động khác nhau.
Như vậy, nói đến quản lí là nói đến sự tác động hướng đích nhằm
vào đối tượng nhất định và để đạt được được mục tiêu đã đề ra. Quản
lí là hoạt động chủ quan có ý thức, có tính năng động, linh hoạt của
con người.

Theo quan điểm của điều khiển học, nền kinh tế quốc dân cũng
như bất kì một đơn vị kinh tế nào đều có thể coi là một hệ thống quản
lí bao gồm hai phân hệ: chủ thể quản lí và đối tượng quản lí (hay còn
gọi là bộ phận quản lí và bộ phận bị quản lí).

6

Bộ phận quản lí bao gồm các chức năng quản lí, đội ngũ cán bộ
nhân viên quản lí, các mối quan hệ quản lí về hệ thống phương pháp
quản lí. Bộ phận bị quản lí bao gồm hệ thống các phân xưởng, các bộ
phận sản xuất, hệ thống máy móc thiết bị, các phương pháp công nghệ.


Hai bộ phận này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Có thể minh hoạ mối
quan hệ giữa chủ thể quản lí và đối tượng quản lí qua sơ đồ sau:




Các mục tiêu Mối quan hệ
ngược


Như vậy chủ thể quản lí trên cơ sở các mục tiêu đã xác định tác
động lên đối tượng quản lí bằng những quyết định quản lí của mình và
thông qua hành vi của đối tượng quản lí-mối quan hệ ngược mà chủ
thể quản lí có thể điều chỉnh các quyết định đưa ra.
-Khái niệm thứ hai: Quản lí doanh nghiệp là quá trình tác động
một cách có hệ thống, có tổ chức đến tập thể những người lao động

nhờ vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các qui luật kinh tế, các
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước để tính toán, xác định
đúng đắn những biện pháp kinh tế, kĩ thuật, tổ chức xã hội nhằm tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện ba mục tiêu:
Chủ thể quản lí
Đối tượng quản lí

7

+Đảm bảo sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
+Phát triển sản xuất cả về số lượng và chất lượng theo yêu cầu
của thị trường.
+Không ngừng cải thiện điều kiện vật chất tinh thần cho người


lao động.
Một trong những nội dung quan trọng của quản lí doanh nghiệp là
quản lí lao động:
Quản lí lao động là sự tác động có mục đích của hệ thống các biện
pháp khác nhau của chủ thể quản lí lên con người làm cho hệ thống
hoạt động bình thường, giải quyết mục tiêu của quản lí, vận dụng hết
tiềm năng sao cho quản lí có hiệu quả nhất.
Đối tượng của quản lí lao động là quản lí con người trong lao
động và khả năng của mỗi con người đó.
Khả năng của mỗi con người bao gồm sức lao động và năng lực
sản xuất .
Sức lao động là tổng thể thể lực và trí lực của mỗi con người. Nó
phản ánh khả năng lao động của mỗi người và lao động là điều kiện
tiên quyết của mỗi nền sản xuất.
Quản lí lao động bao gồm những phần việc khác nhau như:

+Lập kế hoạch lao động trong mỗi thời kì kinh doanh.
+Tuyển mộ và tuyển chọn lao động theo nhu cầu.
+Tổ chức biên chế lao động theo chương trình hoạt động đã dự
định.
+Huấn luyện người lao động để họ đảm đương được chức phận.

8

+Đánh giá mức độ thực hiện công việc theo từng bộ phận .
+Đãi ngộ người lao động.
+Đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Với mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, thu hút và


gìn giữ lực lượng lao động có chất lượng cao, khuyến khích người lao
động đóng góp nhiều hơn nữa vào kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp, các nhà quản lí phải biết lựa chọn triết lí quản lí, quản trị phối
hợp với các thuyết tạo động lực lao động:
+Thuyết về sự khắc nghiệt (Thuyết X).
+Thuyết về sự khuyến khích (Thuyết Y).
+Thuyết về sự quan tâm toàn diện đối với lao động (Thuyết Z).
II. mục tiêu của quản lí lao động:
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của sản
xuất. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với các nhà quản lí đó là việc sử dụng
đội ngũ lao động như thế nào? Số lượng lao động là bao nhiêu? Chất
lượng lao động như thế nào? để đáp ứng được những đòi hỏi của công
việc và đem lại hiệu quả lớn nhất từ nguồn lao động đó. Để đạt được
mục đích này thì các nhà quản lí cần phải có một kế hoạch, mục tiêu
rõ ràng, cụ thể. Có thể khái quát mục tiêu của quản lí lao động gồm:
-Đáp ứng được yêu cầu của quá trình sản xuất trong đó:

+Đảm bảo tính hiện thực.
+Đảm bảo tính kỉ luật an toàn lao động.
+Đảm bảo điều kiện môi trường làm việc.

9

-Nâng cao trình độ cho người lao động:
+Nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động.
+Nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động.
-Nâng cao năng suất-hiệu suất lao động.
-Phát huy tinh thần sáng tạo của người lao động.


III. ý nghĩa của việc quản lí và sử dụng lao động:
Quản lí và sử dụng lao động là một bộ phận không thể thiếu của
quản trị sản xuất-kinh doanh, nó nhằm củng cố và duy trì đầy đủ số
lượng và chất lượng người làm việc cần thiết cho tổ chức để đạt mục
tiêu đặt ra; tìm kiếm và phát triển những hình thức, những phương
pháp tốt nhất để con người có thể đóng góp nhiều sức lực cho mục tiêu
của tổ chức, đồng thời cũng tạo cơ hội để phát triển không ngừng
chính bản thân con người. Không một hoạt động nào của tổ chức mang
lại hiệu quả nếu thiếu quản lí lao động-quản trị nhân sự. Do vậy, quản
lí và sử dụng lao động có ý nghĩa rất lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã
hội .
1. Ý nghĩa về mặt kinh tế:
-Lao động là yếu tố đặc biệt, không bao giờ cạn kiệt, nó có khả
năng phục hồi và tự tái sinh. Lao động là nguồn gốc sáng tạo ra mọi
của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy, không được lãng phí lao động.
-Quản lí lao động thực chất là việc tìm kiếm, lựa chọn một cơ chế
thích hợp và các phương án hữu hiệu để thực hiện các phương án đó,

nhằm tác động lên con người sao cho hành vi của họ có ích nhất cho
bản thân họ biểu hiện ở số lượng, chất lượng sản phẩm mà con người
tạo ra trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp. Nó chính là năng suất
lao động.

10

-Năng suất lao động là kết quả của sự phối hợp các yếu tố của
sản xuất. Với cùng một điều kiện các yếu tố sản xuất thì năng suất lao
động là thước đo để đánh giá phương pháp và cơ chế quản lí lao động.
Quản lí lao động tốt sẽ tạo ra năng suất lao động cao, đó là biểu hiện
cao nhất về ý nghĩa kinh tế của quản lí và sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp.


-Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi doanh nghiệp tạo ra sự tăng
trưởng kinh tế của một địa phương, một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế
là sự tăng năng suất lao động; vì vậy, tăng năng suất lao động xã hội
là tổng hợp sự tăng trưởng năng suất của mỗi thành viên kinh tế.
-Ý nghĩa kinh tế của quản lí và sử dụng lao động không những ở
phạm vi, qui mô của từng doanh nghiệp mà rộng hơn còn ở phạm vi
toàn xã hội.
-Mức độ tăng năng suất lao động được xem là mức độ tiến bộ của
nền kinh tế mỗi quốc gia. Như vậy, tăng năng suất lao động là mục
tiêu chủ yếu của công tác quản lí và sử dụng lao động.
Ở Việt Nam hiện nay, khi nền kinh tế thoát khỏi sự ràng buộc của
cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch
toán thời mở cửa, hội nhập dần với nền kinh tế khu vực và thế giới thì
việc tổ chức quản lí sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp ngày
càng đòi hỏi sự đa dạng, sâu sắc và khoa học. Theo đó, việc quản lí và

sử dụng lao động cũng không thể đơn giản như trong thời kì bao cấp.
2. Ý nghĩa về mặt xã hội:

Sự tồn tại và phát triển của một xã hội được dựa trên một cơ sở
hạ tầng kinh tế. Kinh tế ổn định và phát triển thì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra
mới có điều kiện thực hiện.

11

Ý nghĩa xã hội của công tác quản lí và sử dụng lao động là hệ quả
của ý nghĩa kinh tế mà công tác này đem đến cho sản xuất của doanh
nghiệp, nó được thể hiện qua một số mặt cơ bản sau:
-Thu hút và giải quyết lao động cho không ít những người chưa có
việc làm (nói cách khác là người thất nghiệp, là lực lượng luôn tồn tại
ở nhiều mức khác nhau).


Ở Việt Nam, dân số đông, tốc độ tăng dân số còn ở mức cao, sức
ép về dân số cũng chính là sức ép về việc làm. Nếu giải quyết không
tốt sẽ kéo theo nhiều tiêu cực và bất ổn định xã hội. Do đó, việc quản
lí-sử dụng tốt lao động là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề xã hội
to lớn này.
-Các biện pháp thực hiện công tác quản lí và sử dụng lao động
góp phần đào tạo và rèn luyện một đội ngũ lao động mới đồng thời,
cùng thực hiện một chế độ phân phối theo lao động. Đội ngũ những
người lao động mới ngày càng có ảnh hưởng, tác động tốt làm lành
mạnh hoá môi trường xã hội. Sự phân phối hưởng thụ theo kết quả lao
động cũng chính là vấn đề cốt lõi của công bằng, văn minh trong xã
hội.

-Thông qua việc quản lí và sử sụng tốt lao động mỗi người trong
doanh nghiệp hay rộng hơn trong toàn xã hội sẽ nhận thức rõ vị trí của
mình cùng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những mối quan hệ
giữa cá nhân với cộng đồng. Điều này góp phần không nhỏ làm giảm
bớt, hạn chế tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của không ít
những người quản lí tiêu cực, khắc phục tình trạng chây lười, dựa
dẫm, thiếu tinh thần làm chủ của một số lao động. Tất cả những điều
đó có tác dụng thúc đẩy khả năng sáng tạo, lòng nhiệt tình, hăng say
tạo ra năng suất lao động cao và từ đó, thu nhập chính đáng cũng sẽ

12

tăng, đời sống của người lao động được cải thiện từng phần, họ yên
tâm phấn khởi, gắn bó với công việc, với doanh nghiệp.
-Đào tạo con người trong hiện tại và tương lai đòi hỏi có sự phát
triển toàn diện về thể lực, trí tuệ, trình độ văn hoá chuyên môn tay
nghề.
IV. Nội dung của quản lí và sử dụng lao động:
1. Cơ cấu lao động:



Như đã biết, muốn sản xuất ra của cải vật chất cần phải có ba yếu
tố: Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động, trong đó, lao
động là yếu tố quan trọng nhất. Nếu không có lao động thì mọi hoạt
động sản xuất bị ngừng trệ. Tuy nhiên, muốn cho hoạt động sản xuất
đạt hiệu quả cao, cần phải hình thành một cơ cấu lao động hợp lí. Một
cơ cấu lao động hợp lí, tối ưu là cơ sở để đảm bảo cho quá trình sản
xuất được tiến hành cân đối, nhịp nhàng và liên tục; là cơ sở để đảm
bảo nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất và hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp. Ngoài ra, cơ cấu lao động hợp lí còn là cơ sở cho
việc phân công, bố trí lao động; là cơ sở cho công tác đào tạo và qui
hoạch cán bộ, là cơ sở khai thác triệt để các nguồn, khả năng tiềm tàng
trong các doanh nghiệp.
Trong mỗi dây chuyền sản xuất, lao động được đặt đúng vị trí
thích hợp từ đó sẽ tạo ra một môi trường, một động lực (sức mạnh vô
hình) để kích thích sản xuất phát triển, người lao động sẽ phát huy hết
khả năng lao động và làm việc một cách có hiệu quả nhất, tránh được
tình trạng chỗ này thì thừa, chỗ kia thì thiếu lao động, giải quyết thất
nghiệp ở doanh nghiệp.

13

Một cơ cấu lao động được coi là hợp lí, tối ưu khi lực lượng lao
động đảm bảo đủ số lượng, ngành nghề, chất lượng, giới tính và lứa
tuổi, đồng thời được phân định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ,
mối quan hệ công tác giữa các bộ phận, cá nhân với nhau, đảm bảo
mọi người đều có việc làm, mọi khâu, mọi bộ phận đều có người phụ
trách và sự ăn khớp, đồng bộ trong từng đơn vị và trên phạm vi toàn
doanh nghiệp. Để làm được điều đó, ta cần phải dựa vào các căn cứ:
-Qui trình chế tạo công nghệ sản phẩm.
-Cấp bậc kĩ thuật công việc.
-Định mức thời gian lao động.
-Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Xuất phát từ đó, ta tiến hành các bước:
Bước 1: Xác định lao động cho từng nghề theo công thức:
Q
i
*t

1
N
i
=
T
n

Trong đó:
Q
i
: Sản lượng sản phẩm loại i.
t
1
: Định mức thời gian lao động nghề i cho một sản phẩm.
T
n
: Thời gian làm việc theo chế độ một năm cho một công nhân.
Bước 2: Tổng hợp lao động các nghề:
N=

=
n
i
Ni
1

-Các loại lao động phụ và phụ trợ tuỳ theo đặc điểm kinh tế-kĩ
thuật của doanh nghiệp mà qui định một tỉ lệ hợp lí so với công nhân
chính.


14

-Các loại lao động quản lí, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng khâu, từng bộ phận mà tính định biên cán bộ quản lí sao
cho tổng số cán bộ quản lí không vượt quá 10% so với số lượng công
nhân sản xuất công nghiệp.
2. Tuyển dụng và sử dụng lao động:
Sự thành công của một doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ phụ thuộc
phần lớn vào phẩm chất, trình độ năng lực và hiệu suất của đội ngũ
người lao động.Vì vậy việc lựa chọn những người này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng.
2.1 Tuyển dụng đội ngũ lao động:
a.Nguyên tắc tuyển chọn:


-Tuyển chọn cán bộ, nhân viên phải xuất phát từ lợi ích chung của
doanh nghiệp và xã hội.
-Khi tuyển chọn cán bộ công nhân viên phải dựa vào yêu cầu cụ
thể của từng loại công việc và tính khả năng sử dụng tối đa năng lực
của họ.
-Khi tuyển chọn phải nghiên cứu thận trọng và toàn diện cá tính,
phẩm chất công tác, khả năng cá nhân của họ.
b.Nội dung tuyển chọn:
Phải xây dựng được các nguyên tắc, bước đi và phương pháp
tuyển chọn thích hợp cho từng loại công việc.
Tuyển chọn thường được tiến hành theo qui trình chặt chẽ bao
gồm một số phương pháp và kĩ thuật khác nhau, các phương pháp và
bước đi cổ điển thường được áp dụng là:
-Căn cứ vào đơn xin việc, lí lịch, bằng cấp và giấy chứng chỉ về
trình độ chuyên môn của người xin việc.


15

-Căn cứ vào hệ thống câu hỏi và trả lời để tìm hiểu người xin việc
(các câu hỏi này do doanh nghiệp đề ra).
-Căn cứ vào kiểm tra sức khoẻ, thử tay nghề, thử trình độ và khả
năng chuyên môn.
Do đó, việc xem xét lại nguồn nhân lực hàng năm sẽ làm cho tổ
chức thấy rõ chất lượng của nguồn nhân lực, chuẩn bị sẵn cho nhu cầu
hiện tại và tương lai.
-Về tiền lương đối với một vị trí làm việc hay một chức vụ, người
đứng đầu chủ yếu và phòng quản lí nguồn nhân lực sẽ nói rõ cho người
được tuyển chọn.
Khi lập kế hoạch tuyển dụng và bố trí, bộ phận quản lí phải làm
rõ những mục tiêu chung, phải có những cách khác nhau để giải thích
rõ các nhu cầu của doanh nghiệp.


c.Nguồn tuyển dụng:
Nguồn nhân lực cung cấp cho các doanh nghiêp tuyển chọn khá
phong phú. Ngày nay, ở nước ta, trình độ dân trí đã được nâng cao,
quan hệ quốc tế mở rộng, thông tin trong và ngoài nước phong phú là
những yếu tố tác động to lớn đến nguồn nhân lực. Về cơ bản, doanh
nghiệp có thể tuyển chọn nhân lực từ các nguồn sau:
• Nguồn nội bộ: Nguồn này được tạo lập bằng cách đề bạt, thuyên
chuyển, cân nhắc từ bộ phận này sang bộ phận khác, từ cấp này sang
cấp khác.
Ưu điểm:
+Tạo ra sự thi đua, cạnh tranh tích cực trong nhân viên, kích thích
họ làm việc nhiệt tình, sáng tạo, năng suất chất lượng và hiệu quả hơn.

+Họ là người đã quen thuộc, nắm vững điều lệ, phong cách hoạt
động, mục tiêu chiến lược của công ty nên khi tiếp nhận công việc mới
họ dễ dàng thích nghi hơn.

16

+Các nhân viên đã được thử thách lòng trung thành, thái độ và ý
thức làm việc cũng như mối quan hệ trong công ty.
Nhược điểm:
+Nhân viên mới rất khó khăn trong việc thể hiện quyền lực lãnh
đạo và quyết định của mình vì họ muốn giữ được sự bình đẳng trước
đó.
• Nguồn bên ngoài: Bao gồm những người không thuộc về lực
lượng lao động hiện tại của công ty. Có thể chia làm các nguồn chính
sau:
+Người thân của các nhân viên trong công ty giới thiệu.
+Các nhân viên cũ của công ty.
+Thông qua quảng cáo, thông tin bằng các phương tiện thông tin
đại chúng để thu hút, lựa chọn các nhân viên.


+Sinh viên mới tốt nghiệp của các trường đại học, cao đẳng, các
trung tâm dạy nghề, trung tâm môi giới , giới thiệu việc làm.
+Nhân viên của các hãng khác.
+Các ứng viên tự nộp đơn xin việc.
Ưu điểm :
+Cơ hội lựa chọn lớn hơn, doanh nghiệp có thể tận dụng được
phương pháp làm việc mới của những người từ bên ngoài, đem lại sinh
khí mới cho tổ chức.
+Không làm đảo lộn cơ cấu của doanh nghiệp.

Nhược điểm:
+Mất thời gian đào tạo, huấn luyện và chi phí cao.

17

+Nguy cơ nhầm lẫn có thể xảy ra dẫn đến việc thuê những công
nhân không đủ trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của công việc.
Khi đó, anh ta sẽ trở thành gánh nặng đối với doanh nghiệp.
d.Các bước tuyển dụng:
Những bước tuyển chọn thường gặp là:
Bước 1: Chuẩn bị tổ chức tuyển dụng:
-Cần xác định được các loại văn bản qui định về tuyển dụng của
công ty, bộ, ngành, uỷ ban nhân dân, chính phủ...mà công ty cần phải
tuân theo, tiêu chuẩn nhân viên cần tuyển chọn, thành phần hội đồng
tuyển dụng quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng tuyển dụng.
-Dự kiến lượng hoá số nhân lực cần tuyển chọn trong kì kế hoạch
dựa vào phân tích đánh giá trình độ năng lực số lượng nhân viên hiện
có theo các loại:
+Những người có khả năng thăng chức.
+Những người giữ tại chức.
+Những người cần thay thế.


+Những người sắp nghỉ hưu.
Trên cơ sở phân tích này, kết hợp với các phương án mở rộng qui
mô sản xuất kinh doanh và đổi mới cơ cấu tổ chức sản xuất, tổ chức
quản lí của doanh nghiệp để xác minh cụ thể số lượng người cần tuyển
chọn.
Trong thực tế sản xuất, nếu qui mô sản xuất thay đổi tăng thêm
các phân xưởng, công đoạn sản xuất, tăng thêm chủng loại sản phẩm,

cải tiến công nghệ..sẽ làm cho công tác quản lí phức tạp hơn nhiều do
đó, cần phải tuyển chọn những người có đủ khả năng, năng lực để làm
việc.
Bước 2: Thông báo tuyển dụng

18

Tuỳ từng loại công việc, loại hình chức danh mà có các hình thức
thông báo sau:
-Thông qua các văn phòng dịch vụ lao động.
-Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng: ti vi,
báo chí, phương tiện truyền thanh v.v...
-Yết thị tại công ty.
-Nhờ nhân viên giới thiệu.
-Cử nhân viên tuyển dụng đến các trường đại học, cao đẳng...
Bước 3 : Thu nhận và nghiên cứu hồ sơ
Dùng đơn xin việc để tập hợp các thông tin một cách có hệ thống
về nhân viên dự định tuyển chọn. Đơn xin việc theo mẫu qui định của
công ty trong đó thể hiện các thông tin về trình độ học vấn, các thành
tích đã đạt được trước đây, những điểm mạnh, yếu của từng ứng viên,
các trang thiết bị máy móc có thể được sử dụng trong công việc. Các
văn bằng chứng chỉ tốt nghiệp (sơ yếu lí lịch, hoàn cảnh cá nhân và
gia đình).Việc nghiên cứu toàn bộ hồ sơ xin việc làm cho phép xác
định được nên chọn ứng viên nào là phù hợp với công việc nhất.


Bước 4 : Kiểm tra sát hạch, trắc nghiệm và phỏng vấn từng ứng
viên:
Đây là bước khó khăn nhất đối với ứng viên nhằm chọn ra ứng
viên đáp ứng nhu cầu công việc, áp dụng các hình thức sát hạch để

đánh giá ứng viên về trình độ kiến thức cơ bản, khả năng thực hành
hay trình độ lành nghề...dưới dạng bài thi, kiểm tra, làm thử công việc
để kiểm tra,..., phỏng vấn qua đó đánh giá ứng viên về kiến thức, khả
năng giao tiếp, cá tính và trí thông minh...
Việc đánh giá này khách quan hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến việc tuyển chọn người phù hợp với công việc cụ thể sẽ giao.

19

Trong khi phỏng vấn, người phỏng vấn phải xác định trước nội dung
các vấn đề phỏng vấn, tập trung lắng nghe, tránh cắt ngang ý kiến của
người xin việc đang trình bày, quan sát cách ăn nói, cử chỉ, trang phục
của người đến xin việc với một thái độ khách quan không định kiến.
Bước 5: Quyết định tuyển dụng:
Sau khi đã sát hạch, kiểm chứng các dữ liệu thu thập được và tiến
hành điều tra bổ sung như: thăm dò ý kiến thêm ở các trường đào tạo,
địa phương nơi công tác cũ...về các ứng viên để đi đến lựa chọn ứng
viên thoả mãn yêu cầu khác nhau của công việc thì trưởng phòng nhân
sự đề nghị giám đốc ra quyết định tuyển dụng và thực hiện kí hợp
đồng với nhân viên mới, trong đó, phải ghi rõ chức vụ, nhiệm vụ,
lương bổng, thời gian tập sự, khế ước...
Bước 6: Thử thách nhân viên mới được tuyển dụng:
Trước khi nhận vào làm chính thức, cần phải giao công việc cho
họ làm để đánh giá khả năng. Trong quá trình giao việc phải tạo điều
kiện thuận lợi về phương tiện, môi trường làm việc làm cho họ có lòng
tin để hoàn thành nhiệm vụ.



Bước 7: Kiểm tra sức khoẻ:

Sau khi tiến hành các bước trên, nếu người xin việc đạt được các
tiêu chuẩn thì cần phải tiến hành kiểm tra sức khoẻ của người xin việc
xem họ có đủ yêu cầu về sức khoẻ với công việc.
2.2 Sử dụng lao động:
Trong bất kì một doanh nghiệp nào, việc sử dụng lao động hợp lí,
tiết kiệm là biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. Bố trí sử dụng lực lượng lao động trong từng nhóm,
từng bộ phận hoặc từng cá thể góp phần tăng năng suất lao động, tránh

20

được những hao phí vô ích do việc bố trí không hợp lí gây nên. Hơn
nữa, việc sử dụng và quản lí chặt chẽ lao động trong doanh nghiệp làm
hạn chế những tổn thất kinh tế do bố trí quá thừa hoặc không đúng đối
tượng được giao việc từ đó làm giảm năng suất lao động.
Sử dụng lao động bao gồm các nội dung sau:
a.Sử dụng số lượng lao động:
Liên quan đến việc sử dụng số lượng lao động cần xem xét hai
phạm trù: thừa tuyệt đối và thừa tương đối.
-Thừa tuyệt đối là số người đang thuộc danh sách quản lí của
doanh nghiệp nhưng không bố trí được việc làm, là số người dôi ra
ngoài định biên (định mức) cho từng khâu công tác, từng bộ phận sản
xuất kinh doanh.
-Thừa tương đối là những người lao động được cân đối trên dây
chuyền sản xuất doanh nghiệp và các khâu công tác nhưng không đủ
việc làm cho cả ngày (cả ca) ngừng do nhiều nguyên nhân khác nhau
như: thiếu nguyên vật liệu, máy hỏng, không có nhiệm vụ...
Hai hiện tượng dư thừa trên được gọi là “ thất nghiệp ngay trong
các doanh nghiệp”. Đây không phải là hiện tượng cá biệt ở nước ta mà
còn có ở nhiều nước khác trên thế giới. Để khắc phục hiện tượng trên

cần phải phân loại lao động, trên cơ sở đó, tiến hành sắp xếp lại lực


lượng lao động, đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi dây
chuyền sản xuất; cho đi đào tạo lại, bồi dưỡng chuyên môn đối với
những người có sức khoẻ còn ít tuổi, có triển vọng nghề nghiệp, giải
quyết cho nghỉ hưu mất sức, cho nghỉ thôi việc được hưởng trợ cấp
theo chế độ Nhà nước qui định; Mở rộng hoạt động dịch vụ để giải
quyết việc làm cho người dôi ra.
b.Sử dụng chất lượng lao động:

21

Sử dụng chất lượng lao động được hiểu là sử dụng đúng ngành
nghề, bậc thợ chuyên môn, sở trường và kĩ năng kĩ xảo. Chất lượng
lao động được thể hiện ở băng cấp: sơ cấp, trung cấp, đại học, trên đại
học hoặc ở trình độ bậc thợ: bậc cao, bậc trung, bậc thấp hay trình độ
chuyên môn đặc biệt. Chất lượng lao động không chỉ biểu hiện ở trình
độ hiểu biết mà điều quan trọng là khả năng thực hành, kĩ năng, kĩ xảo
của người lao động.
Để sử dụng tốt chất lượng lao động, cần phải nghiên cứu và áp
dụng đúng đắn các hình thức phân công lao động trong doanh nghiệp.
Có ba hình thức phân công lao động chủ yếu trong doanh nghiệp:
-Phân công theo nghề (theo tính chất công việc).
-Phân công theo tính chất phức tạp của công việc.
-Phân công theo công việc chính và công việc phụ.
c.Sử dụng thời gian lao động:
Nguyện vọng của những người lao động trong các doanh nghiệp là
được làm việc, tận dụng hết thời gian và có thu nhập cao. Doanh
nghiệp, một mặt phải tìm mọi biện pháp để sử dụng tối đa thời gian

lao động mặt khác, phải đảm bảo trả thù lao thích đáng phù hợp với
kết quả lao động của từng người.
Chỉ tiêu đánh giá sử dụng thời gian lao động là: Số ngày làm việc
theo chế độ bình quân một năm và số giờ làm việc theo chế độ bình
quân một ngày (một ca).


Số ngày làm việc theo chế độ được xây dựng theo công thức:
N
cd
=N
L
-(L+T+CN+F)
Trong đó:
N
cd
: Số ngày làm việc theo chế độ năm.
N
L
: Số ngày theo lịch một năm (365 ngày).

22

T : Tết nguyên đán.
L : Số ngày nghỉ lễ một năm (20 ngày).
CN: Số ngày nghỉ chủ nhật một năm (52 ngày).
F : Số ngày nghỉ phép một năm (10 ngày).
Trên cơ sở ngày làm việc của một người lao động, doanh nghiệp
phải tính số bình quân cho toàn doanh nghiệp.
-Số giờ làm việc theo chế độ: qui định chung là 8

h

Sau từng thời kì nhất định, (3 tháng hay 6 tháng) doanh nghiệp
phải tổ chức phân tích tình hình sử dụng thời gian theo các chỉ tiêu nói
trên (xem xét riêng cho từng loại lao động trực tiếp, gián tiếp, cho
từng phòng ban, tổ, đội sản xuất).
Trên cơ sở đó tìm ra những tồn tại chủ yếu, nguyên nhân và đề ra
giải pháp khắc phục cho thời gian tới.
Tận dụng thời gian và sử dụng hợp lí thời gian lao động là một bộ
phận quan trọng của quản lí lao động ở doanh nghiệp, là kỉ luật và
nghĩa vụ của mỗi người lao động. Doanh nghiệp cần áp dụng tổng hợp
các biện pháp về kinh tế, hành chính, tổ chức giáo dục tâm lí xã hội để
buộc người lao động tận dụng hết thời gian làm việc của mình. Ngoài
ra, doanh nghiệp cần phải quan tâm, chăm lo đến lợi ích của người lao
động, biết chăm lo bồi dưỡng mọi mặt để họ có sức khoẻ, chuyên môn
phục vụ tốt hơn cho doanh nghiệp. Điều này cho đến nay vẫn không ít
những nhà quản lí còn xem nhẹ, họ chỉ biết quản lí sao cho khai thác
được nhiều nhất sức lực và trí tuệ của nhân viên để có được năng suất


định ra mà quên đi những khát vọng của người lao động như nhu cầu
về nghỉ ngơi, giải trí, sự quan tâm đến con cái gia đình họ.
3. Công tác đào tạo nâng cao trình độ:

23

Công tác đào tạo là một hoạt động nhằm không ngừng nâng cao
trình độ quản lí cũng như nâng cao tay nghề cho người lao động để
đáp ứng yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp cũng như sự đòi hỏi mặt
bằng chung của xã hội. Như James L.Hages đã từng nói: “Không còn

là vấn đề chúng ta muốn hay chúng ta nên phát triển nhân sự. Phát
triển quản trị nhân sự là vấn đề sống còn của chúng ta ” .
Kinh nghiệm của các công ty thành đạt trên thế giới đều chứng tỏ
rằng công ty nào có ban lãnh đạo chú trọng đến công tác đào tạo nâng
cao chất lượng lao động , công ty đó sẽ thành công trong kinh doanh.
Việc định hướng và đào tạo này được thực hiện không những với cấp
lãnh đạo mà cần quan tâm tới cả công nhân có tay nghề thấp. Đào tạo
đúng hướng, kịp thời sẽ giúp cho doanh nghiệp có đội ngũ lao động có
trình độ cao, thích ứng với sự thay đổi diễn ra trong xã hội.
*Nguyên tắc của đào tạo là:
-Xác định nhu cầu đào tạo, mục tiêu đào tạo.
-Xác định đúng đối tượng cần đào tạo.
-Đào tạo về mặt lí thuyết cũng như kết hợp với thực hành.
*Yêu cầu của đào tạo:
-Trang bị, bổ sung và nâng cao trình độ quản lí cũng như tay nghề
của người lao động, giúp họ có thể thực hiện tốt hơn công việc của
mình
-Đáp ứng được yêu cầu của công việc mới cũng như thích ứng với
sự tiến bộ của khoa học công nghệ mới.
*Hình thức đào tạo:
-Học tập tại các trường đại học, các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp.


-Tổ chức các khoá học và thực tập ngắn hạn để nâng cao trình độ
chuyên môn.

24

-Tham khảo, thăm quan khảo sát tại các doanh nghiệp tiên tiến
trong và ngoài nước, từ đó có thể cử người đi học, hợp tác lao động

nhằm tiếp thu những kinh nghiệm, tiếp thu nền khoa học công nghệ
tiên tiến.
*Phương pháp đào tạo:
Các phương pháp đào tạo được chia thành hai nhóm:
Nhóm 1:Đào tạo trong công việc: bao gồm các phương pháp sau:
+Đào tạo tại nơi làm việc: tức là hướng dẫn thực hiện ngay công
việc cần làm tại chỗ làm việc thường xuyên, có thể làm tại một chỗ, có
thể luân chuyển đến nhiều chỗ khác. Hình thức đào tạo này thường
nhìn thấy rõ kết quả thiết thực, nhanh chóng đào tạo được hàng loạt do
chi phí thấp.
+Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn: Tức là ghép nối nhiều bước công việc
cần thiết lại thành chương trình đào tạo và yêu cầu học viên thực hiện
từng bước công việc đó.
Nhóm 2: Đào tạo ngoài công việc:
+Gửi đi học tại các trường chính qui:Theo phương pháp này,
người lao động được cử đi học tại các trường của bộ, ngành hoặc đơn
vị bạn theo phương thức tập trung trong một thời gian nào đó. Phương
pháp này mang lại hiệu quả cao nhưng chi phí đào tạo cũng rất tốn
kém.
+Đào tạo với sự trợ giúp của máy tính: Tất cả nội dung đào tạo
được viết trên phần mềm máy tính. Chương trình này đào tạo cùng một
lúc rất nhiều kĩ năng nhưng cũng đòi hỏi học viên phải có một trình độ
nhất định về công nghệ thông tin và sử dụng máy tính.
+Đào tạo dưới sự trợ giúp của các phương tiện nghe nhìn: Nội
dung giảng dạy được ghi lại trên băng hình. Do đó, học viên có thể
theo dõi những hình ảnh sinh động có liên quan đến vấn đề đào tạo và



25


họ dễ dàng hình dung được cách thức thực hiện công việc hay các
bước công việc.
+Tổ chức các buổi hội thảo hay thảo luận giảng bài tại doanh
nghiệp: Các buổi hội thảo có thể do doanh nghiêp đứng ra tổ chức
hoặc kết hợp với các đơn vị khác cùng tổ chức. Đây là nơi những
người lao động có thể gặp gỡ trao đổi, tranh luận, thảo luận với nhau
về các vấn đề cùng quan tâm, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
4. Định mức lao động:
Định mức lao động là lượng lao động hao phí lớn nhất không
được phép vượt quá để hoàn thành một đơn vị sản phẩm hoặc một chi
tiết sản phẩm hay một bước công nghệ theo tiêu chuẩn chất lượng qui
định trong điều kiện tổ chức kĩ thuật, tâm sinh lí, kinh tế xã hội nhất
định.
Lượng lao động hao phí ở đây phải được lượng hoá bằng những
thông số nhất định và phải bảo đảm độ tin cậy tối đa, đảm bảo tính
tiên tiến và hiện thực. Phải xác định được chất lượng của sản phẩm
hay công việc và phải thể hiện bằng các tiêu chuẩn để nghiệm thu chất
lượng sản phẩm đó, lượng lao động hao phí và chất lượng sản phẩm
phải gắn chặt với nhau.
a.Ý nghĩa của định mức lao động:
Định mức lao động là một trong những yếu tố quan trọng để phân
công lao động và là cơ sở để lập kế hoạch phân công lao động, tổ chức
sản xuất, xây dựng quĩ tiền lương và làm cơ sở để trả lương, thưởng
cho lao động.
Định mức lao động là nhiệm vụ không thể thiếu đối với bất kì một
loại hình doanh nghiệp nào, nó là động lực tăng năng suất lao động
nếu định mức hợp lí. Nhờ có định mức lao động mà có thể áp dụng
được những biện pháp tổ chức lao động. Việc lựa chọn và áp dụng bất
cứ hình thức tổ chức lao động nào cũng không thể thực hiện được nếu

không có định mức lao động.

×