Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đánh giá hoạt động xúc tiến hỗn hợp của s-fone trong năm 2004 tại Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.8 KB, 28 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đánh giá hoạt động xúc tiến hỗn hợp
của s-fone trong năm 2004 tại hà nội.
Giáo viên hớng dẫn: TH.S Phạm Hồng Hoa.
Sinh viên thực hiện: Lều Thị Giáng Hơng.
Lơp: Marketing 44B.
Lời mở đầu.
Để nhận định về thị trờng mạng điện thoại di động của Việt Nam trong
năm 2004, hầu hết các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Bu chính Viễn
thông và công nghệ thông tin của Việt Nam đều đa ra một nhận xét chung :
Thị trờng di động Việt Nam năm 2004: phát triển rất ấn tợng. Theo con số điều
tra của hãng nghiên cứu GFK (Đức ) thì thị trờng di động Vịêt Nam đã đạt đợc
con số tăng trởng hết sức ấn tợng là 50% - đứng thứ 5 trên thế giới ( chỉ sau các
nớc ).Nếu nhìn lại thị tr ờng di động trong năm qua, ta có thể thấy rằng nhận
định đó là hoàn toàn có cơ sở.Cách đây hơn một năm, số lợng thuê bao điện
thoại di động tính trong cả nớc mới chỉ dừng lại ở con số kiêm tốn hơn 3 triệu
với sự độc quyền trong việc cung cấp dịch vụ mạng di động của VNPT thông
qua hai đại gia Vinaphone và Mobile phone. Thế mà cho đến cuối năm 2004,
đầu năm 2005 , con số thống kê đã lên tới 5 triệu thuê bao - riêng VNPT đã có
khoảng 4,5 triệu thuê bao trong đó Vinaphone chiếm khoảng 2,8 triệu thuê bao-
và sự ra đời của hàng loạt các nhà cung cấp dịch vụ mạng di động mới nh:
Sfone, Viettel. Để có đợc những kết quả thần kỳ này, công chính một phần có lẽ
sẽ thuộc về Sfone- nhà cung cấp mạng di động thứ hai tại Việt Nam. Sự ra đời
của mạng điện thoại Sfone năm 2003 đã chính thức phá vỡ đi vị trí độc tôn trong
bao năm qua của VNPT, đợc ví nh làn gió mới, đòn bẩy đánh dấu sự cạnh
tranh thật sự trong ngành Viễn thông Việt Nam .
Ra đời và chính thức đi vào hoạt động ngày 1/7/2003, mạng điện thoại di
động CDMA đầu tiên tai Việt Nam với thơng hiệu là Sfone là sự liên doanh giũa
công ty Công ty cổ phần dịch vụ Bu chính viễn thông Sài Gòn ( SPT) và công ty
SLD Telecom ( nớc ngoài) . Là nhà cung cấp dịch vụ đến sau phải chịu nhiều
thách thức, Sfone một mặt phải tập trung mọi nỗ lực kinh doanh của mình vào


việc xâm nhập vào thị trờng di động Việt Nam thực chất mới chỉ bớc vào giai
đoạn đầu của thời kỳ phát triển, còn nhiều khó khăn; mặt khác lại phải không
ngừng đấu tranh phá vỡ thế độc quyền và sự cạnh tranh gay gắt của ngời khổng
lồ VNPT . Để có thể kinh doanh có hiệu quả và đạt đợc những mục tiêu mà
mình đã đề ra, trong năm 2004 vừa qua nhà cung cấp mạng điện thoại CDMA-
Sfone đã tiến hành hàng loạt các hoạt động xúc tiến hỗn hợp với quy mô lớn,
triệt để đạt đợc nhiều thành công. Và qua đó tôi muốn qua việc phân tích các
2
hoạt động này để rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc sử dụng các công
cụ xúc tiến hỗn hợp để làm tăng thị phần của doanh nghiệp.
Do công ty STelecom-nhà cung cấp mạng điện thoại di động Sfone trong
năm 2004 qua đã tiến hành rất nhiều các họat động xúc tién hỗn hợp khác nhạu
trên phạm vi toàn quốc nên để đảm bảo tính chính xác về thông tin cũng nh có
thể phân tích các hoạt đó một cách cụ thể và sâu sắc, Phạm vi nghiên cứu của đề
tài này sẽ chỉ nghiên cứu và đánh giá các hoạt động xúc tiến hỗn hợp mà Nhà
cung cấp mạng điện thoại di động CDMA -Sfone đã tiến hành trong khoảng thời
gian từ đầu năm 2004 cho tới đầu năm 2005 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Cũng giống nh tên của bản đề án này, mục tiêu đầu tiên của đề án là phân
tích và đánh giá các hoạt động xúc tiến hỗn hợp mà nhà cung cấp mạng điện
thoại di động Sfone đã tiến hành thực hiện tại Thành phố Hà Nội trong năm
2004 đầu năm 2005 để từ đó có thể rút ra kết luận về các hoạt động xúc tiến đó
có thành công hay không, đạt đợc những kết quả gì, những u điểm gì cần tiếp
tục phát huy khai thác, những mặt hạn chế nào cần khắc phục, rút kinh nghiẹm.
So sánh các hoạt động xúc tiến hỗn hợp của Sfone với các đối thủ cạnh
tranh khác để từ đó có cái nhìn cụ thể và chính xác hơn về chính mạng điện
thoại Sfone và các đối thủ , có cái nhìn tổng quan chính xác về sự bùng nổ cạnh
tranh trong thị trờng Bu chính viễn thông Việt Nam
Đa ra một vài giải pháp và phơng hớng về các hành động cụ thể của các
hoạt động xúc tiẽn hỗn hợp của Sfone trong năm 2005.
Em xin chân thành cám ơn Th.s Phạm Hồng Hoa, giảmg viên đã hớng

dẫn em thực hiện đợc bài viết này.
I. Khái quát về hoạt động xúc tiến hỗn hợp
trong Marketing.
3
1. Xúc tiến hỗn hợp và vai trò của nó đối với hoạt động marketing của
mỗi doanh nghiệp.
Ngày nay hoạt động marketing hiện đại rất quan tâm đến các chiến lợc
xúc tiến hỗn hợp . Đây là một trong bốn nhóm công cụ chủ yếu của Marketing-
Mix ( bao gồm sản phẩm, giá, phân phối và xúc tiến hỗn hợp) mà doanh nghiệp
có thể sử dụng để tác động vào thị trờng mục tiêu nhằm đạt đợc mục tiêu kinh
doanh mà mình đã đề ra. Bản chất của các hoạt động xúc tiến chính là sự truyền
tin về sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp tới khách hàng để thuyết phục họ
mua. Vì vậy có thể gọi đây là các hoạt động truyền thông marketing. Marketing
hiện đại ngày càng đòi hỏi nhiều thứ hơn, chứ không chỉ phát triển sản phẩm,
định giá sao cho có sức hấp dẫn, và tạo điều kiện cho khách hàng mục tiêu có
thể tiếp cận đợc với nó. Các công ty cũng phải thông tin cho khách hàng hiện có
và tiềm ẩn. Mỗi công ty chắc chắn sẽ phải đóng vai trò ngời truyền tin và ngời
khuyến mãi. Tuy nhiên nội dung truyền thông không thể là tuỳ tiện. Đối với hầu
hết các công ty vấn đề không phải là có nên thông tin hay không mà là cần nói
gì, nói cho ai và thờng xuyên đến mức độ nào.
Hoạt động xúc tiến hỗn hợp với các công cụ phổ biến của nó có vai trò hết sức
quan trọng trong chiến lợc marketing của doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh
nghiệp có thể giới thiệu và khuyếch chơng, tạo dựng lòng tin trong tâm chí
khách hàng về chất lợng sản phẩm, dịch vụ mà họ cung cấp cũng nh danh tiếng
và hình ảnh của công ty. Nó giúp cho khách hàng nhận biết đợc giá trị của sản
phẩm, khuyến khích và kich thích tiêu dùng bằng những lời mời mọc và hứa hẹn
về những giá trị gia tăng mà ngòi tiêu dùng sẽ nhận đợc. Từ đó đẩy nhanh lợng
tiêu thụ, mở rộng thị phần giúp doanh nghiệp đạt đợc những mục tiêu mà mình
đã đề ra.
2. Các công cụ xúc tiến hỗn hợp phổ biến.

Những doanh nghiệp kinh doanh hiện đại thờng tổ chức điều hành một hệ
thống xúc tiến hỗn hợp phức tạp với một số dạng chủ yếu thờng đợc sử dụng
trong các chiến lợc xúc tiến là :
- Quảng cáo: bao gồm mọi hình thức giới thiệu một cách gián tiếp và khuyếch
trơng các ý tởng, hàng hoá hoặc dịch vụ đợc thực hiện theo yêu cầu của chủ
4
thể quảng cáo và chủ thể phải thanh toán mọi chi phí để thực hiện. Quảng
cáo là một kiểu truyền thông có tính đại chúng, mang tính xã hội cao. Nó
yêu cầu hàng hoá phải hợp pháp và đợc mọi ngời chấp nhận. Quảng cáo là
một phơng tiện có khả năng thuyết phục, tạo cơ hội cho ngời nhận tin so
sánh thông tin với đối thủ cạnh tranh làm tăng thêm sức thuyết phục đối với
khách hàng mục tiêu.
Với ngôn ngữ quảng cáo phong phú , đa dạng, phơng tiện quảng cáo
phổ cập và tiện kợi, quảng cáo mở râ khả năng giới thiệu hàng hoá của
doanh nghiệp, dịch vụ bán cũng nh uy tín thế lực của doanh nghiệp một cách
hiệu quả, trực diện. Tuy nhiên quảng cáo chỉ là hình thức thông tin trao đổi
môt chiều: truyền tin về doanh nghiệp, hàng hoá và sản phẩm của doanh
nghiệp tới khách hàng mà thôi
- Bán hàng trực tiếp: là hình thức giao tiếp trực tiếp với khách hàng triển vọng
với muạc đích bán đợc hàng. Nó là một công cụ hiệu quả nhất ở những giai
đoạn hình thành sự a thích và niềm tin của ngời mua và giai đoạn ra quyết
định mua trong quá trình mua hàng. Bán hàng cá nhân đòi hỏi có sự giao tiếp
qua lại giữa hai hay nhiều ngời. Hai bên giao tiếp có thể nghiên cứu trực tiếp
những nhu cầu vầ đặc điểm của nhau, đồng thời có sự linh hoạt trong giao
tiếp cho phù hợp. Bán hàng trực tiếp hình thành nhiều mối quan thệ phong
phú, đa dạng. Từ quan hệ mua bán thông thờng đến quan hệ thân mật, thuỷ
chung gần gũi giữa doanh nghiệp và khách hàng mà cách doanh nghiệp phải
thiết lập theo quan điểm Marketing. Việc bán hàng trực tiếp khuyến khích
ngời mua có những phản ứng đáp lại, thể hiện thông rtin phản hồi cho ngời
bán vì ngời bán trực tiếp giao dịch, đã hình thành cơ chế thuận lợi, riêng biệt

để ngời mua cung cấp thông tin ngợc chiều và có phản ứng đáp lại.
- Khuyến mãi ( kích thích tiêu thụ ): là những hình thức thởng trong thời gian
ngắn để khuyến kích dùng thử hay mua một sản phẩm hay dịch vụ. Xúc tiến
bán có sử dụng nhiều phơng tiện tác động trực tiếp, tạo ra lợi ích vật chất bổ
sung cho khách hàng nh phiếu mua hàng, các cuộc thi, sổ xố, trò vui có th-
ởng , quà tặng .. Chúng thu hút sự chú ý và th ờng xuyên cung cấp thông tin
để dẫn khách hàng tới sử dụng thử sản phẩm. Chúng khuyến khích việc mua
hàng nhờ đa ra những lợi ích phụ thêm do mua hàng hoá của doanh nghiệp.
5
Doanh nghiệp sử dụng các biện pháp kích thích tiêu thụ để có đợc phản ứng
đáp lại của ngời mua sớm hơn. Tuy nhiên các hoạt động này chỉ phát huy
tác dụng trong một thời gian ngắn và nếu sử dụng không cẩn thận có thể
phản tác dụng.
- Marketing trực tiếp: là việc sử dụng th, điện thoại và những công cụ gián
tiếp khác để thông tin cho những khách hàng hiện có và khách hàng tiềm
năng hay yêu cầu họ có phản ứng đáp lại. Trong những năm gần đây
marketing đã phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức khách nhau nh
marketing bằng catalog, marketing bằng th trực tiếp, marketing qua điện
thoại, marketing đáp ứng trực tiếp trên truyền hính, truyền thanh, trên báo
chí hoặc mua hàng điện tử Sự phát triển của nó trên thị tr ờng ngời tiêu
dùng chủ yếu là để đáp ứng xu hóng chia nhỏ thị trờng vì ngày càng có nhiều
mẫu thị trờng với những nhu cầu và sở thích hết sức cá biệt. Marketing trực
tiếp mang lại cho khách hàng một số lợi ích. Nó sẽ giúp cho khách hàng tiết
kiệm dợc thời gian, đơn giản thuận tiện , không có sự phiền phức. Đồng thời
marketing trực tiếp cũng mang lại một số lợi thế cho ngời bán. Nó cho phép
lọc khách hàng triển vọng kỹ hơn, những tài liệu marketing trực tiếp có số
ngời đọc nhiều hơn vì nó đợc đa đến cho những khách hàng quan tâm đến
nó, cho phép thử nghiệm những phơng án phơng tiện truỳên thông và thôn
điệp để tìm kiếm phơng thức chi phí hiệu quả cao nhất. Cuối cùng ngời làm
marketing trực tiếp sẽ biết đợc các chiến dịch có sinh lợi hay không qua việc

định lợng phản ứng đáp lại.
- Quan hệ công chúng: là các chơng trình khác nhau đợc thiết kế nhằm đề cao
hay bảo vệ hình ảnh của một công ty hay những sản phẩm cụ thể của nó.
Quan hệ công chúng ngày càng trở thành công cụ quan trọng và đắc lực bởi
vì công ty không những phải có quan hệ tót với khách hàng , ngời cung ứng
và các đại lý của mình mà còn phải có quan hệ với đông đảo công chúng
quan tâm. Công chúng có thể gây trở ngại hay tạo thuận lợi cho khả năng
công ty đạt đợc những mục tiêu của mình. Một công ty khôn ngoan phải có
những biện pháp cụ thể để giải quyết tốt các quan hệ với công chúng then
chốt. Các công cụ chủ yếu trong marrketing quan hệ với công chúng thờng
thực hiện là xuất bản phẩm, tổ chức các sự kiện, đa tin tức, bài nói chuyện,
6
các hoạt động công ích . nhằm tạo ra sự biết đến hay thu hút sự chú ý đến
sản phẩm, tổ chức, tạo dựng tín nhiệm, kích thích lực lợng bán hàng hay đại
lý , đồng thời lại giảm bớt đợc chi phí khuýên mãi.
Trên đây là năm công cụ xúc tiến hỗn hợp thờng đợc sử dụng nhiều nhất.
Trên thực tế Doanh nghiệp có thể lựa chọn chỉ sử dụng những công cụ xúc tiến
phù hợp và đợc đánh giá là có hiệu quả nhất đối với mục tiêu kinh doanh của
mình. Việc lựa chọn các công cụ này còn phụ thuộc vào kiểu loại thị trờng mà
doanh nhiệp tham gia kinh doanh, chiến lợc kéo hay đẩy, các giai đoạn sống của
chu kỳ sản phẩm . Doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ này độc lập hay
kết hợp với nhau. Khi sử dụng cần phối hợp một cách linh hoạt và sáng tạo sao
cho phù hợp với thực tế thị trờng.

II.Thị trờng điện thoại di động Hà nội- việt nam.
1. Khái quát chung về thị trờng mạng điện thoại di động Việt Nam- Hà
Nội.
Thị trờng mạng điện thoại di động Viêt Nam- Hà Nội là một thị trờng còn rất
non trẻ và đầy tiềm năng với gần mời năm phát triển. Phát súng đầu tiên khai
phá thị trờng này là sự ra đời của mạng điện thoại di động MobFone ( với

mạng 090) năm 1994 và sau đó là mạng điện thoại Vinaphone năm 1996( với
mạng 091). Trong đó cả hai mạng này đều thuộc sự quản lý của Tổng công ty
Bu chính và Viễn thông Việt Nam(VNPT ), đợc ví nh hai anh em trong cùng
một mái nhà, bắt tay cùng chia nhau miếng bánh là toàn bộ thị phần mạng di
động Việt Nam. Mobi và Vinaphone hiện đang sử dụng hệ thống thông tin di
động toàn cầu GMS dựa trên công nghệ TDMA hiện đang đợc sử dụng chủ
yếu ở các nớc châu Mỹ latinh, Canada, Đông á Cho tới thời điểm này mạng
di động Vinaphone đang là nhà cung cấp dịch vụ mạng di động lớn nhất tại
Việt Nam với 2,8 triệu thuê bao và Mobi phone đứng thứ hai với 1,7 triệu thuê
bao. Đặc biệt là lợi thế trong việc đợc nhà nớc giao quản lý đờng trục viễn
thông quốc gia. Không có doanh nghiệp nào khi nhảy vào thị trờng viễn thông
lại không phải đấu nối qua đờng trục quốc gia do VNPT quản lý. Và nh thế,
tuy không ai quy định song nghiễm nhiên VNPT đợc quyền làm khó tất cả
7
các doanh nghiệp khi tham gia thị trờng viễn thông. Thị trờng mạng di động
khi đó là hầu nh không có cạnh tranh.
Do nhu cầu từ sự phát triển kinh tế ngày một cao và nhu cầu sử dụng điện
thoại di động trong ngời dân gia tăng nên thị trờng di động Việt Nam đã có
những bớc tăng trởng nhất định song vẫn còn ở tốc độ thấp, giá cớc dịch vụ
cao so với thế giới và có rất ít các dịch vụ giá trị gia tăng cho khách hàng.
Ngày 1/7/2003 mạng điện thoại di động Sfone chính thức đi vào hoạt
động, xoá bỏ sự độc quyền trong kinh doanh mạng di động của VNPT. Sfone
là tên thơng hiệu của dịch vụ mạng điện thoại di động CDMA do Trung tâm
điện thoại di động CDMA mang tên STelecom cung cấp với mã đầu là 095. Sự
ra đời của mạng điện thoại Sfone khi đó là một sự kiện có ý nghĩa đột phá đối
với thị trờng viễn thông Việt Nam, đánh dấu thời kỳ phát triển mạnh mẽ và tạo
ra nhiều sự lựa chọn cho ngời tiêu dùng Việt Nam. Sau hơn một năm giỡi đi
vào hoạt động, hiện nay Sfone đang có gần 180 nghìn thuê bao và trở thành
nhà cung cấp dịch vụ lớn thứ t tại Việt Nam.
Nhà cung cấp dịch vụ mạng di động chính thức đi vào hoạt động gần

đây nhất tại Vịêt Nam là Viettel, ngày 15/10/2004. Viettel Mobile là mạng
điện thoại di động của Công ty Viễn thông Quân đội, sử dụng công nghệ GMS
có vùng phủ sóng trên toàn quốc, đi thẳng vào công nghệ 2,5G. Sự ra đời của
mạng Viettel đã khuấy động và tạo nên sự cạnh tranh thật sự quyết liệt giữa
các nhà khai thác dịch vụ thông tin di động Việt Nam. Chỉ sau hơn ba tháng
chính thức triển khai dịch vụ, Viettel đã đạt đợc con số hơn 200 nghìn thuê
bao- một sự tăng trởng thần kỳ mà Sfone phải phấn đấu trong 1 năm rỡi mới
gần đạt đợc và là nhà cung cấp dịch vụ lớn thứ 3 tại Việt Nam.
Sẽ thật là thiếu sót nếu không nhắc tới City-phone - một mạng điện thoại di
động nội vùng tại địa bàn Hà Nội với công nghệ .. cùng thuộc sự quản lý
của VNPT, City phone hiện đang có khoảng 167nghìn thuê bao. Mặc dù là
mạng điện thoại nội vùng , chỉ có phạm vi phủ sóng trong địa bàn thành phố
Hà Nội song mạng điện thoại Cityphone cũng đang có những bớc phát triển
mạnh mẽ do có nhiều u điểm nổi bật nh: cớc phí rất rẻ, có nhiều chơng trình
khuyến mãi lớn, máy điện thoại di động giá thấp
8
Nh vậy là tính cho đến thời điểm này trên địa bàn thành phố Hà Nội đã
có 6 nhà khai thác dịch vụ thông tin di động thuộc 4 doanh nghiệp đợc cấp
phép hoạt động bao gồm: Tổng công ty Bu chính viễn thông Việt
Nam( VNPT) với 3 mạng: Vinaphone, MobiFone, Cityphone; Công ty cổ phần
bu chính viễn thông Sài Gòn( Saigon Postel) với mạng SFone; Công ty viễn
thông Quân Đội( Viettel) với mạng Viettel; Côngty cổ phần viễn thông Hà
Nội( Hanoi Telecom); Công ty viễn thông điện lực( VP Telecom) hứa hẹn
những cuộc ganh đua quyết liệt trong những năm tới, mà kết quả chắc chắn
rằng sẽ là một thị trờng thông tin di động đa đạng và có tinh cạnh tranh cao sẽ
đợc hình thành, mang lại nhiều lợi ích cho nguời tiêu dùng.
2. Sự xâm nhập của Sfone vào thị trờng Hà Nội- Việt Nam. Cơ hội và
những thách thức.
Ngày 1/7/2003 mạng điện thoại di động SFone chính thức đi vào hoạt
động. SFone là tên thơng hiệu của dịch vụ mạng di động CDMA do Trung tâm

điện thoại di động CDMA mang tên STelecom cung cấp. Đây là dự án hợp tác
giữa Công ty cổ phần dịch vụ Bu chính viễn thông Sài Gòn ( Saigon Postel) và
công ty SLD( đợc thành lập tại Singapore gồm các thành viên SK Telelcom,
LG Electronics và Dong A Elecomm) theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh
doanh. SFone là mạng điện thoại di động đầu tiên tại VN có sử dụng công
nghệ CDMA 2000- 1x tia hồng ngoại với tốc độ sử lý 153kb/ giây. Để sử dụng
mạng điện thoại di động CDMA, ngời dùng phải trang bị thiết bị đầu cuối phù
hợp với công nghệ của mạng.
Mục tiêu của mạng điện thoại di động Sfone là hợp tác xây dựng, khai thác và
phát triển mạng và cung cấp dịch vụ thông tin di động tế bào vô tuyến cố định
vá các dịch vụ viễn thông khác bằng công nghệ CDMA trên băng tần 800
MHZ, trên toàn lãnh thổ VN. Đồng thời dự định mạng sẽ đợc nâng cấp lên
mạng thông tin di động thế hệ thứ 3 (3G ) . Cung cấp các dịch vụ thoại và các
dịch vụ giá trị gia tăng khác trên mạng điện thoại di dộng nh: fax, truyền số
liệu, các cuộc gọi đờng dài quốc tế, truy cập Intẻnet trên phạm vi toàn quốc....
Hiện nay mạng di động Sfone đã phủ sóng đợc 13 tỉnh thành trên toàn quốc
(bao gồm: Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dơng, Hải Phòng, Quảng Ninh tại
9
vùng một và TP HCM, Bình Dơng, Đồng Nai, Vũng Tàu, Long An, Tiền
Giang tại vùng hai ) với hai trọng điểm kinh tế là Hà Nội, TP HCM, 104 trạm
thu phát sóng và trong tơng lai sẽ phủ sóng toàn quốc. Sfone dự kiến sẽ cung
cấp dịch vụ ít nhất cho 700.000 đến 1000.000 thuê bao di động CDMA với
tổng mức vốn đầu t cho dự án trong giai đoạn đầu là 229 triệu đô la Mỹ, bao
gồm cả vốn cố định và vốn lu đông. Sự ra đời của mạng điện thoại di động
Sfone đơc ví nh làn gió mới thổi vào thị trờng viễn thông VN, phá vỡ thế
độc tôn của VNPT trong gần một chục năm qua. Đồng thời đánh dấu sự bùng
nổ của các nhà cung cấp dịch vụ mạng, cạnh trong ngành thực sự bắt đầu. Cha
bao giờ thị trờng di động VN lại phát triển mạnh mẽ và đạt đợc nhiều thành tụi
nh trong thời gian qua: trong vòng hơn một năm từ tháng 8/2003 cho đến cuối
tháng 12/2004, theo thống kê số lợng thuê bao di động đã tăng từ 3,5 triệu lên

gần 5 triệu, mức độ tăng trởng thị trờng ngành đạt tốc độ kỷ lục 50%- đứng
thứ 5 trên thế giới.
Với t cách là nhà cung cấp dịch vụ mạng di động thứ 2 xâm nhập vào
thị trờng Việt Nam, SFone đang đứng trớc những cơ hội hết sức hấp dẫn. Trớc
hết là ở giai đoạn này, thị trờng viễn thông Việt Nam đang bớc vào một giai
đoạn phát triển mới với tốc độ tăng trởng nhanh chóng. Cho đến thời điểm đầu
năm 2005 tại nớc ta đã có gần 10,3 triệu máy điện thoại tơng đơng với 12,56
máy trên 100 dân. Trong đó, số thuê bao ĐTDD chiếm khoảng 45% tổng số
máy điện thoại trên cả nớc so với 55% của điện thoại cố định. Tỷ lệ ngời sử
dụng ĐTDĐ tại Việt Nam mới chỉ chiếm 4% trên tổng số dân( 80 triệu ngời)
song tốc độ tăng trởng thì rất mạnh mẽ, nhiều bản nghiên cứu cho thấy rất có
thể sẽ bùng nổ trong thời gian tới. Theo thống kê của VMS, hiện nay tốc độ
tăng trởng thuê bao di động trong một ngày bằng tốc độ tăng trởng của 3 tháng
ở thời điểm 1996. Không những vậy ngành công nghiệp này còn rất nhiều tiềm
năng để phát triển khi mà dân số Việt Nam hiện nay đã đạt đến con số 80 triệu
dân, trong khi đó tỷ lệ ngời dùng ĐTDĐ thì còn rất khiêm tốn là 5máy/ 100
ngời. Và nh vậy cũng đồng nghĩa với việc SFone đang đứng trớc cơ hội lớn có
thể nhanh chóng xâm nhập vào thị trờng nớc ta và mở rông thị phần, thu hút
thuê bao để có thể đạt đợc mục tiêu của mình là 1 triệu thuê bao. Ngoài ra,
Sfone còn có một u thế tích cực hơn hẳn những nhà cung cấp dịch vụ mạng di
10
động tại Việt Nam hiện nay- xuất phát từ nội lực chủ quan của hãng, đó là
SFone là mạng điện thoại di động đầu tiên tại Việt Nam có sử dụng công nghệ
CDMA 2000-1x tia hồng ngoại tiên tiến trên thế giới. Với công nghệ CDMA
này, tốc độ truyền dữ liệu hiện giờ là 153kbit/ giây và có thể lên tới 307kbit/
giây trong tơng lai. Cần nói thêm rằng việc tryuền dữ liệu nh vậy không hề
phải hi sinh băng thông dành cho thoại, tạo khả năng kết nối liên tục. Đối với
mạng SFone, hiệu quả sử dụng tần số của công nghệ CDMA 2000-1x cho
phép hệ thống có dung lợng gấp 4-6 lần so với các mạng GSM mà đối thủ
cạnh tranh đang cung cấp. Theo các chuyên gia quốc tế, cùng một đơn vị băng

thông trong cùng một phạm vi phủ sóng thì CDMA 2000-1x sẽ phục vụ tốt
hơn từ 2450343 cuộc gọi trong khi GSM chỉ phục vụ từ 40-60 cuộc gọi. Đây
có thể coi là một thế mạnh chủ yếu của SFone, đặc biệt là tại thị trờng VIệt
Nam vào thời điểm đó- khi mà VNPT vẫn còn là nhà cung cấp dịch vụ mạng
độc quyền, do vậy vẫn cha chú ý tới việc phát triển và nâng cấp chất lơng đờng
truyền, khiến cho ngời tiêu dùng gặp phải rất nhiều sự cố mạng nh nghẽn
mạng, bị mất số gây phiền phức- đặc biệt là vào những giờ cao điểm hay dịp
lễ tết.
Bên cạnh những cơ hội lớn, hấp dẫn thì SFone cũng gặp phải một số
chở ngại thách thức, đòi hỏi nhiều nỗ lực. Thách thức đầu tiên mà SFone gặp
phải đó là việc phải phụ thuộc và chịu sự chèn ép của VNPT. Do lợi thế đợc
quản lý đờng trục viễn thông quốc qia, lại chi phối hầu nh toàn bộ thị trờng
viễn thông nên VNPT nghiễm nhiên đợc quyền làm khó mọi doanh nghiệp
mới. Điển hình nhất là trờng hợp SFone xin đợc kết nối với 2 mạng là
Vinaphone và Mobifone. Trong khi VNPT nêu những lý do kỹ thuật về mạng
GSM và CDMA là không tơng thích và không cho kết nối thì mạng
Cityphone( cũng là mạng . Khó t ơng thích, nhng của VNPT) thì lại đợc kết
nối ngay. Phải mất đến một năm sau, đến tháng 7/2004 thì SFone mới thực sự
kết nối hoàn toàn với Vina và Mobi. Cũng với lý do kỹ thuật, VNPT không
cho SFone đấu nối trực tiếp với tổng đài chuyển mạch khép mà phải qua một
tổng đài trung gian do VNPT quản lý. Cớc phí qua tổng đài trung gian này là
250đồng/phút và mỗi tháng SFone cho biết là họ phải đóng góp thêm gần 2 tỷ
đồng cho tổng đài trung gian này. Theo các chuyên gia thì với trình độ kỹ
11

×