Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

skkn một vài kinh nghiệm ứng dung cntt vào giảng dạy địa lí 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 40 trang )

Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của
công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin đến với từng người dân, từng người
quản lý, nhà khoa học, người nông dân, bà nội trợ, giáo viên, học sinh ….Không
có lĩnh vực nào, không có nơi nào không có mặt của công nghệ thông tin. Công
nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức
mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới,
phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc
phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Như vậy sự bùng nổ của công nghệ thông tin nói riêng và khoa học công
nghệ nói chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành
trong xã hội. Vì thế, giáo dục không thể đứng ngoài cuộc, nhất là trong quá trình
triển khai thực hiện đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Nhằm hướng tới mục tiêu hiện đại hóa giáo dục, bắt kịp với xu thế của thời
đại, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các trang thiết bị dạy
học tiên tiến vào quá trình giảng dạy và học tập là một chủ trương đúng đắn.
Trong khoa học Địa lí cũng như việc dạy học Địa lí các thiết bị hiện đại như
máy chiếu, các phần mềm…là phương tiện bổ trợ đắc lực để làm phong phú
thêm cho việc nâng cao phương pháp dạy học theo hướng tích cực, sáng tạo của
học sinh.
Do đó tôi mạnh dạn tìm hiểu, trải nghiệm và đưa ra đề tài sau đây để quý
thầy cô giáo, các em học sinh và những ai quan tâm đến vấn đề dạy học bằng
công nghệ thông tin tham khảo, bổ sung, góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn.



Xin chân thành được cảm ơn!


Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
1
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin ( viết tắt là CNTT ) sẽ làm tăng
độ hấp dẫn của các bài giảng, khiến học sinh dễ tiếp thu kiến thức.Với xu thế
phát triển mạnh mẽ của CNTT, giáo viên không thể duy trì cách dạy học truyền
thống. Thông qua nhiều phương thức học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giờ đây,
phần lớn giáo viên đều đã biết cách sử dụng Power Point để làm giáo án điện tử,
trao đổi nghiệp vụ qua email hoặc tham gia các diễn đàn giáo dục nội bộ hoặc
của Bộ Giáo dục & Đào tạo……
Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương
pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến
tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy
học đồng loạt, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi
trường công nghệ thông tin. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp
dạy sao cho học sinh nhớ lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành
và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người
ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kỹ năng
vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học
sinh. Như vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung tâm” sang “lấy học sinh

làm trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Vậy thế nào là công nghệ thông tin? Công nghệ thông tin là một ngành ứng
dụng công nghệ vào quản lý xã hội, xử lý thông tin. Có thể hiểu CNTT là ngành
sử dụng máy tính và các phương tiện truyền thông để thu tập, truyền tải, lưu trữ,
bảo vệ, xử lý, truyền thông tin. Hiện nay, có nhiều cách hiểu về CNTT. Ở Việt
Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong Nghị quyết 49/CP ký
ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT của Chính phủ Việt Nam như sau: “Công
nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công
cụ kỹ thuật hiện đại – chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông – nhằm tổ
chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong
phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
Vậy ứng dụng CNTT vào giảng dạy thì giáo viên sẽ ứng dụng vào những
việc làm nào? Đầu tiên là khâu soạn bài trước khi lên lớp. Hiện nay có nhiều
phần mềm soạn thảo giúp cho giáo viên soạn thảo giáo án, trong đó phần mềm
thông dụng nhất hiện nay là MS Word. Tuy nhiên, để sử dụng MS word một
cách hiệu quả, ngoài thao tác cơ bản, giáo viên cần nắm thêm một số tính năng
nâng cao: Chèn tự động đoạn văn bản, lưu vết, trộn thư, tạo thẻ đoạn mục lục, vẽ
hình đơn giản.
Ngoài ra, tùy theo đặc thù môn học giáo viên có thể biết một số phần mềm
bổ trợ:
- Các phần mềm hỗ trợ giáo án môn Toán: Mathcad, Sketpad, Latex
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
2
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
- Phần mềm hỗ trợ soạn thảo giáo án môn Lý, Hóa, Sinh: Novoasoft
Science Word 6.0
Bên cạnh soạn giáo án thông thường, tỷ lệ giáo viên sử dụng bản trình
chiếu điện tử trong giảng dạy cũng tăng đáng kể. Một trong các phần mềm soạn

thảo bản trình chiếu điện tử thông dụng và đơn giản nhất hiện nay mà giáo viên
thường dùng là MS PowerPoint. Để có thể soạn được các bản trình chiếu điện tử
chất lượng tốt, giáo viên có thể tìm hiểu thêm một số tính năng nâng cao của
PowerPoint: Chèn video clip, chèn âm thanh, tạo ảnh động, biên tập video hay
một số phần mềm sau:
- Adobe Photoshop
- Macromedia Flash
- Violet
- Adobe Pressenter
Một trong các yếu tố để đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất
lượng dạy học là phương tiện dạy học. Đặc biệt khi sử dụng bài giảng điện tử,
giáo viên không thể không sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Công
nghệ thông tin mới đã cung cấp cho chúng ta những phương tiện dạy học hiện
đại: Máy chiếu projector, smart board (bảng thông minh), mạng nội bộ, các phần
mềm dạy học, các trang web… Để sử dụng các phương tiện dạy học, giáo viên
cần làm chủ phương tiện dạy học. Một sự thay đổi đáng kể trong việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào dạy học là nhiều trường đó là đã đưa tiêu chí sử dụng
công nghệ thông tin vào việc đánh giá giờ dạy của giáo viên. Tuy mức độ chưa
cao, nhưng nó đã trở thành động lực để giáo viên khai thác các phương tiện dạy
học hiện đại, nâng cao chất lượng bài dạy.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Đối với bộ môn Địa lí thì việc ứng dụng CNTT có ý nghĩa vô cùng quan trọng
bởi vì quá trình lên lớp giáo viên không nặng nề về các khâu phải chuẩn bị đồ
dùng dạy học như bản đồ, bảng phụ, tranh ảnh… mà vẫn truyền tải được tới cho
học sinh đầy đủ hệ thống kiến thức cần thiết, cũng như hệ thống tranh ảnh, sơ
đồ, lược đồ…một cách trực quan sinh động, truyền tải nhanh tới học sinh một số
kiến thức lớn. Máy vi tính có khả năng lưu trữ, cung cấp thông tin nhanh, chính
xác, cho nên việc sử dụng thành thạo máy vi tính trong giảng dạy sẽ giúp cho
giáo viên truyền thụ kiến thức, phát triển tư duy, rèn luyện kỹ năng thực hành,
ôn tập, củng cố, kiểm tra đánh giá học sinh … điều khiển, điều chỉnh kiểm tra và

liên lạc, luyện tập các kỹ năng và thực hành, minh họa, trực quan hóa bằng mô
phỏng…Thậm chí còn có khả năng cung cấp cho học sinh những kiến thức đặc
biệt mà những phương pháp khác không làm được như: các đoạn phim tư liệu,
hình ảnh được liên kết âm thanh, hiệu ứng, không gian ba chiều…với sự bổ trợ
của phần mềm Powerpoint, violet
Sử dụng Powerpoint : có thể tiến hành soạn giảng các bài giảng điện tử;
phát huy cao độ khả năng đồ họa của máy vi tính; sử dụng thêm các công cụ
khác để phục vụ cho tiến trình dạy học như: vẽ các biểu đồ, đồ thị, xử lí các
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
3
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
bảng số liệu…cho phép nghiên cứu các đối tượng ở nhiều góc độ khác nhau:
trình diễn các đoạn phim liên quan đến kiến thức bài học, trình diễn các hoạt
ảnh, phim video, ghi âm lời thuyết minh; cung cấp một công cụ viết hoặc vẽ trên
nền các slide để đánh dấu các điểm trọng yếu trong nội dung trình bày và có thể
dễ dàng xóa đi mà không làm ảnh hưởng tới các đối tượng đã được tạo ra trước
đó trên slide …Bên cạnh đó có thể sử dụng phần mềm Google Earth: có thể lồng
ghép trong các bài giảng mang tính khoảng cách như: đo khoảng cách trên bản
đồ, xác định phương hướng trên bản đồ … Để thực tế hơn thì chúng ta sử dụng
phần mềm Google Earth để tìm một vùng hay một địa điểm bất kỳ trên bề mặt
Trái Đất và chúng ta có thể biết tọa độ chính xác của chúng. Như vậy cũng giúp
cho học sinh thích thú học hỏi, tìm tòi các sự vật hiện tượng địa lý nhiều hơn…
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc ứng dụng công nghệ
hiện đại vào quá trình giáo dục là xu thế tất yếu. Hiệu quả của việc sử dụng công
nghệ, các trang thiết bị dạy học hiện đại trong quá trình giáo dục đã được khẳng
định trong thực tế, nhất là khả năng làm cho bài giảng trở nên sinh động, giáo
viên có thể định hướng học sinh tiếp cận với một nguồn tri thức phong phú. Khi
sử dụng giáo án điện tử với những môn học, tiết dạy phù hợp, bài giảng của giáo

viên có tính trực quan hơn. Với việc ứng dụng công nghệ thông tin, trong một
tiết dạy, khối lượng kiến thức có thể được truyền đạt tới học sinh nhiều hơn,
giáo viên giảm được đáng kể thời gian ghi bảng hoặc đọc cho học sinh chép.
Do đó để bắt kịp sự phát triển của thời đại, tôi thiết nghĩ khoa học Địa lí
cần trang bị cho học sinh - những chủ nhân tương lai của đất nước được tiếp cận
và thừa hưởng những thành quả hiện đại của loài người.
Việc đổi mới sách giáo khoa theo chủ trương của ngành Giáo Dục, đòi hỏi
dung lượng kiến thức của cả người học và người dạy phải tăng lên. Do vậy việc
dạy học phải có sự kết hợp các phương pháp thật linh hoạt, khoa học, phù hợp
thì mới thu được hiệu quả cao trong học tập, giúp các em nắm được bài học một
cách chủ động, khắc sâu được kiến thức và biết vận dụng sáng tạo vào thực tiến.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin bổ trợ và làm phong phú thêm tính trực quan
của quá trình nhận thức của học sinh, không dừng ở mức độ là đồ dùng dạy học
dạy học thuần túy – vật để minh họa kiến thức, mà còn là một tri thức quan
trọng để học sinh khai thác tối đa kiến thức trong quá trình nhận thức. Mặc dù
vậy, qua thực tiễn giảng dạy cho thấy, nếu lạm dụng quá mức, sử dụng không
linh hoạt, phù hợp, các phương tiện dạy học hiện đại có thể gây ra những “tác
dụng phụ” không mong muốn, làm giảm đi quá trình tương tác cần thiết giữa
thầy và trò. Do đó, cần sử dụng công nghệ, các phương tiện dạy học hiện đại sao
cho phù hợp là vấn đề cần được quan tâm.
Trong suốt quá trình tổ chức giảng dạy bộ môn Địa lí tại trường trung học
cơ sở Tân Ước, tôi thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin đã phát huy được
tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh nhằm phát huy triệt để hệ thống
kiến thức bằng cả kênh chữ và kênh hình (phương tiện trực quan), hệ thống các
phương tiện trực quan như tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu được lưu giữ
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
4
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.

qua hệ thống máy vi tính tương đối chính xác, nhanh và hiệu quả. Chúng có vai
trò rất to lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, khắc sâu kiến thức, giúp các em
hình thành kỹ năng phán đoán, tư duy, tìm tòi và diễn đạt bằng lời một cách
chính xác thông qua hệ thống tranh ảnh được mô phỏng rõ ràng, cụ thể về các hệ
thống kiến thức Địa lí. Học sinh lớp 9 là học sinh cuối cấp, các em đã làm quen
với bộ môn Địa lí từ lớp 6 và đã được định hình về phương pháp học đặc trưng
của bộ môn nhất là phần địa lí kinh tế-xã hội thì việc ứng dụng công nghệ thông
tin để khai thác tri thức từ biểu đồ, bản đồ, bảng số liệu và tranh ảnh là vô cùng
quan trọng, tạo tiền đề để các em học tốt bộ môn Địa lí ở cấp trung học phổ
thông sau này.
Trải qua thực tế giảng dạy và ứng dụng công nghệ thông tin trong mấy năm
dạy học tại trường trung học cơ sở Tân Ước, tôi quyết định viết sáng kiến kinh
nghiệm: “Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
giảng dạy Địa lí lớp 9”, đề xuất một vài kinh nghiệm bản thân mà tôi nhận thấy
đã thu được kết quả khá cao, muốn tiếp tục bày tỏ và chia sẽ với đồng nghiệp
tham khảo và tiếp tục góp ý, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học
môn Địa lí nói chung.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Là học sinh trường khối 8, 9 trường Trung học cơ sở Tân Ước
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã được tôi tiến hành thực hiện từ năm
học 2008-2009 nhưng do điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn nên chưa
mua sắm được máy vi tính, khi đó nhà trường cũng chỉ có 1 máy vi tính cho
giáo viên học tập và nghiên cứu. Trong mấy năm học gần đây tôi thường xuyên
ứng dụng CNTT vào giảng dạy và cũng đã bước đầu đánh giá được vai trò to
lớn của việc ứng dụng CNTT, do đó năm học này tôi quyết định viết sáng kiến
kinh nghiệm về ứng dụng CNTT trong giảng dạy môn Địa lí 9 ở trường THCS
Tân Ước
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm

- Phương pháp điều tra
- Phương pháp đối chứng
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thu thập thông tin, số liệu thống kê
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
+ Sách giáo khoa Địa lý 9 ( NXB Giáo dục).
+ Sách giáo viên Địa lí 9 ( NXB Giáo dục).
+ Cuốn tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn Địa ( NXB Giáo dục).
+ Tài liệu ứng dụng công nghệ thông vào dạy học (thầy Nguyễn Hữu Xuân
– ĐH Quy Nhơn)
+ Giáo trình phương pháp giảng dạy Địa lí ở trường phổ thông ( thầy
Nguyễn Đức Vũ) của trường đại học Huế
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
5
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
+ Sách Địa lí kinh tế-xã hội Việt Nam ( Nhà xuất bản Đại học Huế)
+ Và một số tài liệu tham khảo
B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG
Qua thực tế giảng dạy có ứng dụng CNTT thường xuyên trong các tiết dạy
và qua các tiết dự giờ có ứng dụng CNTT tôi thấy vẫn còn nhiều bất cập và
chứa đựng một số hạn chế nhất định như:
1. VỀ CƠ SỞ VẬT CHẤT, TRANG THIẾT BỊ:
Hiện nay cả trường có 3 phòng học có hệ thống máy chiếu, trong đó có 2
phòng có máy chiếu vật thể, có một phòng học có máy vi tính cố định có kết nối
mạng. Còn lại hai phòng học không có máy tính nên khi dạy giáo viên phải
mang máy tính sách tay đến. Do vậy nếu giáo viên muốn dạy bằng máy vi tính
phải chuẩn bị máy cho thật tốt. Hơn nữa hệ thống phòng học chức năng dành

riêng cho việc dạy học bằng máy chiếu vẫn chưa đảm bảo như thiếu phòng học
chức năng, ánh sáng quá chói nên nhìn rất mờ, diện tích phòng học còn chật
hẹp…dẫn đến hiệu quả của các tiết dạy chưa cao. Do điều kiện cơ sở vật chất
nhà trường chưa đáp ứng đủ nhu cầu học tập của học sinh như năm học 2012-
2013 nhà trường có 10 lớp nên có 2 phòng học chức năng dành cho hai tổ nhưng
đến năm học 2013-2014 số lớp học tăng lên là 11 lớp, do vậy chỉ còn một phòng
học chức năng dành cho bộ Sinh học.Các bộ môn khác muốn dạy phải đăng kí
trước 1 tuần hoặc cho các lớp đổi phòng học dẫn tới tâm lí không ổn định khi
học tập cho học sinh. Đối với hai máy chiếu vật thể mặc dù được sử dụng
thường xuyên nhưng hay bị trục chặc như đang chiếu bị mờ, máy tự nhiên tắt…
dẫn tới nhiều giáo viên không muốn sử dụng nhất là trong các tiết dạy thao
giảng.
Nhà trường đã rất tạo điều kiện cho giáo viên học tập và rèn luyện thường
xuyên tránh việc lãng quên các kiến thức cơ bản về tin học nên đã trang bị hai
máy tính ở phòng chuyên môn có kết nối internet. Thế nhưng có những lúc
phòng học chuyên môn trở lên quá tải vì giáo viên nào cũng có nhu cầu dùng
nhất là vào các đợt thao giảng hay phải làm một báo cáo nào đó yêu cầu phải
đánh máy. Chính vì vậy nhiều giáo viên đã dùng USB để cóp tài liệu về nhà
chỉnh sửa, do đó máy vi tính thường xuyên trong tình trạng bị nhiễm vi rút
không thể hoạt động và hậu quả là một số giáo viên gửi bài qua mail không thể
tải xuống và dẫn tới tình trạng học sinh không được tiếp cận thường xuyên với
CNTT.
2. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH:
Mặc dù thường xuyên được Ban giám hiệu quan tâm tạo điều kiện học tập
nâng cao trình độ CNTT nhưng do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên đa số
giáo viên chưa có máy vi tính để thực hành thường xuyên dẫn tới các kiến thức
đã được lĩnh hội dễ bị lãng quên. Hoặc một số giáo viên trẻ ( chủ yếu là giáo
viên hợp đồng) có máy vi tính nhưng do chi phí lắp đặt internet và cước phí
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước

6
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
hàng tháng quá cao so với mức thu nhập nên đã không kết nối mạng. Vì vậy
buộc phải dành thời gian các tiết học trống giờ hoặc các buổi được nghỉ để đến
trường vào mạng tải bài và tìm tài liệu tham khảo. Chính vì dùng USB nên có
lúc đang giảng dạy máy vi tính cũng gặp sự cố không thể sử dụng tiếp bài giảng
điện tử.
Kỹ năng sử dụng máy vi tính của một số giáo viên còn hạn chế, dẫn đến
một số tiết dạy giáo viên sử dụng thiết bị dạy học còn thiếu linh hoạt. Chưa được
bồi dưỡng và đào tạo cơ bản nên một số tiết dạy còn lúng túng hoặc còn thiên về
trình chiếu, làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy và học. Cụ thể như:
Qua một số bài giáo viên còn quá lạm dụng về máy tính trình chiếu toàn bộ nội
dung bài học mặc dù nội dung đã được giáo viên ghi trên bảng hay thiên về trình
chiếu thường xuyên yêu cầu học sinh quan sát trên máy vi tính và chép nội dung
vào vở. Chính vì vậy có nhiều học sinh đã không chép đủ bài học, dẫn đến tiết
học còn đơn điệu, chưa cung cấp đầy đủ mục tiêu yêu cầu của bài dạy.
Để thiết kế thành công một bài dạy đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều
thời gian, sức lực, tiến hành sưu tầm nhiều tranh ảnh, dung lượng kiến thức phải
dồi dào… nên có nhiều khả năng tiết dạy sẽ không thành công nếu thiếu sự đầu
tư hoặc thiếu kỹ năng về tin học…
Cũng có thể việc duy trì việc dạy học bằng máy chiếu không được thường
xuyên hoặc bị gián đoạn vì những yếu tố khách quan khác như chất lượng máy
móc không đảm bảo, mất điện đột xuất mà nhà trường lại không có máy phát
điện…
Do đặc thù của phương pháp và việc ứng dung CNTT vào dạy học còn
nhiều mới mẻ nếu không cẩn thận giáo viên sẽ không làm chủ được tiết dạy như
những tiết học bình thường vì học sinh sẽ bị phân tán, thiếu tập trung, chủ yếu
chú ý vào các bức tranh hoặc những đoạn phim…
Phần lớn các gia đình học sinh trường THCS Tân Ước chưa có máy vi tính

nên việc giao bài tập về nhà bằng cách tìm hiểu thông tin qua mạng, báo chí còn
nhiều hạn chế nhất là với học sinh lớp 9 thì việc cập nhật thường xuyên các số
liệu về sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trong nước, các địa phương hoặc sự
biến đổi về dân số là rất cần thiết. Do vậy việc học tập của các em chưa thực sự
hiệu quả. Và chưa đạt được yêu cầu của giáo viên.
3. SỐ LIỆU ĐIỀU TRA:
Qua thực tiễn giảng dạy bộ môn Địa lí ở trường THCS Tân Ước và điều tra,
trao đổi với giáo viên cùng bộ môn ở các trường khác tôi thấy một thực tế đáng
buồn ở nhiều trường phổ thông đó là học sinh rất sợ học bộ môn Địa lí nhất là
phần bản đồ, tính toán số liệu, phân tích Átlát Địa lí Việt Nam. Chính vì vậy tôi
đã làm một bảng số liệu điều tra trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này
bằng cách cho học sinh trả lời câu hỏi: Khi học tiết Địa lí trên lớp mà cô giáo
không sử dụng máy vi tính em thấy thế nào?
Và kết quả điều tra được như sau:
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
7
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
STT NỘI DUNG
ĐÚNG
(%)
SAI
(%)
1 Dễ hiểu bài 30 70
2 Bài dạy gây được hứng thú học tập 10 90
3 Hiểu biết được nhiều kiến thức mới 10 90
4 Cảm thấy chán học môn Địa lí vì khó hiểu bài. 80 20
5 Kiến thức được khắc sâu hơn 30 70
6 Kiến thức quá nhiều nên khó nhớ.

90 10
7 Yêu thích bộ môn Địa lí
20 80
Như vậy với bảng số liệu điều tra trên ta thấy đa số học sinh không muốn
học tập bộ môn Địa lí bằng phương pháp truyền thống.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Trong quá trình dạy học, sử dụng công nghệ hiện đại đúng cách mang lại
nhiều hiệu quả tích cực là điều không phải bàn cãi. Tuy nhiên, nếu sử dụng
không phù hợp, lạm dụng quá mức sẽ dẫn tới phản tác dụng.
Trong quá trình giáo dục, học sinh là nhân tố trung tâm, người giáo viên
phải đóng vai trò khơi gợi, dẫn dắt học sinh tiếp cận với tri thức. Muốn làm
được điều này, quá trình tiếp xúc, tương tác giữa thầy và trò là không thể thiếu.
Quá trình này không chỉ giúp học sinh dễ dàng tiếp cận với kiến thức mà
còn giúp học sinh cảm nhận được tình cảm, sự khích lệ, động viên của thầy cô.
Cũng thông qua quá trình tương tác này, sự uốn nắn của giáo viên đối với học
sinh từ những hành động nhỏ nhất như: Tư thế ngồi, cách viết, cách đọc…sẽ
được thực hiện. Với vai trò quan trọng này của người giáo viên, máy móc, thiết
bị dù hiện đại tới đâu cũng không thể thay thế được. Việc đưa giáo án điện tử và
công nghệ thông tin vào giảng dạy đã góp phần “làm mới” tiết học lên nhiều.
Nhưng thực tế, có những tiết dạy, giáo viên trình chiếu cho học sinh quá
nhiều thông tin, hình ảnh, số liệu khiến cho học sinh bị “quá tải” với những gì
nghe và nhìn thấy.
Thời gian lẽ ra phải giành để học sinh suy nghĩ, tư duy, thảo luận nhóm thì
chủ yếu chỉ để sử dụng cho việc nghe và quan sát. Kết quả là, chuyển từ hình
thức đọc - chép trước đây sang nhìn - chép, chiếu - chép, hiệu quả của tiết dạy vì
thế không được cải thiện nhiều.
Tuy nhiên, để đạt hiệu quả cao, cần có sự vận dụng sáng tạo, linh hoạt, phù
hợp, căn cứ trên điều kiện thực tế của từng đơn vị trường học như: Năng lực tiếp
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước

8
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
thu của học sinh, khả năng sử dụng phương tiện dạy học hiện đại của giáo viên,
đặc thù từng môn học…
Nên tránh việc lạm dụng quá mức, ỷ lại vào sự tiện dụng của các phương
tiện dạy học hiện đại mà xem nhẹ vai trò của người thầy. Công nghệ hiện đại chỉ
nên xem là phương tiện hỗ trợ, giúp giáo viên đứng lớp chuyển tải tới học sinh
những lượng thông tin mà phấn trắng, bảng đen và các phương tiện dạy học
truyền thống khác không làm được.
Để thực hiện tốt, có hiệu quả việc ứng dụng CNTT vào dạy học Địa lý có
chất lượng tốt, cá nhân tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp đã và đang tiến
hành tại trường THCS Tân Ước trong việc dạy học môn Địa lí, đặc biệt là đối
với đối tượng học sinh khối 9 trường THCS Tân Ước và tôi nhận thấy là tương
đối phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, cụ thể là:
- Cần đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng có hiệu quả CNTT vào việc dạy
học môn Địa lí – môn khoa học đặc thù, khai thác thế mạnh, có nhiều ưu thế của
hệ thống mạng Inter net trong quá trình tìm kiếm, trao đổi và tham khảo dữ liệu
kiến thức của hệ thống mạng ở rộng rãi đội ngũ giáo viên.
- Không quá lạm dụng vào việc sử dụng CNTT vào việc dạy học mà dễ
phạm vào việc trình chiếu, không đảm bảo tính quy phạm, tính hệ thống và khoa
học trong dạy học bộ môn Địa lí.
- Soạn giảng - thiết kế bài dạy phải phù hợp với đặc thù, đặc trưng kiến
thức của từng bài, không phải bài nào sử dụng CNTT cũng có hiệu quả, mà đòi
hỏi ta phải biết lựa chọn, cân nhắc để thiết kế sao cho phù hợp, vẫn đảm bảo
được tính quy phạm, tính khoa học và phát huy, kích thích được hứng thú học
tập của các em.
- Không thoát ly hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống, cũng
như nhưng phương pháp dạy học khác, cần lồng ghép, phối kết hợp hài hòa và
hợp lý giữa các phương pháp với nhau trong các quá trình dạy - học của thầy và

trò bởi vì phương pháp nào cũng có điểm mạnh riêng biệt của nó, ở các phương
pháp khác không có được.
- Trong quá trình dạy học không nên thoát ly khâu viết bảng, vì bảng viết là
một phần không thể thiếu được trong việc dạy học, nó đóng vai trò là một nhân
tố quyết định cho sự thành bại của một tiết học, giúp nhấn mạnh kiến thức, mở
rộng thêm kiến thức, chốt kiến thức, dành cho học sinh luyện tập…
- Ở một số bài chỉ nên sử dung đèn chiếu( máy chiếu) làm phương tiện bổ
trợ cho dạy học, hay nói cách khác trong trường hợp trên máy chiếu chỉ đóng vai
trò như một đồ dùng dạy học, chứa đựng các sơ đồ, biểu đồ, bảng biểu cơ bản
mà thôi.
- Hạn chế tối đa việc sử dụng CNTT làm phương tiện trình chiếu, biểu diễn
trong dạy học, làm cho hiệu quả của tiết học sẽ không cao, ảnh hưởng đến chất
lượng đại trà của học sinh cũng như của toàn trường.
- Tăng cường ứng dụng CNTT nhất là trong điều kiện cơ sở vật chất của
nhà trường chưa đáp ứng tốt nhu cầu dạy và học theo đặc trưng bộ môn thì cần
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
9
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
có biện pháp khắc phục như cho học sinh đổi vị trí lớp khi có tiết học cần ứng
dụng CNTT. Ví dụ như việc đăng kí sử dụng phòng bộ môn trước 1 tuần ở
trường THCS Tân Ước. Tránh trường hợp vì không đủ phòng học bộ môn mà
các giáo viên không đăng kí sử dụng dẫn đến lãng phí cơ sở vật chất gây nên sự
thiệt thòi với học sinh trong việc đổi mới phương pháp học.
- Cần tích cực học hỏi về CNTT nhất là sử dụng máy chiếu, máy vi tính để
khi xảy ra sự cố kĩ thuật có thể tự xử lí và giải quyết tốt tình huống đảm bảo nội
dung bài học. Đối với những giáo viên mới ra trường kĩ năng sử dụng máy chiếu
và máy vi tính còn nhiều bỡ ngỡ nên không dám sử dụng nhiều, do đó tôi đã
hướng dẫn cách sử dụng máy tính và máy chiếu sao cho hợp lí đồng thời chỉ dẫn

xử lí một số lỗi kĩ thuật thường gặp khi sử dụng máy. Một số giáo viên trẻ vẫn
sử dụng CNTT như một phương tiện dạy học thay thế cho viết bảng dẫn tới
hiện tượng nhìn chép của học sinh. Qua dự giờ thăm lớp các đồng chí như Trần
Thị Thiêm, Lê Thị Vân Anh, Nguyễn Thị Hồng Trang…( đây là những giáo
viên trẻ mới ra trường và đi dạy được một năm hoặc mấy tháng) tôi thấy những
tiết đầu tiên các đồng chí mắc phải rất nhiều lỗi như trình chiếu toàn bộ bài học
hoặc có những nội dung cần phân tích sâu và minh họa thì không làm nổi bật và
không có minh họa. Sau khi rút kinh nghiệm các đồng chí đếu rất băn khoăn và
lo lắng vì không biết làm thế nào cho hợp lí. Và tôi đã giải đáp những thắc mắc
đó như sau: khi còn học trong trường sư phạm đối tượng giảng dạy của các
giảng viên là các thầy cô giáo tương lai nên các thầy cô sẽ trình chiếu tất cả các
hình ảnh và nội dung bài còn đối tượng mà chúng ta đang giảng dạy đó là các
em học sinh còn chưa hoàn thiện về các kĩ năng và tri thức, tâm lí còn mải chơi
nếu cứ trình chiếu như vậy sẽ dẫn tới các em trở thành con người thụ động, hoặc
là không ghi chép bài mà ngồi chơi. Do đó giáo viên chỉ sử dụng CNTT thay thế
bảng phụ, tranh ảnh, lược đồ…để học sinh có thể khai thác tri thức từ đó. Kết
quả sau khoảng 3 tiết dự giờ liên tục các đồng chí trên đều có kĩ năng sử dụng
CNTT rất tốt.
- Cần ứng dụng CNTT liên tục và tạo thành kho học liệu điện tử cho từng
bộ môn,ví dụ như môn Địa lí 8 và 9 mà tôi đang giảng dạy tại trường THCS Tân
Ước. Do đặc trưng bộ môn gần như mọi tiết học đều cần có tranh ảnh và bảng
phụ ghi các số liệu, lược đồ, bản đồ. Từ năm học 2005 - 2006 cho đến năm học
2007 - 2008 trước khi lên lớp từ tuần học trước tôi đã phải vào thư viện để tìm
bản đồ, tranh ảnh, băng đĩa rồi để ra ngoài cho tuần sau dạy học, tôi cảm thấy rất
mệt vì bản đồ phần Việt Nam thường rất lớn nhiều khi treo còn chạm xuống đất
hơn nữa có những kí hiệu trên bản đồ không thống nhất với kí hiệu ở lược đồ
trong sách giáo khoa. Rồi còn chuẩn bị bảng phụ vì bài nào cũng có số liệu, có
lúc phải vẽ biểu đồ vào đằng sau tờ lịch vì tờ lịch có độ cứng hơn giấy A0 hoặc
giao cho học sinh vẽ lược đồ phục vụ giảng dạy nhưng thường sai tỷ lệ, không
đảm bảo độ chính xác. Bắt đầu từ năm học 2008 - 2009 khi nhà trường sắm một

máy chiếu và vi tính dành cho giáo viên giảng dạy, tôi đã chập chững những
bước đi đầu tiên khi ứng dụng CNTT. Khi đó ở trường tôi chỉ có đồng chí Vũ
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
10
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
Bá Mẫn là biết sử dụng tốt CNTT, do đó tôi đã hỏi cách vẽ biểu đồ như thế nào,
cách làm một bài giảng điện tử? Sau đó tôi dạy thử tiết học đầu tiên có ứng dụng
CNTT và tiết học ấy tôi đã không thành công vì tôi đã đưa toàn bộ nội dung bài
dạy nên trình chiếu và đã không bao quát được học sinh. Tôi và các đồng nghiệp
đã tranh luận cách sử dụng CNTT sao cho hợp lí. Sau đó tôi quết định sẽ chỉ sử
dụng CNTT thay thế bảng phụ, bản đồ và băng đĩa. Nhưng vì lúc đó hoàn cảnh
gia đình còn khó khăn nên tôi phải tranh thủ lúc trống tiết hoặc các buổi chiều
thứ năm đến trường học thêm CNTT. Khi đó một năm học tôi chỉ ứng dụng
CNTT khoảng 5 tiết và vẫn phải sử dụng đồ dung dạy học truyền thống của bộ
môn đó là bản đồ. Các năm học sau đó tôi tiếp tục ứng dụng CNTT và tích lũy
dần các bài giảng. Tôi vừa dạy vừa tham khảo học hỏi thêm kinh nghiệm của
bạn bè và đồng nghiệp để hoàn thiện bài giảng của mình. Cuối cùng đến năm
2012 tôi đã có một kho học liệu tương đối hoàn chỉnh đó là kho tư liệu Địa lí 8
và 9. Trong năm học này tôi quyết định sử dụng toàn bộ kho học liệu và thường
xuyên bổ sung tư liệu cho hoàn chỉnh và tôi đã không sử dụng bản đồ treo tường
nữa mà thay vào đó là tuần nào tôi cũng đăng kí sử dụng phòng học CNTT và
tạo thành thói quen cho học sinh là đến tiết Địa lí lại lên phòng máy vi tính. Tôi
thấy rằng việc sử dụng CNTT khiến học sinh ham học Địa lí hơn và có hứng thú
học tập, các em vừa học lại vừa chơi, qua đó hình thành và rèn luyện rất nhiều kĩ
năng như quan sát, phân tích, tổng hợp, tư duy, khái quát, đánh gía, và quan
trọng hơn cả là đã hình thành cho học sinh nhiều năng lực cần thiết như khả
năng vận dụng các kiến thức đã học vào giải thích các sự vật, hiện tượng xảy ra
trong tự nhiên và trong xã hội. Tuy nhiên khi làm kho học liệu tôi thấy rằng điều

quan trọng nhất là những hình ảnh, bảng số liệu dẫn chứng và các lược đồ cần
có sự thống nhất với sách giáo khoa vì đó là văn bản có tính chất pháp lí, thống
nhất và có tính khoa học và đã được lưạ chọn kĩ lưỡng trước khi xuất bản. Và
sau đây là danh sách kho học liệu điện tử khối 9 của tôi:
DANH MỤC BÀI GIẢNG ĐỊA LÍ 9
STT
Bài
số
Tiết
theo
PPCT
Đề bài Ghi chú
1 1 1 Cộng đồng các dân tộc Việt Nam
2 2 2 Dân số và gia tăng dân số
3 3 3 Phân bố dân cư và các loại hình quần cư
4 4 4 Lao động và việc làm
5 6 6 Sự phát triển kinh tế Việt Nam
6 7 7
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển
và phân bố nông nghiệp

Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
11
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
7 8 8 Sự phát triển và phân bố nông nghiệp
8 9 9
Sự phát triển và phân bố lâm nghiệp thủy
sản


9 10 10
Thực hành vẽ và phân tích biểu đồ cơ cấu
diện tích gieo trồng các loại cây

10 11 11
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển
và phân bố công nghiệp

11 12 12 Sự phát triển và phân bố công nghiệp
12 13 13
Vai trò, đặc điểm phát triển và phân bố
dịch vụ

13 14 14
Giao thông vận tải và bưu chính viễn
thông

14 15 15 Thương mại và du lịch
15 16 16
Thực hành vẽ biểu đồ về sự thay đổi cơ
cấu kinh tế

16 17 19 Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ
17 18 20
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ(tiếp
theo)

18 19 21
Thực hành đọc bản đồ phân tích và đánh

giá tài nguyên khoáng sản

19 20 22 Vùng Đồng bằng sông Hồng
20 21 23 Vùng Đồng bằng sông Hồng(tiếp theo)
21 23 25 Vùng Bắc Trung Bộ Nén
22 24 26 Vùng Bắc Trung Bộ (tiếp)
23 25 27 Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Nén
24 26 28 Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ(tiếp)
25 27 29
Thực hành kinh tế của Bắc Trung Bộ và
Duyên hải Nam Trung Bộ

26 28 30 Vùng Tây Nguyên
27 29 31 Vùng Tây Nguyên(tiếp)
28 30 32
Thực hành:so sánh tình hình sản xuất cây
công nghiệp

29 31 35 Vùng Đông Nam Bộ
30 32 36 Vùng Đông Nam Bộ(tiếp)
31 33 37 Vùng Đông Nam Bộ(tiếp)
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
12
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
32 34 38
Thực hành phân tích một số ngành công
nghiệp trọng điểm ở Đông Nam Bộ


33 35 39 Vùng Đồng bằng sông Cửu Long Nén
34 36 40 Vùng Đồng bằng sông Cửu Long(tiếp)
35 37 41
Thực hành vẽ và phân tích biểu đồ về tình
hinh sản xuất của ngành thủy sản

36 38 44
Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài
nguyên môi trường biển - đảo
Nén
37 39 45
Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài
nguyên môi trường biển - đảo(tiếp)

38 40 46
Thực hành đánh giá tiềm năng kinh tế các
đảo ven bờ

39 41 Địa lí Hà Nội Nén
Có thể nói kho học liệu này của tôi đã tương đối đầy đủ các bài học trong
chương trình sách giáo khoa Địa lí 9. Và nội dung này sẽ thể hiện trong đĩa CD
đi kèm sáng kiến kinh nghiệm.
- Biện pháp ứng dụng CNTT tiếp theo của tôi đó là sử dụng để minh họa và
hướng dẫn học sinh lớp 9 vẽ biểu đồ và nhận xét bảng số liệu khi ôn thi học
sinh giỏi. Khi dạy đến dạng biểu đồ nào tôi dùng máy vi tính chiếu minh họa
bảng số liệu và biểu đồ sau đó cho học sinh quan sát và tìm cách vẽ. Trên cơ sở
đó hướng dẫn học sinh cách nhận dạng các biểu đồ cần vẽ và cách nhận xét. Với
hình ảnh trực quan thì học sinh sẽ nhớ lâu hơn nghe cô giáo giảng bằng lời. Ví
dụ: Về cách nhận biết và vẽ các loại biểu đồ sau:
* Dạng biểu đồ tròn:

a) Khi nào vẽ biểu đồ tròn?
- Khi đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ tròn.
- Trong đề bài có từ cơ cấu (nhưng chỉ có 1 ,2 hoặc 3 năm) ta vẽ biểu đồ
tròn. Muốn vậy đòi hỏi học sinh phải có kĩ năng nhận biết về các số liệu trong
bảng, bằng cách người học phải biết xử lí số liệu (hoặc đôi lúc không cần phải
xử lí số liệu khi bảng số liệu cho sẵn %) ở bảng mà có kết quả cơ cấu của nó đủ
100 (%) , thì tiến hành vẽ biểu đồ tròn.
b) Cách tiến hành:
- Chọn trục gốc: để thống nhất và dễ so sánh, ta chọn trục gốc là một đường
thẳng nối từ tâm đường tròn đến điểm số 12 trên mặt đồng hồ.
- Khi vẽ cần phải có kĩ năng vẽ theo chiều kim đồng hồ, điểm xuất phát 12
giờ. Mỗi % là 3,6
0
, Sau đó vễ lần lượt các yếu tố mà đề bài cho.
- Cuối cùng là chú thích và ghi tên biểu đồ.
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
13
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
+ Tên biểu đồ: ghi phía trên biểu đồ hay phía dưới biểu đồ cũng được.
+ Chú thích: ghi bên phải hoặc phía dưới biểu đồ.
Lưu ý:
chú thích không nên ghi chữ, đánh ca-rô,vẽ trái tim,mũi tên,ngoáy giun,…
sẻ làm rối biểu đồ. Mà nên dùng các đường thẳng, nghiêng, bỏ trắng…
Đối với số liệu tuyệt đối sau khi xử lí ra % thì ta phải tính đến bán kính đường
tròn theo công thức sau:
= -> R2 =
+ R
1

tự cho bao nhiêu cm cũng được( thong thường 20 cm)
+ S
1
là số liệu tuyệt đối của năm đầu tiên
+ S
2
là số liệu của năm sau.
Ví dụ: Dựa vào bảng số liệu dưới đây:
Hãy vẽ biểu đồ thể hiện cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế của nước ta
năm 2002.
Vậy ta phải vẽ biểu đồ tròn vì căn cứ vào bảng số liệu và yêu cầu của đề bài
thấy có từ cơ cấu 1 năm.
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
Các thành phần kinh tế Tỉ lệ (%)
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế tập thể
Kinh tế tư nhân
Kinh tế cá thể
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng cộng
38,4
8,0
8,3
31,6
13,7
100,0
14
S
2

S
1
R
1
R
2
S
1 X
R
1
S
2
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
c.Nhận xét - Khi chỉ có 1 đường tròn: ta nhận xét về thứ tự lớn nhỏ. Sau đó so
sánh.
- Khi có 2 đường tròn trở lên :
+ Ta nhận xét tăng hay giảm trước , nếu đường tròn thì thêm liên tục
hay không liên tục, tăng (giảm) bao nhiêu.
+ Sau đó nhận xét về nhất ,nhì,ba…của các yếu tố trong từng năm.
Nếu giống nhau thì ta gom chung lại cho các năm một lần thôi.
- Cuối cùng cho kết luận về mối tương quan giữa các yếu tố.
* Dạng biểu đồ cột:
a) Khi nào vẽ biểu đồ cột ?
- Khi đề bài yêu cầu cụ thể là “hãy vẽ biểu đồ cột … “ thì không
được vẽ biểu đồ dạng khác mà phải vẽ biểu đồ cột.
- Đề bài muốn ta thể hiện sự hơn kém, nhiều ít , hoặc muốn so sánh
các yếu tố.
- Ta có thể dựa vào các cụm từ như: “số lượng”,” sản lượng”,”so
sánh”, “cán cân xuất nhập khẩu”.

- Nếu đề bài so sánh các yếu tố trong một năm, thì trục hoành thay vì
đơn vị năm ta lại thay thế bằng “các vùng”,”các nước”,”các loại sản
phẩm”….
- Đơn vị có dấu / như: kg/người, tấn/ha, USD/người, người/km
2
,
ha/người…
- Khi vẽ về lượng mưa của một địa phương nào đó(cá biệt có lúc ta
vẽ đường biểu diễn.
- Tuy nhiên,Chúng ta phải xử lí số liệu (về % theo nguyên tắc tam
suất tỉ lệ thuận) khi đề yêu cầu thể hiện tỉ trọng sản lượng…
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
15
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
- Ngoài ra, biểu đồ cột còn có nhiều dạng như: Cột rời, cột cặp (cột
nhóm), hay cột chồng. Vì vậy đòi hỏi học sinh phải làm nhiều dạng bài
tập này thì các em sẽ có kinh nghiệm và sự hiểu biết để nhận dạng nó và
vẽ loại biểu đồ cột nào cho thích hợp.
- Lưu ý: đối với biểu đồ cột chồng thì thông thường bảng số liệu cho
có cột tổng số (nhưng phải xử lí số liệu về % nếu đề bài không cho %)
b) Cách tiến hành vẽ biểu đồ cột:
- Dựng trục tung và trục hoành:
+ Trục tung thể hiện đại lượng(có thể là %,hay nghìn tấn,mật độ
dân số,triệu người….). Đánh số đơn vị trên trục tung phải cách đều nhau
và đầy đủ (tránh ghi lung tung không cách đều)
+ Trục hoành thể hiện năm hoặc các nhân tố khác (có thể là tên
nước, tên các vùng hoặc tên các loại sản phấm.
+ Vẽ đúng trình tự đề bài cho, không được tự ý từ thấp lên cao

hay ngược lại, trừ khi đề bài yêu cầu.
+ Không nên gạch hay gạch ngang , từ trục tung vào
đầu cột vì sẻ làm biểu đồ rườm rà, thiếu tính thẩm mĩ. Hoặc nếu có gạch
thì sau khi vẽ xong ta phải dung tẩy viết chì xóa nó đi.
+ Độ rộng (bề ngang) các cột phải bằng nhau.
+ Lưu ý: sau khi vẽ xong rồi nên ghi số lên đầu mỗi cột để dề so
sánh các đối tượng.
- Cuối cùng là chú thích và ghi tên biểu đồ.
+ Tên biểu đồ: ghi phía trên biểu đồ hay phía dưới biểu đồ cũng
được.
+ Chú thích: ghi bên phải hoặc phía dưới biểu đồ.
Lưu ý: Đối với dạng biểu đồ thể hiện nhiều đối tượng khác nhau thì
ta phải chú thích cho rõ ràng.
Ví dụ 1:
Căn cứ vào bảng số liệu dưới đây , hãy vẽ biểu đồ về cơ cấu giá trị sản xuất của
ngành chăn nuôi(%).
Năm Tổng số Gia súc Gia cầm
Sản phẩm
trứng, sữa
Phụ phẩm
chăn nuôi
1990 100,0 63,9 19,3 12,9 3,9
2002 100,0 62,8 17,5 17,3 2,4
Dạng biểu đồ này giúp các em dễ so sánh giữa các ngành với nhau theo trình tự
về tỉ trọng của gia súc, gia cầm, sản phẩm trứng sữa và phụ phẩm chăn nuôi.
Đặc biệt là có thêm cột tổng số nên ta phải vẽ biểu đồ cột chồng.
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
16
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy

môn Địa lí 9.
.
Ví dụ 2: Dựa vào bảng số liệu về “ tỉ lệ diện tích che phủ rừng” của Nước ta
dưới đây, hãy vẽ biểu đồ sự thay đổi tỉ lệ che phủ rừng của nước ta giai đoạn
1943-1995.

Năm 1943 1975 1985 1987 1995
Tỉ lệ che phủ rừng 40,7 28,6 23,6 22,0 27,7
Ta thấy đề bài yêu cầu là vẽ biểu đồ thể hiện sự thay đổi tỉ lệ che phủ rừng và
căn cứ vào bảng số liệu thì vẽ biểu đồ cột rời là thích hợp nhất.
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
17
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
Ví dụ 3: Dựa vào bảng số liêu dưới đây:
Giá trị sản lượng các ngành sản xuất nông nghiệp (%)
Hãy vẽ biểu đồ thể hiện giá trị sản lượng của ngành chăn nuôi và ngành trồng
trọt trong giai đoạn 1976 – 1995.
Đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ thể hiện sản lượng của ngành chăn nuôi và ngành
trồng trọt qua các năm trên.Căn cứ vào yêu cầu của đề bài và bằng số liệu ta vẽ
biểu đồ cột. Nhưng thích hợp nhất là cột cặp. Tại sao ta phải vẽ cột cặp? Bởi vì
biểu đồ này không thể hiện cột tổng số trong bảng số liệu, đó là yếu tố thứ nhất.
Thứ hai nữa là vẽ cột cặp thì ta dễ dàng so sánh giá trị sản lượng của ngành chăn
chăn nuôi và ngành trồng trọt qua các năm thể hiện cụ thể ở độ dài của các cột.
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
Năm 1976 1990 1995
Trồng trọt 80,7 75,3 73,0
Chăn nuôi 19,3 24,7 27,0

18
Ngành
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
c) Nhận xét:
c.1Trường hợp cột rời (cột đơn):
- Bước 1: Xem xét năm đầu và năm cuối của bảng số liệu hoặc biểu đồ
đã vẽ để trả lời câu hỏi tăng hay giảm? và tăng bao nhiêu?( lấy số liệu năm cuối
trừ cho số liệu ăm đầu hay chia cũng được)
- Bước 2: xem xét số liệu cụ thể ở trong (hay trong các năm cụ thể) để
trả lời tiếp là tăng hay giảm liên tục hay không liên tục ?(lưu ý năm nào
không liên tục)
- Bước 3: Nếu liên tục thì cho biết giai đoạn nào nhanh, giai đoạn nào
chậm
Nếu không liên tục thì năm nào không liên tục.
c.2) Trường hợp cột đôi , ba…(có từ hai yếu tố trở lên):
- Nhận xét từng yếu tố một, giống như trường hợp 1 yếu tố (cột đơn)
- Sau đó kết luận (có thể so sánh hay tìm yếu tố liên quan gữa các cột)
C.3) Trường hợp cột là các vùng,các nước….
Ta nhận xét cao nhất, nhì…thấp nhất, nhì (nhớ ghi dầy đủ các nước,
vùng). Rồi so sánh giữa cái cao nhất với cái thấp nhất, giữa đồng bằng với đồng
bằng, giữa miền núi với miền núi
c.4) Trường hợp cột là lượng mưa:
- Nhận xét mùa mưa, mùa khô kéo dài từ tháng nào đến tháng nào (vùng
nhiệt đới tháng mưa từ 100 mm trở lên xem là mùa mưa, còn vùng ôn đới thì
chỉ cần 50 mm).
- Sau đó, cho biết tháng nào mưa nhiều nhất, lượng mưa bao nhiêu mm và
tháng nào mưa thấp nhất, lượng mưa bao nhiêu?
- So sánh tháng mưa nhiều nhất và tháng mưa ít nhất ( có thể có 2 tháng
mưa nhiều và hai tháng mưa ít cũng được)

* Dạng biểu đồ miền:
a) Khi nào vẽ biểu đồ miền?
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
19
Biểu đồ thể hiện giá trị sản lượng của ngành chăn
nuôi và ngành trồng trọt giai đoạn 1976 -1995
Năm
%
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
- Khi đề bài yêu cầu cụ thể : Hãy vẽ biểu đồ miền…
- Khi đề bài xuất hiện một số các cụm từ: “thay đổi cơ cấu”, ”chuyển dịch cơ
cấu”, “thích hợp nhất về sự chuyển dịch cơ cấu”….
- Đọc yêu cầu, nhận biết các số liệu trong bài.
+ Trong trường hợp số liệu ít năm(1 ,2 năm hoặc 3 năm) thì vẽ biểu đồ
tròn.
+ Trong trường hợp bảng số liệu là nhiều năm, dùng biểu đồ miền.
Không vẽ biểu đồ miền khi bảng số liệu không phải là theo các năm. Vì trục
hoành trong biểu đồ miền luôn biểu diễn năm.
b) Cách tiến hành vẽ biểu đồ miền:
- Cách vẽ biểu đồ miền tạo hình chữ nhật trước khi vẽ. Có 2 trục tung: trục
tung bên phải và trục tung bên trái.
- Vẽ hình chữ nhật (có 2 trục hoành luôn dài hơn 2 trục tung) để vẽ biểu đồ
miền, biểu đồ này là từ biến thể của dạng biểu đồ cột chồng theo tỷ lệ (%)
- Để vẽ biểu đồ theo số liệu cho chính xác thì phải có kĩ năng là tạo thêm số
liệu theo tỷ lệ % ở trục tung bên phải để đối chiếu số liệu vẽ cho chính xác. Khi
vẽ đã hoàn thành thì chúng ta dùng tẩy xóa phần số ảo đó mà mình đã tạo ra .
+ Biểu đồ là hình chữ nhật, trục tung có trị số 100% (Tổng số).
+ Trục hoành luôn thể hiện năm, lưu ý khoảng cách giữa các năm phải

đều nhau.
+ Năm đầu tiên trùng với góc tọa độ (hay trục tung)
+ Vẽ các điểm của tiêu chí thứ nhất theo các năm, rồi sau đó nối các
điểm đó lại với nhau.
+ Tiêu chí thứ hai thì khác, ta vẽ tiếp lên bằng cách cộng số liệu của yếu
tố thứ hai với yếu tố thứ nhất rồi dựa vào kết quả đó ta lấy mức số lượng ở
trục tung. Cuối cùng ta nối các điểm của tiêu chí
+ Chú thích và ghi tên biểu đồ:
. Chú thích: chú thích vào các miền khác nhau để dễ dàng phân
biệt. Dùng các kí hiệu tương tự như biểu đồ tròn hay tô màu khác nhau cũng
được.
. Ghi tên biểu đồ ở phía trên hay phía dưới cũng được.
Ví dụ : Cho bảng số liệu sau đây:
Cơ cấu GDP của nước ta thời kì 1991 – 2002 (%)
Hãy vẽ biểu đồ thể hiện cơ cấu GDP Nước ta thời kì 1991 – 2002.
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
1991 1993 1995 1997 1999 2001 2002
Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nông-
lâm-ngư
nghiệp
40,5 29,9 27,2 25,8 25,4 23,3 23,0
Công
nghiệp-
xây dựng
23,8 28,9
28,8
32,1 34,5 38,1 38,5
Dịch vụ 35,7 41,2 44,0 42,1 40,1 38,6 38,5

20
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
Như vậy,trong bài này ta thấy có từ cơ cấu nhưng được thể hiện qua nhiều năm
nên các em phải vẽ biểu đồ miền.
c) Nhận xét:
- Ta nhận xét hàng ngang trước ; theo thời gian yếu tố A tăng hay giảm ,
tăng (giảm ) thế nào? Tăng (giảm) bao nhiêu?
- Nhận xét hàng dọc: yếu tố nào xếp nhất, nhì, ba… và có thay đổi thứ
hạng không.
- Tổng kết lại.
* Dạng biểu đồ đường ?
a) Khi nào vẽ biểu đồ đường ?
- Khi đề bài yêu cầu: hãy vẽ biểu đồ đồ thị tả…”, “hãy vẽ ba đường
biểu diễn…” ta bắt buộc phải vẽ biểu đồ đường.
- Khi đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ thể hiện tốc độ phát triển kinh tế hay
tốc độ gia tăng dân số , chỉ số tăng trưởng, tỉ lệ gia tăng tự nhiên của
dân số…. thể hiện rõ qua nhiều năm từ…1991, 1992, 1993….2002….
Mặc dù, nó cũng có tỷ lệ 100% nhưng không thể vẽ biểu đồ hình tròn
được. Lí do phải vẽ nhiều hình tròn, thì không có tính khả thi với yêu
cầu của đề bài.
Cho nên chúng ta vẽ dạng biểu đồ đường để dễ nhận xét về sự thay
đổi của các yếu tố trên một đường cụ thể đó và dễ nhận xét về thay đổi của
các yếu tố nói trên hay các dạng yêu cầu khác của đề bài.
b) Cách vẽ biểu đồ đường:
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
21
Biểu đồ thể hiện cơ cấu GDP nước ta thời kì 1991-2002
2002

23.0
38.5
38.5
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
+ Trục tung: Thể hiện trị số của các đối tượng (trị số là %), gốc
tọa độ có thể là 0, có thể là một trị số ≤ 100. Hoặc đôi khi trục tung không
phải là trị số % mà là các giá trị khác tùy theo yêu cầu của đề bài.

+ Trục hoành: Thể hiện thời gian (năm), gốc tọa độ trùng với
năm đầu tiên trong bảng số liệu.
+ Xác định toạ độ các điểm từng năm của từng tiêu chí theo
bảng số liệu, rồi nối các điểm đó lại và ghi trên các điểm giá trị của năm
tương ứng.
+ Nếu có hai đường trở lên, phải vẽ hai đường phân biệt và
chú thích theo thứ tự đề bài đã cho.
+ Ghi tên biểu đồ bên dưới.
Ví dụ 1: Cho bảng số liệu về số lượng gia súc,gia cầm và chỉ số tăng
trưởng(năm 1990=100,0%)
Hãy vẽ biểu đồ thể hiện chỉ số tăng trưởng đàn gia súc, gia cầm qua các năm
1900, 1995, 2000 và 2002.
Đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ thể hiện chỉ số tăng trưởng đàn gia súc,gia
cầm,căn cứ vào bảng số liệu và yêu cầu của đề bài thì ta tiến hành vẽ biểu đồ
đường.
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
Năm
Trâu
(nghìn
con)

Chỉ số
tăng
trưởn
g(%)

(nghìn
con)
Chỉ số
tăng
trưởng
(%)
Lợn
(nghìn
con)
Chỉ số
tăng
trưởng(
%)
Gia
cầm
(triệu
con)
Chỉ
số
tăng
trưởn
g(%)
1990 1854,1 100,0 3116,9 100,0 12260,5 100,0
107,
4

100,0
1995 2962,8 103,8 3638,9 116,7 16306,4 133,0
142,
1
132,3
2000 2987,2 101,5 4127,9 132,4 20193,8 164,7
196,
1
182,6
2002 2814,4 98,6 6062,9 130,4 23169,5 189,0
233,
3
217,2
22
%
150
250
200
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
*Dạng biểu đồ thanh ngang:
a) Khi nào vẽ biểu đồ thanh ngang?
- Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “Hãy vẽ biểu đồ thanh ngang…”
- Khi đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ cột , nếu có các vùng kinh tế , chúng
ta nên chuyển sang qua thanh ngang để tiện việc ghi tên các vùng dễ dàng
và đẹp hơn.
Ta thấy biểu đồ cột, tên các vùng phải viết nhiều dòng khoảng cách rộng
sẽ không đủ vẽ. Trong khi biểu đồ thanh ngang, tên các vùng ghi đủ một
dòng không dính tên vào các vùng khác trông đẹp hơn.Tuy nhiên, khi vẽ
biểu đồ thanh ngang, cần lưu ý sắp xếp theo thứ tự vùng kinh tế.

b) Cách vẽ biểu đồ thanh ngang:
Cũng giống như biểu đồ cột.Tuy nhiên trong trường hợp này trục tung
của biểu đồ thanh ngang lại thể hiện các vùng kinh tế, còn trục hoành thì
thể đại lượng( đơn vị)
Ví dụ:
Vẽ biểu đồ lực lượng lao động ở các vùng kinh tế nước ta năm 1996.
* Dạng biểu đồ kết hợp:( cột và đường)
a) Khi nào vẽ biểu đồ kết hợp?
- Khi đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ kết hợp cột và đường
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
23
50
1990 1995 2000
2002
Vùng
BIỂU ĐỒ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CÁC VÙNG KINH TẾ
NƯỚC TA NĂM 1996
100
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
- Khi đề bài yêu cầu có hai đơn vị tính khác nhau, có thể vẽ cột hoặc đồ
thị được, nhưng thường đề bài để ta tự chọn “ Hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất…”
b) Cách tiến hành vẽ biểu đồ kết hợp:
- Biểu đồ có hai trục đơn vị thể hiện qua hai trục tung, trục hoành thì thể
hiện là năm ( cũng có thể là tên nước hay các tháng trong năm…)
- Ta chọn một yếu tố để vẽ các cột trước, yếu tố còn lại vẽ đường sau.
Nhưng phải chi tỉ lệ sao cho hạn chế sự dính nhau giữa các cột và đường.
- Tọa độ đường luôn nằm giữa các cột.
- Tên biểu đồ và chú thích:

+ Chú thích hình vuông hay chữ nhật nhỏ khoảng 1,5 ô tập cho cột là
yếu tố nào.
+ Đường biểu diễn là một đường thẳng.
+ Tên biểu đồ có thể ghi phía dưới hay phía trên biểu đồ cũng được
Ví dụ2: Biểu đồ thể hiện sự biến đổi diện tích rừng và độ che phủ rừng
ở nước ta giai đoạn 1943 -2005
c) Nhận xét: Các bước nhận xét giống như biểu đồ cột và đường.
+ Ta nhận xét các cột trước, đường biểu diễn sau.
+ Có thể kết luận chung khái quát cho cột và đường
Sau khi học sinh đã quan sát biểu đồ mẫu tôi giao cho học sinh các bảng số
liệu yêu cầu lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất. Tất cả các bảng số liệu ngoài sách
giáo khoa đều được tôi sưu tầm qua mạng internet. Theo tôi việc làm đó sẽ thúc
đẩy tư duy tích cực, sáng tạo của học sinh.
- Như vậy nếu chúng ta biết vận dụng CNTT một cách đúng mức, có kế
hoạch và có khoa học chắc chắn nó sẽ trở thành phương pháp dạy học có hiệu
quả rất cao, giúp cho cả thầy và trò trong quá trình dạy, học mau chóng tiếp cận
được với nguồn tri thức hiện đại, tích lũy nhanh chóng được vốn tri thức khổng
lồ.

1. THỰC NGHIỆM
*Thực nghiệm thứ nhất:
Khi dạy bài 29: Vùng Tây Nguyên (tiếp theo)
Hiện nay tôi đang chủ nhiệm lớp 9A, do đó khi dạy thực nghiệm tôi chia
lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm có 20 học sinh trong đó nhóm 1: tiết dạy có ứng
dụng CNTT; nhóm 2: tiết dạy sử dụng đồ dùng dạy học là bản đồ Tây Nguyên-
phần kinh tế.
Sau đây là bảng đối chiếu thực nghiệm thông qua tiết dạy:
Câu hỏi Nhóm 1 ( Ứng dụng CNTT) Nhóm 2 ( Sử dụng bản
đồ kinh tế)
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân

Ước
24
Đề tài SKKN: Một vài kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTTvào giảng dạy
môn Địa lí 9.
Hoạt động của
GV và HS
Số HS giơ
tay
Hoạt động
của GV và
HS
Số HS giơ
tay
Mục 1: Nông
nghiệp
Câu hỏi số1: Kể tên
các cây công nghiệp
của Tây Nguyên?
Cây trồng nào quan
trọng nhất? Giải
thích tại sao Tây
Nguyên trồng được
nhiều cà phê?
Câu hỏi số 2: Ngoài
ra Tây Nguyên còn
trồng những cây
nào?
Câu hỏi số 3: Quan
sát bảng 29.1 - sách
giáo khoa trang 108

hãy nhận xét tình
hình phát triển nông
nghiệp ở Tây
Nguyên?
Câu hỏi số 4: Tây
Nguyên có những
vật nuôi gì?
Câu hỏi số 5: Nêu
tình hình sản lâm
nghiệp Tây Nguyên?
Kết thúc hoạt động 1
Mục 2: Công
nghiệp
Câu hỏi số 1: Quan
Chiếu lược đồ,
sau khi HS trả
lời đúng GV
chiếu hình ảnh
các cây công
nghiệp tiêu
biểu nhất là cây
cà phê ( chiếu
biểu đồ ).
GV chiếu hình
ảnh và hỏi.
Chiếu bảng số
liệu và yêu cầu
nhận xét.
Chiếu lược đồ
có hình ảnh

minh họa như
voi, hổ, bò.
Quan sát tranh
và SGK.
GV cho HS
làm bài tập trắc
nghiệm củng
cố nội dung
phần 1.
Chiếu bảng số
20/20
20/20
18/20
20/20
20/20
20/20
17/20
Yêu cầu
Hs quan
sát và chỉ
bản đồ.
Quan sát
SGK và trả
lời
Quan sát
bảng trong
SGK.
Quan sát
và chỉ lược
đồ.

Quan sát
SGK.
GV
chuyển ý
sang mục
2
Gọi 1 HS
2/20
5/20
5/20
6/20
8/20
Lắng nghe
3/20
Người thực hiện: Phạm Thanh Tâm Trường THCS Tân
Ước
25

×