Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

quản lý tổng hợp vùng bờ và nghề cá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.43 KB, 57 trang )

1

Mở ñầu
ðới bờ (coastal zone) và vùng bờ (coastal area) là các mảng không gian nằm chuyển
tiếp giữa lục ñịa và biển, luôn chịu tác ñộng tương hỗ giữa quá trình lục ñịa (chủ yếu là sông)
và biển (chủ yếu là sóng, dòng chẩy và thuỷ triều), giữa các hệ thống tự nhiên (coastal system)
và hệ nhân văn (tâm ñiểm là hoạt ñộng của con người), giữa các ngành và những người sử
dụng tài nguyên vùng bờ (hoặc tài nguyên bờ - coastal resources) theo cả cấu trúc dọc (trung
ương xuống ñịa phương) và cẩu trúc ngang (các ngành trên cùng ñịa bàn), giữa cộng ñồng
dân ñịa phương và với các thành phần kinh tế khác. Vì thế, người ta còn gọi ñới bờ/vùng bờ là
ñới tương tác, nhưng trong thực tiễn quản lý vùng bờ người ta lại rất ít quan tâm ñến mối
quan hệ bản chất này.
ðặc tính trên cũng tạo ra tính ña dạng về kiểu loại và sự giầu có về tài nguyên thiên
nhiên - tiền ñề phát triển ña ngành (multi-use), ña mục tiêu ở vùng bờ. Trong khi vùng bờ chỉ
ñược quản lý theo ngành (sectoral mangement), dấn ñến gia tăng các mâu thuẫn lợi ích
(benefit conflict) giữa những người hưởng dụng (hưởng thụ và sử dụng) tài nguyên bờ.
ðến nay, một phần tư dân số thế giới (6.0 tỷ người) sống ở vùng bờ (phần ñất ven biển
và các ñảo) và phần ñông các ñô thị lớn tập trung ở vùng này. Dân số sống trong các ñô thị
ven biển hiện nay khoảng 250 triệu người và dự tính sẽ tăng gấp ñôi vào 20-30 năm tới. Các
hoạt ñộng không hợp lý ở vùng bờ ñã ñược tiến hành ở nhiều quốc gia và bởi những người sử
dụng tài nguyên bờ, kể cả các Chính phủ các cấp, sức ép dân số, sự suy thoái các hệ sinh thái
và các habitat ở vùng bờ, cùng với các họat ñộng kinh tế kéo theo là những bằng chứng về
khai thác quá mức tài nguyên bờ. Ở nhiều nước ñang phát triển, khuynh hướng này trong
chừng mực nào ñó ñã trầm trọng thêm do mở rộng nghèo ñói và nạn thất nghiệp. Bởi vậy, các
mâu thuẫn thường nẩy sinh từ sự cạnh tranh và sử dụng tiêu cực tài nguyên bờ, hoặc từ chiếm
chỗ của những người sử dụng tài nguyên bờ truyền thống bởi các hoạt ñộng kinh tế mới.
Vùng bờ tập trung sôi ñộng các hoạt ñộng phát triển của các ngành và của cộng ñồng,
cho nên sự phát triển của một ngành/lĩnh vực luôn chịu sự tác ñộng từ bên ngoài và từ chính
hoạt ñộng ñó ra bên ngoài. Trường hợp nghề cá vùng bờ (gồm nuôi trồng thuỷ sản-NTTS,
nước lợ ven biển và ñánh bắt gần bờ) là một ví dụ cho câu chuyện nói trên. Nuôi trồng thủy
sản vừa là nạn nhân (chịu tác ñộng xấu từ bên ngoài), vừa là thủ phạm (thải ra môi trường


nhiều chất thải hữu cơ dễ phân huỷ và có khả năng phân tán rộng). Những tác ñộng qua lại
như vậy cần ñược tính ñến khi xây dựng quy hoạch/lập kế hoạch phát triển ngành trong phạm
vi vùng bờ.
Rõ ràng, ñể phát triển bền vững vùng bờ và giảm thiểu mâu thuẫn lợi ích trong sử
dụng ña ngành tài nguyên bờ, rất cần một cách tiếp cận mới - tiếp cận quản lý tổng hợp vùng
bờ (QLTHVB). Trên thực tế, QLTHVB ñã ñược bắt ñầu từ khá sớm ở Hoa Kỳ (1972) cùng
với việc nước này ban hành Bộ luật quản lý vùng bờ. Tuy nhiên, mãi ñến năm 1992, tại Hội
nghị Thượng ñỉnh Môi trường và Phát triển (Rio de Janeiro) QLTHVB mới ñược chính thức
ñưa vào Chương 17 của Chương trình Nghị sự 21 (Agenda – 21) và khuyến khích các quốc
gia trên thế giới áp dụng. Sau Rio-92, các quốc gia và các tổ chức quốc tế ñã có nhiều nỗ lực
xúc tiến QLTHVB dưới nhiều hình thức khác nhau và ñạt ñược những kết quả bước ñầu khác
nhau. Tuy nhiên, QLTHVB ñòi hỏi cách tiếp cận mới, liên ngành và mức ñộ thống nhất hành
ñộng cao giữa các bên liên quan (stakeholders) và giữa cộng ñồng với Chính phủ. QLTHVB
có thể nhấn mạnh hoặc ñến vai trò của ñịa phương, trong ñó có người dân, hoặc ñến vai trò
của ngành kinh tế chiếm vị trí “quan trọng” ở một vùng bờ cụ thể nào ñó. QLTHVB ñưa ra
các giải pháp cân bằng nhu cầu cạnh tranh của những người sử dụng khác nhau ñối với cùng
loại tài nguyên bờ và giải pháp quản lý tài nguyên ñể tối ưu hoá lợi ích thu ñược trên một nền
tảng bền vững và nhất quán với mục tiêu của ñất nước.
Ở nhiều nước, các bộ quản lý ngành có nhiệm vụ, kỹ thuật và kinh nghiệm nghề
nghiệp ñể bảo tồn, quản lý và phát triển tài nguyên bờ. Trong trường hợp này, các cam kết sẽ
là ñiều kiện ñể thông qua và ứng dụng thành công các kế hoạch tổng hợp ñối với việc bảo tồn,
2

quản lý và phát triển tài nguyên bờ. ðể có một năng lực thể chế ñủ mạnh trong thực thi nhiệm
vụ, các bộ như vậy phải có một ñội ngũ cán bộ có cách làm việc ñủ linh hoạt ñể phối hợp hiệu
quả giữa các bộ ngành. Trong trường hợp Việt Nam, nghề cá vùng bờ, bao gồm cả NTTS,
ñóng vai trò quan trọng không chỉ về hiệu quả kinh tế do nó ñem lại, mà còn gây ra những
vấn ñề bức xúc về mặt môi trường và xã hội. Chính vì vậy, tăng cường năng lực QLTHVB ñã
trở thành nhu cầu thực tế khách quan ở các quốc gia có biển ñang phát triển trên toàn cầu,
trong ñó có Việt Nam. Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO, 1998) ñã xây dựng Hướng dẫn

QLTHVB và Nông, Lâm và Ngư nghiệp. Luật Thuỷ sản (2003) của Việt Nam, tại ñiều 05
cũng ñã nhấn mạnh ñến quản lý tổng hợp nghề cá.
Bài giảng chuyên ñề này nhằm trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản nhất về
quản lý, quản lý theo ngành, quản lý theo vấn ñề và quản lý tổng hợp vùng bờ. Sau khi học
xong môn học này, học viên sẽ trả lời ñược các câu hỏi chủ yếu sau: (1) ñới bờ và vùng bờ là
gì? chức năng và thuộc tính cơ bản của chúng? (2) Vì sao vùng bờ lại quan trọng? (3) Vì sao
vùng bờ phải quản lý? (4) Và quản lý vùng bờ như thế nào?. Các vấn ñề ñàm phán tìm sự
ñồng thuận, giải quyết mâu thuẫn lợi ích, quy hoạch/lập kế hoạch có sự tham gia, khung thể
chế-chính sách và cơ chế phối hợp liên ngành cũng là những yếu tố trọng tâm trong bài giảng.
Ngoài ra, học viên cũng hiểu ñược nhu cầu và những nỗ lực hiện nay trong QLTHVB ở Việt
Nam.
Cung cấp những quan ñiểm, nguyên tắc, cách tiếp cận, những bài học thực tiễn từ thực
tế QLTHVB trên thế giới và ở Việt Nam, ñặc biệt là việc lồng ghép kế hoạch quản lý nghề cá
bền vững ñặt trong khuôn khổ của QLTHVB, trong ñó có quy hoạch và lập kế hoạch NTTS
bền vững, cũng như quản lý các khu bảo tồn biển hiệu quả.
ðối tượng học là học viên cao học chuyên ngành thủy sản và quản lý nghề cá. Học
viên ñã học xong các môn cơ sở và chuyên ngành của Chương trình cao học. Cho nên, bài
giảng này chú trọng các kiến thức quản lý, hạn chế cung cấp quá chi tiết các kiến thức khoa
học cơ bản về một số lĩnh vực mà học viên có thể ñã học hoặc phải học trước ñó (kiến thức
sinh viên).


















3

Chương 1. Các vấn ñề chung
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. ðường bờ và ñới bờ là gì?
• Trong vùng biển có thuỷ triều người ta phân biệt ba mực nước trung bình xuất hiện
do sự dao ñộng thẳng ñứng của thuỷ triều - mực triều cao trung bình (mực triều cao-high tide),
mực triều thấp trung bình (mực triều thấp-low tide) và mực triều trung bình (mean tide). Khu
vực sườn bờ lục ñịa nằm giữa mực triều cao và thấp là ñới gian triều (intertidal zone), diện
tích ñới gian triều rộng hay hẹp phụ thuộc vào ñộ dốc của sườn bờ: nơi sườn bờ dốc thì vùng
gian triều hẹp và ngược lại. Dải ñất ven biển nằm trên mực triều cao là ñới trên triều
(supertidal zone) và dải ñất ngập nước nằm dưới mực triều thấp là ñới dưới triều (subtidal
zone). Vùng triều (tidal zone) nói chung và các ñới triều nói riêng có ñặc trưng môi trường
sinh thái khác biệt nhau, kéo theo các quần xã, quần thể sinh vật khác nhau cần chú ý trong
quá trình khai thác, sử dụng.
• ðường tiếp tuyến giữa bề mặt nước biển ở vị trí mực triều trung bình và bề mặt
sườn bờ lục ñịa là ñường bờ biển (gọi tắt là ñường bờ-coastline) hay còn gọi là ñường 0m lục
ñịa (0mLð) tương ứng với bề mặt biển ñể tính ñộ cao của các núi trên ñất liền và ñường tiếp
tuyến giữa bề mặt nước biển ở vị trí mực triều thấp và bề mặt sườn bờ lục ñịa là ñường triều
kiệt (gọi tắt là ñường 0m hải ñồ-0mHð). ðường này luôn ñược vẽ trên bản ñồ biển (hải ñồ) ñể
giúp cho các nhà hàng hải biết thông tin về nơi hoặc khả năng cập tàu vào bờ an toàn hay
không (hình 1).


Gian triÒu
(Intatidal zone)
Hight tide
Om L§ rtid tide
Om H§ low tide


Hình 1. Sơ ñồ mặt cắt ngang vùng triều
• Về mặt lý thuyết, ñới bờ biển (gọi tắt là ñới bờ - coastal zone) là không gian chuyển
tiếp giữa lục ñịa và biển, nơi thường xuyên xẩy ra các tác ñộng tương tác giữa quá trình lục
ñịa (chủ yếu là sông) và biển (chủ yếu sóng, dòng chẩy và thuỷ triều), giữa quá trình nội sinh
(liên quan tới nguồn năng lượng bên trong lòng ñất) và ngoại sinh (nguồn năng lượng mặt
trời). ðới này gồm có 2 phần: dải ñất ven biển (dải ven biển- coastal lands) và dải biển ven bờ
(dải ven bờ-coastal waters). Chúng ñược phân cách với nhau bởi ñường bờ. Ranh giới về phía
ñất liền của ñới bờ là rìa trong của các ñồng bằng ven biển tuổi hôlôxen (khoảng hơn 20.000
năm về trước), còn ranh giới về phía biển là rìa ngoài thềm lục ñịa hoặc tương ứng ñường
ñẳng sâu 200m. ðới bờ chiếm khoảng 8-11% tổng diện tích bề mặt trái ñất (LOICZ, 1995).
ðang tồn tại những quan niệm khác nhau về ñới bờ, ñặc biệt ñối với việc xác ñịnh
phạm vi/qui mô ñịa lý của nó, chẳng hạn:
" phần ñất liền chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quá trình biển và phần biển hoặc ñại
dương chịu ảnh hưởng trực tiếp của các quá trình lục ñịa (Webster, 1994)".
ð

i gian tri

u

(Intertidal zone)
M


c tri

u cao

(High tide)
M

c tri

u trung bình
(Mean tide)
M

c tri

u th

p

(Low tide)
V
ùn
g
ven bi

n


(Coastal land)
OmLð


Om
H
ð

4

" phạm vi ñịa lý của ñới bờ có thể bao gồm các vùng ñất nằm cách ñường bờ khoảng
1 km về phía lục ñịa, nơi có rừng ngập mặn, các ñầm nuôi thuỷ sản nước lợ, các ñầm lầy rừng
chàm, các vùng cửa sông hình phễu, các bãi cát, và các vùng khác chịu ảnh hưởng của thuỷ
triều, cũng như các vùng biển có ranh giới tương ñương ñường ñẳng sâu 200m, nơi có rạn san
hô, bãi rong biển, các thảm cỏ biển và khu vực ñáy mền có thể kéo lưới ñáy (NEPC, 1984)".
“…gồm các vùng ñất thuộc tất cả các huyện ven biển và các vùng biển nông tương
ứng với ñường ñẳng sâu 30-50m, nơi ñộ sâu của biển bằng 1/2 bước sóng (Việt Nam)”.
1.1.2. ðặc tính chung của ñới bờ và vùng bờ?
• ðới bờ có một số ñặc tính chung sau:
- Có sự phân dị của các yếu tố tự nhiên theo chiều dọc bờ biển, như: khung cấu trúc
ñịa chất, chế ñộ thuỷ triều, biến tính thời tiết và khí hậu, các kiểu bờ biển
- Có sự tương tác lẫn nhau giữa chuyển ñộng tân kiến tạo và kiến tạo hiện ñại với quá
trình lắng ñọng trầm tích ở những khu vực bờ khác nhau. Kết quả ñã tạo ra các khu bờ có xu
hướng tiến hoá khác nhau, ví dụ: khu vực bờ sụt chìm có ñền bù bồi tích, khu vực sụt chìm
không ñền bù bồi tích
- Có sự tương tác lẫn nhau giữa các quá trình sông và biển theo chiều ngang vùng bờ.
Kết quả một số yếu tố môi trường sinh thái bị phân ñới ngang như ñộ mặn, ñộ ñục
Do các ñặc trưng trên mà dọc bờ biển ñã hình thành nên các hệ thống tự nhiên khác
nhau về bản chất cấu trúc, tiến hoá, sinh thái và nguồn lợi. Vì thế ñòi hỏi chúng ta phải có
những giải pháp quản lý và sử dụng phù hợp.
- ðới bờ là một không gian ñộng, do vậy các yếu tố cấu thành nó luôn luôn thay ñổi
theo các chu kỳ dài ngắn khác nhau: biến ñộng chu kỳ ngắn (hàng ngày theo con nước thuỷ
triều), biến ñộng chu kỳ vừa (theo mùa mưa và khô) và biến ñộng chu kỳ dài (theo thời gian

ñịa chất).
- Nhìn từ góc ñộ môi trường, ñới bờ là “bãi chứa thải” từ các hoạt ñộng xả thải trên ñất
liền ñưa ra (trên 70%) và từ biển ñưa vào (khoảng 30%).
- ðới bờ rất nhậy cảm (sensitivity), dễ bị tổn thương (vulnerability) và chịu nhiều rủi
ro (risk) dưới tác ñộng tiêu cực của các quá trình tự nhiên (thiên tai) và hoạt ñộng của con
người.
- Liên quan ñến tác ñộng của hiệu ứng nhà kính gây ra dâng cao mực nước biển (sea
level rise) thì ñới bờ là nơi chịu rủi ro cao nhất.
• ðới bờ và các hệ thống tài nguyên trong nó giữ chức năng và vai trò cực kỳ quan
trọng trong:
- Cung cấp không gian sống cho các loài, trong ñó có loài người. Là nơi sinh cư tự
nhiên (habitat), nơi giầu thức ăn, nơi ương nuôi ấu trùng và các bãi sinh sản cũng như môi
trường sống lý tưởng không chỉ cho các loài sinh vật ưa sống ở vùng bờ, mà còn cho cả các
loài sống xa bờ.
- Cung cấp thực phẩm, hàng hoá, nguyên nhiên liệu và các dịch vụ cho con người nói
chung và cho các cộng ñồng ven biển nói riêng.
- ðiều hoà môi trường, bồi tích sông, dòng dinh dưỡng từ lục ñịa ñưa ra, chất gây ô
nhiễm nguồn ñất liền, cũng như ñiều hoà thời tiết, khí hậu.
- Các hệ sinh thái trong ñới bờ có thể giảm thiểu tác ñộng của năng lượng sóng ñến bờ
biển (kể cả sóng thần) và bảo vệ bờ biển khỏi bị xói lở.
5

- Nơi giầu có và sản xuất ra các chất dinh dưỡng cần cho nhiều loài sinh vật và duy trì
cơ sở ña dạng sinh học cao cho phát triển thuỷ sản bền vững và cho sinh kế của cộng ñồng ñịa
phương ven biển (khoảng 80% tiền thu ñược từ thuỷ sản).
• Vùng bờ biển (gọi tắt là vùng bờ - coastal area) là một ñơn vị lãnh thổ nằm trong ñới
bờ, có hình dạng không ñều và có kích thước bất kỳ. Vùng này cũng bao gồm hai phần: khu
vực ñất ven biển (khu vực ven biển) và khu vực biển ven bờ (khu vực ven bờ) và cũng chứa
ñựng tất cả ñặc tính tương tự như ñới bờ. Quy mô to nhỏ của vùng bờ tuỳ thuộc vào nhu cầu,
mục tiêu cụ thể và khả năng quản lý của chương trình/dự án quản lý vùng bờ nào ñó (Nguyễn

Chu Hồi, 2000).
Như vậy, khái niệm ñới bờ chứa ñựng thông tin ñầy ñủ về mặt bản chất tự nhiên và
cấp quản lý vĩ mô, còn khái niệm vùng bờ thường gắn liền với một hoạt ñộng quản lý cụ thể ở
một không gian bờ xác ñịnh.
1.2.3. Tài nguyên bờ
Tài nguyên ñới bờ (gọi tắt là tài nguyên bờ – coastal resources) rất phong phú, ña
dạng và mỗi dạng tài nguyên như thế ñược hình thành trong những ñiều kiện cụ thể của ñới
tương tác. Một cách ñại thể, tài nguyên bờ là một bộ phận của tài nguyên thiên nhiên hình
thành và phân bố trong khối nước, trên bề mặt ñáy, trên dải ven biển và trong lòng ñất thuộc
ñới bờ. ðó là các dạng vật chất cụ thể, các yéu tố và quá trình của tự nhiên mà con người có
thể trực tiếp hay gián tiếp chế tác ra các vật dụng phục vụ cho cuộc sống và phát triển của
mình. Sự hình thành chúng liên quan mật thiết ñến cấu trúc và ñịa ñộng lực ñáy biển và ñới bờ,
ñến cấu trúc và ñộng lực khối nước phủ trên. Nó cũng bị chi phối bởi hàng loạt quá trình, như:
các quá trình ñịa chất, sinh học, hoá học; thuỷ ñộng lực; các tương tác nội-ngoại sinh, sông-
biển, khí quyển-ñại dương. Nói rộng ra, ñó chính là kết quả và sản phẩm của các quá trình
tương tác giữa các quyển khác nhau trong phạm vi ñới bờ - khí quyển, sinh quyển, thạch
quyển và thuỷ quyển. Do vậy, khi nói ñến quản lý tài nguyên bờ thì cần phải xem môi trường
và tài nguyên ở ñây như hai mặt của một vấn ñề trong suốt quá trình quản lý.
Vì ñới bờ nằm chuyển tiếp giữa biển và lục ñịa, nên ñiểm khác biệt cơ bản về mặt
môi trường sinh thái ñới bờ là có “lưỡng tính-mixed”. Phủ trực tiếp lên bề mặt thạch
quyển ở dưới ñáy biển là khối nước biển, còn trên lục ñịa là khối không khí. Không có
nước, không có sinh vật trên Trái ðất; còn nước nói chung và nước biển nói riêng là môi
trường sống của sinh vật thuỷ sinh, giống như không khí ñối với sinh vật trên cạn. Cụ thể
là:
- Môi trường nước ở dải ven bờ có những ñặc ñiểm chung như: (1) Cột nước biển
có áp suất cao hơn cột khí quyển. Sinh vật sống dưới nước càng sâu thì càng chịu ñựng áp
suất cao; (2) Nước biển là dung môi hoà tan các chất khí, các hợp chất vô cơ và một phần
hữu cơ. Nó có ñộ mặn, ñộ pH khác nhau, sinh vật sống trong ñó cũng khác nhau; (3) Nước
biển bốc hơi khi nhiệt ñộ tăng; (4) Khác với khí quyển, môi trường nước biển là yếu tố
giới hạn của sinh vật thuỷ sinh vì tỷ lệ của khí hoà tan, ñộ mặn, áp suất, pH, ñộ chiếu sáng

theo chiều sâu khác nhau và (5) Nhờ năng lượng ánh sáng mặt trời, một phần nước biển
chuyển ñổi ra hơi nước, vì thế từ nước mặn trở thành nước ngọt thông qua chu trình mưa-
bốc hơi.
- Môi trường trên dải ven biển thì hoàn toàn khác như: (1) Phụ thuộc rất chặt chẽ
vào chế ñộ thời tiết và khí hậu; (2) Biến tính khác nhau theo chiều dọc bờ biển (nơi thì bờ
núi ñá gốc, nơi thì ñồng bằng châu thổ, nơi thì ñồng bằng cát ); (3) Phụ thuộc nhiều vào
các lưu vực sông và “trăm sông ñều ñổ về biển cả”, cho nên mọi hoạt ñộng phát triển trên
lưu vực sông ven biển suy cho cùng ñều có thể tác ñộng gián tiếp hay trực tiếp xuống dải
ven bờ; (4) Khu vực sát biển luôn chịu tác ñộng trực tiếp của các quá trình biển như xâm
nhập mặn, sóng và nước dâng trong bão, gió biển và (5) Là vùng chịu tác ñộng của lũ từ
thượng nguồn và dễ bị rủi ro.
6

Sự khác nhau nói trên dẫn ñến sự khác nhau về cấu trúc, về kiểu loại tài nguyên bờ,
trong ñó có nguồn lợi sinh vật. Nhiều loài ñặc hữu ñối với môi trường biển không tìm thấy
trên lục ñịa; sinh vật biển linh ñộng hơn và không gắn bó với nơi sinh cư như các hang, ổ, tổ
như sinh vật trên lục ñịa; tính thụ ñộng của sinh vật biển cao hơn lệ thuộc vào ñiều kiện thuỷ
ñộng lực biển…Hiểu biết ñược các ñặc trưng sinh thái nói trên giúp chúng ta ñịnh hướng khai
thác và sử dụng hợp lý nguồn lợi sinh vật ñới bờ.

Từ góc nhìn hệ thống, người ta ñã xác ñịnh ñới bờ là một hệ thống tự nhiên cấp hành
tinh, tương ứng với ñại dương và ñại lục. Trong ñới bờ lại chứa ñựng nhiều hệ tự nhiên cấp
nhỏ hơn (phụ hệ của ñới bờ). ðặc biệt ñới bờ luôn chịu tác ñộng của con người thông qua
hoạt ñộng phát triển, cho nên trên thực tế ñới bờ (và các hệ tự nhiên trong nó) không còn là
những hệ tự nhiên nguyên khai, mà ñều là các hệ khai thác. Cho nên, phần lớn các hệ như vậy
ñan xen với các “hệ nhân sinh” ñể trở thành các hệ thống bờ, gọi tắt là hệ bờ (coastal system),
trong ñó có các hệ sinh thái bờ (coastal ecosystem). Chính vì thế, khi quản lý vùng bờ và các
hệ bờ luôn cân nhắc ñến hành vi của con người/ ngành ñể có giải pháp ñiều chỉnh phù hợp.
Có thể kể một số hệ bờ tiêu biểu và thường gặp:
a. Rừng ngập mặn (mangrove)

b. Thảm cỏ biển và bãi rong tảo (Seaweed-seagrass bed)
c. Khu vực ñ y mền có thể dùng lưới kéo ñ y (shoft bottom)
d. Khu vực ñ y cứng (hard bottom)
e. Rạn san hô (coral reef)
f. Vũng/vụng ven bờ (coastal embayment/bay)
g. Bãi biển (sand beach)
h. Cửa sông, châu thổ (estuary, delta)
i. ðầm phá ven biển (coastal lagoon)
j. Bãi triều lầy và bãi bùn triều (tidal marsh and mudy tidal flat)
k. Lưu vực sông ven biển (coastal watershed)
l. Vùng nước trồi (upwelling area)
m. Hồ nước mặn ven biển (saline lake)
n. ðồng lúa nước (rice-field)
o. ðầm nuôi thuỷ sản (aquacultural pond/pool)
Tài nguyên bờ thuộc dạng tài nguyên chia sẻ (shared resources), không thể nói thuộc
quyền sở hữu duy nhất của ai, của ngành nào, mà là tiền ñề phát triển các ngành kinh tế khác
nhau (multi-use). Vì thế phần lớn tài nguyên bờ ñược sử dụng theo tiếp cận mở (open acess)
và quản lý theo ngành trong một bối cảnh luôn cạnh tranh.
Cũng như các dạng tài nguyên thiên nhiên khác, tài nguyên bờ thuộc hai nhóm chính:
tài nguyên sinh vật (ña dạng sinh học, các hệ sinh thái, tiềm năng bảo tồn, nguồn lợi thuỷ sản
mặn-lợ, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản) và phi sinh vật (dầu khí, sa khoáng ven biển, vật liệu
xây dựng, tiềm năng phát triển du lịch, tiềm năng phát triển cảng-hàng hải ). Trong số các
dạng tài nguyên bờ, theo mức ñộ tái tạo người ta chia ra: tài nguyên tái tạo (lượng sử dụng sẽ
tự phục hồi lại sau một ñơn vị thời gian như nguồn lợi sinh vật, các hệ sinh thái ) và không
tái tạo (dùng bao nhiêu hết bấy nhiêu như dầu khí, khoáng sản khác ). Do ñ , các hệ sinh
thái ven biển và ven bờ ñược xem là yếu tố ñầu vào ñể phát triển bền vững một số ngành kinh
tế dựa vào hệ sinh thái (ecosystem-based), việc bảo toàn chức năng tự nhiên của hệ chính là
giữ ñược nguồn vốn sinh thái (ecological capital) cho phát triển bền vững các ngành kinh tế
trên nói riêng và vùng bờ nói chung.
1.2. Phát triển bền vững vùng bờ

1.2.1. Chương trình Nghị sự 21: các nguyên tắc chủ yếu
7

Về mặt lịch sử, trước năm 1970 các nỗ lực quốc tế về bảo vệ môi trường còn rất manh
mún, rời rạc và ít hiệu quả, chưa có tác ñộng ñến cấp quốc gia và cộng ñồng. Các sự cố lớn về
môi trường liên tục xẩy ra ở các vùng biển trên thế giới, tác ñộng của nó không chỉ tại nơi xẩy
ra sự cố mà còn lan toả ra bên ngoài, thậm chí mang tính “xuyên biên giới-tranboundary” với
những ảnh hưởng cấp diễn và trường diễn. ðiều ñ ñã thúc ñẩy gần 100 quốc gia tham gia
Hội nghị Liên Hiệp quốc về Môi trường và Con người ñược tổ chức ở Stôckhôn, Thụy ðiển
(1972). Hội nghị này thể hiện nỗ lực ñầu tiên của cộng ñồng quốc tế ñối với những vấn ñề
môi trường bức xúc toàn cầu và sự thay ñổi bước ngoặt về mặt nhận thức ở cấp quốc gia.
Ngoài tuyên bố các nguyên tắc chung với kế hoạch hành ñộng 109 ñiều, hội nghị ñã ñưa ra
thông ñiệp “môi trường hay phát triển”.

Sau 20 năm thực hiện kế hoạch hành ñộng 109 ñiều, năm 1992 Liên Hiệp quốc lại tổ
chức Hội nghị Thượng ñỉnh Trái ñất về Môi trường và Phát triển (UNCED) tại Rio de Janeiro,
Brasin. Hội nghị thu hút 178 quốc gia (trong ñ có 114 nguyên thủ), hơn 1000 ñại biểu cấp
cao, 9.000 nhà báo và 1.400 ñại diện các tổ chức phi chính phủ. Một gói gồm 05 sản phẩm
chính của hội nghị là: Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển, Công ước khung về Biến
ñổi khí hậu, Công ước ða dạng sinh học, Chương trình Nghị sự 21 và Bộ nguyên tắc về rừng.
Có thể nói, sau 20 năm từ thông ñiệp 72 “môi trường hay phát triển” ñến Rio-92 “môi trường
và phát triển”, thể hiện sự nhượng bộ của cộng ñồng thế giới trước các vấn ñề bức xúc về môi
trường và nhu cầu phát triển ñể giải quyết tình trạng ñói nghèo tràn lan trên thế giới.
Chương trình Nghị sự 21 thực chất là một kế hoạch hành ñộng 40 chương, trong ñ
dành trọn Chương 17 cho vấn ñề quản lý tổng hợp vùng bờ và ñại dương. ðể thực hiện ñã
khuyến nghị 2.500 hành ñộng trong 115 lĩnh vực chương trình ưu tiên. Trong ñ có 2 quan
ñiểm trung tâm ñược nhấn mạnh là tính phụ thuộc lẫn nhau (interdependence) và tính tổng
hợp (integration). Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa môi trường và phát triển, giữa các quốc gia
trên thế giới, giữa các ngành/lĩnh vực trong một quốc gia, giữa một “chuỗi vấn ñề”- sản xuất
nóng, xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, tiêu thụ lãng phí, sức ép môi trường, hiệu ứng nhà

kính, dâng cao mực nước ñại dương, thảm hoạ sinh thái, nghèo ñói, tăng dân số, không gian
môi trường cho phát triển tương lai…Tính tổng hợp còn có nghĩa là lồng ghép, thống nhất,
hội nhập. Trong trường hợp này cần lồng ghép môi trường và phát triển (phát triển bền vững),
thống nhất giữa các ngành, hội nhập giữa các quốc gia, ñồng thuận và hài hoà lợi ích giữa các
bên liên quan (stakeholder) trong việc sử dụng ña ngành tài nguyên bờ, tổng hợp nguồn thông
tin khoa học tự nhiên, xã hội và thông tin chính sách…liên quan tới quản lý vùng bờ. Trong
số các nguyên tắc ñưa ra trong Chương trình Nghị sự 21, liên quan ñến QLTHVB thường chú
ý ñến: nguyên tắc phòng ngừa, người gây ô nhiễm phải trả tiền, con người là trung tâm của sự
phát triển và cuộc sống lành mạnh, hiệu quả của con người trong sự hài hoà với thiên nhiên.
1.2.2. Phát triển bền vững
Nhận thức về phát triển bền vững (PTBV) xuất hiện từ khá sớm, gắn với các hoạt
ñộng bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, khái niệm PTBV theo
ñúng nghĩa của nó mới chính thức ñược ñề xuất vào năm 1987 trong báo cáo “Tương lai
chung của chúng ta” và từng bước ñược khảng ñịnh trong các Hội nghị Thượng ñỉnh về Môi
trường và Phát triển ở Rio de Janeiro, Brasin (1992) và ở Johannesburg, Nam Phi (2002).
Theo ñ , PTBV ñược hiểu “là sự phát triển nhằm ñáp ứng ñược những nhu cầu hiện tại,
nhưng không gây trở ngại/làm tổn hại cho/ñến việc ñáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Rõ ràng, về bản chất, PTBV trước hết phải là một quá trình phát triển, mà trong ñ
quan hệ không gian giữa ba mảng phúc lợi – kinh tế, xã hội và môi trường luôn ñược ñiều
chỉnh tối ưu, cũng như mối quan hệ theo trục thời gian về nhu cầu và lợi ích giữa các thế hệ
ñược giải quyết hài hoà. Có thể nói, PTBV không dễ dàng ñạt ñược trong thực tế, vì yếu tố
8

phát triển luôn thay ñổi, thậm chí thay ñổi rất nhanh so với khả năng ñiều chỉnh. Bởi thế,
PTBV chỉ là mục tiêu mong ñợi về mặt xã hội, nhưng lại là nhu cầu và xu thế tất yếu trong
tiến trình phát triển của xã hội loài người, của các ngành kinh tế, vùng lãnh thổ và các ñịa
phương. PTBV nhấn mạnh ñến ba cụm vấn ñề chính:
- Phát triển kinh tế ñể cải thiện chất lượng cuộc sống con người: cuộc sống lành mạnh
và hiệu quả trong sự hài hoà với thiên nhiên.
- Phát triển phù hợp về mặt môi trường: sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, ñôi

khi không sử dụng nếu nhậy cảm về mặt môi trường, bảo vệ các qúa trình sinh thái quan trọng,
các hệ thống hỗ trợ cuộc sống con người (hệ sinh thái…) và ña dạng sinh học.
- Phát triển công bằng - trong phân phối lợi ích từ sự phát triển: trong xã hội, giữa các
thế hệ, giữa các quốc gia (nghĩa vụ với quốc gia khác, hội nhập, ñối với cộng ñồng quốc tế…).
Nói cách khác PTBV vùng bờ là một quá trình thay ñổi mà trong ñó việc khai thác tài
nguyên, hướng ñầu tư, ñịnh hướng phát triển công nghệ và thay ñổi thế chế ñược tiến hành
nhất quán giữa hôm nay và tương lai. Mục tiêu PTBV vùng bờ là:
- Chấp nhận phát triển ña ngành ở vùng bờ
- Giảm nguy cơ ñe doạ vùng bờ do các thiên tai
- Bảo toàn các quá trình sinh thái quan trọng, các hệ thống hỗ trợ ñời sống các loài
(gồm cả loài người) và ña dạng sinh học ở vùng bờ.
- Cải thiện sinh kế, góp phần xoá ñói giảm nghèo cho các cộng ñồng ven biển và trên
các hải ñảo ven bờ.
Liên quan ñến QLTHVB biển và ñại dương, Chương 17 Chương trình Nghị sự 21 ñã
xác ñịnh 07 lĩnh vực chương trình ưu tiên là: (1) QLTH và PTBV vùng bờ, bao gồm cả vùng
ñặc quyền kinh tế (EEZ), (2) Bảo vệ môi trường biển, (3) Sử dụng lâu bền và bảo tồn nguồn
lợi sinh vật biển khơi, (4) Sử dụng lâu bền và bảo tồn nguồn lợi sinh vật vùng biển tài phán
quốc gia, (5) Quản lý môi trường biển và biến ñổi khí hậu, (6) Tăng cường ñiều phối và hợp
tác quốc tế và vùng và (7) PTBV các ñảo nhỏ.
Ở Việt Nam, ngay từ rất xa xưa ñã nhắc ñến một trong những khía cạnh của PTBV khi
nói: “ñời cha ăn mặn, ñời con khát nước”, còn ngày nay PTBV ñã trở thành ñường lối, quan
ñiểm và mục tiêu của ðảng và chính sách của Nhà nước. Một phần ñã ñược thể hiện trong Chỉ
thị số 36/CT-TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện ñại hoá ñất nước (1998) và Nghị quyết số 41/NQ-TW về bảo vệ môi trường (2004). ðặc
biệt, ngày 17 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ñã ra Quyết ñịnh số 153/2004/Qð -
TTg ban hành ðịnh hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt
Nam). Trong ñ , thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế ñược xác ñịnh cần phải ưu tiên
nhằm PTBV (Phần 2, Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Trên thực tế, thuỷ sản nước ta
mang ñặc tính của một ngành kinh tế có hoạt ñộng sản xuất ña dạng, tập trung sản xuất hàng
hóa xuất khẩu, phát triển dựa vào nền tảng nguồn lợi tự nhiên và một nghề cá nhân dân. Vì

vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thuỷ sản nước ta thường chịu nhiều rủi ro cả về mặt “thị
trường”, cả về “môi trường”, ñặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và gia tăng các
tác ñộng xấu từ các hoạt ñộng của con người. Rõ ràng, ñể ổn ñịnh mức tăng trưởng kinh tế
của ngành trong thời gian dài, không có cách nào khác là phải ñảm bảo tính bền vững trong
quá trình phát triển, ñặc biệt trong các hoạt ñộng sản xuất trọng yếu, như: nuôi trồng thuỷ sản,
khai thác thuỷ sản, chế biến thủy sản, sản xuất giống
Tính bền vững trong các hoạt ñộng sản xuất thủy sản chính là ñộ ño về mức cân bằng
giữa ba mảng phúc lợi: kinh tế, xã hội và môi trường; ñộ ño về trách nhiệm của các thế hệ
hôm nay ñối với các thế hệ mai sau. Có thể nói, nhìn từ giác ñộ môi trường, thuỷ sản “vừa là
nạn nhân, vừa là thủ phạm”; từ giác ñộ kinh tế, thuỷ sản “vừa ñem lại hiệu quả kinh tế lớn,
9

vừa chịu rủi ro cao” và từ giác ñộ xã hội, thuỷ sản “vừa là công cụ xóa ñói giảm nghèo hữu
hiệu, vừa tác ñộng phân hoá giầu nghèo nhanh”. Cho nên, tính bền vững trong phát triển thuỷ
sản cũng chính là triển khai giải quyết ñồng bộ ba mảng vấn ñề: Ngư dân (xã hội), ngư nghiệp
(kinh tế thủy sản) và ngư trường (môi trường và nguồn lợi thủy sản). Tiềm năng phát triển
thuỷ sản có thể còn rất lớn nếu cơ sở nguồn lợi và các hoạt ñộng sản xuất thuỷ sản ñược quản
lý và ñiều hành theo hướng hiệu quả và bền vững.

































10

Chương 2. Nhu cầu quản lý tổng hợp vùng bờ
2.1. Tầm quan trọng về kinh tế và môi trường của vùng bờ
• ðiều kiện khí hậu và tự nhiên thuận lợi cùng với giao thông và truyền thông dễ dàng
của nhiều ñịa ñiểm ở vùng bờ ñã khuyến khích và hấp dẫn sự ñịnh cư của con người ở vùng
bờ từ lâu ñời. Mức ñộ tập trung của các hoạt ñộng phát triển ở vùng này ngày một gia tăng
theo thời gian. Chính ñiều này ñã gây ra những vấn ñề môi trường không lường trước, hậu
quả là các vùng cửa sông ven biển ở nhiều quốc gia bị ô nhiễm nghiêm trọng, như ở Saint
Louis, Senegal và ở ðông Phi. Vùng bờ ñ ng vai trò rất quan trọng về mặt sinh thái học vì

chúng cung cấp một lượng lớn dịch vụ và hàng hoá môi trường. Như ñã nói trên, ñặc tính cơ
bản của môi trường bờ là bản chất ñộng của nó do sự chuyển hoá vật chất, năng lượng và sinh
vật giữa các hệ thống lục ñịa và biển dưới ảnh hưởng của lực truyền ban ñầu từ những biến
ñộng thời tiết (chu kỳ ngắn), khí hậu (chu kỳ dài) và những biến ñổi hàng trăm năm của thuỷ
triều và mực nước biển.
Nhiều ñô thị lớn trên thế giới ñều nằm ở vùng bờ (ven biển và hải ñảo) và phần lớn
các hoạt ñộng kinh tế tập trung trong các ñô thị này. Vùng bờ là nơi hội tụ các hoạt ñộng
trong các trung tâm ñô thị, như hoạt ñộng tàu thuyền trong các cảng chính, chất thải từ các
khu dân cư và công nghiệp…Do ñ , các hoạt ñộng truyền thống dựa vào tài nguyên như nghề
cá và nuôi trồng thuỷ sản ven biển, lâm nghiệp, nông nghiệp thường phảttiển ñan xen với các
hoạt ñộng như công nghiệp, du lịch, hoạt ñộng tàu thuyền…
• Theo Viện Tài nguyên Thế giới (2000), ñến nay chỉ có 1,75 triệu loài sinh vật ñã
ñược ñặt tên và cũng chỉ phát hiện ñược 250.000 loài trong môi trường biển. Trong số ñó
gần 98% là ñộng vật ñáy, chỉ còn khoảng 2% là các nhóm sinh vật trôi nổi và bơi lội.
Ngoài ra, trong số trên có 180.000 loài ñộng vật, có hơn 16.000 loài cá và khoảng 25.000
loài thực vật. Nhưng trong ñó cũng chỉ có 590 loài cá kinh tế (ñối tượng của nghề cá). Lẽ
dĩ nhiên, con số này còn thấp hơn nhiều so với số lượng có thật trong biển và ñại dương.
Các loài sinh vật trong ñới bờ biển tồn tại dưới dạng các quần xã, quần thể, sinh cảnh và
các hệ sinh thái. Trong ñới bờ ghi nhận ñược khoảng 20 hệ sinh thái thường gặp với qui
mô và giá trị khác nhau như: rừng ngập mặn, thảm rong tảo-cỏ biển, rạn san hô, ñầm phá,
vũng-vụng ven bờ, bãi triều lầy, bãi bùn triều, bãi cát, doi cát chắn, cửa sông châu thổ,
cửa sông hình phễu, bờ ñá, ñáy mềm, vịnh nông ven bờ, nước trồi, ñầm nuôi thuỷ sản
nước lợ/mặn, các ñảo ven bờ và thềm lục ñịa.
ðến nay, trong vùng biển và ñới bờ Việt Nam ñã phát hiện ñược chừng 11.000 loài
sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái (HST) ñiển hình. Chúng thuộc về 6 vùng ña
dạng sinh học (ðDSH) biển khác nhau, trong ñ ba vùng biển: Móng Cái-ðồ Sơn, Hải Vân-
ðại Lãnh và ðại Lãnh-Vũng Tầu có mức ðDSH cao hơn các vùng còn lại. Trong tổng loài
ñược phát hiện có khoảng 6.000 loài ñộng vật ñáy, 2038 loài cá với trên 100 loài cá kinh tế,
653 loài rong biển, 657 loài ñộng vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài thực vật ngập
mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển, 5 loài rùa biển và

43 loài chim nước.
Ngoài ra, trên dải ven biển nước ta còn hiện diện các vùng ñất ngập nước (ðNN) với
các kiểu loại khác thuộc chủ yếu về nhóm ðNN triều (tidal wetland) có môi trường nước mặn
lợ phân bố từ mực triều cao xuống ñến ñộ sâu 6m nước; và ðNN ven biển với bản chất môi
trường nước lợ và ngọt, tập trung ở hai châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long- khoảng 7,5
triệu ha. Các HST ðNN này ñóng vai trò rất quan trọng trong ñiều hoà và cung cấp nước, giữ
ổn ñịnh mực nước ngầm và cung cấp tiềm năng cho nuôi trồng thuỷ sản (NTTS). Tính toán sơ
bộ cho thấy diện tích mặt nước mặn lợ có khả năng phát triển NTTS ở vùng triều khoảng
1.130.000 ha. Diện tích trồng lúa, cói và làm muối năng suất hiệu qủa thấp ở ven biển có thể
chuyển ñổi sang NTTS còn khoảng gần 500.000 ha. Diện tích các vùng ñầm phá tập trung ở
11

các tỉnh miền Trung (từ Thừa Thiên-Huế ñến Bình Thuận) có khả năng phát triển thuỷ sản
khoảng 12.000 ha; có thể ñưa trên 500.000 ha mặt nước vùng ven bờ vào phát triển nuôi thủy
sản. Ngoài ra, cả khả năng ñưa 20.000 ha vùng bãi ngang sát biển vào nuôi trồng thủy sản với
ñiều kiện phải bảo vệ nguồn nước ngầm ngọt.
Các hệ sinh thái trên là những thực thể tự nhiên (physical entity) tồn tại thực sự, rõ
ràng và ñộc lập trong ñới bờ. Chúng có các giá trị dịch vụ cực kỳ quan trọng như: ñiều chỉnh
khí hậu, chu trình cacbon và các chu trình sinh ñịa hoá khác; ñiều hoà dinh dưỡng cho các
vùng biển lân cận (như rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô); cung cấp “quĩ tiềm năng”
cho du lịch sinh thái, cho phát triển cảng-hàng hải. Chúng ñồng thời cũng là nơi sinh cư tự
nhiên (habitat) của các loài sinh vật biển và chim di cư, môi trường sống lý tưởng cho con
người trong tương lai. Nơi tiềm chứa ña dạng sinh học và cung cấp nguồn lợi hải sản to lớn,
nguồn thuốc chữa bệnh, nguồn năng lượng biển dồi dào cho sự phát triển của xã hội loài
người. Nhiều hệ sinh thái ven bờ còn là “bức tường” bảo vệ bờ biển khỏi tác ñộng phá huỷ
của sóng bão, khỏi bị xói lở; là “cạm bẫy” tự nhiên ñể sàng lọc các chất ô nhiễm, chủ yếu
nguồn lục ñịa, cũng như có khả năng hoà loãng và sử lý các loại chất thải. Các hệ sinh thái
ven bờ cũng là các bãi ñẻ và nơi ương nuôi ấu trùng của nhiều loài thuỷ sinh vật không chỉ ở
ngay vùng bờ mà còn từ ngoài khơi vào theo mùa, trong ñó có nhiều loài ñặc hải sản.
Các hệ sinh thái (HST) như vậy thường phân bố tập trung ở ñới bờ và có năng suất

sinh học cao. Chúng quyết ñịnh hầu như toàn bộ năng suất sơ cấp của ñại dương thế giới, thí
dụ:
Hệ sinh thái Năng suất sơ cấp (gC/m
2
/năm)
Rừng ngập mặn 430 - 5000
Rong tảo-cỏ biển 900 – 4650
Rạn san hô 1800- 4200
Cửa sông 200 – 4000
Vùng nước trồi 400 – 3650
Thềm lục ñịa 100 – 600
ðại dương 400

Hệ thống tài nguyên bờ phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ mật thiết với nhau, có mối liên
kết trực tiếp hay gián tiếp với các hệ thống tài nguyên nội ñịa. Thí dụ, sản xuất cá có thể phụ
thuộc nơi sinh cư của ấu trùng trong RNM, và chất lượng RSH có thể liên quan tới ñặc ñiểm
lọc của RNM ñể bảo ñảm rằng chỉ có nước sạch ñến vùng RSH này…Suy rộng hơn, các HST
bờ nằm trong ñới chuyển tiếp và tương tác, nên chúng có quan hệ mật thiết và tương hỗ cho
nhau, tạo ra những dây xích sinh thái quan trọng trong ñới bờ và thậm chí cả ngoài biển xa mà
một mắt xích trong số chúng bị tác ñộng sẽ ảnh ñến các mắt xích còn lại. ðiển hình là mối
quan hệ giữa ba HST tiêu biểu cho biển nhiệt ñới: rừng ngập mặn (RNM), rạn san hô (RSH)
và thảm cỏ biển (TCB). Trên thực tế, ít ai nghĩ ñến việc phá rừng ngập mặn trên vùng triều lại
ảnh hưởng ñến nguồn lợi sinh vật trong HST rạn san hô và cỏ biển ở dưới biển sâu hơn (hình
2).
Hình 2: Lợi ích chung và quan hệ qua lại của các hệ sinh thái
rừng ngập mặn, cỏ biển và rạn san hô

12









Chức năng
Rừng ngập mặn

Ngăn ngừa xói lở

Nơi sinh cư

Sản xuất thức ăn


Cỏ biển

Tích luỹ và giữ bồi tích

Nơi sinh cư và sản xuất giống

Sản xuất thức ăn


Rạn san hô

Vùng ñệm tự nhiên

Nơi sinh cư, vùng thức ăn và giữ

giống

Sản xuất thức ăn








Tương tác
qua lại
ðầm phá


Thức ăn hữu cơ


Cá và các loài giáp
xác thuần thục

Cỏ biển vả rong tảo


Carbon và nitrogen


Cá thuần thục
Mực biển



Các thành tạo san hô


Cá và ấu trùng không xương sống

Bảo vệ chống sóng và dòng chẩy


Rừng ngập mặn là hệ sinh thái “lai” lục ñịa và biển, bao gồm các loài thực vật ưa sống
trong/hoặc lân cận vùng triều, bởi vậy thực vật ở ñây thường thích ứng với ñiều kiện sinh thái
ngập nước (mặn, lợ hoặc nhạt). Theo Burke và ñồng nghiệp (2000), RNM phân bố trải dài
trên 8% tổng chiều dài ñường bờ biển thế giới và khoảng 1/4 ñường bờ nhiệt ñới, chiếm
khoảng 181.000 km
2
. Khoảng 112 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có rừng ngập mặn
trong phạm vi quyền tài phán quốc gia. RNM là nơi hội tụ, sinh sống và phát triển của hàng
ngàn giống loài thuỷ sinh. RNM có chức năng cực kỳ quan trọng trong bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thuỷ sản nước lợ và duy trì môi trường sống của các loài hải sản ngoài khơi. Theo
Hamilton và Snedaker (2002), 90% các loài sinh vật biển sẽ sống ở vùng cửa sông có RNM
trong toàn bộ hoặc ña số giai ñoạn thuộc vòng ñời của chúng. ở Việt Nam, trước năm 1943 có
khoảng trên 400.000 ha (miền Nam 250.000 ha). Sau năm 1943 còn lại 252.500 ha, tập trung
ở ñồng bằng sông Cửu Long (191.800 ha), vùng cửa sông ven biển miền Bắc (46.400 ha) và ở
miền Trung khoảng 14.300 ha. Sống dưới tán thảm thực vật ngập mặn là hơn 1500 loài sinh
vật, trong ñ có nhiều thuỷ ñặc sản chỉ sống gắn bó với RNM. Bản thân cây ngập mặn ñã bị
khai thác làm than củi, rễ cây Bần chua làm nút lie, vỏ cây Vẹt làm sơn ta chống hà cho
thuyền tre, nuôi ong, thức ăn gia súc
Hệ sinh thái RSH là một trong số ít hệ sinh thái tự nhiên có năng suất và ña dạng sinh
học cao nhất, ñược ví như rừng mưa nhiệt ñới dưới ñáy biển. Mặc dù rạn san hô chỉ chiếm

0,25% diện tích ñáy ñại dương thế giới, nhưng nó cung cấp hơn 93.000 loài ñộng thực vật
biển ñược xác ñịnh tới nay và là chỗ dựa cho khoảng 500 triệu người trên toàn cầu có nhu cầu
sử dụng hàng hoá và dịch vụ từ các RSH (Clive Wilkinson, 2002). Giá trị hàng hoá và dịch vụ
như vậy ước khoảng 375 tỷ USD, trong khi ñầu tư cho nghiên cứu, giám sát và quản lý rạn
chỉ khoảng 100 triệu USD/năm, tức là ít hơn 0,05% giá trị nói trên. Theo NOAA (2002), chi
phí hàng năm cho 45 triệu khách du lịch vùng RSH của Mỹ là 17,5 tỷ USD. Trong vùng biển
Việt Nam, san hô phân bố rộng khắp từ bắc vào nam với tổng diện tích khoảng 1.112 km
2
,
nhưng chỉ phân bố thành vùng lớn ở quần ñảo Trường Sa, Hoàng Sa. Các RSH biển nước ta
13

ñược cấu thành bởi khoảng trên 350 loài san hô ñá. Khu vực biển nam Trung bộ có ña dạng
loài san hô lớn nhất với trên 300 loài thuộc 65 giống. Riêng RSH thuộc Khu bảo tồn biển vịnh
Nha Trang, Khánh Hoà ñược cấu thành bởi trên 350 loài san hô với ñộ phủ khác nhau. Sống
kèm với RSH ở biển Việt Nam là hơn 2000 loài sinh vật ñ y và cá. ðây là nguồn lợi sinh vật
rất quí chỉ sống gắn bó với RSH, có thể khai thác hạn ñịnh ñể phục vụ mục ñích phát triển của
con người. Bản thân san hô còn là vật liệu vôi xây dựng, san hô ñỏ làm ñá quí, một số khác
làm thuốc chữa bệnh và ñồ lưu niệm
Thảm cỏ biển gồm các thực vật thuỷ sinh bậc cao (Hydrophytes), nhóm có hoa
(Anthophyta) thích nghi sống ngập nước biển với môi trường ñộ muối cao, chịu ñược lực tác
ñộng của sóng gió, thuỷ triều và có khả năng thụ phấn trong nước. ðến nay, trên thế giới ñã
phát hiện ñược 58 loài cỏ biển thuộc 12 chi, 4 họ, xuống sâu ñến 60m. Theo Morton và
Blackmore (2001), khoảng 40% tổng số loài cỏ biển ñã biết trên thế giới tìm thấy ở vùng Biển
ðông (biển Nam Trung Hoa). Theo Duarte et al (1999) trong ñại dương thế giới các loài cỏ
biển phân bố trên diện tích khoảng 600.000 km
2
, sinh lượng trung bình ñạt 250g khô/m
2
.

Người ta cũng tính rằng, cứ 1m
2
diện tích TCB sản sinh ra 10 lít ôxy hoà tan/ngày ñể giúp cho
quá trình hô hấp của các loài ñộng vật biển. Ở ðịa Trung Hải cứ 400 m
2
diện tích TCB là nơi
cư trú cho khoảng 2000 tấn cá và hải sản trong vòng một năm. Tổng số loài cư trú trong TCB
thường cao hơn bên ngoài khoảng 2-8 lần. Vì vậy, TCB cũng thường là những bãi sinh sản,
ương giống của nhiều loài hải sản quan trọng ở ven bờ và ven ñảo như cá, bò biển, rùa biển và
cá ngựa. Bản thân cỏ biển là nguyên liệu sử dụng trong ñời sống hàng ngày như vật liệu bao
gói, thảm ñệm, làm xì gà, ñể ñốt, tấm lợp, giấy viết, phân hoá học, chế tạo chất cách âm, cách
nhiệt và làm phân bón.
Ước tính có khoảng 200 tỷ tấn sinh vật sống trong các HST biển và ñại dương, bao
gồm cả ba nhóm: sinh vật ñ y, sinh vật bơi lội và sinh vật trôi nổi. ðây là nguồn tài nguyên
tái tạo rất lớn, nguồn dự trữ thực phẩm quan trọng cho loài người trong tương lai. Chỉ tính
riêng ñộng vật biển ñã có khoảng 32,5 tỉ tấn, trong khi ñộng vật trên lục ñịa chưa ñến 10 tỉ tấn.
Theo dự tính, sinh vật biển mỗi năm có thể sản xuất 135 tỉ tấn chất hữu cơ. Trong ñiều kiện
nguồn lợi không bị huỷ hoại thì mỗi năm biển có thể cung cấp khoảng 3 tỉ tấn hải sản. Số
lượng này gấp hơn 30 lần tổng sản lượng thuỷ sản khai thác hàng năm hiện nay. Người ta cho
rằng năng lực cung cấp lương thực cho loài người của ñại dương bằng 1000 lần sản phẩm
nông nghiệp của toàn bộ diện tích bề mặt các lục ñịa nếu ñược cầy bừa và cấy trồng.
Riêng ở Việt Nam, cơ sở tài nguyên thiên nhiên nói trên ñã cung cấp cho vùng biển
thềm lục ñịa nước ta nguồn lợi hải sản quan trọng. Theo tính toán sơ bộ, trữ lượng cá biển
nước ta vào khoảng 3,2-4,2 triệu tấn với khả năng khai thác ổn ñịnh 1,4-1,8 triệu tấn; khoảng
0,058 triệu tấn tôm biển, khả năng khai thác khoảng 0,029 triệu tấn và 0,123 triệu tấn mực với
khả năng khai thác 0,050 triệu tấn. Biển Việt Nam thuộc hai ngư trường nhiều tôm nhất thế
giới là Tây-Bắc và Giữa-Tây Thái Bình Dương chiếm 53% sản lượng tôm khai thác hiện nay.
Trong 10 nước dẫn ñầu về khai thác tôm thì Việt Nam ñứng thứ 7 (sản lượng 80x10
3
tấn) sau

Trung Quốc, Inñônêxia, ấn ðộ, Canada, Mỹ và Thái Lan
Biển và các vùng ðNN là ñối tượng khai thác của nhiều ngành kinh tế và cộng ñồng
ven biển nước ta, nhưng trước hết ñây là nơi cung cấp ña dạng sinh học-cơ sở tài nguyên cực
kỳ quan trọng ñối với thuỷ sản, góp phần ñưa nước ta trở thành một quốc gia có tiềm năng
phát triển thuỷ sản vững mạnh. Thời gian qua khoảng 80% lượng thuỷ sản khai thác ñã ñược
cung cấp từ vùng biển ven bờ và ñã ñáp ứng khoảng gần 40% lượng protêin cho người dân.
Năm 2006, ngành thuỷ sản nước ta ñạt kim ngạnh xuất khẩu 3,4 tỷ USD, trong ñó chủ yếu từ
thuỷ sản ñánh bắt và nuôi trồng ở ñới bờ.
• ðới bờ còn giầu tiềm năng tài nguyên phi sinh vật, như dầu khí, các khoáng sản
khác, tiềm năng phát triển cảng-hàng hải và du lịch Khai thác dầu mỏ trên biển tập trung chủ
14

yếu ở các vùng biển nông, ñến ñộ sâu không quá 100m. Các giếng khoan thăm dò dầu trên
biển tập trung chủ yếu (khoảng 90%) ở vùng thềm lục ñịa, trong phạm vi 200m nước.
Việt Nam có vùng thềm lục ñịa rộng chừng 1 triệu km
2
và cũng là nơi có triển vọng
dầu khí rất lớn. Dựa trên kết quả nghiên cứu ñịa chất-ñịa vật lý ñã xác ñịnh ñược 7 bồn trầm
tích có triển vọng chứa dầu khí ở thềm lục ñịa nước ta. ðó là bồn trũng Sông Hồng, bồn
Hoàng Sa, bồn Trường Sa, bồn Cửu Long, bồn Nam Côn Sơn, bồn Thổ Chu và bồn trũng
Khánh Hoà. Dầu khí ñã ñược khai thác ở khu vực thềm lục ñịa phía nam nước ta. Sản lượng
dầu thô khai thác ở Việt Nam hàng năm tăng 30%. Năm 1994, sản lượng khai thác ñạt 7 triệu
tấn và giá trị xuất khẩu khoảng 1 tỷ USD. ðến năm 2001, sản lượng khai thác ñạt 17,01 tr. tấn
dầu thô, ñạt giá trị xuất khẩu 3,139 tỉ USD; thu gom và ñưa vào bờ 1,72 tỉ m
3
khí ñồng hành
cung ứng cho các nhà máy ñiện Phú Mỹ, Bà Rịa và nhà máy chế biến khí Dinh Cố. Mức tăng
trưởng như vậy ñã ñưa ngành dầu khí trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của ñất nước và luôn
ñứng ñầu về kim ngạch xuất khẩu.
Sa khoáng biển-ven biển là loại hình mỏ có chứa chủ yếu các khoáng vật nặng (tỉ

trọng > 2,85g/cm
3
), thành tạo ở vùng bờ biển, trong các bãi cát biển, các doi cát hoặc sườn bờ
cát. Nó thường là các tinh khoáng nặng ở dạng bở rời, ñược sàng lọc từ các vật liệu vụn có
kích thước và tỉ trọng khác nhau. Ở Việt Nam, dọc ven biển ñã phát hiện ñược các sa khoáng
khoáng vật nặng của các nguyên tố hiếm titan-ziacon-xeri. ðó là các sa khoáng Bình Ngọc
(trữ lượng 67.679 tấn) và Tiên Yên (Quảng Ninh), Cát Hải (Hải Phòng), Cồn ðen (Thái Bình),
Sầm Sơn (Thanh Hoá), Kỳ Anh (Hà Tĩnh), Vĩnh Mỹ (Thừa Thiên-Huế), Cam Ranh (Khánh
Hoà), Bãi Sau (Bà Rịa-Vũng Tầu). Các sa khoáng Bình Ngọc, Vĩnh Mỹ, Cam Ranh ñã ñược
khai thác từ thời Pháp thuộc, còn hiện nay Australia giúp khai thác sa khoáng Kỳ Anh. Sản
lượng khai thác ilmênit từ các sa khoáng ven biển nước ta là 220.000 tấn/năm và ziacôn-1.500
tấn/năm. Ngoài ra, ở mọi nơi trong cát bãi biển ñều bắt gặp các khoáng vật nặng nói trên với
hàm lượng khá, nhưng qui mô tập trung chưa ñủ lớn ñể tạo mỏ, mà chỉ hình thành các ñiểm
quặng.
Vật liệu xây dựng ở biển bao gồm các thành tạo bở rời: cát, cuội sỏi, ñá vôi, vỏ sò ốc
phân bố chủ yếu ở các vùng ven biển, ven ñảo, ñáy các vũng vịnh và trong trầm tích thềm lục
ñịa. Tiềm năng của các vật liệu này rất dồi dào và khối lượng vật liệu xây dựng khai thác từ
ñáy biển rất lớn, phổ biến nhất vẫn là cát ven biển. Gần ñây, ở Việt Nam ñã phát hiện một số
mỏ cát dưới ñáy biển ở Quảng Ninh và Hải Phòng với trữ lượng chừng trên 100 tỉ tấn. ðá vôi
phân bố tập trung trên các ñảo thuộc khu vực ven bờ tây bắc vịnh Bắc Bộ, nhưng chỉ khai thác
ở một số mỏ ven biển. Một số vật liệu vụn vỏ sinh vật cacbonat tích tụ thành mỏ qui mô nhỏ ở
vịnh Diễn Châu (Nghệ An) và ñầm Cầu Hai (Thừa Thiên-Huế). Các rạn san hô cổ ở Khánh
Hoà cũng bị khai thác ñể nung vôi. Cát thuỷ tinh nổi tiếng là mỏ Vân Hải (trữ lượng 7 tỉ tấn),
Vĩnh Thực (20.000 tấn) và một dải cát thạch anh ngầm dưới ñ y biển Quảng Ninh (gần 9 tỉ
tấn). Có trên 100 mỏ và ñiểm quặng ñược ghi nhận ở ven biển Việt Nam. ðáng kể là các mỏ
than ven biển Quảng Ninh, sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh). Khai thác các mỏ này ñang ñặt ra các
vấn ñề môi trường như chất thải mỏ, bụi và chống xói lở bờ biển.
Vùng bờ là nơi giầu tiềm năng phát triển du lịch. Lịch sử ñã chứng kiến các trung tâm
phát triển du lịch biển của thế giới chyển từ vùng ven biển ðịa Trung Hải sang ðại Tây
Dương vào khoảng 4-5 thế kỷ trước, ngày nay ñang chuyển dần sang khu vực Thái Bình

Dương. Với lợi thế khí hậu nhiệt ñới gió mùa, giầu ña dạng sinh học, nhiều phong cảnh ven
biển ñẹp…với khoảng 126 bãi cát biển có dung chứa khoảng vài chục ñến vài trăm ngàn
người, trong ñó có khoảng 20 bãi cát biển ñạt tiêu chuẩn quốc tế dài 16 km, Việt Nam có khả
năng thu hút khách vào du lịch biển (khoảng trên 70% so với cả nước), thu hút khoảng 80%
lượng khách ñến Việt Nam.
Vùng bờ cũng giầu tiềm năng phát triển cảng-hàng hải do nhiều khu bờ có ñộ sâu lớn,
luồng ổn ñịnh, ít sa bồi, không có ñá ngầm, không có chướng ngại vật, không có sương mù,
có vị trí neo ñậu chuyển tải, có bán kính quay tầu phù hợp với cỡ tầu qui ñịnh, có nơi tránh
15

gió bão và sử lý sự cố, có mặt bằng ñủ rộng ñể xây dựng cầu tầu và bến bãi, cũng như các cơ
sở dịch vụ liên quan và thuận tiện giao thông thuỷ bộ. Việt Nam là một quốc gia biển với
vùng biển rộng, bờ biển dài và trên 3000 ñảo lớn nhỏ. Cứ 20 km bờ biển có một cửa sông lớn,
các vũng vịnh ven bờ chiếm khoảng 60% ñường bờ biển, trong ñ có 12 vũng vịnh lớn. ðó là
những tiền ñề quan trọng ñối với phát triển cảng và hàng hải ở Việt Nam. Trong hoạt ñộng
hàng hải cũng xẩy ra khá nhiều rủi ro, khoảng 65% các tầu chở dầu bị ñắm, cứ 1,5 ngày thì có
6000 tấn dầu bị ñắm và khoảng 90% ô nhiễm trên biển liên quan tới các hoạt ñộng do tầu gây
ra (sự cố tràn dầu, ñắm tầu).
Nhiều khu vực bờ biển và các ñảo ở nước ta có vị trí ñịa lý rất trọng yếu ñối với phát
triển kinh tế và an ninh quốc phòng. Vì thế, ở những nơi ñó xuất hiện tiềm năng vị thế-một
dạng tài nguyên thiên nhiên rất ñặc biệt hiểu theo nghĩa rộng. Vùng bờ biển là khu vực có
tiềm năng vị thế cho phát triển, các quốc gia có biển cần tận dụng và sử dụng khôn khéo các
lợi thế của nó trong hoạch ñịnh chính sách phát triển. Việc xây dựng một cảng biển ñã tạo
ñiều kiện cho các nền công nghiệp phát triển và kéo theo sự phát triển của các ñô thị lớn và
sầm uất trên thế giới. Nhiều nền văn minh phát triển, bao gồm cả khía cạnh kinh tế-xã hội, có
thể gắn liền với nhịp ñiệu phát triển của cảng biển và trên thực tế, trong những năm sắp tới,
chúng ta sẽ tận mắt chứng kiến việc sử dụng không gian biển ngày càng ña dạng (K.
Hotta,1995).
Chất lượng nước vùng bờ liên quan tới cách thức khác nhau ñối với nhu cầu phát triển
chính ở vùng bờ (hình 3).



Hình 3. Cách thức khác nhau về nhu cầu phát triển liên quan tới chất lượng nước vùng bờ
(Theo Nadia Scialabba, FAO, 1998)
2.2. Các ñe doạ môi trường ñến vùng bờ
• Vùng bờ là nơi tập trung sôi ñộng các hành ñộng phát triển của con người và luôn
chịu rủi ro của thiên tai. Vì vậy, nơi ñây cũng ñang phải ñối mặt với nhiều vấn ñề môi trường
và tài nguyên, trong ñó có sự suy giảm ðDSH, như:

a. ðánh bắt quá mức
b. ðánh bắt trái phép và bằng các
phương pháp huỷ diệt
c. Ô nhiễm vùng bờ


d. Suy thoái môi trường bờ
e. Phá huỷ HST/nơi sinh cư vùng bờ
f. Thiên tai (bão lũ, ngập lụt ven biển,
sóng thần, dâng cao mực biển)

16

Các vấn ñề như vậy thường liên quan ñến những ñe doạ từ tự nhiên và nhân tác. Và
phần lớn các tác ñộng môi trường ñến vùng bờ nằm ngoài vùng này, mà chủ yếu từ các lưu
vực sông trên lục ñịa (hình 4).



Hình 4. Các vấn ñề bức xúc ở vùng bờ ñ i hỏi tiếp cận QLTHVB
(Nguồn: IOC-UNESCO, 1997)


• Ô nhiễm môi trường vùng bờ liên quan ñến các hoạt ñộng phát triển
Môi trường và phát triển nói chung là hai mặt của một vấn ñề. Môi trường bờ là ñịa
bàn và ñối tượng phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia, còn quá trình phát triển là nguyên
nhân sâu xa gây ra các biến ñổi môi trường và tài nguyên vùng bờ. Trong thực tế, tùy thuộc
vào mức ñộ phát triển mà tác ñộng qua lại giữa hai khía cạnh nói trên biểu hiện khác nhau.
Nhưng có một ñiều chắc chắn là con người càng ñẩy nhanh tốc ñộ phát triển trên lưu vực và
vùng bờ thì mức ñộ gây tổn thương ñến môi trường và tài nguyên bờ ngày càng cao.
ðới bờ mặc dù có nhiều chức năng và vai trò quan trọng, nhưng sự tăng nhanh dân số,
cũng như các hoạt ñộng phát triển của con người trên vùng ñất ven biển (trong phạm vi cách
bờ biển khoảng 100 km) và các ñảo ñã kéo theo sự gia tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên biển
và bờ, ñồng nghĩa với sự gia tăng các sức ép lên môi trường và tài nguyên ở ñây. Các chất
thải không qua xử lý từ các lưu vực và vùng ven biển ñược ñưa ra biển ngày càng nhiều, làm
cho nhiều vùng biển ven bờ có nguy cơ bị thiếu ôxy trên diện rộng, khiến cho một số loài
chim biển và sinh vật biển bị ñe doạ. Một số loài hải sản kinh tế ở các vùng cửa sông ven biển
cũng tích lũy các chất gây ô nhiễm ñộc hại trong cơ thể của mình, con người ăn phải có hại
cho sức khỏe.
Các báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm trình Chính phủ Việt Nam ñã chỉ ra: chất
lượng môi trường biển và vùng ven bờ tiếp tục bị suy giảm. Môi trường vùng nước ven bờ ñã
bị ô nhiễm dầu, kẽm và chất thải sinh hoạt. Chất lượng trầm tích ñáy biển ven bờ-nơi cư trú
của nhiều loài sống ñáy-cũng bị ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn của Trung Quốc, Mỹ và Canada.
Hàm lượng hoá chất bảo vệ thực vật chủng Andrin và Endrin của các mẫu sinh vật ñáy ở các
vùng cửa sông ven biển phía Bắc ñều cao hơn giới hạn cho phép. ða dạng sinh học ñộng vật
ñáy ở ven biển miền Bắc và thực vật nổi ở miền Trung suy giảm rõ rệt. Hiện tượng thuỷ triều
17

ñỏ và bùng phát tảo nở hoa xuất hiện thường xuyên hơn, tuy quy mô không lớn, ở ven bờ
miền Trung, như ở Nha Trang và ðà Nẵng
Hiện nay ở vùng biển Việt Nam có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu
khí. Ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, hoạt ñộng này còn phát sinh khoảng

5.600 tấn chất thải rắn, trong ñó có 20-30 % là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và
nơi xử lý. Sự cố tràn dầu và thải dầu cặn vẫn tiếp tục xảy ra nhiều, ñôi khi trên diện rộng và
gây thiệt hại lớn. Từ năm 1994-2006 ñã xác ñịnh ñược khoảng 50 vụ tràn dầu với số lượng
dầu tràn trên 5.000 tấn.
Từ vùng kinh tế trọng ñiểm ven biển phía Nam ñã thải vào các sông một lượng nước
thải sinh hoạt là 113.216 m
3
/ngày và nước thải công nghiệp-312.330 m
3
/ngày (Nguyễn ðịnh
Tuấn, 1999). Sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ ñã bị axit hoá nặng (tương ứng pH = 4,4-5,0 và
3,8-4,0) do rửa trôi phèn từ các sông rạch và chất thải gây nên. ở vùng nước ven bờ, dự kiến
ñến năm 2010 chất thải sẽ tăng rất lớn: dầu khoảng 35-160 tấn/ngày, nitơ tổng số 26-52
tấn/ngày và tổng amonia 15-30 tấn/ngày.
Nước ngầm bị khai thác quá mức phục vụ nuôi tôm và các dịch vụ ñi kèm dẫn ñến
hiện tượng thâm nhập mặn và lún sụt ñịa tầng cục bộ như vùng rìa phía ñông nam bán ñảo Cà
Mau. ðặc biệt ở những khu vực nuôi tôm trên cát, nơi nguồn nước ngầm tự nhiên không lớn
và khan hiếm, trong khi nhu cầu nước cho vùng nuôi ngày càng tăng. Tổn thất ðDSH vùng
bờ: giảm số lượng loài, một số loài bị tiệt diệt dẫn ñến giảm năng suất khai thác tự nhiên
vùng bờ. ðã có khoảng 85 loài hải sản có mức ñộ nguy cấp khác nhau, trong ñ có nhiều loài
vẫn ñang là ñối tượng bị tập trung khai thác.
Không thể kể hết các tác ñộng ñến môi trường và tài nguyên bờ do con người gây ra,
nhưng thực tế con người ñã nếm trải ñủ thất bại và thiệt hại do những hành vi thiếu khôn khéo
trong khai thác và sử dụng tài nguyên bờ. Chính vì thế, cộng ñồng thế giới và các quốc gia
phải nỗ lực nhiều hơn nữa, bền bỉ và khôn khéo ñể vừa khai thác vừa bảo tồn môi trường biển,
ñể duy trì cuộc sống ổn ñịnh cho loài người, ñặc biệt là cộng ñồng ven biển.
Công ước Luật biển năm 1982 ñã chỉ ra 5 nguồn gây ô nhiễm biển: các hoạt ñộng trên
ñất liền, thăm dò và khai thác tài nguyên trên thềm lục ñịa và ñáy biển, thải các chất ñộc hại ra
biển, vận chuyển hàng hoá trên biển và ô nhiễm không khí. Tuy nhiên, ñể ñơn giản người ta
thường ghép chúng vào hai nhóm chính: ô nhiễm nguồn lục ñịa (land-based pollution), loại

này chiếm tới trên 50% luợng gây ô nhiễm biển; phần còn lại thuộc về nhóm ô nhiễm nguồn
biển (sea-based pollution). Theo GESAMP (1990) trên 90% tất cả hoá chất, phế thải và vật
liệu khác ñưa vào vùng ven bờ ñều ñược tích tụ lại trong trầm tích ñáy, trong các vùng ñất
ngập nước, trong các rạn san hô viền bờ và các HST khác ở vùng bờ, và vùng ven bờ là nơi
tập trung cao các chất gây ô nhiễm nguồn khác nhau (hình 5).





18

Hình 5. Các nguồn chính gây ô nhiễm biển và vùng bờ
(Nguồn: GESAMP, 1990)
• Nơi sinh cư ở vùng bờ và nguồn lợi hải sản ở vùng biển gần bờ bị khai thác cạn kiệt
Do nhu cầu phát triển kinh tế, các ñối tượng nuôi thuỷ sản cũng ña dạng (ngao, sò,
tôm, cá nước lợ…), cùng với việc khai thác gỗ củi bừa bãi khiến cho diện tích RNM ngày
càng bị thu hẹp, môi trường rừng bị suy thoái và nguồn lợi thuỷ sản ven biển bị cạn kiệt. Tốc
ñộ mất RNM do các hoạt ñộng sản xuất trong giai ñoạn 1985-2004 ở Việt Nam ước khoảng
15.000 ha/năm. Mất RNM, số lượng sinh vật phù du và sinh vật ñáy làm thức ăn cho các loài
thuỷ sản bị giảm ñi ñáng kể dẫn ñến tình trạng giảm sút năng suất tôm nuôi quảng canh (năm
1980 là 200-250 kg/ha, ñến nay chỉ còn 70-80 kg/ha). Theo ước tính, trước ñây cứ 1 ha RNM
có thể khai thác ñược 700-1000 kg thuỷ sản, nhưng hiện nay chỉ thu ñược 1/20 so với trước
ñây. Từ năm 2001, do thay ñổi nhận thức, nên hiện tượng phá RNM có phần giảm hơn thời
gian trước. Thậm chí, nhiều ñịa phương ñã thực hiện dự án phục hồi RNM bằng cách hạn chế
khai thác và trồng mới rừng.
Theo Viện Tài nguyên Thế giới (2000, 2002), khoảng 80% rạn san hô và thảm cỏ biển
Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong ñó 50% ở tình trạng rủi ro cao. Về tình trạng rạn:
khoảng 20% rạn ở Việt Nam có ñộ phủ san hô sống nghèo (ñộ phủ 0-25%), 60% thuộc loại
thấp (26-50%), 17% còn tốt (51-75%) và chỉ 3% rất tốt (>75%).

Vùng ven bờ có dấu hiệu khai thác nguồn lợi quá mức: tổng sản lượng ñánh bắt hải
sản không ngừng tăng, nhưng sản lượng của một ñơn vị ñánh bắt hay hiệu suất khai thác
(tấn/CV/năm) hoặc giữ nguyên hoặc giảm, từ 0,92 xuống 0,34 tấn/CV/năm. Nguồn lợi hải sản
có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng và kích thước cá ñánh bắt: trong vòng 10 năm
(1984-1994) ñã giảm tới trên 30% trữ lượng cá ñáy.
2.3. Các vấn ñề bức xúc về kinh tế-xã hội ở vùng bờ
• Sức ép dân số
Vùng bờ tập trung khoảng 20% dân số thế giới sống trong phạm vi cách ñường bờ về
phía nội ñịa 30km và khoảng 40% trong phạm vi cách ñường bờ 100km và trên các ñảo ven
bờ. Khoảng 2/3 số ñô thị cỡ 2,5 triệu dân và các khu công nghiệp lớn của thế giới cũng nằm ở
vùng ven biển và các ñảo, và khoảng 220 triệu người sống trong các ñô thị lớn ven biển. Dự
kiến sau 20-30 năm dân số thế giới sống ở vùng này sẽ tăng gấp ñôi (Gommes và nnk, 1997).
Sự phát triển như vậy kéo theo hiện tượng tăng dân số cơ học và di dân tự do, chủ yếu là dân
nghèo từ các vùng nông thôn vào các khu công nghiệp và ñô thị lớn ven biển. ðiều này làm
thay ñổi chất lượng cư dân ñô thị (xu hướng “nông thôn hoá thành thị” ñang diễn ra), tăng lực
lượng lao ñộng phi nông nghiệp, tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên bờ, vựơt qúa năng lực tải
của các ñô thị theo quy hoạch, hình thành thói quen tiêu thụ tài nguyên lãng phí, cuối cùng
tăng sức ép ñối với tài nguyên và môi trường vùng bờ.
Tình hình tương tự cũng thấy ở Việt Nam: gần 50% dân số cả nước (40 triệu) sống
trong 29 tỉnh, thành phố ven biển và khoảng 60% số ñô thị và khu công nghiệp lớn nằm ở
vùng cửa sông, ven biển. Nhiều khu công nghiệp và các hoạt ñộng của khu dân cư có khả
năng gây ô nhiễm, như: hoá chất, ñóng sửa tàu thuỷ, xi măng, than, khai khoáng, nông nghiệp,
NTTS…Tỷ lệ tăng dân số vùng ven biển cao hơn trong ñất liền (2,3% so với trung bình cả
nước 1,8%/năm).
• Dân trí thấp và nghèo khó
Học vấn của cư dân vùng ven biển thấp, nhận thức về môi trường và tài nguyên vùng
bờ kém. Cơ cấu dân cư theo nguồn gốc rất phức tạp (tạp nguồn), lối sống và cách ứng sử của
dân miền biển khác với các ñịa phương trong ñất liền do phải ñối mặt hàng ngày với tính khốc
liệt của biển cả (tính cạnh tranh cao, bản lĩnh vững vàng, ít hướng tới tương lai ). Tập quán
và phong tục lạc hậu, một số còn du canh du cư (dân thuỷ diện trên một số ñầm phá ven biển

19

miền Trung Việt Nam). Cơ sở hạ tầng phát triển văn hoá-xã hội vùng ven biển còn thấp
(trường học, bệnh xá ). Ngư dân tiểu nghệ phải bỏ nghề ñánh bắt ven bờ do cạn tài nguyên
trong khi chưa có sinh kế thay thế, cho nên ñại bộ phận nghèo khó. Rốt cuộc họ càng tăng
cường khai thác cạn kiệt nguồn lợi ñể hy vọng tăng thêm thu nhập cho gia ñình mình (sẵn
sàng thế chấp “tương lai”). Khoảng cách giầu nghèo giữa các cộng ñồng nông thôn ven biển
ngày càng tăng. Tỷ lệ nghèo ñói vẫn còn cao, rất khó cho việc ñầu tư theo hướng công nghiệp
hoá, hiện ñại hoá. Ở Việt Nam ñã xác ñịnh còn khoảng 208 xã ven biển còn nghèo, chiếm
14% tỷ lệ ñói nghèo cả nước. Năm 2004, Chính phủ ñã xác ñịnh vẫn còn 157 xã bãi ngang
nghèo nhất.
Viện Tài nguyên Thế giới (1996) ñã xây dựng bộ chỉ số ñánh giá các ñe doạ từ hoạt
ñộng phát triển ñến các HST vùng bờ và ñã thể hiện trên bản ñồ số hoá ñối với vùng bờ có
ranh giới trong phạm vi 60km về phía lục ñịa và vùng biển gần bờ (nearshore waters). Chỉ số
này dựa trên 05 số chỉ thị (indicator) ñe doạ nhân sinh tiềm năng ở cấp ñộ toàn cầu hiện nay là:
- Các thành phố trên 100.000 dân: ñe doạ tiềm năng từ phát triển vùng bờ, nước thải
và ô nhiễm công nghiệp,
- Các cảng chính: ñộ ño ñe doạ tiềm năng từ du nhập các loài qua nước dằn tàu, tiềm
năng sự cố tràn dầu và ô nhiễm công nghiệp,
- Mật ñộ dân số: ñộ ño ñe doạ tiềm năng từ phát triển vùng bờ và ô nhiễm,
- Mật ñộ ñường xá: ñộ ño gián tiếp tác ñộng ñến tài nguyên bờ và từ phát triển bờ,
- Mật ñộ ñường ống: ñộ ño ñe doạ tiềm năng về ô nhiễm dầu và các sự cố tràn chất
thải khác.
Cần lưu ý rằng, vì các số chỉ thị trên ño ñạc sức ép hơn là ñiều kiện, nên các kết quả
này không hàm ý rằng các khu vực này thực chất ñã bị suy thoái. Thêm nữa, các tác ñộng của
ñánh cá, phá rừng và hoạt ñộng nông nghiệp ven biển không ñược ñề cập; các hoạt ñộng của
con người ngoài 60km về phía ñất liền không ñược xem xét; không bao gồm tính nhậy tương
ñối của các HST khác nhau ñối với nhiễu loạn. Nghiên cứu trên ở quy mô quá lớn ñể hướng
dẫn các hoạt ñộng quy hoạch/ lập kế hoạch và quản lý ở cấp quốc gia, nên cần phải xây dựng
một bộ số chỉ thị tổng thể hơn

Bảng 1 chỉ ra rằng 86% vùng bờ Châu Âu và 69% bờ Châu Á nằm trong khu vực rủi
ro suy thoái tiềm năng cao hoặc vừa.
Bảng 1. Phần trăm ñường bờ bị ñe doạ tiềm năng
(a)
Vùng Thấp
(b)

Vừa
(c)

Cao
(d)

Châu phi 49 14 38
Châu Á 31 17 52
Bắc và Trung Mỹ 71 12 17
Nam Mỹ 50 24 26
Châu Mỹ 14 16 70
Liên Xô trước ñây 64 24 12
Châu ðại Dương 56 20 24
Thế giới 49 17 34
Ghi chú:
(a) Phân hạng ñe doạ mô tả rủi ro tiềm năng từ các hoạt ñộng phát triển ñối với các
HST vùng bờ vào năm 1995.
20

(b) e do tim nng thp: vựng b cú mt ủ dõn s di 75 ngi/km
2
, mt ủ
mng li ủng xỏ thp hn 100km ủng/km

2
hoc khụng cú cỏc ủng ng.
(c) e do tim nng va: vựng b cú mt ủ dõn s 75-150 ngi/km
2
, mt ủ mng
li ủng xỏ 100-150km ủng/km
2
hoc mt ủ ủng ng dao ủng trong khong 0-10km
ủng ng/km
2
.
(d) e do tim nng cao: vựng b nm trong mt thnh ph hoc mt cng ln hoc
cú mt ủ dõn s vt 150 ngi/km
2
, mt ủ mng li ủng xỏ vt 150km ủng/km
2

hoc mt ủ ủng ng vt 10km ủng ng/km
2
.
2.4. Thể chế và chính sách đối với vùng bờ còn nhiều bất cập
Trong trng hp Vit Nam, vn ủ s hu ủt v mt nc vựng b cha rừ (ch b
chi phi bi Lut t ủai). Cha phõn ủnh rừ rng cỏc vựng chc nng vựng b (coastal
function zoning) v phõn cp qun lý cho cỏc ngnh, cỏc ủa phng v cng ủng s dng v
qun lý khụng gian vựng b (coastal space). Gn ủõy (2006), Ngh ủnh 123/2006/N-CP ca
Chớnh ph ủó cho phộp lp phng ỏn giao mt nc ven b trong phm vi 6 hi lý cho ủa
phng qun lý v s dng. n nay, cú nhiu c quan qun lý khỏc nhau ủi vi vựng b
hoc tng hp phn trong nú, nhng chng chộo v chc nng/nhim v trong khi cú nhng
mng trng b b ng khụng ai cú trỏch nhim. Vic qun lý cỏc hot ủng khai thỏc hi sn
t bờn ngoi xõm nhp vo vựng ven b cũn yu (gia cỏc tnh, tu thuyn nc ngoi xõm

phm). Thiu s phi hp gia cỏc c quan qun lý, c quan khoa hc v cỏc T chc phi
chớnh ph (NGO) trong vic s dng v qun lý ti nguyờn b. Tỡnh hỡnh thc thi phỏp lut
ủi vi qun lý vựng b cũn yu c t hai phớa - c quan Nh nc v ngi dõn.
Thiu cỏn b cú nng lc v kin thc trong quy hoch, thc hin v giỏm sỏt qun lý
vựng b. S chng chộo chc nng gia cỏc t chc chớnh ph trong vic thc hin lut liờn
quan ủn ti nguyờn v mụi trng b, cng nh thiu mt c ch qun lý liờn ngnh trong
vic s dng ủa ngnh/ủa mc tiờu ti nguyờn vựng b. Cng ủng ủa phng vn cha ủc
lụi cun tham gia vo cỏc k hoch qun lý vựng b. Nh ủó núi, ti nguyờn b l dng ti
nguyờn chia s v ủc s dng ủa mc tiờu, nhng qun lý ti nguyờn b vn ch yu theo
ngnh. Cho nờn, mõu thun li ớch trong vic s dng ủa ngnh/ủa mc tiờu cỏc ti nguyờn b
ngy cng tng. Cui cựng, cng cn lu ý ủn s thiu thin chớ ca cỏc c quan qun lý nh
nc cỏc cp trong vic trin khai chng trỡnh qun lý tng hp vựng b (QLTHVB).
2.5. Nguyờn nhõn sõu xa ca s suy thoỏi HST v mt ti nguyờn b

Nh ủó núi, phn ln cỏc tỏc ủng ủn vựng b bt ngun t ngoi vựng ny, ủc bit
t cỏc lu vc sụng ven bin. Cho nờn qun lý vựng b hiu qu phi gn vi qun lý cỏc lu
vc sụng. Cỏc nguyờn nhõn sõu xa dn ủn suy thoỏi ti nguyờn b l: cht phỏ rng ủu
ngun; xúi l b bin; sa bi v nghn bựn ca sụng, ca ủm phỏ; s dng ủt gõy nghốo
kit; khai khoỏng ven bin; lm dng phõn bún v thuc tr sõu; xõy dng ủng xỏ/cng
bin; x nc thi khụng qua s lý xung vựng ven b; du lch ven bin-ủo; phự dng do
NTTS v ụ nhim do cht thi cụng nghip. Bờn cnh cỏc ngun ụ nhim nhõn sinh trờn, mt
s vựng ven b cú th b ụ nhim v suy thoỏi bi cỏc quỏ trỡnh t nhiờn nh nỳi la phun, tai
bin bóo lt, hin tng dõng cao mc bin v El-nino
Vựng b cũn b ủe do bi dõng cao mc nc bin liờn quan ti hiu ng nh kớnh
v nc dõng do bóo (tidal surges). Theo kch bn xu: mc nc bin dõng cao thờm 95 cm
vo nm 2100 gõy tỏc ủng rt khỏc nhau tng khu vc b cỏc nc trờn th gii liờn quan
ti s cng hng tỏc ủng ca cỏc yu t ủa phng, nh: thu triu, giú, mụ hỡnh khớ ỏp,
dũng chy bin, chuyn ủng kin to nõng h Tc l dao ủng tng ủi gia bin v lc
ủa cp ủa phng l yu t tỏc ủng ch ủo hn l cp ton cu (Warwick v nnk, 1996).
Nhiu ủụ th, lng mc v vựng ủt thp ven bin b ngp chỡm di nc bin, ủc bit l cỏc

chõu th. Kộo theo l gia tng xúi l b bin, phỏ hu c s h tng ven bin, tng thõm nhp
mn, tc nghn h thng cng rónh ủụ th ven bin nh hng ủn sc khe ngi dõn, mt
21

các HST vùng triều và nguồn lợi sinh vật. Theo Nicholls (1995), kịch bản trên sẽ gây ra tác
ñộng ñến ña số người dân sống ở Trung Quốc (72 triệu người), Bangladesh (13 triêụ người và
16% sản lượng lương thực quốc gia) và Hy Lạp (6 triêụ người và 15% ñất nông nghiệp bị
mất). Dân số thế giới bị tác ñộng ở mức giữa 0,3% (Vênêzuêla) và 100% (quần ñảo Marshall
và Kiribati). Trong vòng 10 năm qua (1995-2006), mực nước biển ước tính dâng lên 3,1mm/
năm (IPCC, 2007). Trong thế kỷ này cùng với sự tiếp tục nóng lên của Trái ñất dễ làm cho
nước biển dâng lên tới mức 1-3m và sự tan băng ở Greenland và tây Nam Cực có thể làm cho
nước biển dâng lên ñến 5m. Những tác ñộng nghiêm trọng nhất chỉ xẩy ra hạn chế ở một số
nước, trong ñó có Việt Nam. Bất kỳ kịch bản nào xẩy ra cũng ñều tác ñộng nghiêm trọng ñến
vùng ñồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng của Việt Nam. Chỉ cần mực nước biển dâng
cao 1m ñã có khả năng ảnh hưởng ñến ñời sống của khoảng 11% dân số Việt Nam, nhất là ở
các ñồng bằng ven biển (IUCN, 2007).
Nước dâng do bão, ñặc biệt ở vùng biển có thuỷ triều của các nước nhiệt ñới cũng gây
tác hại lớn ñến các công trình bờ và hoạt ñộng nuôi cá lồng bè của ngư dân. Ví dụ, vùng bờ
Việt Nam là nơi xuất hiện nhiều bão nhiệt ñới, trung bình 8 cơn bão/năm. Nước dâng do bão
là sự kiện ñáng chú ý ñặc biệt ñối với Việt Nam: trong các năm 1954-1984, khoảng 50% cơn
bão tạo ra nước dâng mức 1m, 20% ñạt mức 2m, cực ñại 3m biểu hiện không thường xuyên ở
một số khu vực ven biển phía Bắc. Ở miền Trung và miền Nam nước dâng do bão ñạt mức
thấp hơn và khác nhau (trung bình 0,5m).

Sự mất mát tài nguyên và HST vùng bờ và từ ñây giảm giá trị dịch vụ và hàng hoá
môi trường, xuất phát từ sự tăng nhu cầu tài nguyên bờ (ñặc biệt nhu cầu của người dân ñịa
phương gia tăng do sức ép dân số) và thực tế quản lý thiếu bền vững. Theo Turner và Jones
(1991), nguyên nhân mất mát tài nguyên và HST bờ có thể phân tích theo 03 “thất bại” tương
quan: thất bại về thị trường (trong ñ có quyền sở hữu); thất bại về chính sách hoặc sự can
thiệp và thiếu hụt thông tin.

Giá cả thị trường thường rớt ñể phản ánh chi phí thực về một loại hàng hoá hoặc một
loại dịch vụ và vì thế truyền ñi một tín hiệu không chính xác về thương trường; ñôi khi không
thể ñịnh giá cho một loại hàng hoá. Thí dụ, không ñịnh giá chính xác ñược chi phí cho việc
bảo tồn RNM ñối với nông nhiệp và NTTS. Khía cạnh thị trường của 04 chế ñộ sở hữu tác
ñộng ñến tài nguyên bờ: sở hữu nhà nước, tiếp cận mở, sở hữu chung và sở hữu tư nhân.
Quyền sở hữu và sử dụng là nền tảng ñối với phân phối tài nguyên bờ và bản chất là xác ñịnh
quyền pháp lý cho người kiểm tra tiếp cận nguồn lợi. Quản lý tài nguyên và môi trường bờ
chỉ có thể ñạt ñược hiệu quả lâu dài khi quyền lợi (quyền và lợi) của người dân ñược bảo ñảm
theo cách tiếp cận ñồng quản lý “nhà nước và nhân dân” cùng làm (right-based co-
management).
Thất bại chính sách là rất trầm trọng, gây ra mất tài nguyên và suy thoái HST vùng bờ.
Thất bại này thường do các nhà quản lý theo ñuổi mục ñích kinh tế trước mắt và thiếu nhận
thức về lợi ích kinh tế ñặc biệt lâu dài. Trong ña số trường hợp, thất bại chính sách có nghĩa là
các chính sách không ứng cứu ñược tài nguyên và HST ñang và sẽ bị suy thoái hoặc không
coi trọng quan ñiểm của người dân ñịa phương. ðiều này dẫn ñến làm suy yếu các tổ chức cần
thiết ñể ñương ñầu với tình hình này; sự thiếu vắng một khuôn khổ pháp luật hoặc năng lực
thực thi yếu. Tình hình như vậy có thể ví dụ cho trường hợp tài nguyên bờ, nơi tiếp cận “mở”
trong khai thác. Tương tác giữa tài nguyên và mức ñộ thay thế, bởi vậy, phụ thuộc nhiều vào
sự chấp nhận ñánh ñổi (trade off) các tài nguyên hay không? Trong NTTS chẳng hạn, sự ñánh
ñổi tồn tại giữa năng suất, tính ổn ñịnh, khả năng phục hồi lại và công bằng. Nói cách khác,
tính bền vững của một hệ thống tài nguyên phụ thuộc vào hoàn cảnh và sự ngẫu nhiên.
Thất bại thông tin: các chính sách phù hợp thực tế ñ i hỏi thông tin ñầu vào phải phù
hợp. Thiếu thông tin là yếu tố góp phần làm thất bại chính sách, thiếu cơ sở ra quyết ñịnh
chính sách, mặc dù thông tin hoàn hảo không bao giờ có, thậm chí ở những nước tiên tiến
22

nhất. Do nhân lực và thời gian hạn chế, nên thông tin phải chọn lọc, hệ thống (cùng không
gian và thời gian), chính xác và có tính dẫn xuất dễ sử dụng trong ra quyết ñịnh.
Cuối cùng, một câu hỏi rất lớn ñặt ra còn chưa ñược trả lời cặn kẽ-Ai là người gánh
chịu và có trách nhiệm giải quyết các hậu quả xấu trong qúa trình khai thác, sử dụng môi

trường và tài nguyên bờ? Rõ ràng, cần phải sử lý tốt mối quan hệ trách nhiệm của thế hệ hôm
nay ñối với các thế hệ mai sau.
2.6. Nghề cá vùng bờ
Thống kê cho thấy, thuỷ sản thường ñạt giá trị GDP cao, hàng năm ñ ng góp từ 5%
ñến 10% cho nền kinh tế của nhiều quốc gia ven biển ñang phát triển. Phần lớn tổng sản
lượng thuỷ sản của nhiều nước ven biển thường từ nghề cá vùng bờ. Ở cấp ñịa phương, thuỷ
sản cung cấp sinh kế cho người dân và cũng ñóng góp cho an ninh thực phẩm. Mức tiêu thụ
thuỷ sản trung bình hàng năm trên ñầu người là 9kg ở các nước ñang phát triển, 27kg ở các
nước phát triển và 50kg ở nhiều quốc gia ñảo nhỏ. Các giải pháp quản lý thường là chuyển
ñổi sinh kế cho ngư dân, hỗ trợ ngư dân vươn khơi ñể giảm sức ép ñến vùng ven bờ, tăng
cường cải cách chính sách theo hướng ưu tiên bảo tồn nguồn lợi và nơi cư trú tự nhiên ở vùng
bờ ñể tái sinh hệ thống quản lý nghề cá truyền thống nhờ hiệu ứng phục hồi và hiệu ứng tràn
(spillover effect) nguồn lợi với quan ñiểm phải lồng ghép chúng vào trong lập kế hoạch quản
lý vùng bờ.
Nuôi trồng thuỷ sản ñã tăng trưởng ở nhiều nước công nghiệp và nước ñang phát triển,
ñặc biệt ở khu vực ðông Á, ASEAN và Mỹ Latinh. NTTS phát triển mạnh ở vùng nước lợ và
nuôi trên biển trong các eo vịnh. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả kinh tế do NTTS vùng bờ
mang lại nó cũng gây ra thiệt hại và hậu quả trước mắt và lâu dài nếu quản lý yếu kém. Về
mặt môi trường, NTTS vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm, cho nên phải xem xét các vấn ñề
môi trường từ chính hoạt ñộng NTTS và những biến ñổi môi trường bắt nguồn từ bên ngoài
vùng NTTS. Cũng chính vì thế, NTTS phải ñược quản lý về mặt môi trường và phải ñược
lồng ghép vào quá trình lập kế hoạch quản lý vùng bờ.
Ngành thuỷ sản ñược xem là một trong những ngành kinh tế then chốt ở Việt Nam
(năm 2006 ñạt kim ngạch xuất khẩu trên 3,4 tỷ USD, dự kiến ñến năm 2010 ñạt 4,5 tỷ USD),
một nghề cá truyền thống, thủ công và quy mô nhỏ. Thủy sản Việt Nam có thể phát triển ở
các loại hình mặt nước và ở các vùng miền, từ miền núi ñến hải ñảo, nhưng tập trung chủ yếu
ở vùng nước lợ ven biển và biển, nơi có 28 tỉnh và 125 huyện với khoảng trên 2 triệu ngư dân.
ðến nay có khoảng trên 90.880 tàu thuyền ñánh cá với tổng công suất trên 5.317.447 CV,
tăng gấp hơn 2 lần về số lượng và khoảng 5 lần về tổng công suất so với năm 1991 liên quan
ñến tăng lượng tàu công suất lớn ñánh cá xa bờ. Sản lượng khai thác từ 730.420 tấn (trung

bình 0,89 tấn/CV) năm 1991 lên ñến 1.809.700 tấn (trung bình 0,34 tấn/CV) trong năm 2005
cho thấy cường lực khai thác tăng mạnh ñã ảnh hưởng rất lớn ñến năng suất khai thác, ñến
hiệu quả kinh tế của các ñội tàu và biểu hiện ñánh bắt quá mức ở vùng biển ven bờ.
Hình 6. Sản lượng khai thác hải sản so với sản lượng thuỷ sản toàn ngành
trong các năm 2001-2006
23

0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
2001 2002 2003 2004 2005 2006
1,000 Tấn
Tổng sản lượng
thuỷ sản
Sản lượng khai
thác

Nguồn: Báo cáo tổng kết ngành thuỷ sản các năm 2002-2006
Trong giai ñoạn 1999-2005, cộng ñồng ngư dân khai thác hải sản ñã trở thành một lực
lượng sản xuất quan trọng, góp phần ña dạng hoá các thành phần kinh tế nghề cá ở Việt Nam
và phục vụ cho công cuộc xã hội hoá nghề cá sắp tới. Khai thác hải sản (hình 6) và cộng ñồng
ngư dân khai thác ñóng vai trò rất quan trọng ñối với phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam:
hình thành, trên thực tế, một nghề cá thương mại (nghề cá lớn-commercial fisheires) bên cạnh
nghề cá cộng ñồng (nghề cá nhỏ-small scale fisheries). Ngư dân cung cấp ngày càng nhiều

nguồn nguyên liệu (1.8 triệu tấn hải sản/năm) cho các cơ sở chế biến xuất khẩu và tiêu thụ nội
ñịa, tăng thị phần xuất khẩu và nguồn thu ngoại tệ cho ñất nước, ñóng góp 47% lượng ñạm
ñộng vật từ thủy sản trong cơ cấu dinh dưỡng của người dân. Nghề khai thác ñã góp phần tích
cực giải quyết các vấn ñề xã hội, như: tạo thu nhập và việc làm cho cả thảy gần 3 triệu lao
ñộng và góp phần xoá ñói giảm nghèo cho cộng ñồng dân ven biển, một số trở nên giầu có
(trên 70% người dân ven biển cho rằng nghề khai thác là nguồn thu nhập chính của họ và mức
sống gia ñình họ nâng lên), góp phần xây dựng nông thôn mới ven biển. Ngoài ra, khai thác
hải sản và cộng ñồng ngư dân ñã góp phần hình thành các làng cá ven biển với những nét
“văn hóa nghề cá” ñộc ñáo mà ñến nay còn ít ñược nghiên cứu và khai thác. Lực lượng ngư
dân thường xuyên bám biển ñể sản xuất (khoảng 10.000 tàu thuyến/ ngày) góp phần bảo ñảm
an ninh, chủ quyền vùng biển Tổ quốc.
Nghề cá Việt Nam có quy mô nhỏ với trên 80% tàu thuyền hoạt ñộng ở các vùng nước
gần bờ, nơi chỉ chiếm khoảng 11% diện tích vùng ñặc quyền kinh tế. Áp lực khai thác vùng
gần bờ rất cao làm cho nguồn lợi suy giảm nghiêm trọng. Hơn 80% tổng sản lượng khai thác
là ở vùng nước ven bờ, nhưng thành phần, sản lượng và kích thước khai thác của các loài thuỷ
sản có giá trị kinh tế cao ngày một giảm. Cộng ñồng ngư dân nhận thức và tuân thủ pháp luật
trên biển còn yếu, dẫn ñến nhiều hoạt ñộng ñánh bắt gây tổn hại ñến tài nguyên, nguồn lợi hải
sản và môi trường biển, như: ñánh bắt huỷ diệt nguồn lợi, suy thoái hệ sinh thái, xả thải chất
gây ô nhiễm biển, ðể khắc phục tình trạng trên, ñến năm 2020 Việt Nam phấn ñấu hiện ñại
hoá nghề cá, tăng kim ngạch xuất khẩu và ñiều chỉnh cơ cấu sản suất nghề cá trên biển theo
hướng: giữ nguyên sản lượng khai thác 1,8 triệu tấn/năm, giảm áp lực khai thác ở vùng biển
gần bờ trên cơ sở tăng cường nuôi biển và ñưa khoảng 3% diện tích vùng biển vào bảo tồn,
tăng cường dịch vụ nghề cá và công nghệ sau thu hoạch ñể tăng chất lượng sản phẩm cá khai
thác; giảm 50% lượng tàu thuyền hiện nay và tăng công suất tàu kết hợp chuyển ñổi nghề
nghiệp cho ngư dân, tạo thêm nghề mới; tăng cường thực thi pháp luật ñể bảo vệ hiệu quả
nguồn lợi hải sản và áp dụng rộng rãi phương thức ñồng quản lý nghề cá nhỏ.

24

Chương 3. Lập kế hoạch quản lý tổng hợp vùng bờ

3.1. Bản chất và bối cảnh quản lý
Quản lý vùng bờ bao gồm nhiều vấn ñề, nhiều sản phẩm ñầu ra kỳ vọng (và thường
mâu thuẫn) từ việc sử dụng tài nguyên bờ, khả năng sản xuất khác nhau theo không gian và
thời gian trong một vùng bờ xác ñịnh, mối liên kết nào ñó với các lưu vực sông và vùng biển
phía ngoài, nhiều ñại diện và nhiều cơ quan có trách nhiệm khác nhau ñối với các khía cạnh
quản lý. Các vấn ñề nổi cộm ở vùng bờ bao gồm: suy thoái chất lượng nước; mất nơi sinh cư
tự nhiên của các loài; giảm sản lượng thuỷ sản; các thời kỳ ñ ng cửa bãi biển vì vật liệu bãi
và nước biển ven bờ bị ô nhiễm; cá và nhuyễn thể có vỏ bị nhiễm bẩn vượt quá mức tiêu
chuẩn cho phép ñối với tiêu thụ cho con người; quá ñông người ở các khu vực giải trí; sa bồi
ở các cảng và luồng tàu; thiệt hại do thiên tai như bão và giông tố; những mâu thuẫn lợi ích
trong việc sử dụng thụ ñộng và bòn rút tài nguyên vùng bờ; và mất ña dạng sinh học.
Vùng bờ quản lý thường ñược xác ñịnh rõ ràng thông qua một quá trình hoạch ñịnh
chính sách hoặc ñược quản lý không chính thức với tư cách là một ñơn vị ñộc lập. Ranh giới
quản lý của vùng này thường không trùng hợp với ranh giới của một HST riêng lẻ, vì thực tế
nhiều HST có quy mô khác nhau cùng tồn tại trong hoặc có thể mở rộng ra ngoài vùng quản
lý dự kiến. Ranh giới quản lý có thể hoặc không thể trùng hợp với ranh giới pháp lý chung
(quản lý hành chính) của các cấp chính quyền, nghĩa là các chính quyền nắm quyền thực thi.
Ranh giới này sẽ trùng hợp chỉ với một số vùng mà các nhu cầu từ vùng này áp lực ñến tài
nguyên vùng bờ. Cuối cùng, ranh giới không thể ñịnh rõ những ảnh hưởng của các quá trình
bờ ñến vùng quản lý dự kiến, chẳng hạn sự vận chuyển bồi tích và sự lắng ñọng các chất gây
ô nhiễm từ khí quyển. Do ñ , phạm vi lập kế hoạch quản lý và phân tích ñối với QLTHVB
thông thường sẽ không (và không bắt buộc) trùng hợp với ranh giới quản lý.
Hệ thống bờ (coastal system) ñược quản lý bao gồm một mạng phức hợp và biến ñộng
của các mối quan hệ qua lại giữa các hoạt ñộng của con người, nhu cầu xã hội, tài nguyên
thiên nhiên, các tác ñộng của con người và của tự nhiên bên ngoài. Hình 7 chỉ ra một biểu ñồ
quan niệm về “hệ thống” QLTHVB. Hệ thống này ñược ñiều khiển bởi các hoạt ñộng của con
người về mặt nhu cầu xã hội ñối với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên vùng bờ ñể tạo ra các
sản phẩm và dịch vụ mong ñợi, ví dụ hải sản, vận tải biển, và hoạt ñộng giải trí. Có lẽ, một
trong những nhu cầu xã hội là khôi phục và/hoặc duy trì HST vùng bờ trong trạng thái “tự
nhiên” của nó, ñó là một khu bảo tồn biển-ven biển nào ñó.

Nhu cầu xã hội ñối với sản phẩm ñầu ra từ một vùng bờ thường vượt quá khả năng của
vùng ñáp ứng cùng lúc tất cả các nhu cầu như vậy. Tài nguyên vùng bờ, như cá và RSH ñều là
“tài nguyên sở hữu chung” với tiếp cận “mở” và ‘tự do’ ñối với người sử dụng. Tiếp cận tự do
nếu không phải là ñặc thù, thường dẫn ñến sử dụng quá mức nguồn lợi; ví dụ khai thác quá
mức nguồn lợi thuỷ sản, làm suy giảm và cạn kiệt nguồn lợi; ví dụ ô nhiễm nguồn lợi và suy
thoái nơi sinh cư. Bởi vì không phải tất cả sản phẩm ñầu ra từ tài nguyên vùng bờ ñều có thể
biểu diễn ñược dưới dạng tiền tệ, thị trường tự do không thể thực thi các nhiệm vụ ñược giao.
Phải có quá trình nào ñ ñược sử dụng ñể quyết ñịnh hỗn hợp sản phẩm ñầu ra nào sẽ ñược
tạo ra. Quá trình ñ là quản lý tổng hợp vùng bờ (QLTHVB) mà sẽ ñề cập kỹ hơn ở phần sau.
Quản lý ñược mô tả là sự ñạt ñược những mục tiêu của nhiệm vụ thông qua việc tối ưu
hoá nguồn vật lực và nhân lực ñể thực hiện các kế hoạch trong một khoảng thời gian nhất
ñịnh. Quản lý là quá trình quyết ñịnh một loạt sản phẩm ñầu ra sẽ ñược sản xuất ra, khi nào, ở
ñâu và cho ai và ñể ñảm bảo sản lượng của loạt sản phẩm ñầu ra ñó. Nhiệm vụ cơ bản của
quản lý là phân bổ nguồn tài nguyên khan hiếm trong sự cạnh tranh (và thường mâu thuẫn)
giữa những người sử dụng, với mục ñích cuối cùng là tối ưu hoá việc sử dụng nguồn tài
nguyên này (Awosika và nnk, 1993).
25

Quản lý là một quá trình liên tục, lặp ñi lặp lại, thích ứng, có sự tham gia của cộng
ñồng và gồm một loạt nhiệm vụ có liên quan mà cần phải thực hiện nhằm ñạt ñược một loạt
mục tiêu và mục ñích ñề ra, tuy nhiên những mục tiêu và mục ñích này ñã ñược thiết lập và
ñịnh rõ.
Các nhiệm vụ quản lý khác nhau có thể gộp thành 9 yếu tố ñược trình bày ở hình 7

×