Tải bản đầy đủ (.pdf) (226 trang)

các giải pháp thúc đẩy huy động vốn đầu tư thông qua các định chế tài chính trung gian của việt nam trên địa bàn tp.hcm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 226 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO UBND THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM SỞ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ



ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TP


CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HUY
ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ THÔNG QUA CÁC
ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
CỦA VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
( Bản đã điều chỉnh)



CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI:

GS.TS. DƯƠNG THỊ BÌNH MINH







THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2006


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO UBND THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM SỞ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ



ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TP



CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HUY
ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ THÔNG QUA CÁC
ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
CỦA VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI : GS.TS. DƯƠNG THỊ BÌNH MINH
THƯ KÝ ĐỀ TÀI : PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH
CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA:
TS. TRẦN ĐẮC SINH

TS. VŨ THỊ MINH HẰNG
TS. BÙI KIM YẾN
ThS. NGUYỄN ANH TUẤN
CN. NGUYỄN BÁ VƯNG




THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2006


MỞ ĐẦU

1. LÝ DO THỰC HIỆN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chiến lược này tỏ ra rất hứa hẹn
để Việt Nam thực hiện thành công quá trình chuyển đổi kép: từ một nền kinh
tế mang nặng tính hành chính chuyển hẳn sang một nền kinh tế thò trường
năng động; từ một xã hội nông nghiệp lạc hậu chuyển sang một xã hội công
nghiệp. Với viễn cảnh đó, là một trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, TP.
Hồ Chí Minh phải có những đột phá về phát triển kinh tế - xã hội, với mục
tiêu là hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian
ngắn nhất để trở thành đầu tàu cho sự phát triển kinh tế của cả nước nói chung
và phía nam nói riêng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi TP. Hồ Chí Minh phải tạo ra một
khối lượng vốn đầu tư. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế, các nguồn vốn
huy động của các đònh chế tài chính trung gian, đặc biệt là ngân hàng thương
mại tuy ngày càng đa dạng, song phần lớn số vốn huy động mang tính chất
ngắn hạn. Hoạt động của các đònh chế tài chính trung gian trên đòa bàn TP Hồ
Chí Minh còn yếu, các hình thức huy động vốn đầu tư chưa hấp dẫn, linh hoạt.
Trong khi đó, thò trường chứng khoán đã đi vào hoạt động, song trong một thời
gian ngắn thò trường chứng khoán chưa thể hiện được là một kênh dẫn vốn đầu
tư cho nền kinh tế mang đặc trưng của cơ chế kinh tế thò trường. Do vậy,
nghiên cứu huy động vốn đầu tư trung và dài hạn trên đòa bàn TP. Hồ Chí Minh
thông qua các đònh chế tài chính trung gian được đặt ra một cách cấp thiết.
Hiện tại, sự cạnh tranh, công nghệ hoạt động và năng lực kinh doanh của
các đònh chế tài chính trung gian Việt nam vẫn còn có nhiều hạn chế. Trong
điều kiện mở cửa nền kinh tế, sự thâm nhập của các đònh chế tài chính trung
gian nước ngoài vào thò trường tài chính Việt nam nói chung và vào thò trường
TP Hồ Chí Minh nói riêng đã và đang đặt ra cho các đònh chế tài chính trung
gian Việt nam những thử thách không nhỏ, đó là phải cạnh tranh với các sản
phẩm mang tính đa dạng và linh hoạt của các đònh chế tài chính trung gian

nước ngoài trong quá trình huy động vốn đầu tư trung và dài hạn, cạnh tranh về
lãi suất, công nghệ, thò phần… Đây là những vấn đề cần thiết phải được nghiên
cứu thấu đáo nhằm giúp cho các đònh chế tài chính trung gian Việt nam nâng
cao được khả năng cạnh tranh, xác đònh phương thức kinh doanh và huy động
vốn đầu tư một cách hiệu quả nhất.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Thứ nhất, xác lập cơ sở khoa học về các đònh chế tài chính trung gian phù
hợp với cơ chế thò trường của Việt nam.
Thức hai, đánh giá đúng thực trạng huy động vốn đầu tư (vốn đầu tư
trung và dài hạn) thông qua các đònh chế tài chính trung gian của Việt nam
trên đòa bàn TP. Hồ Chí Minh trong thời gian qua, từ đó rút ra những ưu điểm,
nhược điểm và các nguyên nhân tồn tại làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp
huy động vốn đầu tư cho thời gian tới.
Thứ ba, đưa ra những giải pháp vừa có tính khoa học vừa mang tính thực
tiễn thúc đẩy và nâng cao hiệu quả huy động vốn đầu tư thông qua các đònh chế
tài chính trung gian Việt nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trên đòa bàn TP. Hồ Chí Minh đến năm 2010.
3. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
So với các đề tài nghiên cứu khác, công trình nghiên cứu này có những
điểm mới sau:
Thứ nhất, nghiên cứu toàn diện về hệ thống các đònh chế tài chính trung
gian và sự tương tác giữa các đònh chế này với hoạt động của thò trường chứng
khoán trong quá trình huy động vốn đầu tư.
Thứ hai, nghiên cứu toàn diện cơ chế huy động vốn thông qua các đònh
chế tài chính trung gian và gắn kết cơ chế này với môi trường chính sách vó mô
của nhà nước nói chung và đặc thù của TP. Hồ Chí Minh nói riêng.
Thứ ba, tập trung nghiên cứu các giải pháp thúc đẩy khả năng huy động
vốn đầu tư trung hạn và dài hạn thông qua các đònh chế tài chính trung gian
Việt nam nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa TP. Hồ Chí
Minh .

Những vấn đề nghiên cứu trên đều gắn kết với bối cảnh hội nhập quốc tế
của nền kinh tế Việt nam.
4.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp hệ thống: Các công cụ tài chính trong quá trình huy động
vốn có quan hệ phụ thuộc và tác động thúc đẩy lẫn nhau. Vì vậy, dựa vào
phương pháp này, công trình phân tích làm nổii bật cơ cấu của từng công cụ
trong hệ thống tài chính và qua đó phân tích xác đònh rõ nét các mặt hoạt động
và phát triển của chúng trong tổng thể của chính sách huy động vốn.
- Phương pháp tổng hợp: Dựa vào phương pháp này, công trình nghiên
cứu và phân tích cơ chế vận hành của các công cụ tài chính được đặt trong một
tổng thể thống nhất, từ đó tránh xem xét những sự kiện một cách biệt lập, tách
rời các sự kiện khác trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
- Phương pháp lòch sử: Các công cụ tài chính luôn tồn tại trong nó trạng
thái phát triển và biến đổi dưới sự tác động của nhân tố khách quan trong nền
kinh tế xã hội. Do đó, dựa vào phương pháp lòch sử, công trình phân tích một
cách sâu sắc sự vận hành của các công cụ tài chính trong sự gắn chặt với tình
hình thực tiễn và sự phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn
phát triển.
Ngoài ra, công trình nghiên cứu còn dùng các phương pháp phân tích,
thống kê, quy nạp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài nghiên cứu .
5. KẾT CẤU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục tham khảo, kết cấu đề tài
nghiên cứu chia thành 3 chương với các nội dung nghiên cứu: cơ sở lý luận về
các đònh chế tài chính trung gian và huy động vốn đầu tư thông qua các đònh
chế tài chính trung gian trong nền kinh tế thò trường; đánh giá thực trạng huy
động vốn đầu tư thông qua các đònh chế tài chính trung gian của việt nam trên
đòa bàn Tp.HCM từ năm 1996 đến nay; đề xuất các giải pháp thúc đầy huy động
vốn đầu tư thông qua các đònh chế tài chính trung gian của việt nam trên đòa
bàn Tp.HCM đến năm 2010.









KẾT LUẬN

ới nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế của Thành phố theo mô hình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu Thành phố cần đẩy mạnh khai thác
vốn dài hạn từ các kênh thò trường tài chính và các trung gian tài chính. Trong
điều kiện thò trường chứng khoán hiện còn đang ở giai đoạn khởi điểm, nên các
trung gian tài chính được xem là kênh chủ yếu để khai thác vốn đầu tư cho
Thành phố. Nhưng với đặc điểm truyền thống của các đònh chế tài chính trung
gian chủ yếu là huy động các nguồn vốn có thời gian ngắn nhưng sau đó phải
cho các doanh nghiệp vay với thời gian sử dụng vốn dài hơn. Điều này luôn luôn
đặc cho các đònh chế tài chính trung gian phải đương đầu nhiều rủi ro về khả
năng thanh toán.
Kết quả công trình nghiên cứu này nhấn mạnh, để gia tăng khả năng huy
động vốn đầu tư dài hạn qua các đònh chế tài chính trung gian trên đòa bàn
Thành phố cần phải tập trung phát triển mạnh các đònh chế quỹ đầu tư chuyên
nghiệp, phát triển mô hình ngân hàng đa năng, tăng cường sự gắn kết hoạt
động của các đònh chế tài chính trung gian với thò trường chứng khoán trong
việc khai thác các nguồn vốn dài hạn.
Chính phủ và chính quyền Thành phố cần có sự hợp tác trong việc hoàn
thiện chính sách cho sự tạo môi trường phát triển các đònh chế tài chính. Bản
thân các đònh chế phải không ngừng vươn lên để nâng cao chất lượng kinh
doanh và năng lực cạnh tranh phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tề quốc tế,

qua đó khai thác có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội, đáp ứng nhu
cầu vốn đầu tư của Thành phố ngày một gia tăng. Ở một tầm ngắm xa hơn,
Chính phủ và chính quyền Thành phố cần có chiến lược phát triển Thành phố
thành trung tâm tài chính của cả nước và khu vực nhằm phát triển đa dạng các
dòch vụ tài chính, chuyển tải các nguồn vốn trong và ngoài nước cho sự đầu tư
và phát triển kinh tế.

V

MỤC LỤC

Trang
LỜI MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN VÀ
HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ THÔNG QUA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH
TRUNG GIAN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1
1.1 Cơ sở lý luận về các đònh chế tài chính trung gian 1
1.2 Huy động vốn đầu tư thông qua các đònh chế tài chính trung gian 18
1.3 Mối quan hệ tương tác giữa các đònh chế tài chính trung gian với thò
trường chứng khoán 35

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ THÔNG QUA CÁC ĐỊNH
CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN CỦA VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN
TP.HCM TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY 50
2.1 Tình hình kinh tế – tài chính của TP.HCM từ năm 1996 đến nay 50

2.2 Vò thế trung tâm tài chính của Thành phố Hồ Chí Minh 58
2.3 Thực trang huy động vốn đầu tư thông qua các đònh chế tài
chính trung gian của Việt Nam trên đòa bàn TP.HCM từ năm 1996
đến nay 65
2.4 Thực trạng mối quan hệ tương tác giữa các đònh chế tài chính trung
gian với thò trường chứng khoán từ năm 1996 cho đến nay 80
2.5 Đánh giá hiệu quả huy động vốn đầu tư thông qua các đònh chế tài
chính trung gian của Việt Nam trên đòa bán TP Hồ Chí Minh từ
năm 1996 đến nay 94


CHƯƠNG III:
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẦY HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ THÔNG QUA
CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN CỦA VIỆT NAM TRÊN ĐỊA
BÀN TP.HCM ĐẾN NĂM 2010 129
3.1 Đònh hướng đầu tư phát triển của TP.HCM đến năm 2010 129
3.2 Nhu cầu vốn đầu tư và các quan điểm huy động vốn thông qua các
đònh chế tài chính trung gian trên đòa bàn TP.HCM đến năm 2010 135
3.3 Tái cơ cấu hệ thống các đònh chế tài chính trung gian của Việt Nam
trên đòa bàn TP Hồ Chí Minh 138
3.4 Các giải pháp vó mô nhằm thúc đẩy huy động vốn đầu tư thông qua
các đònh chế tài chính trung gian của Việt Nam trên đòa bàn TP Hồ
Chí Minh đến năm 2010 139
3.5 Các giải pháp vi mô nhằm thúc đẩy huy động vốn đầu tư thông qua
các đònh chế tài chính trung gian của Việt Nam trên đòa bàn TP Hồ
Chí Minh đến năm 2010 149
3.6 Xây dựng TP Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính của cả nước 182

PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

1. ABS: Chứng khoán đảm bảo bằng tài sản tài chính
2. BH: Bảo hiểm.
3.
DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm
4. GDP: Tổng sản phẩm quốc nội.
5. HIFU: Quỹ Đầu tư Phát triển Đô thò TP.HCM
6. IMF: Qũy Tiền tệ Quốc tế
7. MBS: Chứng khoán đảm bảo bằng tài sản cầm cố, thế chấp
8. NHNN: Ngân hàng Nhà nước.
9. NHTM: Ngân hàng thương mại.
10.
NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần.
11. ODA: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức.
12.
TTCH: Thò trường chứng khoán.
13. WB: Ngân hàng Thế giới

- 1 -

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC ĐỊNH
CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN VÀ
HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ THÔNG
QUA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH
TRUNG GIAN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG


1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
1.1.1. Khái niệm về đònh chế tài chính trung gian
Trong nền kinh tế thò trường, khi mà số lượng và mức độ tiết kiệm của các
2chủ thể ngày càng gia tăng, đồng thời quy mô sản xuất không ngừng mở rộng
vượt quá khả năng vốn tự có, sự ra đời và phát triển các hình thức điều tiết vốn
giữa các chủ thể với nhau là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu giao lưu vốn
thực tế khách quan của nền kinh tế xã hội. Tựu trung lại, quá trình điều tiết
vốn của xã hội được thể hiện thông qua hai hình thức cơ bản:
§ Điều tiết vốn trực tiếp: Các chủ thể thừa vốn ( tiết kiệm) trực tiếp tài
trợ đáp ứng nhu cầu vốn của các chủ thể cần vốn - là người chi tiêu
cuối cùng bằng việc mua các loại chứng khoán khởi thủy của các chủ
thể này.
§ Điều tiết vốn gián tiếp: Các chủ thể thừa vốn không thể tài trợ trực
tiếp để đáp ứng nhu cầu vốn của các chủ thể cần vốn - người sử dụng
vốn cuối cùng mà phải thông qua các đònh chế tài chính trung gian.
Quá trình xã hội hóa càng phát triển, đạt trình độ cao làm cho đồng tiền
có khả năng tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Sự mua bán chuyển

- 2 -

nhượng quyền sở hữu và quyền sử dụng về tài sản, tiền vốn đòi hỏi cần phải có
các đònh chế tài chính trung gian.
Thuật ngữ đònh chế được sử dụng trong công trình nghiên cứu này được
hiểu theo 2 góc độ: (1) tổ chức được thành lập vì mục đích đặc biệt và nó có
những thể chế hay những quy tắc được xã hội và luật pháp thừa nhận; (2) cơ
chế hoạt động của tổ chức này. Tài chính trung gian là hoạt động tài chính
phản ảnh sự điều phối nguồn vốn giữa người tiết kiệm (ultimate savers) và
người cần vốn cuối cùng (ultimate borrowers). Như vậy, có thể đònh nghóa các
đònh chế tài chính trung gian là những tổ chức thực hiện huy động nguồn tiền
của những người tiết kiệm cuối cùng và sau đó cung cấp cho những người cần

vốn cuối cùng.




Những người tiết kiệm cuối cùng bao gồm các chủ thể như hộ gia đình,
doanh nghiệp và Chính phủ. Trên cơ sở số thu nhập có được, bằng việc tiết
kiệm các khoản chi tiêu trong tiêu dùng, các chủ thể này góp phần làm gia tăng
thêm nguồn vốn cung cấp cho nhu cầu đầu tư của xã hội. Những chủ thể cần vốn
cuối cùng cũng chính là các hộ gia đình, doanh nghiệp và Chính phủ. Những
chủ thể này đang tiến hành thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh,
cung cấp hàng hóa cho xã hội mà nhu cầu vốn đầu tư vượt quá khả năng tự tài
trợ nên buộc họ phải tìm kiếm nguồn tài trợ từ những người tiết kiệm cuối cùng
trên thò trường tài chính.

Những ngư
ời

tiết kiệm
§ Hộ gia đình
§ Doanh nghiệp
§ Chính phủ
Những người cần
vốn cuối cùng
§ Hộ gia đình
§ Doanh nghiệp
§ Chính phủ
Đònh chế

tài

chính
trung
gian


- 3 -

1.1.2. Đặc điểm của đònh chế tài chính trung gian
Các đònh chế tài chính trung gian có các đặc điểm chung sau đây:

Các đònh chế tài chính trung gian là các cơ sở kinh doanh tiền tệ và
giấy tờ có giá được tổ chức và hoạt động để đạt những mục đích sinh lợi nhất
đònh. Xét về khía cạnh này các đònh chế tài chính trung gian có đặc điểm giống
như các đơn vò kinh doanh khác. Có thể mô tả hoạt động của các đònh chế tài
chính trung gian theo sơ đồ sau:






Tiến trình tạo ra các đầu ra của các đònh chế tài chính trung gian
gồm 2 giai đoạn: (1) huy động nguồn tiền của những người tiết kiệm cuối cùng;
(2) chuyển số vốn tiết kiệm này cho một số người cần vốn cuối cùng.
§ Ở giai đoạn 1: Để huy động nguồn tiền của những người tiết kiệm
cuối cùng, các đònh chế tài chính trung gian phát hành các loại tài
sản tài chính của riêng nó với đặc tính có mức rủi ro thấp, như:
trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, tài khoản thanh
toán để thu hút tiền nhàn rỗi của xã hội. Mức độ huy động nguồn
tiết kiệm của xã hội phụ thuộc năng lực kinh doanh của các đònh

chế tài chính rất lớn.
§ Ở giai đoạn 2: các đònh chế tài chính trung gian tiến hành mua lại
các loại tài sản tài chính do những đơn vò cần vốn cuối cùng phát
Các yếu tố đầu vào

§ Tài sản cố đònh
§ Vốn bằng tiền
§ Nhân lực
§ Quản lý …
Các đầu ra

Giai đoạn 1:
§ Huy động các khoản
tiền tiết kiệm…
Giai đoạn 2:
§ Cho vay, đầu tư.
§ Cung cấp các dòch vụ
tài chính khác …
Đònh chế

tài chính
trung gian


- 4 -

hành, như: thương phiếu, trái phiếu, các hợp đồng vay nợ, hợp
đồng bảo hiểm…

Các đònh chế tài chính trung gian đảm nhận những hoạt động trung

gian như sau:
§ Trung gian mệnh giá:
Các đònh chế tài chính trung gian thực hiện huy động các khoản
tiền tiết kiệm có quy mô nhỏ tập trung thành quỹ cho vay có quy
mô lớn để tài trợ cho những người cần vốn.
§ Trung gian rủi ro ngầm đònh:
Các đònh chế tài chính trung gian phát hành những loại chứng
khoán thứ cấp tương đối an toàn và dễ lưu hoạt để thu hút tiền tiết
kiệm của những người không chấp nhận rủi ro; nhưng đồng thời
các đònh chế tài chính trung gian lại chấp nhận những chứng
khoán sơ cấp có rủi ro cao do những người cần vốn phát hành.
§ Trung gian kỳ hạn:
Các đònh chế tài chính trung gian huy động những khoản tiền tiết
kiệm có những thời hạn khác nhau, sau đó chuyển hóa tài trợ cho
những người cần vốn với những kỳ hạn cũng khác nhau.
§ Trung gian thanh khoản:
Các hộ gia đình, các doanh nghiệp nắm giữ các loại chứng khoán
lưu hoạt, khi có nhu cầu chi tiêu tiền mặt có thể đến các đònh chế
tài chính trung gian chuyển đổi thành tiền.
§ Trung gian thông tin:
Bằng những kỹ năng của mình, các đònh chế tài chính trung gian
thay thế những người tiết kiệm tiếp cận thông tin và đánh giá khả

- 5 -

năng của người cần vốn cuối cùng để đánh giá và đặt vốn đầu tư
một cách có hiệu quả.
1.1.3. Phân loại các đònh chế tài chính trung gian
− Căn cứ vào đặc điểm hoạt động, trong nền kinh tế thò trường xuất
hiện những loại đònh chế tài chính trung gian chủ yếu:

§ Ngân hàng thương mại;
§ Các loại quỹ tiết kiệm;
§ Các quỹ tín dụng
§ Các công ty bảo hiểm;
§ Các công ty tài chính;
§ Các loại quỹ hỗ tương;
§ Các quỹ đầu tư ….
− Căn cứ vào mức độ thực hiện chức năng trung gian, các đònh chế tài
chính trung gian được chia thành 3 loại :
+ Các đònh chế nhận tiền gửi:
Đây là những đònh chế tài chính trung gian hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân, sau đó sử dụng nguồn vốn này
để cấp tín dụng và mua chứng khoán, bao gồm các ngân hàng thương mại, các
quỹ tín dụng, các hiệp hội vay nợ và tiết kiệm, các ngân hàng tiết kiệm hỗ
tương …
+ Các đònh chế tiết kiệm theo hợp đồng:
Bao gồm các công ty bảo hiểm nhân thọ, các công ty bảo hiểm tai nạn và
tài sản Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng thu nhận vốn theo đònh kỳ trên
cơ sở hợp đồng thỏa thuận với khách hàng và đầu tư chúng vào thò trường vốn

- 6 -

dưới các loại tài sản tài chính dài hạn như: chứng khoán vốn và chứng khoán
nợ. Do nguồn vốn huy động có đặc điểm là ổn đònh và dự đoán được, nên tính
lỏng của các tài sản tài chính không là tiêu thức ưu tiên hàng đầu trong quản lý
tài sản của các đònh chế tiết kiệm theo hợp đồng.
+ Các đònh chế trung gian đầu tư:
Bao gồm quỹ đầu tư, quỹ hỗ tương, công ty tài chính và quỹ hỗ tương thò
trường tiền tệ. Các trung gian đầu tư thực hiện huy động vốn trên thò trường rất
đa dạng bằng cách phát hành các loại chứng từ có giá như tín phiếu, trái phiếu,

sau đó mua danh mục đầu tư ( portfolio) trên thò trường tài chính. Đặc trưng của
các tổ chức này là huy động vốn trung dài hạn để đầu tư vào những lónh vực
chuyên môn hóa mà họ có lợi thế để giảm áp lực cạnh tranh từ phía ngân hàng.
1.1.4. Các đònh chế tài chính trung gian ở Việt nam
Cho đến nay, nền kinh tế Việt nam đã hình thành nên hệ thống các đònh
chế tài chính trung gian chính thức sau:

Các tổ chức tín dụng được chi phối bởi Luật các Tổ chức Tín dụng:
Luật các Tổ chức Tín dụng được Quốc hội khóa 10 thông qua ngày
12/12/1997 và Luật bổ sung, sửa đổi năm 2002 xác đònh các tổ chức tín dụng là
những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dòch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dòch
vụ thanh toán
1
. Các tổ chức tín dụng chính thức của Việt nam bao gồm:
§ Các ngân hàng thương mại.

1
Theo Luật các tổ chức tín dụng (năm 1997 và bổ sung, sửa đổi 2002):
§ các loại tiền gửi mà các tổ chức tín dụng nhận của khách hàng gồm tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác.
§ cấp tín dụng tức là các tổ chức tín dụng để khách hàng sử dụng một khoản tiền với
nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.

- 7 -

§ Tổ chức tín dụng hợp tác.
§ Công ty tài chính.
§ Công ty cho thuê tài chính.

§ Các quỹ hỗ trợ đầu tư của nhà nước .
§ Các quỹ đầu tư và quỹ hỗ tương

Công ty bảo hiểm được chi phối bởi Luật kinh doanh bảo hiểm và văn
bản pháp lý liên quan đến lónh vực bảo hiểm.
Các đònh chế tài chính trung gian trên nếu xét về hình thức sở hữu gồm
các đònh chế tài chính trung gian thuộc sở hữu nhà nước và các đònh chế tài
chính trung gian thuộc sở hữu tư nhân; nếu xét về phạm vi gồm các đònh chế tài
chính trung gian trong nước và các đònh chế tài chính trung gian có vốn đầu tư
nước ngoài; nếu xét về mục đích hoạt động gồm các đònh chế tài chính trung
gian hoạt động vì mục đích lợi nhuận và các đònh chế hoạt động không vì mục
đích lợi nhuận (Ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ hỗ trợ đầu tư ).
Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu các
đònh chế tài chính trung gian của Việt nam và không xếp loại hình tiết kiệm
qua bưu điện là một đònh chế tài chính trung gian, bởi lẽ:
§ Tiết kiệm bưu điện chưa phải là một tổ chức độc lập. Hoạt động
của tiết kiệm bưu điện được điều hành lồng ghép trong hệ thống
Tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt nam.
§ Số vốn mà tiết kiệm bưu điện huy động được một phần để lại cho
Tổng công ty Bưu chính – Viễn thông nhằm trang trãi chi phí
hành chính; phần lớn số vốn còn lại, tiết kiệm bưu điện không
thực hiện cấp vốn cho người cần vốn cuối cùng mà theo quy đònh
của Chính phủ phải chuyển cho Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển

- 8 -

để thực hiện cho vay theo chính sách tín dụng chỉ đònh của
Chính phủ.
1.1.4.1. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một đònh chế tài chính trung gian thực hiện toàn

bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dòch vụ ngân hàng với nội dung
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng,
cung cấp các dòch vụ thanh toán.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thò trường, hệ thống
NHTM đã ngày càng hoàn thiện và đa dạng các công cụ huy động vốn. Mặt
khác với mạng lưới ngân hàng được mở rộng phạm vi hoạt động đã tạo điều
kiện để các NHTM đóng vai trò quan trọng trong số các loại hình đònh chế tài
chính trung gian về khả năng thu hút vốn nhàn rỗi trong công chúng. Để duy
trì hoạt động, ngoài nguồn vốn tự có, cơ cấu nguồn vốn huy động của NHTM là
rất đa dạng, song nhìn chung bao gồm các nguồn chủ yếu sau :
§ Nguồn huy động từ tiền gửi thanh toán – tiền gửi không kỳ hạn.
§ Nguồn huy động từ tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm.
§ Nguồn huy động qua thò trường liên ngân hàng.
§ Nguồn huy động qua phát hành các chứng từ có giá như: giấy
chứng nhận tiền gửi, chứng thư tiết kiệm, trái phiếu tiết kiệm….
Ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình
thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê
tài chính và các hình thức dòch vụ tài chính khác.
1.1.4.2. Quỹ đầu tư

- 9 -

Quỹ đầu tư là một đònh chế tài chính trung gian có nhiệm vụ huy động
những nguồn
vốn nhỏ, nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn lớn, nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dài hạn, đặc biệt là các dự án phát triển sản xuất
trong nền kinh tế .
Căn cứ vào qui mô, cách thức và tính chất góp vốn, quỹ đầu tư chia làm
2 loại:

− Quỹ đầu tư dạng đóng.
Đây là quỹ đầu tư mà theo điều lệ qui đònh thường chỉ tạo vốn qua một lần
bán chứng khoán cho công chúng. Quỹ đầu tư dạng đóng có thể phát hành cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không được phát hành thêm
bất kỳ một loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không mua lại các
cổ phiếu đã phát hành. Những người tham gia góp vốn đầu tư không được phép
rút vốn bằng cách bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho chính quỹ đầu tư. Tuy
nhiên, chính việc cấm rút vốn làm cho cấu trúc của quỹ rất chặt chẽ, nên các
chứng chỉ quỹ đầu tư dạng đóng thường được niêm yết giao dòch trên SGDCK, vì
vậy người đầu tư có thể rút vốn bằng cách bán lại các chứng chỉ quỹ đầu tư trên
SGDCK. Với tính chất cơ cấu vốn ổn đònh cho phép quỹ đầu tư dạng đóng có thể

đăng ký đầu tư vào các dự án lớn và các chứng khoán có tính thanh khoản
thấp.
Quỹ đầu tư dạng đóng dùng số vốn của mình đầu tư vào các doanh nghiệp
hay TTCK và Sau đó lại dùng số tiền và vốn lãi thu được để đầu tư tiếp. Như
vậy, qui mô vốn của loại quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản lợi nhuận thu
được mà thôi .
− Quỹ đầu tư dạng mở.
Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là quỹ tương hỗ. Khác với quỹ đầu tư
dạng đóng, các quỹ này luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để tăng vốn

- 10 -

và cũng sẵn sàng mua lại những cổ phiếu đã phát hành. Các cổ phiếu của quỹ
được bán trực tiếp cho công chúng không qua TTCK. Muốn mua cổ phiếu của
quỹ đầu tư dạng mở chúng ta không qua môi giới, không phải trả tiền hoa hồng
và có thể viết thư hoặc điện thoại trực tiếp cho quỹ xin các giấy tờ cần thiết, do
đó tạo cơ hội cho bất kỳ ai cũng có thể tham gia và trở thành chủ sở hữu của
quỹ. Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ này đều là cổ phiếu thường, so với

quỹ đầu tư dạng đóng , quỹ đầu tư dạng mở có lợi thế rõ ràng về khả năng huy
động , mở rộng qui mô vốn , do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn các dự
án đầu tư .
Do cấu trúc hoạt động của quỹ có tính chất "mở" nên rất thuận tiện cho
người đầu tư trong việc rút vốn vào bất cứ lúc nào nếu họ thấy hoạt động của
quỹ không hiệu quả. Tuy nhiên , đây cũng là điểm bất lợi cho quỹ vì cơ cấu vốn
không ổn đònh cho nên quỹ thường xuyên phải duy trì một tỷ lệ khá lớn những
tài sản có tính thanh khoản cao như các trái phiếu Chính phủ hoặc cổ phiếu
được niêm yết trên SGDCK, chứ ít có khả năng đầu tư vào các dự án lớn có
tiềm năng và những dự án có lợi nhuận lớn nhưng có độ rủi ro cao .
Căn cứ vào mô hình cấu trúc tổ chức - điều hành, quỹ đầu tư được tổ chức
dưới 2 hình thức là quỹ đầu tư dạng công ty và quỹ đầu tư dạng tín thác.
− Quỹ đầu tư dạng công ty.
Theo mô hình công ty, quỹ đầu tư được xem là một pháp nhân đầy đủ,
những người góp vốn vào quỹ trở thành các cổ đông và có quyền bầu ra Hội
đồng quản trò quỹ. Đây là tổ chức cao nhất trong quỹ đứng ra thuê công ty quản
lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản quỹ và giám sát việc tuân thủ hoạt động
của 2 tổ chức này. Trong đó, ngân hàng giám sát đóng vai trò bảo quản các tài
sản quỹ, nhận hoặc giao chứng khoán cho quỹ khi thực hiện lệnh giao dòch .
Còn công ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử người điều hành và sử dụng vốn của
quỹ để đầu tư vào các chứng khoán hay các tài sản sinh lợi khác. Mô hình quỹ

- 11 -

đầu tư tổ chức dưới dạng công ty thường được sử dụng ở các nước có TTCK phát
triển, tiêu biểu là thò trường Mỹ và Anh .
− Quỹ đầu tư dạng tín thác.
Theo mô hình tín thác, quỹ đầu tư không được xem là một pháp nhân đầy
đủ, mà chỉ là quỹ chung vốn giữa những người đầu tư để thuê các chuyên gia
quản lý quỹ chuyên nghiệp đầu tư sinh lợi . Theo mô hình này, vai trò của công

ty quản lý quỹ khá nổi bật. Đó là tổ chức đứng ra thành lập và sử dụng vốn thu
được thông qua việc phát hành các chứng chỉ đầu tư để đầu tư vào những nơi có
hiệu quả nhất. Còn ngân hàng giám sát đóng vai trò là người bảo quản an toàn
vốn và tài sản của người đầu tư , giám sát các hoạt động của công ty quản lý
quỹ trong việc tuân thủ điều lệ quỹ đầu tư. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới
dạng tín thác thường được sử dụng ở các TTCK mới nổi, đặc biệt là các TTCK
đang phát triển ở Châu Á .
Ở Việt Nam, quỹ đầu tư của Nhà nước được hình thành dưới các dạng sau:
− Quỹ hỗ trợ phát triển: được thành lập theo Nghò đònh 50/1999 ngày
8/7/1999 của Chính phủ và đi vào hoạt động kể từ 1/1/2000 . Nguồn vốn hình
thành của Quỹ này bao gồm vốn điều lệ và vốn huy động từ phát hành trái
phiếu Chính phủ , tiếp nhận nguồn vốn ODA để cho vay lại ; vay các quỹ tích
lũy trả nợ nước ngoài, tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm xã hội và các nguồn
vốn khác .
− Quỹ đầu tư phát triển đòa phương: loại quỹ này được Chính phủ cho
phép thí điểm đầu tiên tại TP. Hồ Chí Minh từ tháng 6/1997 sau đó mở rộng ra
các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Đồng Tháp, Bình Đònh . Nguồn vốn
hoạt động của quỹ chủ yếu là do ngân sách Nhà nước cấp, vốn huy động thông
qua phát hành trái phiếu , vay nợ từ các tổ chức , cá nhân trong và ngoài nước
Hoạt động của quỹ thực hiện theo nguyên tắc tự chủ về tài chính , bảo toàn

- 12 -

và phát triển vốn, tự bù đắp chi phí và tự chòu rủi ro . Quỹ cho vay đầu tư theo
từng dự án với lãi suất cụ thể do chính quyền Nhà nước đòa phương trên cơ sở
đề nghò của Hội đồng quản lý quỹ .
1.1.4.3. Công ty tài chính
Là công ty cổ phần hoặc quốc doanh thực hiện kinh doanh tiền tệ, chủ yếu
là cho vay ngắn và trung hạn phục vụ các hoạt động mua bán hàng hoá và dòch
vụ đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Ngoài dòch vụ tín dụng, các công ty tài chính còn thực hiện các dòch vụ như
cầm cố hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, giấy tờ có giá, làm tư vấn tài chính cho các
doanh nghiệp trong ký kết hợp đồng hoặc thành lập các công ty liên doanh. Các
công ty tài chính của các tập đoàn công nghiệp là sự bù đắp vào lỗ hổng thiếu
hụt tài chính do thiếu khả năng cung ứng của các ngân hàng thương mại. Các
công ty, tập đoàn kinh doanh khi đã đủ lớn mạnh thường đẻ ra cho mình một
công ty tài chính. Các công ty này vay nợ từ nhân dân bằng cách phát hành
trái phiếu hoặc cổ phiếu tùy theo từng trường hợp. Phần lớn tiền thu được từ
việc phát hành phiếu nợ này sẽ được cung ứng cho hoạt động của công ty mẹ,
phần còn lại đưa vào thò trường cho vay. Người vay tiền của các công ty tài
chính thường là những cá nhân hoặc đơn vò cần tiền rất gấp mà không thể vay
được ngay từ các ngân hàng thương mại . Tính cách vay này có thể hiểu như là
vay nóng ở Việt Nam , vì thời gian vay thường rất ngắn (một vài ngày đến một
vài tuần ) và lãi suất phải trả rất cao, nhiều khi cao hơn lãi suất tiền vay của
các ngân hàng thương mại đến 4 hoặc 5 lần .
1.1.4.4. Các công ty bảo hiểm
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm (BH) có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia. Các công ty BH được
xem là “lá chắn” về kinh tế, bảo vệ cho mọi tổ chức, cá nhân. Mặt khác BH còn

- 13 -

có khả năng tập trung, huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Mọi hoạt
động BH cho dù dưới hình thức nào đều dựa trên nguyên tắc số đông đoàn kết,
cùng nhau chia sẽ rủi ro. Công ty BH phải là những nhà tổ chức, tập hợp mọi
người tham gia, có rủi ro cùng tính chất, qua đó có thể bù trừ lẫn nhau trong
hội tương hỗ này. Tính chất đoàn kết dựa vào số đông cùng nhau chia sẻ rủi ro
cho phép loại bỏ sự ngẫu nhiên, mang lại sự an toàn, tổn thất của số ít người
trở thành trách nhiệm của tất cả các thành viên tham gia cùng gánh chòu.


−−

Đặc điểm hoạt động của bảo hiểm thương mại.
+ BH là một hoạt động đặc biệt, khi hợp đồng BH được ký kết, đồng
nghóa khách hàng phải thanh toán một khoản phí cho BH, để đổi lấy cam kết
đảm bảo về mặt tài chính từ BH, về những rủi ro có thể xảy ra ở tương lai cho
khách hàng. ‘’Đặc trưng này cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu đối với các DNBH
và đặc biệt quan trọng và là nguồn lực tài chính quan trọng, được DNBH đem
đầu tư dài hạn. Với chính sách kinh tế hội nhập, phát triển, nhiều hình thức sở
hữu khác nhau trong ngòai nước, qua đó đã làm đa dạng, phong phú nguồn vốn
huy động của thò trường bán hàng Việt Nam”. Như vậy phí thu của khách hàng
phải được dự trữ bằng loại quỹ dự phòng, nhằm giúp cho BH có đủ năng lực tài
chính, thực hiện cam kết với người tham gia.
+ Khoảng thời gian kể từ khi thu phí đến lúc phải bồi thường, dài hay
ngắn phụ thuộc vào đặc điểm sản phẩm BH nhân thọ hay phi nhân thọ, vì vậy
công ty BH với vai trò phân phối lại các nguồn lực tài chính bằng những
phương pháp, kỹ thuật của mình.
BH phi nhân thọ là những sản phẩm BH có kỳ hạn cam kết dưới một năm,
về lý thuyết phí thu được sẽ phải dự phòng suốt một năm BH. Khi chưa có tổn
thất, hoặc tổn thất nhỏ với số lượng ít, BH vẫn có thể quản lý lượng vốn nhàn
rỗi, lượng vốn này đem đầu tư ngắn hạn. Thực tế một phần quỹ dự phòng phi
nhân thọ cũng được đầu tư trung dài hạn là do:

- 14 -

§ Trong một số loại BH như BH hàng hải, BH hàng không hay nhà ở
với trò giá lớn, khi xảy ra tổn thất, có thể chưa được bồi thường ngay
trong năm tổn thất, do cần thời gian điều tra, giám đònh hoặc cần có
thủ tục hành chính. Thiệt hại này phải được dự phòng tiếp theo cho
những năm sau để bồi thường khi có thể được.

§ Hàng năm, từ phí thu được, phải tích hợp một phần cho quỹ dự phòng
tổn thất nghiêm trọng có thể xảy ra trong tương lai xa. Dự phòng này
được trích lập dần hàng năm. Như vậy trong hoạt động BH phi nhân
thọ, một phần phí thu được vẫn có thể thực hiện đầu tư dài hạn trên
thò trường tài chính. Điều này càng hiện thực hơn nếu công cụ đầu tư
tài chính có độ thanh khoản cao. Với sự phát triển của thò trường tài
chính sẽ tạo ra cơ hội cho công ty BH cải thiện cơ cấu đầu tư tài chính
theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
Trái lại với BH phi nhân thọï, BH nhân thọ liên quan đến rủi ro gắn với
tuổi thọ của con người, do vậy để thương mại hóa sản phẩm BH nhân thọ, các
sản phẩm này được đảm bảo bằng những hợp đồng dài hạn 5, 10, 20 … năm. BH
nhân thọ là sự kết hợp hài hoà giữa BH với tiết kiệm dài hạn. Một hợp đồng
BH nhân thọ trong khoảng thời gian còn hiệu lực, nếu xảy ra sự kiện được BH,
khách hàng được trợ cấp số tiền BH cho tổn thất xảy ra, đây là số tiền BH về
rủi ro tổn thất. Nếu không xảy ra bất kỳ sự kiện BH nào, đến ngày đáo hạn
hợp đồng, người tham gia được nhận số tiền BH, đây là khoản tiết kiệm trong
suốt thời gian tham gia, cộng thêm khoản lãi được chia trên số phí đóng góp.
Như vậy với số phí bảo hiểm thu được hàng năm sẽ BH tách làm hai phần sau:
§ Một phần nhỏ để bù đắp các rủi ro có thể xảy ra sự kiện BH
hàng năm
§ Phần chủ yếu để tích lũy nhiều năm cho đến ngày hợp đồng đáo hạn.

- 15 -

BH nhân thọ đã tạo ra khả năng cho công ty BH, quản lý một nguồn tài
chính dồi dào, tích lũy qua nhiều năm, vì vậy sự tham gia của công ty BH nhân
thọ vào thò trường tài chính trở thành mối quan hệ “đònh mệnh” quyết đònh sự
tồn tại, phát triển ổn đònh của công ty này.
1.1.5. Vai trò của các đònh chế tài chính trung gian trong nền kinh
tế thò trường


−−

Khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thò trường
tài chính.
Trong một tiến trình giao dòch vốn, đối với nhà đầu tư tức là người cần vốn
bao giờ cũng nắm rõ thông tin về mức độ rủi ro và tỷ suất sinh lời của dự án
đầu tư mà anh ta đang tiến hành hơn là người cung cấp vốn. Vấn đề này còn
gọi là thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân xứng sẽ nẩy sinh 2 vấn đề làm
cho người thừa vốn không sẵn lòng cung cấp cho người cần vốn đó là: lựa chọn
đối nghòch và rủi ro đạo đức.
+ Lựa chọn đối nghòch.
Lựa chọn đối nghòch xảy ra trước khi giao dòch vốn. Đối với những người
cần vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp đang gặp phải nhiều khó khăn về huy
động vốn thường có khuynh hướng đưa ra mức lãi suất huy động vốn rất cao.
Nhưng một sự lựa chọn đối nghòch xảy ra đối với người cung cấp vốn. Bởi vì
không biết rõ lòch sử và đặc điểm hoạt động của người cần vốn, nên người cung
cấp vốn có lẽ cũng không sẵn lòng cung cấp vốn.
+ Rủi ro đạo đức.
Rủi ro đạo đức xảy ra sau khi thực hiện giao dòch vốn. Những hợp đồng vay
nợ thường có đặc điểm là mức lãi suất cố đònh, vì vậy khi vay được vốn các
doanh nghiệp lại có khuynh hướng sử dụng số vốn vay đầu tư vào những dự án
có lãi suất cao hơn nhưng lại có nhiều rủi ro tiềm năng. Trong khi đó, người cho

×