Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phương thức canh tác của người hmông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.67 KB, 12 trang )

Phơng thức canh tác của ngời Hmông
I. Đôi nét khái quát về ngời Hmông:
1. Lịch sử tộc ngời :
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc Hmông đứng thứ tám.
Họ sống rải rác ở vùng núi cao dọc biên giới Việt Trung, Việt Lào từ Lạng Sơn
đến Nghệ An.
Ngời Hmông là c dân di c tới Việt Nam muộn hơn. Đợt thiên di đầu tiên
của họ cách ngày nay khoảng hơn 300 năm. Lịch sử thiên di của ngời Hmông
vào Việt Nam gắn liền với qua trình đi tìm nơi lập nghiệp và chạy trốn những
cuộc khởi nghĩa chống lại giai cấp phong kiến không thành công. Ngời Hmông
coi Việt Nam là quê hơng thứ hai của mình. Ngời Hmông thiên di vào Việt Nam
theo ba đợt lớn.
Hiện nay, ngời Hmông tự gọi tên dân tộc mình bằng tiếng Hmông là ngời
Hmông. Ngời Hmông ở Trung Quốc, Thái Lan, Lào đều thống nhất cách gọi nh
vậy. Các dân tộc khác gọi ngời Hmông bằng những tên gọi khác nhau. Ngời
Trung Quốc gọi là Miêu phát âm nh Mèo, ngời Kinh trớc đây gọi ngời Hmông là
Mèo, ngời khu bốn gọi theo âm địa phơng là Mẹo, gần đây có nhiều ngời gọi là
Mông. Các tên gọi trên đều không đợc đồng bào chấp nhận.
Theo tên gọi ngời Hmông có những nhóm chính sau: Mống đấu (Hmông
trắng), Mống lềnh( Hmông hoa), Mống đú ( Hmông đen), Mống súa ( Hmông
Hán).
2. Không gian sống của ngời Hmông:
Ngời Hmông là c dân nông nghiệp, lại là dân tộc vùng cao nên đất đai
canh tác đối với họ rất quý. Miền núi có độ dốc cao khiến cho đi lại khó khăn.
Độ dốc của nơng rẫy có nơi 60- 70
0
. Vì thế, cây trồng sinh trởng không đợc
thuận lợi. Nhiều vùng đá nhiều hơn cây. Khí hậu vùng núi cao thờng khắc
nghiệt; đồng thời hiện tợng sơng muối ( vào mùa đông), ma đá ( vào mùa hè)
khiến canh tác gặp nhiều khó khăn. Do vậy, các loại cây điển hình cho vùng c trú
của đồng bào là các cây họ thông: du sam, lãnh sam, thiết sam


Địa vực c trú của ngời Hmông thành hai vùng lớn
1
:
- Vùng 1: vùng biên giới Việt - Trung ( tính từ phía Bắc Cao Bằng đến
phía Bắc Lai Châu). Đây là khu vực núi đá, cây cối tha thớt, rải rác có những
mảnh rừng già, đất canh tác ít. Mật độ dân số 70 đến 90 ngời / km
2
.
- Vùng 2: Dải ven biên giới Việt- Lào ( tính từ phía tây Lai Châu đến phía
tây Nghệ An). Là khu vực vùng cao núi đất, thảm thực vật phong phú, nhiều rừng
rậm và rừng già, mật độ dân số: 30- 40 ngời / km
2
.
1
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
Ngời Hmông c trú trên hầu hết các vùng địa hình bị chia cắt mạnh, núi
non hiểm trở do điều kiện không thuận lợi, ngời Hmông gặp nhiều khó khăn, là
tộc ngời nghèo ở Việt Nam. Hiện nay, ngời Hmông phần lớn đã sống định c nh-
ng vẫn còn một bộ phận sống du canh du c.
II. Kỹ thuật canh tác của ngời Hmông
Kĩ thuật canh tác là một bộ phận của phơng thức sản xuất, phản ánh trình
độ phát triển kinh tế xã hội của chủ thể kĩ thuật canh tác đó. Với không gian c
trú khác nhau, mỗi tộc ngời có những đặc trng về kĩ thuật canh tác. Phân bố chủ
yếu ở vùng núi cao hiểm trở điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, để thích nghi, ngời
Hmông có nhiều cách canh tác đặc trng kĩ thuật canh tác Hmông.
1. Quá trình khai khẩn và các loại hình canh tác:
2.1. Quá trình khai khẩn và canh tác ruộng nớc( ruộng bậc thang):
a. Quá trình khai khẩn:
- Lựa chọn vùng đất:

Mảnh đất đợc chọn để làm ruộng nớc (ruộng bậc thang) thờng là những
mảnh nằm dới chân đồi, giữa hai sờn đồi. Vùng đất này phải có độ dốc không
cao lắm ( tối đa 50
o
); đặc biệt phải có nguồn nớc tự nhiên do suối và mạch nớc
mang lại. Đất bằng phẳng, ít cây to, cây cỏ mọc tơi tốt rậm rạp, ít sỏi đá, có màu
đen và có độ ánh, độ bóng.
- Xác lập quyền khai khẩn:
Sau khi đã chọn đợc mảnh đất vừa ý, đồng bào làm các dấu hiệu có tính
thông tin để xác lập quyền sử dụng đất của mình. Ngời Hmông thờng xác lập
bằng cách chồng các cột đá lên cao khoảng 1m.
- Công việc khai khẩn
Thời gian tiến hành vào mùa xuân từ rằm tháng Giêng để có thể đa vào sử
dụng ngay trong tháng 4- 5, kịp tính thời vụ. Khi một gia đình khai khẩn thì
nhiều gia đình khác sẽ đến giúp - đây là hình thức khai khẩn đổi công. Công việc
khai khẩn trên thửa ruộng đã đợc xác lập gồm các bớc sau:
+ Dọn sạch mặt đất:
Đầu tiên đồng bào phát cỏ, các loại cây bụi nhỏ và dây leo.Phát cỏ xong,
ngời ta dùng cuốc bớm đào các gốc cây to còn sót lại và vun cỏ, gốc cây thành
đống, dẫm cho nhiễn vào đất cho cỏ không thể mọc lại nữa. Cây cỏ bị ải, hoà vào
đất tạo thành lớp phân xanh tăng độ dinh dỡng và giữ độ ẩm cho đất.
+ Đào và san ruộng:
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
Đây là khâu quan trọng, khó và đòi hỏi các kĩ năng, kĩ thuật cao, ruộng
bậc thang phải đảm bảo hai yếu tố mặt bằng và nguồn nớc. Thông thờng, quá
trình đào và san ruộng đợc làm bằng hai cách: từ trên xuống hoặc từ dới lên. Nếu
đào và san ruộng từ trên xuống thì ruộng đó phải có độ nghiêng từ 30- 50
o
. Sau

khi mảnh đất đợc dọn sạch, ngời ta sẽ tìm mặt phẳng nhất để làm chuẩn ( hoàn
toàn bằng mát thờng), để tiến hành đào và san lấp tạo thành mặt bằng. Cách này
có u điểm tích kiệm đợc thời gian nhng độ màu giữ lại đợc trên bề mặt đất lại
thấp. Cách hai là san và lấp từ dới lên: đây là cách không phổ biến nhng thể hiện
đợc trình độ kỹ thuật, đợc tiến hành ở những thửa có độ dốc từ 30
o
trở xuống.
Đồng bào cuốc đất cho vào giành để đắp vào chỗ lõm phía trên để tạo thành
điểm chuẩn, từ điểm đó họ mới hớt đất hất lên trên để tạo thành thửa mới. Công
việc tạo mặt bằng là khâu quan trọng nhất trong khai ruộng; việc tạo điểm chuẩn
là việc và quyền của cả làng bản, nên ruộng bậc thang của ngời Hmông khá bằng
nhau, thuận lợi cho giữ nớc ở chân lúa sau này.
+ Làm bờ ruộng:
Đồng bào làm bờ ngay từ khi san ruộng. Nguồn đất để làm bờ đợc lấy
ngay từ chỗ san gạt ở mép cuối mặt bằng thửa ruộng, lấy cuốc bớm cào đất thành
bờ chỗ nào thiếu thì tiếp tục cào từ chỗ cao sang, rồi dùng chân và gáy cuốc đập
mạnh để nén chặt bờ ruộng.
Tóm lại, quá trình khai khẩn ruộng bậc thang đợc ngời Hmông chú trọng,
làm với những kỹ thuật đặc trng là bớc quan trọng để có thửa ruộng tốt, thu năng
suất cao. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn, diện tích đất đợc khai khẩn thành
ruộng bậc thang không nhiều.
b. Quá trình canh tác:
Đây là khâu quyết định đến kết quả canh tác ruộng nớc, gồm các bớc sau:
- Điều hoà nguồn nớc:
Ruộng bậc thang yếu tố thuỷ lợi phải đợc đặt lên hàng đầu, họ quan niệm:
nớc là mẹ, đất là cha. Hệ thống thuỷ lợi thờng bắt nguồn từ đầu nguồn suối
trên núi cao, các khe nớc giữa kè đáTừ các nguồn suối, theo độ nghiêng của
dòng chảy, ngời Hmông đào các mơng rộng từ 80-100cm, sâu từ 40-50 cm.
Mạch mơng này chảy theo đờng lợn của sờn đồi chảy vào ruộng. Chỗ nào gặp
địa hình gẫy đột ngột thì họ dùng cây mang ( một loại cây rất to) ca làm hai phần

khoét rỗng để tạo thành lòng máng. Nớc theo dòng máng chảy vào ruộng. Để giữ
nớc trên bề mặt ruộng, ngời ta phải đắp bờ ngăn nớc. Để dẫn nớc từ thửa trên cao
xuống thửa phái dới, bờ đợc xẻ ra tạo thành rãnh dài rộng khoảng 20.20, nớc qua
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
các rãnh này xuống dới. Các rãnh này phải để so le giữa các thửa này với thửa
kia.
Vấn đề điều hoà nguồn nớc đợc thực hiện ở nơi có hệ thống mơng máng
bắt nguồn từ chỗ có lu lợng nớc lớn xung quanh có các phân lu nhỏ chia cắt các
nguồn nớc đó. Hay chính là ở nơi có dòng suối cái và các dòng suối nhỏ hợp
thành. Đồng bào điều hoà nguồn nuớc bằng cách tạo ra các khối nuớc đặt ở giữa
mơng và suối. Khố nớc là những tấm phên dày đợc làm từ các tấm đá lớn và các
thân cây to. Gỗ làm khố thờng bằng gỗ dẻ hoặc xoan đào. Khi nớc trong ruộng
đủ để ngâm chân lúa thì khố đợc đóng lại và chỉ để một khe hở nhỏ để cho nớc
mới vào thay nớc cũ. Khi ma lớn hoặc có lũ thì khố đợc đóng kín.
- Kỹ thuật làm đất và kinh nghiệm.
+ Cày: Ngời Hmông cày ruộng để cho mặt đất tơi ra sau đó tháo nớc vào
ruộng để trở thành bùn nhão. Yêu cầu kĩ thuật khi cày: cày lật đất, đạt độ sâu
thích hợp (8- 10cm), cày đều tay không để lại nhiều sống đất, rãnh cày tơng đối
bằng. Ngời Hmông hay sử dụng la làm sức kéo. Phơng pháp cày chủ yếu là cày
luống, tức là chia ruộng bậc thang của mình thành tửng thửa một. Mỗi luống đợc
mở ở giữa thửa để lấy chỗ đứng cày. Cày ruộng bậc thang cũng cày từ trong ra
ngoài nh ruộng ở dới xuôi. Ngời ta cày rất kĩ, có thể đến 3 hoặc 4 lần.
+ Bừa: Sau khi cày đất xong đợc 2 đến 3 ngày và khi ruộng đã có nớc
ngâm ngời Hmông bắt đầu bừa. Bừa ruộng để làm vỡ các hòn đất đã cày, làm cho
đất nhuyễn với nớc để tạo thành bùn nhão làm cho gốc rạ, xác cỏ chìm cho ngấu,
mặt ruộng đợc san phẳng.
Kĩ thuật bừa: không đợc ấn răng bừa quá sâu hoặc quá nông. Nếu bừa sau
cày thì lần đầu phải bừa theo chiều đã cày. Khi bừa nên đa đất ra xung quanh và
những hòn đất to đợc chuyển ra đó cho dễ nát vì ruộng bậc thang cần nớc.

- Gieo mạ và cấy:
+ Gieo mạ: Quá trình gieo mạ gồm các bớc sau đây:
- Làm đất mạ: Những chân ruộng đợc dùng gieo mạ phải có điều kiện tự
nhiên thuận lợi nhất và gần nh chuyên dụng. Đất phải đợc làm kỹ, cày bừa nhiều
lần. Nớc đa vào ruộng thờng xấp xỉ so với bề mặt ruộng.
- Xử lý hạt giống: Hạt giống lúa phải chọn hạt chắc, loại bỏ hạt lép bằng
cách quạt, lấy hạt ở gần. Hạt giống đợc chọn đem ra suối đãi sạch phơi khô, bỏ
vào gùi kín.
- Ngâm và ủ giống: Hạt giống đợc ngâm vào nớc ấm ( 40- 50
o
c), thờng đ-
ợc ngâm trong một ngày. Khi ủ để hạt giống nảy mộng, ngời ta đắp đống vào
một góc, sau đó phủ lá xoan hoặc lá đào lên để tăng nhiệt độ cho hạt dễ nảy
mầm. ủ mầm phải đạt yêu cầu: mầm mọc đều, mập, có rễ ngắn.
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
Thời vụ gieo mạ phụ thuộc vào thời vụ cấy. Công việc gieo mạ thờng bắt
đầu vào đầu tháng 4 tháng 5 có thể cấy xong hoàn toàn để tháng 10 âm lúa trổ và
chín, tránh đợc rét. Mật độ gieo mạ tơng đối dày.
- Kỹ thuật gieo mạ: gieo úp tay, ném mạnh xuống cho mầm bám vào đất.
Gieo ngửa tay mạ lên không đều, thành vết.
Sau khi gieo mạ xong, phải theo dõi sự phát triển và bảo vệ ruộng mạ và
chăm sóc ruộng mạ.
+ Cấy lúa: Quá trình cấy lúa gồm những bớc sau:
- Nhổ mạ: Khi cây mạ lớn có 4-5 lá thì tiến hành nhổ mạ. Kỹ thuật nhổ
mạ: dùng tay trái tóm phần ngọn, tay phải tóm phần gốc cho rạp khóm mạ
xuống rồi giật về phía mình. Nhổ mạ ở chân ruộng rồi rũ gốc mạ vào nớc
cho sạch đất cấy chóng bén rễ. Nhổ mạ cần nhổ chậm, nhổ từng túm để
mạ đỡ rối đỡ đứt và sót lại
- Cấy lúa: Ngời Hmông cấy lúa theo theo phơng thức sấp tay, cấy di

chuyển từ đầu bên trái sang đầu bên phải thửa ruộng theo chiều ngang và và cấy
lúa theo chiều dọc. Mực nớc yêu cầu khoảng 5 cm so với mặt bằng ruộng. Mật
độ cấy phụ thuộc vào độ màu mỡ của đất; không đợc cấy mạ non nếu mạ non
phải sử dụng biện pháp bón thúc.
- Làm cỏ và bảo vệ:
+ Làm cỏ: Ruộng bậc thang có tiền thân là thảm thực vật nên có nhiều hạt
cỏ. Việc làm cỏ đã đợc thực hiện trớc khi cấy trong quá trình làm đất. Nhng cấy
xong vẫn làm cỏ, thờng đợc chia làm hai đợt: đợt mộốtau khi cấy 20- 25
ngày,đợt hai sau đợt một chừng 2 tháng - thời điểm cây lúa đẻ nhánh khoẻ, cần
nhiều dinh dỡng. Dùng cuốc bớm và dao phát để triệt tận gốc các loại cỏ.
+ Trừ sâu bọ: Ruộng bậc thang rất ít sâu bọ. Đồng bào sử dụng thuốc hoá
học và một số ít biện pháp trừ sâu bằng các hình thức dân gian.
+ Làm hàng rào: Hàng rào bảo vệ ruộng lúa thành quả lao động của đồng
bào. Hàng rào có 3 dạng phổ biến: hàng rào bằng đá, hàng rào bằng tre, vầu đan
tha và hàng rào làm bằng tre đan nong tạo thành các phên.
- Thu hoạch và bảo quản:
Việc thu hoạch và bảo quản đợc tiến hành cẩn thận, khẩn trơng. Điều cơ
bản về thời tiết trong vụ thu hoạch nhất là cắt lúa là ruộng phải khô. Công cụ gặt
chủ yếu liềm. Ngời Hmông tách hạt lúa bằng cách đập lúa ngay tại ruộng. Công
cụ đập lúa là chiếc néo gồm hai thanh gỗ dài 40 cm, đờng kính 3 cm.
Sau đó ngời ta tiến hành chọn hạt giống cho vụ sau với số lợng gấp đôi số
lợng dự tính gieo trồng để đề phòng rủi ro của thời tiết. Thóc mang về đợc phơi
3-4 ngày hoặc hơn, sau đó cất vào bồ, chỗ khô ráo.
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
Tóm lại, trên đây là nội dung cơ bản trong kỹ thuật canh tác ruộng nớc
(bậc thang) của ngời Hmông. Ruộng bậc thang tuy không giữ vị trí chính trong
đời sống tộc ngời nhng ngày càng có vị thế cao hơn. Hình thức canh tác này gắn
với cuộc sống định c lâu dài và là hình thức có thể huy động đợc lao động của cả
gia đình. Tuy nhiên, hình thức này lại gây ra hệ quả xấu đến môi trờng tự nhiên

nhất là môi trờng đất, gây sụt lở xói mòn đấtdo đó cần có chính sách phát triển
và bảo vệ môi trờng hợp lý.
2.2. Quá trình khai khẩn và canh tác nơng rẫy
Ngời Hmông đã tích luỹ đợc vốn kinh nghiệm lâu đời trong việc sử dụng
đất đai và kỹ thuật canh tác nơng rẫy. Ngời Hmông tiến hành canh tác nơng rẫy
theo kinh nghiệm truyền thống, kỹ thuật canh tác có từ lâu đời.
a. Quá trình khai khẩn nơng rẫy:
Việc khai khẩn một bãi nơng đợc bắt đầu bằng việc chọn bãi, sau đó đến
phát và đốt cây. Qua ba khâu này coi nh đồng bào đã có một nơng rẫy để tiến
hành sản xuất. Theo kinh nghiệm của đồng bào, bãi đất tốt để làm nơng phải là
nơi có nhiều cây. Bởi cây cối rậm rạp sau khi đốt đi thành tro sẽ là nguồn phân
dồi dào cho đất, càng nhiều cây thì lợng tro càng lớn, đất càng tốt, đồng thời đất
có độ dốc không cao quá. Càng ít dốc, càng thuận lợi cho quá trình canh tác; sức
bào mòn của nớc ma ít nên lợng mùn đợc giữ lại nhiều, quá trình đi lại trong lúc
canh tác dễ dàng hơn. Nhng hiện nay do dân số phát triển, diện tích đất hoang
hoá ngày càng nhiều nên đồng bào phải tiến hành khai khẩn ở cả những mảnh
đất khô cằn, nhiều sỏi đá, dốc cao khó khăn cho sản suất.
b. Quá trình canh tác
Phơng thức canh tác của ngời Hmông ở nơng rẫy có những cách chủ yếu :
- Gieo trồng theo đờng cày:
Phơng thức này đợc áp dụng với những vùng có trình độ thâm canh cao.
Đồng bào Hmông có nghệ thuật cày giỏi, các nơng dù nhiều đá, dốc cao, ngổn
ngang nhng họ vẫn cày đợc dễ dàng. Theo cách này, quy trình công việc từ làm
đất đến gieo trồng đợc tiến hành nh sau:
Cày lật úp cỏ xuống để một thời gian cho đất ải, cỏ thối thành phân xanh
rồi bừa cho tơi nhỏ. Khi gieo hạt, một ngời cày đi trớc; ngời khác đi sau một tay
bỏ phân xuống đờng cày từng nắm theo một khoảng cách nhất định, phù hợp với
cây trồng, tay kia bỏ bỏ hạt xuống chỗ và bỏ phân, rồi dùng chân lấp đất lại.
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông

Cách này dùng phân ít nhng lại bón tập trungvà chính xác vào gốc cây đợc
trồng. Có nơi đồng bào cho hạt giống trộn với phân lợn rồi trộn với tro để hạt
giống đợc bao một lớp vỏ phân, khi gieo xuống đất chống đợc sâu bọ. Cách
làm này đòi hỏi hai ngời lao động thực hiện ba khâu liên hoàn: cày, gieo hạt, bón
phân.
Với phơng thức này, đất đợc cày và xới sâu cho năng suất cao nên ta chủ
trơng mở rộng cách này. Nhng khi cày đất bị xới lên, gặp ma tốc độ xói mòn cao
nên khi thực hiện phải tính toán để giữ màu cho đất.
- Gieo trồng theo hốc dùng cuốc bổ:
Cách gieo trồng này đợc thực hiện nhiều, thích hợp với những nơng
dốc ,nơng có quá nhiều sỏi đá không dùng cày đợc.
Cách bỏ hốc thờng đợc tiến hành từ thấp lên cao ( theo độ dốc của nơng).
Đồng bào bổ hốc theo hàng ngang: ngời cuốc hốc, ngời tra hạt theo sau. Hạt tra
vào hốc và tra luôn phân bón. Khi bỏ hốc hàng trên thì bỏ đất xuống lấp cho các
hốc hàng dới, nên đỡ công lấp các hố đã tra hạt.
Gieo trồng theo cách này cho phép tận dụng đợc những mảnh đất hẹp,
những góc vờn, góc nơng, tích kiệm đợc thời gian và sức lao động. Cách này còn
đợc áp dụng trong kỹ thuật gieo trồng xen canh; nhng chỉ mang tính đặc thù
không thể thay thế cho gieo trồng bằng cày đợc.
- Gieo trồng theo lỗ dùng gậy chọc:
Cách này không còn phổ biến. Phơng thức này đợc áp dụng trớc tiên cho
những nơng đất mới khai phá. ở loại nơng này, đất ẩm xốp, dễ chọc lỗ, giữ đợc
màu; nếu dùng cuốc hoặc cày ở đây sẽ làm tăng nhanh tốc độ xói mòn lớp đất
màu trên bề mặt.
Với địa hình canh tác đa dạng, đặc trng đồng bào Hmông đã có đợc một
hệ thống các phơng thức gieo trồng đa dạng, thích ứng với từng điều kiện của n-
ơng rẫy.
- Kỹ thuật xen canh, gối vụ:
Do thời tiết chỉ trồng đợc một vụ lơng thực (vụ hè thu) nên đặc điểm nổi
bật ở kỹ thuật canh tác nơng rấy của ngời Hmông là luôn trồng xen canh, gối vụ.

Điều này để tranh thủ thời tiết hè thuvà tăng hệ số quay vòng đất canh tác, tăng
hệ số sử dụng đất đẩm bảo nhu cầu về lơng thực, thực phẩm Một nơng ngời ta
có thể trồng nhiều loại cây ngô, rau dền, các loại đỗNgời Hmông chỉ có nơng
lanh, chàm. Mạch ba góc là chỉ trồng một loại cây mà thôi.
Theo đó, nét riêng biệt trong làm nơng rẫy của đồng bào là cùng một hốc
ngời ta bỏ nhiều loại hạt giống khác nhau: 2 hạt ngô, vài hạt đỗ, ít hạt rau dền,
hạt thuộc họ bầu bíphân bón tập trung vào hốc, tra hạt đi liền với bón phân.
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
Khi thu hoạch rải ra, thu từng loại cây một. Thu loại cây này xong thì tiếp tục
chăm sóc cây khác phát triển. Do đó, đồng bào quanh năm bận rộn, nơng lúc nào
cũng rất sạch. Cách làm này tuy năng suất cây trồng không cao nhng tổng thu
nhập các loại hoa màu trên phạm vi diện tích trồng trọt cao, đáp ứng đợc cao hơn
nhu cầu về lơng thực, thực phẩm. Hơn nữa, cách này thích hợp với điều kiện tự
nhiên của khu vực sinh sống của đông bào. Trồng xen canh là biện pháp khoa
học để tranh thủ thời tiết, tranh thủ vòng quay của đất, chống xói mòn ở nững
nơi đất dốc, bảo vệ môi trờng.
Song canh tác nơng rẫy có một vài hạn chế nh việc làm nơng rẫy rất vất
vả, năng suất lại hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên nên rất bấp bênh. Đồng thời
có nhiều ảnh hởng không tốt tới môi trờng tự nhiên.
2.3. Các hình thức canh tác khác:
Ngoài hai loại hình thức canh tác chính trên, đồng bào Hmông còn có các
các hình thức sau:

Canh tác vờn nhà, vờn treo:
Vờn của ngời Hmông có thể gần nhà, hoặc xa nhà nhng khoảng cách
không quá lớn. Họ cũng làm rào bảo vệ nhng không chăm sóc nhiều, cây cối chủ
yếu tự phát triển. Trong vờn trồng các loại cây nh: cây họ cam, họ chuối họ
khoai riềng, họ bầu bí, tỏi.
Canh tác vờn rừng: Đồng bào để phát triển tự do.

Canh tác rừng và các bãi chăn thả: thuộc sở hữu của cả cộng đồng,đồng
bào khai thác tự do, khai thác làm nơng rẫy tuỳ theo sức của mình.
Các bãi chăn thả thì đồng bào quản lý rất chặt, vì ngựa là phơng tiện vận
chuyển chính ở vùng cao cho nên họ rất lu ý đến việc giữ gìn các bãi chăn thả
ngựa.
2. Hệ thống công cụ:
Công cụ lao động mang đặc trng tộc ngời, phù hợp với điều kiện tự nhiên
của vùng c trú, công cụ lao động của ngời Hmông phần lớn do chính đồng bào tự
sản suất; nhng ngày nay thì đồng bào cũng mua công cụ, tuy chất lợng không
bằng nhng thuận tiện, nhanh chóng.
Hệ thống công cụ lao động của ngời Hmông gồm các loại cơ bản sau:
2.1 Chiếc cày.
Chiếc cày ngời Hmông gọi là chủ lì, cày đợc làm bằng gỗ, lỡi cày đúc
bằng kim loại. Lỡi có hình tam giác cân, phía cạnh đáy đày, phía đỉnh mỏng. Lỡi
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
cày dài khoảng từ 30- 32cm, chỗ đáy rộng nhất 20cm. Chiếc cày Hmông gần
giống với chiếc cày Kinh song cày Hmông to hơn, chắc chắn hơn và đóng ghép
bằng hệ thống mộng giằng. Cày Hmông bao gồm 3 bộ phận đó là thân cày, bắp
cày và tay cày. Lỡi cày do ngời Hmông tự sản xuất lấy, nếu so sánh với cày Kinh,
cày Tày, Nùng thì to bản hơn.Thực tế khi canh tác ruộng bậc thang cho thấy
ruộng có độ dốc cao, tầng đất canh tác lắm sỏi đá, lắm gốc cây, rễ cây, nhiều chỗ
gặp mấp mô trong quá trình khai thác ruộng cha sử lý đợc thì chiếc cày Hmông
và kỹ thuật cày của ngời Hmông hoàn toàn có thể giải quyết đợc các khó khăn
tồn đọng trong khi cày.
2.2 Chiếc Bừa.
Ngời Hmông chỉ dùng chiếc bừa gỗ đơn tức là chiếc bừa đó chỉ sử dụng
một sức kéo chứ không sử dụng bừa đôi với hai sức kéo. Vì các thửa ruộng bậc
thang hẹp nhiều chỗ chỉ đủ một đờng bừa. Chiếc bừa Hmông dài chừng 1m cao
khoảng 0,8, có 8 răng bằng gỗ cứng và dẻo ( gỗ cây dẻ) cũng đợc đóng với nhau

bằng hệ thống mộng giằng vững chắc và kĩ thuật tra răng bừa. Bừa Hmông bao
gồm các bộ phận tay cầm, bộ phận tra răng bừa và hai thanh gỗ dài để buộc dây
kéo. Răng bừa làm bằng gỗ dẻ vùa có độ cứng và dẻo. Răng bừa làm bằng gỗ
làm cho trọng lợng bừa nhẹ, dễ di chuyển ở các vùng dốc; răng bừa dẻo có độ
mềm dễ lách đợc qua sỏi đá và các vật cứng.
Ngoài chiếc cày và chiếc bừa, ngời Hmông còn sử dụng nhiều loại công
cụ khác trong quá trình làm đất canh tác.
2.3 Chiếc cuốc bớm.
Là loại công cụ đặc thù của ngời Hmông đồng thời cũng là loại công cụ
phổ biến, số cuốc thờng đợc tính theo số lao động trong gia đình. Lỡi cuốc bớm
do thợ rèn ngời Hmông tự làm lấy. Lỡi cuốc bằng sắt, rộng 20cm, chỗ để tra cán
cuốn thành ống sắt tròn uốn cong liền với lỡi cuốc. Đờng kính ống khoảng 4cm.
Cán để tra vào ống là đoạn gỗ đợc đẽo tròn, dài hay ngắn tuỳ thuộc vào độ trởng
thành của ngời lao động. Lỡi cuốc đợc rèn rất tốt, cứng vừa phải, đảm bảo độ dẻo
nhng không bị quăn trong điều kiện ruộng có nhiều sỏi đá. Ngời Hmông có kinh
nghiệm sử dụng cuốc bớm trong việc khai ruộng làm cỏ.
2.4 Chiếc cào cỏ:
Chiếc cào cỏ của ngời Hmông không có răng, họ thờng lấy những con dao
cũ không dùng đợc nữa uốn cong thành chiếc cào cỏ. Chiếc cào cỏ đợc sử dụng
trong việc làm sạch cỏ ở trên ruộng và làm cỏ cho các cây trồng quanh nhà.
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
2.5 Chiếc liềm:
Chiếc liềm của ngời Hmông chủ yếu để gặt lúa ở chân ruộng bậc thang và
cắt cỏ cho trâu, bò, ngựa.
2.6 Búa chim:
Búa chim có một lỡi nhọn và một lỡi tù, khi khai ruộng gặp chỗ đất mềm,
ngời ta sử dụng lỡi nhọn, gặp chỗ đất lắm sỏi ngời ta sử dụng lỡi tù. Chiếc búa
này to, nặng nên chỉ có nam giới khoẻ, có kinh nghiệm trong lao động mới sử
dụng đợc.

2.7 Chiếc gùi:
Chiếc gùi là phơng tiện vận chuyển chủ yếu của ngời Hmông thích hợp
với các đờng dốc, trèo leo trên các đờng ruộng dốc bậc thang và các vách đá.
Nhà có bao nhiêu ngời thì số lợng gùi cũng tơng ứng. Gùi đợc đan bằng nan
giang hoặc bằng trúc nên dùng bền. Dây gùi đợc làm bằng da trâu, bò hoặc dây
móc. Gùi cao khoảng 60cm, có đáy đờng kính 30cm. Càng lên cao gùi càng loe
rộng. Miệng gùi có hình bầu dục không có nắp đậy do vậy có thể chứa những vật
có chiều cao hơn gùi.
Với những công cụ có từ lâu đời và những công cụ mới du nhập trong đời
sỗng hiện đại đồng bào Hmông đang dần từng bớc cải thiện canh tác để tăng
nâng suất,cải thiện đời sống. Những công cụ đó phần nàp cũng nói lên đợc tính
sáng tạo và khéo léo của tộc ngời này.
III. kết luận chung:
Mỗi tộc ngời lại có những điều kiện sinh sống khác nhau, tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh tự nhiên mà có những phơng thức canh tác đặc trng. Là những c dân
di c tới Việt Nam muộn ngời Hmông phải sống trên địa hình núi cao, dốc. Khắc
phục khó khăn, họ đã tìm ra đợc phơng thức canh tác phù hợp. Với những công
cụ truyền thống có cải tiến và phơng thức canh tác ruộng bậc thang,canh tác n-
ơng rẫy, đời sống đồng bào đã dợc cải thiện. Cần phải thấy rằng những phơng
thức, những công cụ lao động đó là sự tích luỹ kinh nghiệm truyền thống từ ngàn
đời cũa đồng bào Hmông, là trí tuệ của cả một cộng đồng trong điều kiện khó
khăn. Tuy nhiên, nói nh vậy không có nghĩa đó là những phơng thức canh tác tối
u nhất. Mặc dù đây là phơng thức canh tác phù hợp hơn cả với đông bào trong
điều kiên đất đai ít ỏi, cằn cỗi, độ dốc cao, nhiều đá thì những phơng thức đó
còn nhiều hạn chế. Đó là vấn đề ảnh hởng môi trờng tự nhiên, phá rừng do đốt n-
ơng rẫy gây mất cân bằng môi trờng sinh thái,du canh du c gây vấn đề về xã
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Phơng thức canh tác của ngời Hmông
hộiHơn nữa, phơng thức canh tác đó cha thực sự đáp ứng đợc nhu cầu lơng
thực của đồng bào. Vì vậy, chúng ta cần xem xét và đa ra những giải pháp tích

cực nhằm nâng cao hơn nữa cuộc sống của đồng bào Hmông nói riêng và các
đân tộc thiểu số khác nói chung.
MụC LụC
Website: http://www. kilobooks.com Email :
Ph¬ng thøc canh t¸c cña ngêi Hm«ng
Website: http://www. kilobooks.com Email :

×