Tải bản đầy đủ (.doc) (223 trang)

Tài liệu bồi dưỡng về công tác chủ nhiệm lớp (Q2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.96 MB, 223 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TÀI LIỆU
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ QUẢN LÝ, GIÁO VIÊN
VỀ CÔNG TÁC GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
********
(Tài liệu lưu hành nội bộ)
Quyển 2
Hà Nội, tháng 6/2011
1
Chủ biên : PGS.TS Nguyễn Thanh Bình
Tham gia: PGS.TS. Đào Thị Oanh
TS. Vũ Thị Sơn
Ths. Nguyễn Thị Hằng
LỜI MỞ ĐẦU
Trước thực tế chất lượng giáo dục nhân cách HS và giáo viên chủ nhiệm gặp nhiều
khó khăn trong việc quản lí và giáo dục HS, Vụ TrH, Bộ GD-ĐT đã tổ chức Hội thảo
về nâng cao năng lực công tác chủ nhiệm lớp ở trường Trung học tại TP Đà Lạt, tháng
01/2011 nhằm thăm dò nhu cầu về nội dung bồi dưỡng nâng cao năng lực cho GVCN
ngay trong dịp hè năm 2011. Theo đó có13 kĩ năng được chọn ở mức độ ưu tiên hơn
(đa số ý kiến cho là rất cần) đó là:
Nhóm kĩ năng giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi công tác chủ nhiệm
- Vai trò, chức năng của GVCN vừa là nhà GD vừa là nhà quản lý tập thể HS
2
- Kĩ năng tổ chức giáo dục KNS cho HS
- Kĩ năng ngăn ngừa và giải quyết những xung đột trong tập thể lớp
- Kĩ năng tổ chức giờ sinh hoạt lớp
- Kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt và HS có hành vi không mong đợi
- Kĩ năng xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp ( kế hoạch năm, học kì,
tháng, tuần)
- Kĩ năng xử lí tình huống giáo dục


- Kỹ năng tìm hiểu đặc điểm học sinh
- Đặc điểm tâm lí- xã hội của HS THCS/ THPT hiện nay
- Kĩ năng phối hợp với cha mẹ HS
Nhóm kĩ năng mềm
- Kĩ năng lắng nghe tích cực và cảm thông
- Kĩ năng kiểm soát/làm chủ cảm xúc của bản thân
- Nhận thức hậu quả sự thiếu trách nhiệm của GVCN
Trên cơ sở đó, Vụ TrH và nhóm nghiên cứu ở Viện Nghiên cứu sư phạm, ĐhSPHN đã
thống nhất những nội dung này được biên soạn thành: Tài liệu tập huấn và tài liệu tự
đọc cho GVCN
Tài liệu dành cho GVCN tự đọc này bao gồm những nội dung sau:
1. Vai trò, chức năng của GVCN
2. GVCN vừa là nhà GD vừa là nhà quản lý tập thể HS.
3. Nhận thức hậu quả sự thiếu trách nhiệm của GVCN
4. Đặc điểm nhân cách của HS THCS/ THPT hiện nay
5. Kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt và HS có hành vi không mong đợi
6. Kĩ năng lắng nghe tích cực và cảm thông
7. Kĩ năng tạo động lực học tập và hoàn thiện nhân cách cho HS
8. Kĩ năng quan hệ, hợp tác với phụ huynh HS
Tài liệu được sử dụng để GVCN tự học cho nên ở mỗi vấn đề chúng tôi đều xác
định mục tiêu, nội dung cơ bản, câu hỏi để GVCN trả lời và tự đánh giá mức độ nắm
vấn đề của bản thân. Trong phần nội dung, tùy từng vấn đề các tác giả cố gắng hướng
vào trả lời 3 câu hỏi cốt lõi sau:
1. Vì sao phải làm việc này? Nội dung trả lời cho câu hỏi này đề cập đến những
luận cứ lí luận và thực tiễn nhằm nâng cao nhận thức cho giáo viên chủ nhiệm lớp
2. Làm cái gì? (Nội dung phải làm)
3. Làm như thế nào? ( Cách thức thực hiện)
Nội dung trả lời cho 2 câu hỏi sau nhằm nâng cao năng lực cho GVCN
3
Đăc biệt là nội dung tài liệu đãcập nhật những cách tiếp cận phù hợp với đổi mới tư

duy “hướng vào người học” trong giáo dục hiện nay
Chắc chắn cuốn tài liệu này còn những điều chưa đáp ứng nhu cầu của GVCN.
Rất mong được sự chia sẻ, góp ý của những người đọc và sử dụng.
Thay mặt nhóm tác giả
Chủ biên
PGS.TS Nguyễn Thanh Bình
MỤC LỤC
Nội dung Trang
1. Vai trò, chức năng của GVCN
2. GVCN vừa là nhà GD vừa là nhà quản lý tập thể HS.
3. Nhận thức hậu quả sự thiếu trách nhiệm của GVCN
4. Đặc điểm nhân cách của HS THCS/ THPT hiện nay
5. Kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt và HS có hành vi không mong đợi
6. Kĩ năng lắng nghe tích cực và cảm thông
7. Kĩ năng tạo động lực học tập và hoàn thiện nhân cách cho HS
8. Kĩ năng quan hệ, hợp tác với phụ huynh HS
4
Một số từ viết tắt
1 Ban giám hiệu BGH
2 Cha mẹ học sinh CMHS
3 Kĩ năng hợp tác KNHT
5 Hoạt động ngoài giờ lên lớp HĐNGLL
6 Hoạt động giáo dục HĐGD
7 Học sinh HS
8 Hội đồng giáo dục HĐGD
9 Giáo dục-Đào tạo GD-ĐT
10 Giáo viên GV
11 Giáo viên chủ nhiệm GVCN
12 Giáo viên trung học GV TrH
13 Giáo dục GD

14 Giáo dục học GDH
5
15 Giáo dục và thời đại GD & TĐ
16 Lực lượng giáo dục LLGD
17 Thanh niên cộng sản TNCS
18 Trung học phổ thông THPT
Trung học cơ sở THCS
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM
TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1

1
Nguyễn Thanh Bình-Viện Nghiên cứu sư phạm – Trường ĐHSP Hà Nội
6
A. MỤC TIÊU
Sau khi đọc xong nội dung này GVCN trình bày được:
1. Vị trí, vai trò của người GVCN lớp trong trường trung học
2. Chức năng và nhiệm vụ của người GV được quy định trong văn bản pháp lí
và thực tiễn giáo dục
3. Yêu cầu về đạo đức và năng lực đối với người GVCN.
B. NỘI DUNG
1.Phân biệt GVCN và công tác GVCN
Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được tổ chức
để giảng dạy và giáo dục học sinh là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học, giáo dục theo
lớp được hình thành từ thế kỉ XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc Comenxki đề xướng. Để
quản lý lớp học, nhà trường cử ra một trong những giáo viên đang giảng dạy làm chủ
nhiệm lớp. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) được hiệu trưởng lựa chọn từ những GV có
kinh nghiệm giáo dục, có uy tín trong học sinh, được Hội đồng giáo dục nhà trường
nhất trí phân công chủ nhiệm các lớp học xác định để thực hiện mục tiêu giáo dục.
Như vậy khi nói đến người GVCN là đề cập đến vị trí, vai trò, chức năng của người

làm công tác chủ nhiệm lớp, còn nói công tác chủ nhiệm lớp là đề cập đến những
nhiệm vụ, nội dung công việc mà người GVCN phải làm, cần làm và nên làm.
2. Vị trí, vai trò của GVCN
2.1. GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay mặt
hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ học sinh (CMHS) quản lý và chịu trách
nhiệm về chất lượng giáo dục toàn diện học sinh lớp mình phụ trách, tổ chức thực
hiện chủ trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp.
Với tư cách là người đại diện cho tập thể các nhà sư phạm, giáo viên chủ nhiệm
có trách nhiệm truyền đạt tới học sinh của lớp chủ nhiệm tất cả yêu cầu, kế hoạch giáo
dục của nhà trường tới tập thể và từng học sinh của lớp chủ nhiệm. Đồng thời, giáo
viên chủ nhiệm có khả năng biến những chủ trương, kế hoạch đào tạo của nhà trường
thành chương trình hành động của tập thể lớp và của mỗi học sinh.
Mỗi giáo viên chủ nhiệm còn là một thành viên tham mưu của Hội đồng sư
phạm có trách nhiệm phản ánh đầy đủ thông tin về lớp chủ nhiệm cũng như từng
thành viên trong tập thể lớp, đề xuất các giải pháp giáo dục học sinh, giúp cán bộ
quản lý, lãnh đạo nhà trường đưa ra các định hướng, giải pháp quản lý, giáo dục
học sinh hiệu quả.
2.2. Đối với HS và tập thể lớp, GVCN là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi
nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các
mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán
bộ lớp, cán bộ Đoàn và tính tự giác của mọi HS trong lớp.
Giáo viên chủ nhiệm lớp còn là người tập hợp ý kiến, nguyện vọng của từng
học sinh của lớp phản ánh với hiệu trưởng, với các tổ chức trong nhà trường và với các
7
giáo viên bộ môn.Giáo viên chủ nhiệm với tư cách là đại diện cho lớp còn có trách
nhiệm bảo vệ, bênh vực quyền lợi mọi mặt học sinh của lớp.
Ví dụ: những oan ức, sự hiểu lầm của thầy, cô giáo vì một lẽ nào đó. Ai là người giúp
các em giải tỏa những băn khoăn vướng mắc trong những quan hệ như vậy, không ai
tốt hơn là giáo viên chủ nhiệm.
Như vậy, GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng (Ban giám hiệu), giữa các tổ chức

trong nhà trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể học sinh. Nói một cách khác,
giáo viên chủ nhiệm là người đại diện hai phía, một mặt đại điện cho Hội đồng sư
phạm, mặt khác lại đại diện cho tập thể học sinh trong quá trình thực hiện công tác chủ
nhiệm lớp.
2.3. GVCN là người cố vấn cho công tác đội và công tác Đoàn ở lớp chủ nhiệm
GVCN giữ vai trò là người cố vấn cho Ban chỉ huy chi đội của lớp chủ nhiệm ở
trường THCS, và là người cố vấn cho Ban chấp hành chi đoàn ở trường THPT.
GVCN có thể tư vấn cho đội ngũ này về việc lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động
theo tôn chỉ, mục đich của từng tổ chức, đồng thời kết hợp với các hoạt động giáo dục
trong kế hoạch của lớp sẽ đem lại hiệu quả cao.
2.4. Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường, GVCN
là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh và là cầu nối giữa
gia đình, nhà trường và xã hội.
GVCN vừa đưa ra những định hướng, mục tiêu phát triển, giáo dục HS vừa
phải tổ chức phối hợp với các lực lượng xã hội có liên quan nhằm thực hiện mục tiêu
giáo dục của lớp chủ nhiệm, giáo dục HS hiệu quả.
Giáo viên chủ nhiệm cũng là người triển khai những yêu cầu giáo dục của nhà
trường đến với gia đình, cha mẹ học sinh, đồng thời cũng là người tiếp nhận các
thông tin phản hồi từ học sinh, gia đình học sinh, các dư luận xã hội về học sinh trở lại
với nhà trường để giúp lãnh đạo nhà trường có giải pháp quản lý, phối hợp hiệu quả,
đồng thời tạo lập mối liên hệ thông tin đa chiều giữa nhà trường – gia đình học sinh –
xã hội.
3. Chức năng của người GVCN.
Trong lí luận GDH truyền thống công tác chủ nhiệm lớp chủ yếu được xem xét
từ bình diện của giáo dục học (GDH), mà ít được quan tâm phân tích từ bình diện quản
lí, trong khi đó hai chức năng này bổ trợ và quy định lẫn nhau.GVCN thực hiện chức
năng quản lí toàn diện tập thể lớp để thực hiện chức năng giáo dục từng cá nhân có
hiệu quả.
Vì vậy, cần quan tâm tìm hiểu chức năng lãnh đạo, tổ chức, quản lí của người
GVCN. Chức năng lãnh đạo và quản lí là không giống nhau. Người quản lý có chức

năng tổ chức thực hiện để đạt mục tiêu, còn lãnh đạo có chức năng định ra đường lối,
chiến lược và phương pháp hoạt động, đồng thời tác động, ảnh hưởng, động viên
người bị lãnh đạo thực hiện mục đích chung. Tuy vậy, cả hai chức năng này được tích
8
hợp hài hòa ở chủ thể quản lý là người GVCN. Người GVCN thực hiện chức năng
quản lí khi là đại diện cho Hiệu trưởng, Hội đồng nhà trường thực hiện các chủ trương,
kế hoạch chung của trường, nhưng lại là người lãnh đạo khi phải xác định tầm nhìn
cho sự phát triển của HS trong lớp chủ nhiệm với tư cách là người đứng đầu một tập
thể lớp, đưa tập thể lớp phát triển thành một tập thể phát triển và thân thiện (chức năng
này được phân tích sâu ở nội dung 2 “GVCN – nhà quản lí, nhà giáo dục”).
Nhìn tổng thể, theo tác giả, chức năng của người GV chủ nhiệm lớp là lãnh
đạo, tổ chức, quản lí, giáo dục tập thể lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động GD, các
mối quan hệ GD của HS theo mục tiêu giáo dục nhân cách HS toàn diện trong tập thể
phát triển và môi trường học tập thân thiện.
Quan niệm trên đã phản ánh sự thống nhất giữa:
- Chức năng quản lí và chức năng giáo dục,
- Tổ chức các hoạt động GD và các quan hệ của HS theo định hướng phát triển toàn
diện nhân cách
- Giáo dục tập thể và giáo dục cá nhân,
- Tập thể phát triển với môi trường học tập thân thiện [2].
4. Nhiệm vụ của GVCN
4.1.Nhiệm vụ của GV CN lớp được quy định trong các văn bản pháp lí [5].
a.Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo
dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của mọi học sinh.
b. Cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các giáo viên bộ
môn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí
Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh
của lớp.
c.Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen
thưởng và kỷ luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm

tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh
việc ghi vào sổ điểm và học bạ.
d.Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng
Trong 3 năm học gần đây khi thực hiện đổi mới chương trình sách giáo khoa THPT,
thì GV chủ nhiệm còn có thêm nhiệm vụ: “Theo dõi tình hình tổ chức dạy và học tự
chọn của lớp mình phụ trách; Theo dõi kết quả học tập tự chọn của học sinh, tổng kết,
xếp loại và ghi kết quả học tập của HS theo quy định” [4].
Như vậy nhiệm vụ của GV chủ nhiệm lớp được quy định trong các văn bản pháp
lí của Bộ GD & ĐT còn sơ sài mới chỉ ở khía cạnh tìm hiểu, nắm vững và tác động
phù hợp đến HS ( phản ánh chức năng giáo dục); phối hợp với các lực lượng giáo dục
( phản ánh chức năng tổ chức, điều phối); đánh giá, hoàn thành hồ sơ HS và cung cấp
thông tin phản hồi cho lãnh đạo nhà trường ( Thực hiện chức năng quản lí).
4.2. Những công việc GVCN phải thực hiện trong thực tế
9
Trên thực tế, GVCN phải thực hiện rất nhiều công việc. Hầu hết giáo viên cho
rằng, công tác chủ nhiệm lớp là công việc bận rộn, vừa dễ vừa khó, vừa đơn giản vừa
phức tạp, là một công việc khó khăn vất vả và chiếm nhiều thời gian, sức lực của mỗi
giáo viên. Tùy theo quan niệm về trách nhiệm của GVCN và tâm huyết nghề nghiệp mà
mỗi GVCN thực hiện công tác chủ nhiệm ở các mức độ và theo những cách đa dạng
khác nhau.
Quan niệm công tác chủ nhiệm là dễ và đơn giản nếu người GVCN chỉ thực hiện
có chừng mực những công việc được quy định trong công tác chủ nhiệm lớp, lặp đi lặp
lại với những công việc như: làm việc theo kế hoạch chung, theo đợt phát động và tổng
kết thi đua, tham dự những tiết chào cờ, tổ chức những giờ sinh hoạt lớp hàng tuần, tổ
chức những buổi họp phụ huynh học sinh trong từng học kì, đôi khi gặp gỡ trao đổi với
cha mẹ và HS cá biệt, đánh giá HS, ghi sổ chủ nhiệm, sổ liên lạc, phê học bạ hay thu
tiền học phí,…
Bên cạnh đó, lại có những GVCN làm những việc thấy cần phải làm vì HS với tâm
huyết, tinh thần trách nhiệm cao.Những GVCN như vậy sẽ thấy công tác chủ nhiệm vô
cùng khó khăn và phức tạp, chiếm nhiều thời gian và tâm trí của họ.

Khái quát những công việc mà GVCN lớp đã làm trong thực tiễn giáo dục hiện
nay, bao gồm:
- Lập kế hoạch năm học dựa trên kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học chung
của nhà trường. Trên thực tế GVCN xây dựng kế hoạch còn mang tính hình thức, hoặc
duy ý chí , chưa theo quy trình khoa học, có tính đến các yếu tố mục tiêu, điều kiện…
nên tính khả thi và hiệu quả còn hạn chế. Do đó, nảy sinh nhu cầu từ thực tế của GVCN
và các các nhà quản lý GD là cần trang bị năng lực ( kĩ năng) xây dựng các loại kế
hoạch cho GVCN.
- Tìm hiểu các thông tin, phân loại học sinh lớp chủ nhiệm (hoàn cảnh gia đình,
đặc điểm HS về các mặt học lực, đạo đức, sức khỏe …dự báo và diễn biến trong quá
trình học tập, rèn luyện của học sinh), trong đó đặc biệt quan tâm đến học sinh là con
thương binh, học sinh nghèo vượt khó
Trên thực tế việc tìm hiểu HS và lớp chủ nhiệm cũng hết sức đa dạng. Nhìn chung
GVCN sử dụng phương pháp trò chuyện hoặc phiếu khai những thông tin cơ bản về gia
đình HS. Làm thế nào để hiểu đầy đủ, chính xác về HS và các yếu tố ảnh hưởng đến học
tập và phát triển nhân cách HS cũng còn đang là vấn để cần được nâng cao năng lực cho
GVCN.
- Tổ chức đội ngũ cán bộ tự quản và xây dựng tập thể học sinh lớp chủ
nhiệm.
Đội ngũ cán bộ lớp là những người trợ giúp đắc lực giúp GVCN thực hiện chức
năng của mình, nhưng họ không phải là công cụ, hay cánh tay nối dài của GVCN. Trong
thực tế đã có những GVCN sử dụng đội ngũ cán bộ lớp chưa thực sự đúng mục đích, nên
đã gây mâu thuẫn giữa đội ngũ tự quản với các HS khác trong lớp, đặt họ vào những tình
10
thế khó xử. Đội ngũ cán bộ lớp là những người được GVCN bồi dưỡng năng lực tổ chức
và quản lý tập thể lớp để đảm bảo sự thống nhất giữa quản lý của GVCN và tự quản của
HS.
Xây dựng tập thể HS phát triển và thân thiện vừa là mục đích vừa là phương tiện
để giáo dục nhân cách từng HS, đồng thời đưa tập thể đến trạng thái phát triển cao
hơn là nhiệm vụ của GVCN. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể bằng tập thể cần được

quán triệt trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nội dung, hoạt động giáo dục toàn diện
(hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chương trình, hoạt động sinh hoạt dưới
cờ, giờ sinh hoạt lớp, hoạt động tư vấn trong công tác hướng nghiệp, dạy nghề…)
- Liên kết với các lực lượng giáo dục trong và ngoài trường để đảm bảo sự thống
nhất trong giáo dục học sinh và tăng cường sức mạnh đồng bộ nhằm đem lại hiệu quả.
- Đánh giá kết quả giáo dục và học tập của HS lớp chủ nhiệm trong suốt quá trình
cũng như khi sơ kết, tổng kết năm học.
Cách nhìn nhận và đánh giá học sinh của đa số GVCN hiện nay vẫn theo nếp cũ,
đơn giản học sinh ngoan là phải biết nghe lời. Một số GVCN cũng chưa có ý thức
nâng cao năng lực chủ nhiệm của mình, nâng cao những hiểu biết về xã hội, hiểu biết
về thế hệ trẻ mà mình đang có trọng trách giáo dục.Từ đó dẫn đến những đánh giá về
học sinh còn chưa đầy đủ, phiến diện và thiếu khách quan.(Trích trong báo cáo hội
thảo về GVCN của GV trường THPT Hưng yên).[6]
- Quản lí, giám sát việc ghi chép, bảo quản các loại hồ sơ của HS theo quy định
của trường ( Sổ lên lớp hàng ngày, Sổ điểm lớp (Lý lịch trích ngang của học sinh, kiểm
diện, điểm số, hạnh kiểm,… ) Kế hoạch học tập của lớp theo học kỳ, năm học; Thời
khoá biểu lớp (diễn biến học tập của học kì và cả năm, phân công giảng dạy), sổ liên lạc,
học bạ (giám sát các giáo viên ghi sổ học bạ, GVCN viết nhận xét và xếp loại học lực,
hạnh kiểm,…)
5. Các yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm lớp hiện nay
5.1. Về đạo đức nghề nghiệp
Nếu như GV dạy các môn học quan tâm nhiều hơn đến kết quả nắm kiến thức
và khả năng vận dụng kiến thức đó thì người GVCN thực sự là nhà giáo dục, ảnh
hưởng của họ đến nhân cách HS đến hiệu quả giáo dục còn lớn hơn cả người Hiệu
trưởng. Chính vì vậy mức độ phát triển nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của người
GVCN rất quan trọng, tác động của nó đến kết quả giáo dục không thua kém gì năng
lực sư phạm, vì đặc thù của nghề này là nhân cách, đạo đức GV cũng trở thành
phương tiện giáo dục.
Những yêu cầu về nhân cách, đạo đức người GV, kể cả những điều cấm GV

không được vi phạm đã được đề cập ở nhiều văn bản pháp quy từ Luật cho đến những
văn bản dưới Luật.
11
Người GVCN tối thiểu cũng phải đảm bảo những yêu cầu về đạo đức, nhân
cách đã được quy định trong các văn bản này. Cụ thể là:
Điều 72. Nhiệm vụ của nhà giáo trong Luật giáo dục (2005) đã quy định[7]:
• Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và
có chất lượng chương trình giáo dục.
• Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều lệ
trường phổ thông.
• Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo…
• Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn, đổi mới phương pháp giáo dục …
Điều này cũng tương đương với Điều 31 về Nhiệm vụ của GV trung học
Điều 70 (về những tiêu chuẩn nhà giáo phải có), Điều 72 (về nhiệm vụ của nhà giáo),
Đặc biệt Điều 75 (về các hành vi nhà giáo không được làm) đã quy định:
Nhà giáo không được có các hành vi sau đây:
• Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm hại thân thể người học.
• Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện
của người học.
• Xuyên tạc nội dung giáo dục.
• Ép buộc HS học thêm để thu tiền.
Năm 2008 Bộ GD ĐT còn ban hành Quy định đạo đức nhà giáo[8], trong đó:
Điều 3. Phẩm chất chính trị
1. Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Không ngừng
học tập, rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị để vận dụng vào hoạt động giảng
dạy, giáo dục và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm sự điều động, phân công của tổ
chức, có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung.

3. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia các hoạt động
chính trị, xã hội.
Điều 4. Đạo đức nghề nghiệp
1. Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà giáo, có
tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và trong công
tác, có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hoà nhã với người học, đồng nghiệp,
sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng
nghiệp và cộng đồng.
2. Tận tụy với công việc, thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của đơn vị,
nhà trường, của ngành.
12
3. Công bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng lực của
người học, thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham nhũng, lãng phí.
4. Thực hiện phê bình và tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc, thường xuyên
học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục.
Điều 5. Lối sống, tác phong
1. Sống có lý tưởng, có mục đích, có ý chí vượt khó vươn lên, có tinh thần phấn
đấu liên tục với động cơ trong sáng và tư duy sáng tạo; thực hành cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
2. Có lối sống hoà nhập với cộng đồng, phù hợp với bản sắc dân tộc và thích ứng
với sự tiến bộ của xã hội, biết ủng hộ, khuyến khích những biểu hiện của lối sống văn
minh, tiến bộ và phê phán những biểu hiện của lối sống lạc hậu, ích kỷ.
3. Tác phong làm việc nhanh nhẹn, khẩn trương, khoa học, có thái độ văn minh,
lịch sự trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp với đồng nghiệp, với người học, giải quyết
công việc khách quan, tận tình, chu đáo.
4. Trang phục, trang sức khi thực hiện nhiệm vụ phải giản dị, gọn gàng, lịch sự,
phù hợp với nghề dạy học, không gây phản cảm và phân tán sự chú ý của người học.
5. Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ, đấu tranh, ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật và các quy định nghề nghiệp. Quan hệ, ứng xử

đúng mực, gần gũi với nhân dân, phụ huynh học sinh, đồng nghiệp và người học, kiên
quyết đấu tranh với các hành vi trái pháp luật.
6. Xây dựng gia đình văn hoá, thương yêu, quý trọng lẫn nhau, biết quan tâm đến
những người xung quanh, thực hiện nếp sống văn hoá nơi công cộng.
Điều 6. Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo
1. Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật, quy
chế, quy định, không gây khó khăn, phiền hà đối với người học và nhân dân.
2. Không gian lận, thiếu trung thực trong học tập, nghiên cứu khoa học và thực
hiện nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục.
3. Không trù dập, chèn ép và có thái độ thiên vị, phân biệt đối xử, thành kiến
người học; không tiếp tay, bao che cho những hành vi tiêu cực trong giảng dạy, học
tập, rèn luyện của người học và đồng nghiệp.
4. Không xâm phạm thân thể, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người học,
đồng nghiệp, người khác. Không làm ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt của đồng
nghiệp và người khác.
5. Không tổ chức dạy thêm, học thêm trái với quy định.
13
6. Không hút thuốc lá, uống rượu, bia trong công sở, trong trường học và nơi
không được phép hoặc khi thi hành nhiệm vụ giảng dạy và tham gia các hoạt động
giáo dục của nhà trường.
7. Không sử dụng điện thoại di động và làm việc riêng trong các cuộc họp, trong
khi lên lớp, học tập, coi thi, chấm thi.
8. Không gây bè phái, cục bộ địa phương, làm mất đoàn kết trong tập thể và
trong sinh hoạt tại cộng đồng.
9. Không được sử dụng bục giảng làm nơi tuyên truyền, phổ biến những nội dung
trái với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
10. Không trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ, tự ý bỏ việc, không đi
muộn về sớm, bỏ giờ, bỏ buổi dạy, cắt xén, dồn ép chương trình, vi phạm quy chế
chuyên môn làm ảnh hưởng đến kỷ cương, nề nếp của nhà trường.
11. Không tổ chức, tham gia các hoạt động liên quan đến tệ nạn xã hội như: cờ

bạc, mại dâm, ma tuý, mê tín, dị đoan, không sử dụng, lưu giữ, truyền bá văn hoá
phẩm đồi trụy, độc hại.
5.2. GVCN cần quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu, nguyên lí giáo dục của Đảng,
Nhà nước, đồng thời phải nắm vững quy chế, điều lệ nhà trường phổ thông, mục tiêu giáo
dục của bậc học, của khối lớp về kế hoạch, chương trình hoạt động của nhà trường trong
năm học và mỗi học kì để vận dụng vào việc tổ chức hoạt động giáo dục HS. Ngoài ra,
GVCN còn phải tính đến các hoạt động văn hóa, chính trị, xã hội của địa phương trong
từng năm học để phối hợp tổ chức các hoạt động lôi cuốn HS tham gia nhằm giáo dục HS,
cũng như góp phần phát triển cộng đồng.
5.3. Thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm để xây dựng hồ sơ học
sinh và lập kế hoạch phát triển tập thể. GVCN cần tìm hiểu đặc điểm cá nhân, đặc điểm
phát triển trí tuệ, xã hội, xúc cảm- tình cảm và thể chất của học sinh, hoàn cảnh học sinh
lớp mình phụ trách để hiểu rõ đặc điểm chung về tập thể lớp chủ nhiệm cũng như những
đặc điểm riêng, nhu cầu của từng cá nhân HS. Trên cơ sở đó tìm ra những cách tiếp cận,
để thiết kế nội dung và chiến lược giáo dục, phương pháp tác động phù hợp, cũng như
khuyến khích kỉ luật tích cực và ý thức tự giáo dục ở mỗi HS. Đây là một trong những
biểu hiện của quan điểm trong giáo dục “Hướng vào học sinh” hay là “ Học sinh là
trung tâm”
Để làm được việc này có hiệu quả, GVCN cần có kĩ năng sử dụng các phương
pháp thu thập và xử lí thông tin đa dạng đảm bảo tính khách quan. Chính vì vậy Chuẩn
nghề nghiệp GVTrH đã yêu cầu GV phải có năng lực tìm hiểu đối tượng, có phương
pháp thu thập và xử lí thông tin thường xuyên về nhu cầu và đặc điểm của học sinh, sử
dụng các thông tin thu được vào dạy học, giáo dục(Tiêu chí 6.).
Thông qua tìm hiểu thực trạng hoạt động nghề nghiệp của GV chủ nhiệm lớp ở
trường THPT cho thấy: cách thức điều tra phổ biến là: ở khối đầu cấp (khối 10),
GVCN thường xem lại học bạ của các học sinh ở lớp dưới , xem lại điểm tuyển sinh có
14
trong hồ sơ học sinh. Ở các lớp trên ( lớp 11,12) GVCN tìm hiểu kết quả học tập và
rèn luyện của học sinh lớp dưới qua trao đổi với GVCN lớp cũ. Ngoài ra, GVCN còn
tìm hiểu học sinh thông qua phần tự khai của các em. GVCN đến tận nhà, tiếp xúc với

cha mẹ học sinh để tìm hiểu về các em, nhìn chung hiện nay ít được sử dụng [2]. Vì
vậy, GVCN cần được hướng dẫn phương pháp thu thập thông tin về HS và hoàn cảnh
gia đình một cách đầy đủ, khách quan, chính xác.
5.4. Với chức năng quản lí, GVCN phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch
giáo dục ngắn hạn khác để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục, các chủ
trương, nhiệm vụ nhà trường giao cho. Đây là nhiệm vụ trung tâm của GV chủ nhiệm lớp
nhằm tổ chức có hiệu quả các hoạt động GD học sinh lớp chủ nhiệm. Lâu nay việc lập kế
hoạch còn mang tính hình thức, bây giờ GVCN cần có kĩ năng lập kế hoạch khoa học hơn,
trong đó các thành tố mục tiêu, nội dung, nguồn lực, biện pháp, thời gian thực hiện,
kết quả dự kiến được xác định tường minh, cụ thể, đảm bảo tính khả thi. Sau đó là chỉ
đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch và giám sát, đánh giá việc thực hiện những kế hoạch
này. Chuẩn nghề nghiệp GVTrH yêu cầu “Kế hoạch các hoạt động giáo dục được xây
dựng thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù
hợp với đặc điểm học sinh, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế, thể hiện khả
năng hợp tác, cộng tác với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường” ( Tiêu
chí 16). Chính vì vậy GVCN phải có năng lực tìm hiểu môi trường giáo dục để tính
đến vừa như là điều kiện, nội dung tổ chức giáo dục ngay từ khi lập kế hoạch chủ
nhiệm ” Có phương pháp thu thập và xử lí thông tin về điều kiện giáo dục trong nhà
trường và tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương, sử dụng các
thông tin thu được vào dạy học, giáo dục” (Tiêu chí 7. Chuẩn nghề nghiệp GVTrH).
Tìm hiểu thực trạng hoạt động nghề nghiệp của GVCN cho thấy: Phần lớn GV
chưa nhận thức được ý nghĩa của việc lập kế hoạch, nên đã làm một cách hình thức,
thậm chí chép lại của nhau những kế hoạch chung (năm,học kì), kể cả kế hoạch tháng
[2].
5.5. Xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Đây là chức năng đặc trưng và cũng là
yêu cầu đối với GVCN mà các giáo viên bộ môn không thể thay thế. Để giáo dục và
phát triển toàn diện từng HS, GVCN tất yếu phải xây dựng và phát triển tập thể lớp.
Nhiệm vụ của người GVCN đưa tập thể lớp từ trạng thái này đến trạng thái phát triển
cao hơn.Tập thể phát triển là tập thể ở giai đoạn có tính tự quản cao, có dư luận tập thể
lành mạnh, các mối quan hệ trong tập thể gắn bó và mang tính nhân văn. Tập thể phát

triển cũng đồng thời là môi trường học tập thân thiện, chứa đựng văn hóa của mình.
Trong chiều sâu văn hóa của tập thể là những giá trị, hệ thống các chuẩn mực và niềm
tin của HS. Biểu hiện bên ngoài của văn hóa tập thể là các chuẩn mực hành vi, truyền
thống, thói quen được tập thể chấp nhận làm nên bộ mặt riêng của lớp học có tác động
giáo dục và phát triển từng nhân cách HS.Đó chính là văn hóa học đường. Môi trường
học tập thân thiện là môi trường mà HS được quan tâm mọi mặt, được đảm bảo an
15
toàn, môi trường học tập chất lượng tốt,giúp HS phát huy hết tiềm năng… Trong
chuẩn nghề nghiệp GV đã yêu cầu GV “Tạo dựng môi trường học tập: dân chủ, thân
thiện, hợp tác, cộng tác, thuận lợi, an toàn và lành mạnh”. (Tiêu chí 13). Trong tập thể
như vậy, GVCN giáo dục động cơ học tập, giá trị, hành vi tích cực, lành mạnh cho HS
thuận lợi hơn. Sứ mạng của người GV trong thế kỉ XXI là phải biết khơi dậy nhu cầu
học hỏi và tự hoàn thiện của HS.
Thông qua tìm hiểu thực trạng hoạt động nghề nghiệp của GV chủ nhiệm lớp ở
trường THPT cũng cho thấy: GV quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lớp để thực hiện
nhiệm vụ tự quảnnhưng lại chưa quan tâm đến việc xây dựng dư luận tập thể lành
mạnh.Vì vậy, đa số cán bộ lớp bị áp lực giữa một bên là GV và một bên là sự không
đồng thuận của đa số HS trong lớp[6]. Cần phải giúp GVCN nhận thức được sự thống
nhất giữa xây dựng tập thể phát triển với văn hóa tổ chức của nó và xây dựng môi
trường học tập thân thiện cũng như biết cách triển khai nhiệm vụ này trong thực tiễn.
5.6. Tổ chức các hoạt động giáo dục và các hình thức giao lưu đa dạng. Bên cạnh
việc sử dụng hệ thống các mối quan hệ và các giá trị, truyền thống trong tập thể để
giáo dục HS, GVCN còn phải tổ chức giờ sinh hoạt lớp, hoạt động GD ngoài giờ lên
lớp theo chủ đề và các loại hình hoạt động GD đa dạng khác phù hợp với mục tiêu
giáo dục của hoạt động (mục tiêu trội mà hoạt động đó có ưu thế và mục tiêu giáo dục
toàn diện mà hoạt động đó có tiềm năng). Đây là một nhiệm vụ cơ bản của
GVCN.Thông qua tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, đa dạng để giáo dục
hành vi, thói quen ứng xử văn hóa cho HS về các mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ, lao động…đồng thời, qua đó phát triển tập thể lớp và từng HS. Tiêu chí 18 trong
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên TrH yêu cầu GV “Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua các

hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng” và “Thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua
các hoạt động trong cộng đồng như: lao động công ích, hoạt động xã hội theo kế
hoạch đã xây dựng” (Tiêu chí 19). Trong xã hội hiện đại, GVCN rất cần chú trọng
giáo dục những giá trị sống và kĩ năng sống (KNS) cho HS để các em có thể tránh
được những rủi ro, vượt qua những thách thức trong cuộc sống. Cần phối hợp tổ chức
các chủ đề giáo dục những KNS phù hợp với từng lứa tuổi, vùng miền và giáo dục
KNS theo tiếp cận Bốn trụ cột trong giáo dục thế kỉ XXI “ Học để biết, Học để làm,
Học để tự khẳng định mình, Học để chung sống với mọi người”
Trên thực tế, đa số GV chủ nhiệm không thực hiện đầy đủ và thực hiện một cách hình
thức các chủ đề hoạt động ngoài giờ lên lớp.
5.7. Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong lớp
Sự bất hòa và những xung đột nảy sinh là điều khó tránh trong các mối quan hệ
giữa các thành viên của tập thể. Thực tiễn bạo lực học sinh trong nhà trường hiện nay
đang làm mọi người đều bức xúc và để lại hậu quả nặng nề về tâm lí, tinh thần học sinh.
Do đó GVCN cần lưu tâm ngăn ngừa và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn có thể
trong tập thể lớp chủ nhiệm. Một tập thể phát triển có văn hóa tổ chức, là môi trường
16
học tập thân thiện thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết trên nền của sự thiện chí, tôn trọng,
thừa nhận lẫn nhau .
5.8. Đánh giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của HS về các mặt giáo dục.
Quy chế đánh giá xếp loại học sinh THCS và THPT ban hành theo Quyết định số
40/2006/ QĐ-BGDDT ngày 05 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT) quy
định một số việc phải làm cụ thể của GVCN về đánh giá kết quả học tập và đạo đức
của HS để xếp loại mang tính quản lí hành chính. Theo quan điểm đánh giá để phát
triển HS, người GVCN hiện nay cần thường xuyên thu thập và xử lí thông tin để khích
lệ HS vươn lên, hoặc điều chỉnh kịp thời những hành vi không mong đợi của các em.
Ngoài yêu cầu đánh giá khách quan, công bằng, đánh giá HS còn cần hướng đến làm
tăng lòng tự tin, muốn tự hoàn thiện của các em. GVCN cần nhìn HS theo quan điểm
động và phát triển. Quan trọng nhất là GVCN cần phân biệt giữa đánh giá hành vi và
đánh giá nhân cách HS, tránh từ hành vi không mong đợi đơn lẻ của HS quy kết thành

đặc điểm nhân cách. Chuẩn nghề nghiệp GVTrH đã yêu cầu “Đánh giá kết quả rèn
luyện đạo đức của học sinh một cách chính xác, khách quan, công bằng và có tác
dụng thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của học sinh” (Tiêu chí 21).
Qua khảo sát cho thấy:Đa số GVCN chưa đi vào chiều sâu đánh giá HS, mục đích của
đánh giá chỉ nhằm xếp loại, chưa quan tâm tư vấn cho HS những điểm mạnh, điểm
chưa hoàn thiện để HS tiếp tục phấn đấu, tu dưỡng tiếp theo
5.9. Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường xây dựng môi
trường giáo dục, tổ chức giáo dục và đánh giá học sinh. GVCN thường xuyên cần kết
hợp với GV bộ môn để giáo dục HS và tổ chức hoạt động tự học nhằm không ngừng
nâng cao chất lượng học tập cho HS lớp mình.GVCN cũng phải phối hợp với tổ chức
Đoàn, các tổ chức xã hội khác để GD đạo đức, nề nếp, lối sống cho học sinh; tổ chức
và đưa HS vào hoạt động xã hội.Đặc biệt, GVCN cần phối hợp với cha mẹ HS để xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, dựa trên tình cảm, quan hệ huyết thống, tác
động giáo dục đến con, em theo mục tiêu giáo dục, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện
của HS. Quy chế đánh giá xếp loại học sinh THCS và THPT ban hành theo Quyết định
số 40/2006/ QĐ-BGDDT ngày 05 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT)
cũng quy định trách nhiệm GVCN phải “Phối hợp với Đội Thiếu niên tiền phong Hồ
Chí Minh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Ban Đại diện cha mẹ học sinh
của lớp để tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh” ( Điều 19), đồng thờiChuẩn nghề
nghiệp GVTrH cũng yêu cầu GV “Phối hợp với gia đình và cộng đồng trong hỗ trợ,
giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh và góp phần huy động
các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường” (Tiêu chí 22). GVCN phối hợp
với các lực lượng xã hội để xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và tổ chức các
hoạt động giáo dục HS.
17
Qua điều tra cho thấy: GVCNphối hợp nhiều nhất với cán bộ Đoàn trường, sau đó là
với cha mẹ HS để thông báo về tình hình học tập, hạnh kiểm của học sinh.Đôi khi
GVCN có phối hợp với GV môn học và Ban đại diện cha mẹ HS…
Theo Điều lệ nhà trường GV chủ nhiệm có quyền dự các giờ học, hoạt động giáo
dục khác của học sinh lớp, trên thực tế GVCN chưa thực hiện quyền này để hiểu và

phối hợp với các GV khác giáo dục, phát triển tập thể lớp chủ nhiệm.
5.10. Cập nhật hồ sơ công tác giáo viên chủ nhiệm và hồ sơ học sinhbằng công nghệ
thông tin. Bộ GD-ĐT cũng quy định về hồ sơ học sinh, sinh viên và ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ học sinh, sinh viên (Ban hành kèm theo Quyết
định số 58/2007/QĐ-BGDĐT ngày 12 tháng 10 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo). Việc tổ chức ứng dụng và khai thác công nghệ thông tin trong công
tác quản lí học sinh, sinh viên ở các trường là một trong những tiêu chuẩn xét thi đua
năm học đối với các cơ sở giáo dục.
Một mặt, việc cập nhật hồ sơ công tác giáo viên chủ nhiệm và hồ sơ học sinh
không chỉ là thực hiện yêu cầu từ góc độ quản lí hành chính, mặt khác cập nhật hồ sơ
học sinhđể theo dõi sự phát triển của các em và khi cần thiết có thể kịp thời can thiệp
điều chỉnh. Trong xã hội hiện đại HS gặp nhiều thách thức về tâm lí, tinh thần, trong
khi trong nhà trường nhìn chung chưa có đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng tâm lí
học đường, nên GVCN cần phải thực hiện chức năng tư vấn/ thậm chí là tham vấn để
HS tự giải quyết vấn đề bằng chính nội lực của mình.
6. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN trong trường phổ thông ở một số nước[9].
6.1. Chức năng, nhiệm vụ của GVCN trong hệ thống giáo dục của Nhật và Trung quốc
có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam và khá nặng.Chức năng, nhiệm vụ của
GVCN đều có liên quan đến tổ chức, quản lý lớp học và chịu trách nhiệm về quá trình
giáo dục toàn diện HS. Một số chức năng, nhiệm vụ chính của GVCN là:
- Lãnh đạo, tổ chức, quản lý lớp chủ nhiệm theo các quy định của nhà nước và nhà
trường.
- Hướng dẫn, trợ giúp HS về mọi mặt trong học tập và đời sống tinh thần, các mối
quan hệ xã hội
- Giáo dục tư tưởng, đạo đức, kỉ luật cho HS.
- Thực hiện các chức năng tư vấn tâm lí, tình cảm nghề nghiệp cho HS.
- Trợ giúp BGH nhà trường trong việc thực hiện kế hoach giảng dạy và các chính
sách, biện pháp giáo dục.
- Cùng chia sẻ trách nhiệm giáo dục HS với cha mẹ HS.
Ở Nhật Bản, GVCN còn có trách nhiệm với HS trong thời gian các em không ở

trong trường, nếu HS có vấn đề gì như tai nạn, hoặc liên quan đến pháp luật, cảnh sát
không chỉ liên hệ với gia đình mà còn báo cho cả GVCN.
6.2. Còn ở các nước như Mỹ, Úc, GVCN hướng dẫn HS có thể nhận được sự trợ
giúp, hướng dẫn từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ duy nhất là GVCN nên công tác
chủ nhiệm lớp đỡ phức tạp, nhưng GVCN chủ động và linh hoạt hơn. Hơn nữa sĩ số
18
HS trong lớp ở các nước này ít (không quá 25 HS) nên GVCN có điều kiện tiếp cận cá
nhân và hiểu HS thuận lợi hơn.
Ở Úc GVCN cần quan tâm đảm bảo môi trường an toàn, thuận lợi cho HS học tập,
đồng thời GVCN phải lập hồ sơ cá nhân của từng HS để theo dõi quá trình phát triển,
tiến bộ của từng em. Ở cả Úc và Mỹ, GVCN cần phát hiện kịp thời những vấn đề, khó
khăn của HS và phối hợp với chuyên gia tư vấn, cán bộ xã hội, các đơn vị trợ giúp
khác để chăm sóc sức khỏe tinh thần cho HS. Do được chia sẻ trách nhiệm nên GVCN
ở các nước này thường tập trung vào giám sát, quản lý lớp học, hỗ trợ chung cho các
hoạt động học tập chính khóa và ngoại khóa của HS.
19
20
21
22
23
24

×