Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tài liệu ôn thi môn Lý luận văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.56 KB, 24 trang )

Câu 1 : “Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, sáng
tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối
sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng, xã hội” ( Đảng
Cộng sản Việt Nam - văn kiện ĐH IX – Trang 104). Vận dung lý luận văn hóa
và đường lối văn hóa của Đảng, đồng chí hãy làm rõ vai trò của văn hóa đối
với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ?
Bài làm
Hiện nay, nước ta đang tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa triệt
để trên mọi lĩnh vực nhằm mục tiêu đưa đất nước phát triển mạnh mẽ và vững
chắc cả về kinh tế lẫn chính trị - xã hội, tiến tới xây dựng thành công CNXH. Để
thực hiện thành công sự nghiệp ấy, yếu tố con người luôn đóng vai trò quyết định.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng, như chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói “Muốn có CNXH, phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Như
vậy, rõ ràng trong quá trình xây dựng đất nước, việc xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa phải được thực hiện đồng thời với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Bàn về việc xây dựng phát triển nhân cách con người, nhất định phải nói tới văn
hóa. Văn hóa là do con người gieo trồng nên nhưng đồng thời hệ thống giá trị văn
hóa lại góp phần vào giáo dục và tự giáo dục con người. Trong văn kiện Đại hội
Đảng khóa IX, nói đến vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, văn kiện đã chỉ rõ: “Mọi hoạt động văn hóa
nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí
tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia
đình, cộng đồng, xã hội”
I. Bản chất, khái niệm của văn hóa
Khái niệm: Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và
cho đến nay văn hóa là một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. Song,
có thể định nghĩa văn hóa như sau : văn hóa là hoạt động tinh thần nhằm phát huy
những năng lực bẩm sinh và bản chất của con người để sáng tạo ra các giá trị vật
chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực : chân, thiện, mỹ nhằm duy trì sự tồn tài


và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động nhằm
tạo ra những giá trị những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi
dưỡng sự hình thành nhân cách con người. Hoạt động văn hóa thực chất là hoạt
động khách thể hóa hoạt động năng lưc con người, biến năng lực con người thành
hiện thực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa.” Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi sự sinh tồn.
Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO thì văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống
các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của
mỗi dân tộc.
Như vậy, khái niệm văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ
sở của mọi hoạt động văn hóa là khát vọng hướng tới cái chân, thiện và mỹ - ba trụ
cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại.
Bản chất của văn hóa thể hiện thông qua các thuộc tính cơ bản:
Một là văn hóa mang tính lịch sử,
Hai là văn hóa mang tính truyền thống do những giá trị văn hóa được lưu giữ, phát
triển và truyền bá qua các giai đoạn lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác,
Ba là văn hóa mang tính dân tộc thể hiện rõ ở bản sắc văn hóa dân tộc, nó nói lên đặc
điểm của một dân tộc, biểu hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của một dân tộc. Do các điều kiện
lịch sử riêng, các dân tộc hình thành những truyền thống tâm lý riêng. Các truyền thống và tâm lý
đó tạo nên bản sắc dân tộc. Văn hóa dân tộc là sự biểu hiện tập trung của bản sắc dân tộc, đồng
thời các hoạt động văn hóa có tác dụng giáo dục phổ biến sâu rộng cái bản sắc dân tộc đó
Bốn là văn hóa mang tính giá trị (vật thể, phi vật thể, vật chất hoặc tinh thần): dù tồn

tại trong các sản phẩm vật thể hay phi vật thể, cái làm nên nội dung của nó chính các giá trị.
Năm là văn hóa bao giờ mang tính nhân sinh, văn hoá luôn hiện diện với tư cách là
thuộc tính chỉ có riêng và vốn có của riêng con người, chỉ có con người mới sáng tạo văn hóa và
hoàn thiện mình thông qua môi trường văn hóa,
Sáu là văn hóa mang tính phái sinh
Bảy là trong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp. Là phương
thức sản xuất của tinh thần, văn hóa không thể không phản ánh và không chịu sự qui định của
phương thức sản xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của các giai cấp khác nhau, làm nảy
sinh những tư tưởng, tình cảm khác nhau
Để hiểu rõ bản chất của văn hóa, cần phải thấy rằng văn hóa là do con
người sản sinh ra. Cũng như mọi sinh thể trong vũ trụ, con người là một bộ phận
của tự nhiên, chịu sự quy định chặt chẽ của tự nhiên, nhưng khác với các sinh vật
khác, con người chỉ trở thành con người khi tạo ra thiên nhiên thứ 2 của mình bằng
lao động và tri thức : đó chính là văn hóa. Chính trong quá trình phát huy những
năng lực bản chất để cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và thông qua đó cải biến
chính bản thân, con người đã sáng tạo ra văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”
Như vậy con người là chủ thể của văn hóa, tuy nhiên qua hoạt động văn
hóa, con người đồng thời cũng trở thành sản phẩm của văn hóa. Nếu tự nhiên là
cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó, toàn bộ
đời sống tinh thần của con người được hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển.
Như vậy, văn hóa chính là phương thức để con người tồn tại và phát triển, là cách
thức để con người tách mình ra khỏi động vật. Con người không thể tồn tại nếu
tách rời tự nhiên, cũng như vậy, con người không thể trở thành con người nếu tách
rời môi trường văn hóa.

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề phát triển văn hóa và xây dựng con người
có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Phát triển văn hóa là nhằm xây dựng con người, không
ngừng hoàn thiện con người và chính con người tạo ra phát triển cao hơn của văn hóa. Nói một
cách khái quát thì con người vừa là chủ thể, là vừa là sản phẩm của văn hóa. Không thể nói đến
văn hóa mà không có con người, cũng như không thế nói đến con người tách rời văn hóa
II. Chức năng của văn hóa
Vì văn hóa là sự phát huy các năng lực, bản chất của con người, là sự thể hiện
đầy đủ nhất chất người, nên văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con
người, dù đó là hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội hay cách cư
xử, giao tiếp cho đến cả những suy tư thầm kín nhất. Tuy nhiên, văn hóa vẫn có
những lĩnh vực hoạt động riêng. Hoạt động văn hóa là hoạt động sản xuất ra các
giá trị vật chất và giá trị tinh thần nhằm giáo dục con người khát vọng hướng tới
cái chân, cái thiện, cái mỹ và khả năng sáng tạo ra chân, thiện, mỹ trong đời sống.
Với ý nghĩa đó, văn hóa phải có một chức năng cực kỳ quan trọng trong đời sống
xã hội cũng như đối với sự nghiệp xây dựng nhân cách con người mới xã hội chủ
nghĩa.
- Trước tiên là chức năng nhận thức. Văn hóa có vai trò quan trọng trong việc
phát triển năng lực nhận thức của con người, nâng cao khả năng hiểu biết của con
người về tự nhiên, xã hội, tư duy. Phát triển nhận thức là phát triển đồng thời nội
dung tri thức và năng lực tư duy của cá nhân, của cộng đồng và việc nâng cao nhận
thức con người cũng chính là phát huy tiềm năng ở con người, là bước đầu rất quan
trọng để hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Chức năng nhận thức có mặt
trong bất cứ hoạt động văn hóa, thiếu chức năng nhận thức thì không thể nói đến
bất cứ chức năng nào khác. Một tác phẩm trước khi làm rung cảm trái tim người
đọc, người xem thì tác phẩm đó phải được mọi người hiểu, phải mang tới cho họ
nhận thức mới về cuộc sống, về con người… Mặt khác, bản thân văn hóa đã bao
hàm sự nhận thức thế giới, đó là kết quả của tài năng và trí tuệ con người, là sự
đúc kết kinh nghiệm sống. Tiếp xúc với các giá trị văn hóa, tâm hồn con người sẽ
giàu có thêm hơn, tri thức con người sẽ phong phú hơn về nhiều phương diện.
Theo nghĩa đó, nhân thức qua văn hóa là nhận thức nhiều chiều, từ quá khứ đến

hiện tại và tương lai; nhận thức nhiều không gian từ dân tộc đến quốc tế. Văn hóa
là thông điệp giữa các thế hệ, là chiếc cầu hữu nghị giữa các dân tộc.
Ngày nay, trong điều kiện tiến bộ của khoa học và công nghệ, xu hướng ngày
càng tăng của quốc tế hóa đời sống xã hội đòi hỏi nhiều ở chức năng nhận thức
của văn hóa. Vì vậy, khẳng định rằng, việc phát huy chức năng nhận thức của văn
hóa làm một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển trút ngắn
khoảng cách giữa các nước chậm phát triển và phát triển. Nói đến chức năng này,
không thể quên giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Cố nhiên chức năng
nhận thức có mặt trong bất kỳ một hoạt động văn hóa nào - những hoạt động văn
hóa tác động trực tiếp tới trí tuệ, có tác dụng mở mang và nâng cao dân trí. Từ
những kinh nghiệm đúc kết trong lịch sử dân tộc và thế giới, Đại Hội VIII Đảng ta
đã chỉ rõ: “ giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Bằng
nhiều hình thức đa dạng bảo đảm cho mọi người được học, nhất là người nghèo và
con em các gia đình chính sách” (văn kiện ĐH Đảng bộ lần thứ VIII, NXB CTQG
Hà Nội 1996 - trang 29). Nâng cao nhận thức của con người là phát huy những
tiềm năng của con người. Bước đầu hoàn thiện con người hoàn thiện xã hội.
- Chức năng thứ hai của văn hóa là chức năng giáo dục. Đây là chức năng
quan trọng nhất vì nhờ đó mà dòng chảy lịch sử không bị đứt đoạn. Nói đến giáo
dục là nói đến việc định hướng xã hội, định hướng lý tưởng đạo đức và điều chỉnh
hành vi của con người hướng vào điều hay lẽ phải, theo đúng những chuẩn mực xã
hội. Chức năng giáo dục của văn hóa thể hiện qua những giá trị tích cực của nó
(được cố định dưới dạng ngôn ngữ, biểu tượng, hình tượng, phong tục, tập quán,
nghi lễ ) tác động to lớn và mạnh mẽ vào việc hình thành nhân cách của con
người, sự phát triển toàn diện của con người thông qua việc chuyển tải những tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng, công thức ứng xử của cộng đồng đến với cá nhân.
Không có hình thức nào có thể thay thế và hiệu quả hơn các hoạt động văn hóa,
các tác phẩm văn học nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, nhận
thức đúng đắn và tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con
người. Sức mạnh và hiệu quả giáo dục của văn hóa là ở chỗ nó huy động được
toàn bộ các năng lực tinh thần của con người, và tác động tới chỗ sâu kín nhất của

đời sống tinh thần, biến quá trình tác động thành tự tác động, giáo dục thành tự
giáo dục. Thông qua chức năng giáo dục, văn hóa tạo nên và duy trì sự phát triển
liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Với ý nghĩa đó, việc giáo dục con
người bằng văn hóa, bằng các giá trị và truyền thống văn hóa có vai trò rất quan
trọng.
- Chức năng thẩm mỹ : CácMác cho rằng “bản chất con người là biết nhào
nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp”, văn hóa là lĩnh vực thể hiện rõ nhất khía
cạnh này. Con người tạo ra các biểu tượng văn hóa để làm phong phú và làm đẹp
thêm cho thế giới. Các giá trị văn hóa luôn hướng tới cái đẹp, đặc biệt là văn hóa
nghệ thuật, vì vậy chức năng này gắn liền với văn học nghệ thuật. Đây là chức
năng có tầm quan trọng đặc biệt, nó định hướng cho con người xác định đúng
chuẩn mực cái đẹp (cân đối, hài hòa, hoàn thiên), xác định thái độ đúng đối với cái
đẹp (trân trọng, bảo về và phổ biến cái đẹp), sáng tạo ra cái đẹp và đưa ra cái đẹp
ra cộng đồng, ra xã hội. Tuy nhiên chức năng này hiện nay thường bị coi nhẹ. Cần
khẳng định rằng cùng với nhu cầu hiểu biết, con người có nhu cầu hướng tới cái
đẹp. Cảm xúc thẩm mỹ, tức khả năng biết rung động trước cái đẹp, ở một mức độ
nào đó tạo nên phẩm chất đạo đức của con người. Vươn tới cái đẹp là một trong
những động lực quan trọng tạo nên những tiến bộ về vật chất và tinh thần của cuộc
sống con người. Do đó, chức năng thẩm mỹ không thể tách rời chức năng nhận
thức.
- Chức năng dự báo. Văn hóa là tổng thể những hoạt động về tinh thần và trí
tuệ, là sự phát hiện, nhận thức dần những qui luật khách quan của tự nhiên, của xã
hội và của con người, nhằm mở rộng sự hiểu biết sức tưởng tượng khám phá và
sáng tạo của con người. Chính với ý nghĩa đó, văn hóa có thể đưa ra dự báo cần
thiết về tự nhiện, xã hội và con người. Khoa học dự báo bằng nhận thức lý tính
thông qua các quy luật. Văn học nghệ thuật dự báo bằng những hình tượng cảm
tính. Chúng giúp con người tỉnh táo và tự chịu trách nhiệm về bản thân mình. Lịch
sử đã chứng minh cách đây 4 thế kỷ, lúc mà CNTB mới manh nha, nhà viết kịch
SECHXPIA trong các vở kịch của mình đã từng dự báo về vai trò tác oai tác oái
của đồng tiền trong chế độ tư bản, và cũng trong mấy thập kỷ gần đây trước sự phát

triển ồ ạt con người TBCN, nhiều nhà văn hóa đã dự báo thảm cảnh sẽ xảy ra đối
với nhân loại như: sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ, sự ô nhiễm bầu khí quyển và sự
hài hòa của con người và tự nhiên bị mất đi… và ngày nay đã trở thành sự thật hiển
nhiên của cuộc sống
1
- Chức năng giải trí : Đến với văn hóa nghệ thuật là để thỏa mãn những sở
thích cá nhân, để tìm niềm vui tinh thần, giải tỏa những căng thẳng sau thời gian
lao động. Do vậy, văn hóa còn có chức năng giải trí, tạo điều kiện cho sự phát
triển của con người. Chức năng này không tách rời chức năng giáo dục. Nếu hiểu
giải trí một cách tích cực thù nhu cầu giải trí không những có ý nghĩa bù đắp lại
sức lao động đã mất đi mà còn phát triển những năng khiếtu văn hóa, nghệ thuật
tiềm tàng và bẩm sinh ở mỗi con người. Ở một mức độ nào đó, sự giải trí bằng văn
hóa tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện con người. Với ý nghĩa đó, chức năng
giải trí của văn hóa không tách rời với chức năng giáo dục và hoàn thiện con
người.
3. Những nhiệm vụ để thực hiện tư tưởng trên của Đảng
Từ các chức năng của văn hóa, ta thấy rằng văn hóa có vai trò quan trọng đối
với việc xây dựng con người mới : phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, năng lực thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia
đình, cộng đồng, xã hội
Vai trò ấy càng có ý nghĩa quan trọng, nhất trong tình hình hiện nay, khi nước
ta đang thực hiện chính sách mở cửa và phát triển nền kinh tế thị trường thì tác
động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa và mặt trái của kinh tế thị trường đang
có những ảnh hưởng sâu sắc đến các giá trị, chuẩn mực xã hội và con người Việt
Nam. Đó là những hiện tượng suy thoái đạo đức, đặc biệt là nạn tham nhũng, hối
lộ, buôn lậu, gian lận thương mại, mua bằng, bán điểm, mua bán chức quyền trước
sự tấn công của thói ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, sức mạnh đồng
tiền và chủ nghĩa thực dụng. Đó là trạng thái dao động, hoài nghi, giảm sút niềm
tin, phai nhạt lý tưởng ở một bộ phận đảng viên, cán bộ, kể cả một số cán bộ trung,

cao cấp. Đó là nhiều hiện tượng nhức nhối trước đây không hề có trong quan hệ
gia đình, đạo lý thầy trò, quan hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn giá trị và nếp
sống vốn tốt đẹp. Đó là một bộ phận dân cư, kể cả một số thanh niên, học sinh,
sinh viên, sự hiểu biết còn quá ít về lịch sử dân tộc, về các giá trị truyền thống mà
lịch sử và cách mạng đã xây nên, trong khi đó lại phục hồi không phân biệt tốt xấu
các vốn cổ dân tộc, đồng thời đi liền với tâm lý sùng ngoại đôi khi đến mức mù
quáng, phi lý, kệch cỡm. Đó là các tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, sự đam
mê nhu cầu vật chất và những dục vọng thấp hèn, lối sống bất chấp đạo lý, dư luận
xã hội và luật pháp đang xô đẩy một số người đi vào con đường tội lỗi.
Từ thực trạng trên, để khắc phục những hiện tượng suy thoái, biến
chất, phản văn hóa ấy, Nghị quyết TW 5 (khóa 8) của Đảng xác định rõ đường lối
phát triển nền văn hóa của ta là xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc mà cốt lõi của nền văn hóa ấy là tư tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội theo
thế giới quan Mác Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì
con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện, tự do của con người
trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân với cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Nghị quyết TW 5 cũng đề ra 10 nhiệm vụ chủ yếu của đường lối phát triển nền văn
hóa Việt Nam là :
1- Xây dựng con người mới – con người xã hội chủ nghĩa trong giai đọan
cách mạng mới với các tiêu chí: phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức; đó là con người giàu tiềm năng
sáng tạo để đáp ứng được sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
2- Xây dựng môi trường văn hóa :
3- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật :
4- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa :
5- Phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ .
6- Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng .
7- Bảo tồn , phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số .
8- Thực hiện chính sách văn hóa trong tôn giáo .
9- Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa

10- Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa :
c. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 đòi hỏi phải nghiêm túc
thực hiện 10 nhiệm vụ cụ thể đã được đề ra. Lần này Ban Chấp hành Trung ương
thấy cần nhấn mạnh ba nhiệm vụ trọng tâm, coi đó là khâu đột phá để tiến lên làm
tốt các nhiệm vụ khác. Ðó là:
1- Nhiệm vụ hàng đầu vẫn là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và
đời sống văn hóa lành mạnh. Ðây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa cấp bách,
vừa cơ bản, lâu dài. Ðể làm tốt nhiệm vụ này đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ chủ chốt, phải nghiêm chỉnh thực hiện cuộc vận động lớn về xây dựng
đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng công tác xây
dựng, chỉnh đốn Ðảng và cải cách hành chính, phát triển văn hóa trong Ðảng,
trong Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Kiên quyết đưa những phần tử
thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ chức đảng và cơ quan Nhà nước.
2- Chăm lo xây dựng con người Việt Nam theo 5 đức tính đã được Nghị
quyết Trung ương 5 xác định; hình thành những chuẩn mực, những tiêu chí cụ thể
phù hợp với từng ngành, giới; không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình
độ nghiệp vụ và đạo đức, lối sống cho mỗi công dân; coi trọng bồi dưỡng trong
thanh thiếu niên lòng yêu nước, ý thức sáng tạo, tinh thần dân chủ, biết sống và
làm việc với mọi người và thế giới hiện đại.
3- Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, phát triển môi trường văn hóa
cộng đồng lành mạnh, phong phú đi đôi chăm sóc, phát huy các tài năng văn hóa,
nghệ thuật, tạo được nhiều công trình có giá trị.
Tóm lại : Xuất phát từ vai trò to lớn của văn hoá trong việc bồi đắp thế giới
tinh thần của con người hướng tới Chân- Thiện- Mỹ, Đảng ta đã khẳng định “Mọi
hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ
hài hòa trong gia đình, cộng đồng, xã hội”. Nhận thức đúng vai trò của văn hóa,
chúng ta càng thấy rằng văn hoá phải nằm trong sự quan tâm thường xuyên của các

cấp lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước chứ không thể khoán trắng cho ngành
văn hoá lo và phó mặc cho xã hội tự lo. Có như vậy mới đời sống tinh thần nhân
dân ngày càng phát triển phong phú đa dạng, nhân cách, bản lĩnh và trí tuệ người
Việt Nam mới phát triển mạnh mẽ, theo hướng vươn tới những giá trị Chân -Thiện
- Mỹ.
Câu hỏi 2 : “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH” (Đảng Cộng sản Việt Nam - văn
kiện ĐH VIII – Trang 110). Bằng lý luận văn hóa đã học, đồng chí hãy phân tích
nhận định trên.
Bài làm
1. Sơ lược khái niệm, bản chất của văn hóa (theo tinh thần Nghị quyết TW 5 –
khóa VIII).
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc CNH-HĐH đất nước. CNH-
HĐH đất nước là một quy luật tất yếu khi muốn biến một nước chậm phát triển
thành một quốc gia phát triển. Kinh nghiệm thế giới đã cho thấy công nghiệp hóa
không gắn liền với phát triển văn hóa và con người sẽ dẫn đến những thảm họa về xã
hội và môi trường. Phát triển văn hóa và con người là động lực của sự phát triển
KTXH, là điều kiện thực hiện công nghiệp hóa, đồng thời là mục tiêu của sự phát
triển KTXH, của công nghiệp hóa. Trong lời tuyên bố mở đầu thập kỷ thế giới văn
hóa vì phát triển, ông Tổng giám đốc Tổ chức khoa học và văn hóa liên hiệp quốc
(UNESCO) đã nhấn mạnh “kinh nghiệm của 2 thập kỷ vừa qua cho thấy rằng trong
xã hội ngày nay, bất luận là trình độ kinh tế nào, hoặc xu hướng chính trị nào, văn hóa
và phát triển là 2 mặt gắn liền với nhau. Nước nào tự đặt cho mình một mục tiêu phát
triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối
nghiêm trọng và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu đi nhiều Phát triển
cần phải thừa nhận văn hóa giữ vai trò trung tâm và vai trò điều tiết xã hội. Nói tóm
lại trọng tâm, động cơ và mục đích phải được tìm trong văn hóa. Đây là bài học quý
báo rút ra từ việc tổng kết gần 3 thế kỷ phát triển công nghiệp trên”
Khái niệm :
Có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về văn hóa khác nhau, ở các mức độ rộng, hẹp và rất hẹp.

Nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của con người
nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Để đi đến một định nghĩa về văn hóa, cần thiết phải
hiểu mối quan hệ tương tác giữa con người và văn hóa. Trước hết, chính con người đã sáng tạo ra
văn hóa. Chính trong quá trình phát huy những năng lực bản chất để cải biến tự nhiên, cải biến xã
hội và thông qua đó cải biến chính bản thân, con người đã sáng tạo ra văn hóa. Văn hóa là phương
thức để con người tồn tại và phát triển, là cách thức để con người tách mình ra khỏi giới động vật.
Vì vậy khái niệm văn hóa luôn chứa đựng nội dung nhân văn, nhân bản. Thứ hai, hoạt động văn
hóa sáng tạo ra con người; nói cách khác, con người là sản phẩm của văn hóa. Bởi chỉ trong xã hội
loài người mới có khái niệm văn hóa và hoạt động văn hóa; văn hóa phản ảnh về môi trường sống
hay là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và với con người, cộng đồng; mặt
khác con người chỉ có thể tồn tại đúng bản chất người ở ngay trong xã hội loài người và chính văn
hóa là môi trường tạo nên nhân cách con người. Thứ ba, nói đến văn hóa là nói đến hệ giá trị. Dù
tồn tại dưới dạng các sản phẩm vật thể hay phi vật thể, cái làm nên nội dung văn hóa của chúng
chính là các giá trị. Đó là các giá trị được tạo ra từ các hoạt động khoa học, đạo đức và nghệ thuật và
các hoạt động đó luôn hướng tới sự hoàn hảo của 3 giá trị: Chân, Thiện và Mĩ. Tóm lại, Văn hóa là
hoạt động tinh thần nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của con người để sáng
tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực: chân, thiện, mỹ nhằm duy trì sự tồn
tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động nhằm tạo ra những
giá trị những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách
con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa.” Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi sự sinh tồn.
Trong khái niệm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã miêu tả văn hóa bằng những
thành tố của nó. Người đã nhìn văn hóa được xem là phương thức để con người tồn
tại và phát triển, nhấn mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa “sản sinh” văn hóa

với sự sinh tồn của con người.
Văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của con người, dù đó là hoạt động
sản xuất vật chất hay sản xuất giá trị tinh thần; trong quan hệ giao tiếp, ứng xử trong
xã hội hay thái độ ứng xử với thiên nhiên.
Bản chất của văn hóa :
Văn hóa có 7 thuộc tính cơ bản: Một là văn hóa luôn mang tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử,
văn hóa có một dấu ấn riêng. Hai là văn hóa mang tính truyền thống, do những giá trị văn hóa được
lưu giữ, phát triển và truyền bá qua các giai đoạn lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ba là văn
hóa mang tính dân tộc thể hiện rõ nhất ở bản sắc văn hóa dân tộc; văn hóa nói lên đặc điểm của một
dân tộc, biểu hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của một dân tộc. Bốn là văn hóa mang tính giá trị (vật
thể, phi vật thể, vật chất hoặc tinh thần). Năm là, văn hóa bao giờ cũng mang tính nhân sinh; chỉ có
con người mới sáng tạo ra văn hóa và hoàn thiện mình qua môi trường văn hóa. Sáu là, văn hóa
mang tính phái sinh. Và bảy là trong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Nền văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhiều nền văn minh thế giới để không
ngừng hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên
tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam; tạo nên cốt cách, bản sắc riêng có của con
người, dân tộc Việt Nam.
Từ khi Đảng ta ra đời và trong suốt lịch sử lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng
ta luôn coi văn hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Quan điểm
này được đề cập trong Cương lĩnh, đường lối, chiến lược của Đảng. Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đầy sự phát triển KT-XH”. Quan
điểm này được cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII “về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; và
gần đây được khẳng định lại trong Kết luận hội nghị Trung ương 10, khóa IX.
2. Phân tích các nội dung: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội :

Đời sống xã hội có hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội có nghĩa là văn hóa góp phần tạo nền móng của xã hội. Nền
2
móng có vững chắc thì sự phát triển của đất nước mới lành mạnh. Nói văn hóa là nền
tảng tinh thần có nghĩa là coi văn hóa là tổng thể các giá trị, các tiềm năng sáng tạo
của đất nước. Muốn phát triển cần phải dựa vào các giá trị đó, cần khai thác và phát
huy các giá trị đó. Thông qua thực tế kiểm nghiệm, Đảng ta chỉ ra rằng: Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội; văn hóa thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát triển và
bản lĩnh của một dân tộc.
Văn hóa là nền tảng tinh thần, đòi hỏi phải đặt văn hóa vào vị trí quan trọng.
Cũng như kinh tế tạo nên giá trị vật chất, nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần tạo
những điều kiện cần và đủ để xã hội tồn tại và phát triển. Thiếu điều kiện vật chất thì
không có sự tồn tại của con người, nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì xã hội không
thể phát triển được. Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử, cơ sở vật chất và
tinh thần thường xuyên thấm lẫn vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Chừng nào nền tảng
tinh thần suy yếu, chừng đó xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn xã hội xuất
hiện và sự phát triển kinh tế sẽ gặp khó khăn.
Mỗi một quốc gia, dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển, cải tạo tự
nhiên, lao động sản xuất, tổ chức xã hội … đã hình thành và tích lũy một hệ thống
những kinh nghiệm, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mỗi dân tộc, và nhân loại trong quá trình hình thành và phát triển cho mình
những giá trị xã hội, những truyền thống, chuẩn mực xã hội. Giá trị là kết quả hoạt
động sáng tạo của con người và nó được coi là giá trị có ý nghĩa được cộng đồng
khẳng định, bảo vệ, có vai trò liên kết cộng đồng và định hướng cho hoạt động của
cộng đồng. Còn chuẩn mực xã hội là sự cụ thể hóa giá trị những quy định nhằm điều
chỉnh hành vi ứng xử của con người. Chuẩn mực đạo đức thông qua xã hội tác động
đến lương tâm, không bị phát luật điều chỉnh nhưng qua dư luận xã hội tác động làm
điều chỉnh những hành vi ấy đúng chuẩn mực của xã hội.
- Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH.

Với ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, văn hóa vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Trong mỗi chính sách KT-XH
luôn đòi hỏi phải bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi
dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn lực quyết định sự phát triển xã hội.
Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị, xây dựng và
phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hóa.
Nói văn hóa là mục tiêu của phát triển KT-XH, có nghĩa là sự phát triển kinh
tế phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng đời sống xã hội, tạo cơ sở vật chất cho sự
phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần. Muốn vậy, văn hóa phải điều tiết sự phát
triển của kinh tế, phải gắn sự phát triển của kinh tế với tiến bộ xã hội. Là mục tiêu của
sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng lực sáng tạo
của con người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá
nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao quý và chuẩn
mực của toàn xã hội.
Phát triển KT-XH dân tộc chính là để đạt được độc lập - tự do - hạnh phúc,
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII viết: “Về đời sống vật chất và
văn hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi
về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành
mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn hóa luôn được xác định là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và điều đó thể hiện một cách nhất quán trong
đường lối văn hóa của Đảng ta từ ngày mới thành lập đến nay. Đó là, mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân, vì mục tiêu: Dân giàu, Nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố
nội sinh. Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát
huy năng lực bản chất người. Mối quan hệ con người với văn hóa là gắn liền nhau,
văn hóa vừa thể hiện trong con người, đồng thời văn hóa là môi trường, là điều kiện
cho sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Tức là, văn hóa góp phần vào điều
tiết quá trình phát triển KT-XH.

Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều
hay ít lao động và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy tiềm
năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong
các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lí, lối
sống, thị hiếu, trình độ thẩm mĩ của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm lượng trí tuệ,
hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao thì khả năng
phát triển KT-XH càng lớn và hiện thực.
Đối với một quốc gia, phát triển và tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với
nhau. Muốn phát triển bền vững và toàn diện thì động lực không thể thiếu là phát
triển văn hóa. Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng có khả năng phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách và chủ quan của các điều kiện bên
trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển của xã hội được hài hòa, cân đối, lâu
bền. Văn hóa hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng
cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Văn hóa còn góp phần phần tăng cường sự hiểu biết,
mở rộng sự giao lưu hợp tác giữa nước ta và các nước khác trên cơ sở bình đẳng cùng
có lợi. Các giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa truyền thống là cơ sở tinh
thần để ngăn chặn, hạn chế các tệ nạn xã hội, xu hướng “sùng ngoại”, sùng bái tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng đóng vai trò điều tiết trong quan hệ
quốc tế, để mở cửa và giữ vững được độc lập, chủ quyền, hợp tác kinh tế - văn hóa
với nước ngoài mà không để người ta lợi dụng biến đất nước mình thành nơi cung cấp
nguyên liệu và nhân công giá rẻ, nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận những
công nghệ lạc hậu, những ảnh hưởng văn hóa độc hại.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng còn có khả năng ngăn chặn, khắc
phục được những ham muốn quá mức dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và
gây ô nhiễm môi trường sinh thái, cổ vũ xây dựng một lối sống có điều độ và hướng
đến những hành vi ứng xử có văn hóa của con người đối với con người và đối với
thiên nhiên.
3. Những giải pháp cơ bản để thực hiện quan điểm của Đảng:

Ngày nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, đứng trước xu thế
toàn cầu hóa, trong khi nền kinh tế nước ta còn thấp kém so với một số nước trong
khu vực và trên thế giới. Để văn hóa phát huy đúng nghĩa là nền tảng tinh thần của xã
hội, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, cần có những biện pháp:
Một là, mở rộng, vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu
nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, bằng nhiều hình
thức phong phú. Phát động phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa, hướng
vào cuộc thi đua yêu nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Hai là, Nhà nước cần ban hành các luật, chính sách về phát triển văn hóa dân
tộc ở trên các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội. Hoàn chỉnh các quy chế, quy định về
tổ chức và hoạt động lễ hội, việc tang, việc cưới, cúng điếu phù hợp với giá trị văn
hóa truyền thống. Từng bước xây dựng các chuẩn mực văn hóa mới ở cơ sở. Khuyến
khích, huy động mọi nguồn lực, nhất là các nguồn lực trong nhân dân nhằm phát triển
nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Có chính sách bảo tồn và phát huy các
di sản văn hóa dân tộc, đặc biệt lưu ý sưu tầm, lưu truyền nền văn hóa phi vật thể.
Xây dựng chính sách đặc thù phù hợp, khuyến khích các hoạt động văn hóa, như chế
độ nhuận bút cũng như cách đánh giá các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật trong tình
hình mới. Ban hành chính sách cụ thể về hợp tác quốc tế về văn hóa.
Ba là, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. Tăng
cường mức chi cho hoạt động văn hóa từ nguồn ngân sách nhà nước, cả về chi thường
xuyên và chi cho phát triển văn hóa. Nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng
viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý và nghiệp vụ ở các cơ quan quản lý văn hóa.
Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ các cơ quan quản lý văn hóa; các trường,
khoa đào tạo về văn hóa
Bốn là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Trong giai
đoạn xây dựng và phát triển đất nước ngày nay, yêu cầu Đảng ta phải tăng cường
nâng cao vai trò lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa. Nhận thức đúng đắn về vai trò văn
hóa cần làm tốt hơn nữa công tác bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Các tổ
chức cơ sở Đảng cần thực hiện thường xuyên việc giáo dục lý tưởng cách mạng, về

chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các đường lối chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nước cho cán bộ, đảng viên.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, theo hướng
nắm bắt được các nhu cầu văn hóa lành mạnh của quần chúng, nhằm định hướng
đúng cho các hoạt động văn hóa từ khâu nhận thức, sáng tạo, bảo quản, đến phổ biến,
phân phối và tiêu dùng sản phẩm văn hóa của giới văn nghệ sĩ và quần chúng nhân
dân. Không ngừng mở rộng dân chủ để phát huy vai trò các hoạt động sáng tạo và tiêu
dùng văn hóa trong nhân dân.
Năm là, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Nhà
nước thể chế hóa đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng bằng các văn bản pháp quy.
Và quản lý Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để điều tiết các hoạt động văn
hóa, văn nghệ. Tăng cường giám sát, kiểm tra tất cả các hoạt động liên quan đến văn
hóa, văn nghệ. Ngăn ngừa, đối phó với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch đang tìm cách thẩm thấu, du nhập các loại văn hóa độc hại, đồi trụy vào các
thế hệ người Việt Nam ta hôm nay.
Tóm lại, xác định văn hóa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, một mặt đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của
văn hóa; mặt khác, cũng để khẳng định một chân lý là chỉ có đặt văn hóa trong sự
phát triển, gắn văn hóa với sự phát triển, nghĩa là văn hóa phải bén rễ trong kinh tế thì
kinh tế mới phát triển được. Sự nghiệp văn hóa, suy cho cùng là vì con người, như
nhận định của Đảng ta: Nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp văn hóa là bồi dưỡng con
người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách,
xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan XHCN, hướng con người tới những
giá trị Chân - Thiện – Mĩ. Vì vậy trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cần coi
trọng chính sách đầu tư cho văn hóa, đầu tư cho con người, khuyến khích và tạo điều
kiện để nhân dân tham gia phát triển và sáng tạo văn hóa, đồng thời hưởng thụ văn
hóa ngày càng nhiều hơn./.
Câu hỏi 3 : “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa, làm cho thế giới quan Mác Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội ( Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH – NXB Sự thật – Hà nội năm 1991 – trang
10 ). Bằng lý luận văn hóa, hãy giải thích luận điểm trên ?
Bài làm
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện và triệt để nhất
trong lịch sử loài người. Bởi vì, nó được diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội : kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
làm thay đổi tận gốc rễ từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất: từ cơ sở hạ tầng
đến kiến trúc thượng tầng xã hội; từ đời sống chung của toàn xã hội đến cuộc sống
riêng tư của mỗi cá nhân Đó là một cuộc cách mạng triệt để, toàn diện nhằm
thay đổi cả phương thức sản xuất và hình thái kinh tế-xã hội cũ bằng phương thức
sản xuất và hình thái kinh tế xã hội mới - ưu việt hơn, tiến bộ hơn.
1. Khái quát cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, mục tiêu,
bản chất, vai trò và điều kiện để tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa
a. Khái niệm cách mạng văn hóa của chủ nghĩa Mác Lênin :
Theo chủ nghĩa Mác Lênin, cách mạng văn hóa là quá trình thay thế nền
sản xuất tinh thần kiểu cũ (dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu, do
giai cấp bóc lột nắm giữ, lấy hệ tư tưởng của giai cấp thống trị làm hạt nhân) bằng
nền sản xuất tinh thần kiểu mới (dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là
chủ yếu, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng Mác Lênin
làm hạt nhân), là quá trình cải tạo nền văn hóa cũ, xây dựng nền văn hóa mới qua
các giai đoạn phát triển lịch sử của nó, đúng theo quy luật khách quan. Nền văn hóa
là nền văn hóa của dân, do dân, vì dân, nền văn hóa mà ở đó “sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện phát triển của tất cả mọi người”, nền văn hóa luôn luôn
hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ, với một tinh thần nhân văn sâu sắc.
Cách mạng văn hóa là một quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng
CNXH bởi vì cách mạng văn hóa là một bộ phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị - kinh tế, không thể
không tiến hành cách mạng văn hóa. Đúng như Lênin đã khẳng định “ bây giờ
chúng ta chỉ cần hoàn thành cuộc cách mạng văn hóa là để cho nước ta thành một
nước hoàn toàn xã hội chủ nghĩa" (Tập 45, trang 428).

b. Cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, sự phát
triển sáng tạo của Đảng ta trong điều kiện Việt Nam :
Do mục tiêu của CNXH đặt ra là phải xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa và con người mới xã hội chủ nghĩa, như chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định “muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa"; đồng
3
thời dựa trên lý luận Mác Lênin về cách mạng văn hóa, xuất phát từ thực tiễn đất
nước và của thời đại, Đảng ta đã đề xướng cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng
văn hóa và gọi đó là “cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa”
Về thuật ngữ “cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng -
văn hóa”, trong văn kiện hội nghị các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế họp
vào 2 thời điểm : 1957 và 1960, tại Mátxcơva và đã sử dụng thuật ngữ này. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa là quy luật phổ biến đối
với tất cả các nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Thuật ngữ cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa được Đảng ta chính thức sử dụng trong
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960) với ý nghĩa nó là một trong 3 cuộc
cách mạng lớn trên Miền Bắc xã hội chủ nghĩa thời điểm ấy (cách mạng quan hệ
sản xuất; cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng - văn hóa). Hiện nay, trong các
Nghị quyết, các văn kiện Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa". Sự khái quát này làm nhấn mạnh,
nổi bật yếu tố tư tưởng trong cách mạng văn hóa, đây là một sáng tạo về phương
diện lý luận của Đảng ta nước và là sự phát triển sáng tạo học thuyết Mác Lênin về
cách mạng văn hóa của Đảng ta trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Sự phát triển sáng tạo đó của Đảng trước hết dựa trên cơ sở lý luận, xuất
phát từ các luận điểm sau : một là hệ tư tưởng của một thời đại bao giờ cũng là hệ
tư tưởng của giai cấp thống trị (TNĐCS, trang 81), hai là hệ tư tưởng bao giờ cũng
là hạt nhân của văn hóa, nó chi phối mọi hoạt động của các thành tố văn hóa; ba là
hệ tư tưởng là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, nó là cơ sở để
thống nhất tư tưởng, ý chí, hành động trong thực tiễn. Về cơ sở thực tiễn : trước
nhất chúng ta xây dựng nền văn hóa vốn là từ một thuộc địa nửa phong kiến với

nền sản xuất nhỏ là phổ biến nên tư tưởng theo hệ tư tưởng phong kiến mặc dù đã
được xóa bỏ nhưng ảnh hưởng nặng nề tư tưởng tiểu tư sản vẫn còn phổ biến; hai
là chúng ta xây dựng nền văn hóa phải chú trọng đến hệ tư tưởng vì ở nước ta ngày
xưa trong xã hội cổ truyền cha ông ta chưa đủ sức mạnh lý luận để tạo ra một hệ tư
tưởng độc lập mà phải vay mượn từ nho giáo, phật giáo, lão giáo; ba là ngày nay ta
xây dựng nền văn hóa mới trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, vì thế việc định hướng tư tưởng tư tưởng xã hội chủ nghĩa có ý
nghĩa cơ bản không chỉ đối với việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong xây dựng kinh tế - xã hội;
bốn là nhấn mạnh yếu tố tư tưởng trong cách mạng văn hoá do xuất phát từ cuộc
đấu tranh giữa hai ý thế hệ (hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và hệ tư rưởng tư sản)
đang diễn ra hết sức gai gắt trên phạm vi toàn thế giới cũng như ở nước ta.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa là cuộc
cách mạng diễn ra trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa nhằm 4 mục tiêu như sau : một
là xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu, tiêu cực, phản tiến bộ, phản giá trị của xã hội cũ
còn rơi rớt lại (xã hội có giai cấp bóc lột, thống trị; hai là xác lập thế giới quan mới
thế giới quan duy vật khoa học và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa; ba là nhằm
xây dựng nền văn hóa mới trên cơ sở của của chế độ mới, nền kinh tế mới; bốn là
xây dựng con người mới (con người văn hóa) với tư cách là chủ thể của xã hội mới,
xã hội xã hội chủ nghĩa thông qua hàng loạt các nhiệm vụ cơ bản quan trọng mà
giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản tổ chức, lãnh đạo; năm là cuộc cách mạng
này lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho hành
động, ở Việt Nam hiện nay Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động.
2. Phân tích vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
(giá trị văn hóa của nhân loại)
Trong tiến trình lịch sử nước ta, sự truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào
đất nước đã thực sự mở đầu cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng. Ánh sáng của
học thuyết cách mạng này đã mở đường và làm thức tỉnh dân tộc ta đứng lên giành
độc lập tự do cho tổ quốc với tinh thần và ý chí “dù phải đốt cháy cả dãy Trường

sơn cũng quyết giành kỳ được độc lập dân tộc”. Kết quả sau 30 năm kháng chiến,
chúng ta đã dành thắng lợi trọn vẹn, tổ quốc thống nhất, bước vào kỷ nguyên mới :
kỷ nguyên xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy truyền
thống đó, trên lĩnh vưc tư tưởng hiện nay, chúng ta đã và đang xây dựng một động
cơ tinh thần mới. Đó là biến khí phách” phục hưng dân tộc” trong giải phóng đất
nước thành ý chí” phục hưng dân tộc” trong việc tấn công vào nghèo nàn, lạc hậu
để giữ vững tư thế độc lập, tự do và bình đẳng với các dân tộc trong thế giới, thực
hiện nguyện vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một nước Việt Nam
“đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.
Để làm được điều đó, một vấn đề cấp bách hiện nay và cũng là nhiệm vụ
trung tâm của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá là xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc … mà
cốt lõi của nền văn hóa ấy là tư tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội theo thế giới
quan Mác Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện, tự do của con người
trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân với cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên
Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng văn hóa là giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng và đạo đức
Hồ Chí Minh một cách phổ biến và rộng rãi để nó trở thành hệ tư tưởng chỉ đạo
trong toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội ta, dựa trên nền tảng tư tưởng đó mà
từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại ngày nay, tổ
chức xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tức là phải ”tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hoá, làm cho thế giới quan Mác Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ
vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội” như cương lĩnh xây dựng đất
nước đã chỉ rõ,.
Giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin là vấn đề có tính quy luật của sự hình
thành ý thức xã hội xã hội chủ nghĩa, bởi lẽ nếu không giáo dục để hình thành ý
thức hệ xã hội chủ nghĩa thì sẽ không có phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Lênin đã nói : “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng ".

Hệ tư tưởng Mác - Lênin là hệ tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại, là hạt nhân của
nền văn hóa mới và xét về lý tưởng thì nó là lý tưởng chung của loài người, xét về
giá trị thì nó vẫn là giá trị chung của toàn nhân loại.
Mặt khác, bên cạnh việc giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, việc tuyên
truyền phổ biến và quán triệt sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân về tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết. Như chúng ta đã biết trong thực tiễn không
bao giờ có sự tồn tại một nền văn hóa chung chung, trừu tượng, mà nền văn hóa ấy
bao giờ cũng là sản phẩm xây dựng của một đất nước, dân tộc nhất định. Nền văn
hóa mà nhân dân ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Hạt
nhân của nền văn hóa ấy, ngoài lý tưởng Mác Lênin, nó còn thấm đượm tinh hoa
văn hóa Việt Nam, được kết tinh rực rỡ ở tư tưởng, đạo đức, tác phong, chủ nghĩa
nhân văn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ
là tài sản quý giá của dân tộc mà còn là gia tài chung của nhân loại và từ trong bản
chất nhân văn cao đẹp của tư tưởng đạo đức, Người đã tỏa ra “hương hoa của nền
văn hóa tương lai”
Từ những phân tích trên cho thấy, chủ nghĩa Mác Lênin và đạo đức, tư
tưởng Hồ Chí Minh đều mang giá trị văn hóa của nhân loại và dân tộc, do đó làm
cho những giá trị tư tưởng ấy giữ vai trò chỉ đạo, trở thành những chuẩn mực trong
đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam là vấn đề mấu chốt và có tính quyết định
rất lớn trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác Lênin đang lợi dụng tình trạng
khủng hoảng của CNXH thế giới tìm mọi cách xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác
Lênin trên mọi phương diện. Chủ đích của bọn chúng là muốn triệt tiêu chủ nghĩa
Mác Lênin, trên cơ sở đó để thủ tiêu con đường cách mạng của giai cấp công nhân,
xoá bỏ lý tưởng cao đẹp của nhân loại, lý tưởng về CNXH va CNCS.
Ở nước ta trên mặt trận tư tưởng lý luận cũng đang diễn ra một cuộc đấu
tranh gay gắt. Không ít những kẻ cơ hội chủ nghĩa đã xuất hiện bằng cách này hay
cách khác tìm cách xuyên tạc, hạ thấp bôi đen hoặc phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh … Mặt khác, thông qua nhiều con đường truyền bá
hệ tư tưởng tư sản, du nhập những sản phẩm độc hại về văn hoá vào nước ta, tìm

cách móc nối những phần tử phản cách mạng trong và ngoài nước, phối hợp hành
động chống phá ta nhiều mặt hòng phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ tổ quốc xã hội chũ nghĩa.
Với tình hình nêu trên, việc bảo vệ, tuyên truyền và phổ biến chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong quần chúng càng có ý nghĩa
quan trọng. Chỉ khi chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đóng vai
trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội mới làm cho các mối quan hệ xã hội
được hình thành và phát triển một cách lành mạnh tốt đẹp. Cho nên chúng ta cần
phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá ”nhằm
xây dựng đời sống tinh thần của xã hội xây dựng thượng tầng kiến trúc về mặt hình
thái ý thức với nội dung rất rộng lớn là : làm cho thế giới quan Mac-lênin và tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xây dựng
một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ; nâng cao trình độ kiến thức về
nhiều mặt cho nhân dân; chống những tư tưởng và văn hoá phải tiến bộ trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội … nhằm có được một nền văn hoá mới , con
người mới xã hội chủ nghĩa
3. Những nội dung biện pháp cơ bản để thực hiện tinh thần văn hóa của Đảng trong
giai đoạn hiện nay :
a. Những nhiệm vụ chủ yếu :
Ngoài nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng và đạo đức Hồ
Chí Minh, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa còn bao gồm
những nhiệm vụ chủ yếu như sau
- Giữ gìn và phát huy bản sắc sắc văn hoá dân tộc, chọn lọc và nâng cao
văn hoá của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc
giá trị văn hoá nhân loại. Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của cách mạng xã hội
chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Bản sắc dân tộc là linh hồn của đời
sống văn hóa tinh thần một dân tộc. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là kế thừa
và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc, bảo tồn và phát huy
chữ viết, ngôn ngữ của các dân tộc, các di sản văn hóa dân tộc, khôi phục và phát
triển những lễ hội tốt đẹp, những phong tục tập quá phù hợp với cái mới, cái tiến

bộ Đi đôi với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phải mở rộng việc giao lưu văn hóa
với nước ngoài, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa nhân loại. Tiếp thu các giá
trị văn hóa tiên tiến của nhân loại ở nước ta hiện nay là tiếp thu những thành tựu
tiến bộ về khoa học và công nghệ; các yếu tố hợp lý trong khoa học quản trị kinh
doanh, mô hình giáo dục tiên tiến cũng như các giá trị chân, thiện, mỹ của nền văn
hóa nght tiến bộ trên thế giới.
- Đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản tiến bộ trái với những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với khuynh
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực chất cuộc đấu tranh này chính là cuộc đấu
tranh chống các hiện tượng phản văn hoá, những tư tưởng chống lại thế giới quan
Mác Lênin, xét lại con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta và Bác Hồ lựa chọn;
chống lại hiện tượng quan liêu, tham nhũng, hối lộ còn trong các bộ máy cơ quan
nhà nước, chống lại lối sống ích kỷ, chạy theo đồng tiền, sống thực dụng xu nịnh,
sống giả dối không trung thực; đó là những hiện tượng làm cho văn học nghệ thuật
trở thành cái tầm thường chạy theo thị hiếu thấp hèn làm băng hoại tâm hồn và
phẩm hạnh tốt đẹp của con người Việt Nam, phủ nhận quá khứ , chà đạp lên hình
ảnh thiêng liêng của cha ông … Nói tóm lại, hiện tượng phản văn hóa cần phải đấu
tranh đó là tất cả những hiện tượng làm lu mờ cái đúng , cái đẹp là cái đồng hành
với cái sai , cái ác và cái xấu .
- Nâng cao trình độ dân trí và đào tạo đội ngũ trí thức mới : nâng cao trình
độ dân trí bao gồm nâng cao học vấn, nâng cao ý thức chính trị , hiểu biết pháp luật
và hành động theo pháp luật ; nâng cao các kiến thức phổ thông và KHKT về các
chuẩn mực đạo đức , về các kiến thức thẩm mỹ tiến bộ trong giao tiếp , sinh hoạt và
thưởng thức nghệ thuật cũng như lịch sử văn hóa nước nhà và nhân loại , bằng cách
tiến hành xóa nạn mù chữ nâng cao trình độ dân trí không tách rời với việc đào tạo
xây dựng đội ngủ tri thức mới . Ở nước ta công việc này còn có ý nghĩa cực kỳ sâu
sắc vì thiếu đội ngủ này thì thiếu đi cái chìa khóa để mở cánh cửa vào tương lai .
b. Những nhiệm vụ cụ thể :
Để thực hiện những nội dung, nhiệm vụ trên của Đảng về cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, văn kiện Hội nghị TW 5 (khóa VIII)

đã xác định 10 nhiệm vụ cụ thể như sau :
1- Xây dựng con người mới – con người xã hội chủ nghĩa trong giai đọan
cách mạng mới với các tiêu chí: phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức; đó là con người giàu tiềm năng
sáng tạo để đáp ứng được sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
2- Xây dựng môi trường văn hóa :
3- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật :
4- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa :
4
5- Phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ .
6- Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng .
7- Bảo tồn , phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số .
8- Thực hiện chính sách văn hóa trong tôn giáo .
9- Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa
10- Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa :
c. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 đòi hỏi phải nghiêm túc
thực hiện 10 nhiệm vụ cụ thể đã được đề ra. Lần này Ban Chấp hành Trung ương
thấy cần nhấn mạnh ba nhiệm vụ trọng tâm, coi đó là khâu đột phá để tiến lên làm
tốt các nhiệm vụ khác. Ðó là:
1- Nhiệm vụ hàng đầu vẫn là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và
đời sống văn hóa lành mạnh. Ðây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vừa cấp bách,
vừa cơ bản, lâu dài. Ðể làm tốt nhiệm vụ này đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ chủ chốt, phải nghiêm chỉnh thực hiện cuộc vận động lớn về xây dựng
đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng công tác xây
dựng, chỉnh đốn Ðảng và cải cách hành chính, phát triển văn hóa trong Ðảng,
trong Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Kiên quyết đưa những phần tử
thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ chức đảng và cơ quan Nhà nước.
2- Chăm lo xây dựng con người Việt Nam theo 5 đức tính đã được Nghị
quyết Trung ương 5 xác định; hình thành những chuẩn mực, những tiêu chí cụ thể

phù hợp với từng ngành, giới; không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình
độ nghiệp vụ và đạo đức, lối sống cho mỗi công dân; coi trọng bồi dưỡng trong
thanh thiếu niên lòng yêu nước, ý thức sáng tạo, tinh thần dân chủ, biết sống và
làm việc với mọi người và thế giới hiện đại.
3- Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, phát triển môi trường văn
hóa cộng đồng lành mạnh, phong phú đi đôi chăm sóc, phát huy các tài năng văn
hóa, nghệ thuật, tạo được nhiều công trình có giá trị.
d. Các giải pháp thực hiện:
Ðể thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đề ra, Kết luận của Hội nghị Trung
ương nhấn mạnh bốn giải pháp chủ yếu phải thực hiện có hiệu quả đó là:
1- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng đối với công tác văn hóa. Lãnh
đạo văn hóa trong điều kiện cơ chế thị trường và giao lưu quốc tế rộng mở là một
nhiệm vụ thực sự khó khăn. Các cấp ủy đảng vừa phải sâu sát, định hướng chặt
chẽ nhiệm vụ văn hóa, vừa phải không ngừng nâng cao tri thức sự hiểu biết về
công tác văn hóa, nhận rõ đặc thù của các lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, tính phức
tạp của lao động nghệ thuật để có phương pháp xem xét, xử lý thích đáng, linh
hoạt; tránh buông lỏng, sơ lược dẫn đến hữu khuynh, nhưng cũng tránh thô bạo,
nặng về hành chính, cấm đoán.
2- Ðề cao tính năng động trong chỉ đạo văn hóa của các cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận và các đoàn thể; tính năng động sáng tạo trong các cơ quan điều
hành văn hóa, nghệ thuật, làm cho công tác quản lý văn hóa được thực hiện
nghiêm túc ngay từ cơ sở. Chú trọng mở rộng xã hội hóa hoạt động văn hóa trên
cơ sở luật pháp và sự hướng dẫn chuyên môn của Nhà nước. Làm tốt công tác tổ
chức thực hiện, từ sản xuất, lưu thông, phân phối các sản phẩm văn hóa, đến đào
tạo, bồi dưỡng người hoạt động văn hóa, nâng cao giáo dục thẩm mỹ trong nhà
trường và các tầng lớp nhân dân.
3- Ðẩy mạnh việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh, xây dựng phong trào hành động "sống, chiến đấu, lao động, học tập theo
gương Bác Hồ vĩ đại".
4- Tăng ngân sách đầu tư cho văn hóa, để đến năm 2010 ít nhất đạt 1,8%

tổng chi ngân sách Nhà nước. Mặt khác cần động viên các tầng lớp nhân dân, nhất
là những người say mê hoạt động văn hóa, kể cả người Việt Nam sống xa Tổ quốc,
hết lòng đóng góp cho sự nghiệp văn hóa vì sự phồn vinh của văn hóa dân tộc
Tóm lại, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa ở
Việt Nam là sự phát triển sáng tạo từ lý luận cách mạng văn hóa Mát-xít , đó là quá
trình thống nhất biện chứng giữa lọc bỏ và giữ gìn, giữa kế thừa và đổi mới, giữa
phê phán và tiếp thu, giữa cải tạo và xây dựng để xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam cao về trí tuệ,
trong sáng về đạo đức, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, góp phần
vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “ Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh “ tiến vững chắc lên CNXH.
Câu hỏi 4 : Vận dụng hiểu biết về lý luận và đường lối văn hóa của
Đảng Cộng sản Việt Nam, hãy phân tích vì sao Nghị quyết hội nghị TW 5 xác
định “Nền văn hóa của ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc" ?
Bài làm
Như chúng ta đã biết, đời sống xã hội có 2 mặt : vật chất và tinh thần, nếu
kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của
nó. Với cách diễn đạt như vậy, văn hóa rõ ràng vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển KTXH. Xác định đường lối chiến lược về phát triển văn hóa của nước
ta trong giai đoạn hiện nay, Nghị quyết hội nghị TW 5 khóa VIII đã xác dịnh : nền
văn hóa của ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” . Đây là
một nội dung quan trọng của Đảng và nhân dân ta trong suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta hiện nay.
Vậy văn hóa là gì? Theo định nghĩa của ông Federico Mayor, nguyên Tổng
Giám đốc UNESCO, văn hóa là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của
các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị
hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
1. Giải thích thế nào là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc - Mối quan hệ

giữa tính chất này (tiên tiến với đậm đà bản sắc dân tộc)
Vậy như thế nào là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ? Có rất
nhiều ý kiến xoay quanh vấn đề thế nào “bản sắc dân tộc” của nền văn hóa ? Có ý
kiến cho rằng nói đến bản sắc dân tộc của nền văn hóa chính là nói đến một nền văn
hóa có gốc rễ, cội nguồn dân tộc. Có ý kiến cho rằng nói bản sắc văn hóa dân tộc
thực chất là nói đến “thẻ căn cước” của một dân tộc, nó chỉ rõ dân tộc ấy là ai,
những truyền thống gì do dân tộc tạo nên và đã thâm nhập vào tâm hồn của dân tộc,
đươc nhân dân nuôi dưỡng và thường xuyên bồi bổ, phát triển trong đời sống của
mình. Theo ý kiến này, bản sắc dân tộc của văn hóa khẳng định sự tồn tại của dân
tộc, phân biệt sự khác nhau giữa các dân tộc và nó biểu hiện tính độc đáo của dân
tộc.
Theo Hiến pháp sửa đổi (1993) thì nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc tức là
nền văn hóa mang đầy đủ các nội dung về yếu tố dân tộc, dân chủ, nhân văn và hiện
đại. Tính dân tộc thể hiện qua 3 khía cạnh : là nền văn hóa có cội nguồn, gốc rễ
dân tộc, phát triển dựa trên điều kiện sức mạnh của dân tộc và phát triển luôn luôn
vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc, phồn vinh của dân tộc. Tính dân chủ được biểu
hiện thông qua sự mở rộng và phát triển dân chủ để khẳng định chủ thể của nền
văn hóa thuộc về nhân dân, để khai thác triệt để tiềm nặng văn hóa dân tộc, phát
hiện và phát triển những tài năng văn hóa. Tính nhân văn của nền văn hóa biểu
hiện sự trân trọng những giá trị của con người, nền văn hóa thấm nhuần những giá
trị nhân đạo sâu sắc và phát triển nhấn mạnh quy luật quan hệ nhân tính, khẳng
định vai trò văn hóa ở con người, khoan dung và mang nặng tính người. Tính hiện
đại của nền văn hóa thể hiện qua việc phát triển nền văn hóa dựa trên cơ sở vật
chất ngày càng hiện đại, dựa trên khoa học - công nghệ hiện đại và phục vụ cho
việc đào tạo, giáo dục con người theo hướng hiện đại, phát triển dựa trên tư tưởng
tiến bộ xã hội.
Như vậy, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một nền văn hóa có
bản lĩnh và chứa đựng tâm hồn của dân tộc. Theo quan điểm của Đảng tại Hội nghị
BCH TW 5 khóa VIII (7/1998), những nội dung của nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc được biểu hiện qua những đặc trưng sau đây :

a. Nền văn hóa tiên tiến :
Nền văn hóa tiên tiến phải được hiểu : Đó là nền văn hóa yêu nước và
tiến bộ xã hội mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là nền văn hóa mang tinh
thần dân chủ, nền văn hóa mà trong đó dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt
của đời sống văn hóa dân tộc, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa, tạo
động lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân. Đó
là nền văn hóa mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, phản ánh mối quan hệ hài
hòa giữa con người và con người, giữa con người với tự nhiên, phát triển vì sự phát
triển toàn diện và hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa mang tính hiện đại
về trình độ dân trí, khoa học, công nghệ Nền văn hóa tiên tiến không chỉ trong
nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển
tải nội dung. Tóm lại, nền văn hóa tiên tiến có thể được cụ thể hóa bằng những
khía cạnh cơ bản như sau: tiên tiến về trình độ học vấn, về dân trí, về trình độ khoa
học và công nghệ; tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống; tiên
tiến do sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, cả về hình thức và về nội dung.
Nền văn hóa tiên tiến Việt Nam còn là sự kết hợp truyền thống dân tộc với chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
b. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc
Nền văn hóa tiên tiến cũng là nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính chất dân tộc luôn luôn gắn bó với tính chất tiên tiến của nền văn hóa và hai
mặt này liên quan biện chứng với nhau.
Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời
sống tinh thần dân tộc ấy, là những nét đặc biệt, độc đáo về tinh thần, về văn hóa,
về cách sống và sức sáng tạo để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Mất bản
sắc văn hóa dân tộc tức là dân tộc đã bị đồng hóa chỉ còn lại cái vỏ bề ngoài. Bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc, truyền
từ đời này sang đời khác, được làm giàu thêm bằng kinh nghiệm cuộc sống và sự
sáng tạo của các thế hệ. Đó là truyền thống được tạo ra và hun đúc trong lịch sử
hình thành và phát triển của dân tộc.

Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện qua các mặt như sau :
- Đó là nền văn hóa bao gồm sự thống nhất trong tính đa dạng và
phong phú của nền văn hóa của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, của
các vùng, các địa phương trong nước. Văn hóa Việt Nam là thành quả của tất cả các
dân tộc Việt Nam trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng nghìn
năm lịch sử gắn liền với công cuộc dựng nước và giữ nước. Việt Nam có 54 dân
tộc, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, khi tất cả hội nhập nền văn hóa cộng
đồng dân tộc Việt Nam thì nó trở nên hết sức phong phú đa dạng.
- Đó là nền văn hóa mà tính phong phú đa dạng được nhân lên gấp
nhiều lần do có bề dày hàng nghìn năm lịch sử và được trãi nghiệm qua các cuộc
đấu tranh dựng nước và giải phóng đất nước.
- Bản sắc văn hóa dân tộc còn biểu hiện cụ thể ở những giá trị văn hóa
bền vững của dân tộc Việt Nam, là tổng hợp các giá trị tinh thần tiêu biểu của dân
tộc, bao gồm 6 giá trị : Một là tinh thần yêu nước, yêu quê hương nồng nàn. Hai là
tinh thần đoàn kết dân tộc. Ba là tính cộng đồng gắn kết giữa cá nhân, gia đình, quê
hương, tổ quốc. Bốn là tinh thần nhân nghĩa, nhân ái thấm nhuần chủ nghĩa nhân
văn, nhân đạo sâu sắc của con người Việt Nam : sống có tình nghĩa, thủy chung
trong gia đình, với làng xóm, với cộng đồng, yêu thương quý trọng con người, tinh
thần trọng lẽ phải, trọng đạo đức, học thức, yêu cái đẹp, cái hay. Năm là tinh thần
lao động cần cù sáng tạo của nhân dân ta. Sáu là lối sống tinh tế, khiêm tốn, giản dị
và trung thực của con người Việt Nam, sự tế nhị trong tâm hồn, trong phong cách
giao tiếp. Trong 6 giá trị tinh thần của dân tộc ấy, qua các thời đại lịch sử đấu tranh
dựng nước và giữ nước, yêu nước đã trở thành một giá trị truyền thống của văn hóa
dân tộc và chủ nghĩa yêu nước đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả tiến trình lịch
sử và văn hóa Việt Nam. Nó trở thành giá trị cao nhất trong các thang bậc giá trị
văn hóa Việt Nam và là một động lực cực kỳ to lớn. Chính vì vậy, nền văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc trước hết là nền văn hóa yêu nước. Có thể nói yêu nước và
tiến bộ vừa là đặc trưng bao quát nhất của nền văn hóa tiên tiến, vừa là đặc trưng
của bản sắc dân tộc.
Nói nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam cũng là nói về các

hoạt động văn hóa, sinh hoạt văn hóa, sáng tạo văn hóa, tác phẩm văn hóa phải thể
hiện rõ nét và sâu sắc các giá trị tinh thần của dân tộc. Những giá trị ấy dến nay còn
được lưu lại và giữ gìn trong nhân dân, trong xã hội qua các di sản lịch sử và văn
hóa.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc này
chỉ có thể phát triển bền vững và phát huy đầy đủ bản sắc của nó trên cơ sở tiếp thu
được những tinh hoa trí tuệ của loài người, nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không thể tách khỏi quan hệ với thế giới. Bởi xu
thế toàn cầu hóa đang diễn ra là tất yếu xu thế đó là khách quan, mang tính thời đại,
5
trước hết trong lĩnh vực kinh tế, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, không một
quốc gia có thể đứng biệt lập mà có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác, phải nhận
thức được rằng toàn cầu hóa là một quá trình đầy mâu thuẩn, phức tạp, mặt tất yếu
kỹ thuật, kinh tế là mặt tích cực có lợi ta phải tận dụng, song cũng không thể bỏ qua
mặt xã hội kinh tế, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn :
Việc xây dựng đường lối phát triển một văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc của Đảng được dựa trên nền tảng cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc .
a. Về cơ sở lý luận.
Đường lối của Đảng về phát triển văn hóa và xây dựng con người mới
XHCN trước hết xuất phát từ những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới và từ
thực trạng văn hóa và con người Việt Nam với cả hai mặt mạnh, yếu hiện có.
Đường lối đó phải tính đến sự giao lưu vô cùng phức tạp của văn hóa và con người
Việt Nam với nhiều dân tộc, nhiều lớp người, nhiều nền văn hóa khác nhau trong
thế giới hiện đại, khi hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một quá trình tất yếu mà
không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Đặc biệt quan trọng là đường lối văn
hóa của Đảng xuất phát từ một nền tảng tư tưởng nhất định, đó là chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ trên cơ sở đó, Đảng ta mới xác định được những
quan điểm, phương hướng, chiến lược đúng đắn, tìm ra được những biện pháp thích
hợp để phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam.

Chúng ta biết, văn hóa là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức của con
người, nghĩa là văn hóa là một lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng. Vì vậy sự
phát triển của văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế bởi theo chủ nghĩa Mác
Lênin thì cơ sở hạ tầng (kinh tế) quyết định kiến trúc thượng tầng – mà văn hóa là
một lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế sẽ không
hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Muốn phát triển văn hóa phải phát triển
kinh tế vì kinh tế là nền tảng của phát triển; kinh tế tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho xã hội và vì vậy nó cũng là tiền đề để phát triển văn hóa.
Từ sau cách mạng tháng Tám, văn hóa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định là đời sống tinh thần, là thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hóa
được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của
xã hội, Người viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý
đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa.
Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”. Bốn vấn đề đó có quan hệ mật thiết
với nhau, cùng tác động lẫn nhau, được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ bằng những
luận điểm: một là chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải
phóng, chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển. Hai là xây dựng kinh
tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. Phải đẩy mạnh xây
dựng kinh tế trước.
Song, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: kinh tế là thuộc về cơ
sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng tầng;
Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết
rồi văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được.
Nói đến văn hóa tức là nói đến con người. Nói một cách khái quát thì con
người vừa là chủ thể, lại vừa là sản phẩm của văn hóa. Không thể nói đến văn hóa
mà không có con người, cũng như không thể nói đến con người tách rời văn hóa.
Bởi văn hóa chính là hoạt động tinh thần nhằm phát huy năng lực bản chất người để
sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực chân, thiện, mĩ.
Nhằm để duy trì sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã hội. Theo
quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, con người không phải là một cái trừu tượng, cố

hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội. Theo Lênin, cách mạng văn hóa là một bộ phận của cách
mạng XHCN và có ý nghĩa quan trọng – nó nói lên bản chất tiến bộ của cách mạng
xã hội XHCN. Cách mạng văn hóa là một quy luật phổ biến của sự nghiệp xây
dựng CNXH bởi vì cách mạng văn hóa là một bộ phận của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, như Lênin đã từng khẳng định : giai cấp công nhân sau khi đã hoàn thành
cách mạng thì khâu cuối cùng có xây dựng được CNXH hay không là tùy thuộc
vào cuộc cách mạng văn hóa
Cách đây hơn nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh đã từng viết : “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhìn văn hóa như là phương thức để con người tồn tại và phát
triển, nhấn mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa “sản sinh” văn hóa với sự sinh
tồn của con người.
Tư tưởng xây dựng một nền văn hóa mới Việt Nam được đặt ra ngay sau khi
Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước là con đường cách mạng vô
sản, khi Người đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, khi mục
tiêu lý tưởng không phải chỉ có độc lập dân tộc mà còn là chủ nghĩa xã hội. Trong
tư tưởng văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền văn hóa mới Việt Nam khác với
nền văn hóa cũ trước hết ở những tính chất cơ bản của nó. Đó là tính dân tộc, khoa
học và đại chúng. Điều này thể hiện rất rõ trong Đề cương văn hóa Việt Nam, năm
1943. Tính chất dân tộc của nền văn hóa mới thực chất là vấn đề kế thừa truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, kết hợp chặt chẽ với việc tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại. Tính chất dân tộc của nền văn hóa mới còn được Chủ tịch Hồ Chí
Minh biểu đạt bằng những khái niệm khác như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc để
nhấn mạnh hơn nữa đến cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của văn hóa dân tộc

Việt Nam.
Trong hội nghị văn hóa toàn quốc lần đầu tiên của nước Việt Nam độc lập,
ngày 24-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Văn hóa phải làm cho ai cũng có lý
tưởng tự chủ, độc lập, dự do. Đồng thời văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có
tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Người thường
nói phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân để xây dựng những
tình cảm lớn như lòng yêu nước, tình yêu thương con người; yêu tính trung thực,
chân thành, thủy chung; ghét những thói hư tất xấy, những sa đọa biến chất, căn thù
mọi thứ “giặc nội xâm”… Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Để làm được
điều đó, Người nói văn hóa phải được xác định là một mặt trận, mà các anh chị em
văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
Đường lối văn hóa của Đảng ta luôn xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng luôn coi trọng công tác văn hóa, xác định
công tác văn hóa là một bộ phận của cách mạng Việt Nam. Quan điểm, đường lối
của Đảng về văn hóa là nhất quán và có luông có những đặc điểm, tính chất phù
hợp với từng thời kỳ lịch sử cách mạng Việt Nam. Có thể chia thành 3 thời kỳ
mang những dấu ấn riêng:
- Từ những năm 1930 đến trước Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9/1960),
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ trương xây dựng một nền văn hóa
mới Việt Nam, và được đặt ra như một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Với hai
chiến dịch rộng lớn trong nhân dân: “chiến dịch chống nạn mù chữ” và “chiến dịch
giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính” và
thực hành đời sống mới. Điểm nổi bật là Đề cương văn hóa năm 1943, với ba tính
chất của nền văn hóa mới Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là
dân tộc, khoa học, đại chúng. Khi miền Bắc bước vào giai đoạn cách mạng XHCN,
để phục vụ sự nghiệp cách mạng XHCN thì văn hóa phải “XHCN về nội dung và
dân tộc về hình thức”.
- Từ Đại hội Đảng lần thứ III đến Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 6/1986),
khi cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn cách mạng XHCN, quan điểm,
đường lối của Đảng là xây dựng nền văn hóa “có nội dung XHCN, tính dân tộc,

tính Đảng, tính nhân dân”.
- Từ sau Đại hội VI đến nay, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước
trên tất cả các lĩnh vực, trong tư duy và hành động, trong đó có sự đổi mới và phát
triển đường lối văn hóa cho phù hợp với thời đại và tiến tới sự hoàn thiện trên cơ sở
quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể đến Đại hội
Đảng lần thứ VII (6/1991), Đảng ta xác định nền văn hóa mới xây dựng trong
XHCN là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong lời phát biểu khai
mạc hội nghị lần thứ tư, BCH TW khóa VII, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nói:
mọi sự phát triển xã hội phải “gắn liền với việc kế thừa và phát huy những truyền
thống và bản sắc dân tộc. Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ
rơi vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời
những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình,
trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác”. Đến Đại hội VIII, Đảng
ta khẳng định: xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; và được cụ
thể thực hiện bằng Nghị quyết Trung ương năm, khoá VIII “Về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đường lối đó là
nhất quán cho đến hôm nay.
Tóm lại, đường lối văn hóa của Đảng ta trong các thời kỳ cách mạng luôn
nhất quán dựa trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, các nước đều mở cửa giao lưu trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó văn hóa là vấn đề được thế giới quan tâm nhất
trong sự phát triển toàn diện và bền vững. Điều đó, đòi hỏi Đảng ta phải có đường
lối văn hóa đúng đắn và phù hợp với thời đại, khẳng định được bản sắc con người,
dân tộc Việt Nam, đó là sự kế thừa đường lối văn hóa qua các thời kỳ cách mạng
của Đảng.
* Về cơ sở thực tiễn, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc là hết sức cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước bởi
những lý do sau :
- Sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng ta và nhân dân ta đòi hỏi phải
phát huy cao độ năng lực của con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, đẩy

mạnh CNH-HĐH đất nước, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ
tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; là một sự
nghiệp sáng tạo to lớn cùa nhân dân ta đồng thời là quá trình cải biến sâu sắc, đòi
hỏi phát huy nguồn lực trí tuệ và năng lực bản lĩnh của mỗi con người Việt Nam.
Mà con người Việt Nam chính là sự kết tinh của nền văn hóa Việt Nam, vì thế quá
trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình góp phần quan trọng
thực hiện chiến lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người, nguồn
lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển . Đảng ta coi đây là trung tâm của sự
nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm lực xã hội xã hội chủ nghĩa
- Mặt khác, cùng với tiến trình đổi mới đất nước, chấp nhận nền kinh
tế thị trường là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu tăng nhanh về
văn hóa của mọi tầng lớp dân cư, quá trình dân chủ hóa xã hội những yếu tố này
làm thay đổi đời sống văn hóa dân tộc. Khi tiếp xúc với nền văn minh vật chất, con
người dễ nảy sinh tâm lý sùng bái kỹ thuật, chạy theo cái mới, cái hiện đại và đối
lập với cái truyền thống. Khi con người đối lập với truyền thống đã sinh ra và nuôi
dưỡng mình, coi kỹ thuật thống trị con người thì sự trống rỗng trong tâm hồn và
suy thoái trong bản chất nhân văn là điều không tránh khỏi. Bên cạnh đó, mặt trái
của kinh tế thị trường và của quá trình mở cửa đã tác động xấu đến đời sống tinh
thần của dân tộc, đặc biệt là ở thế hệ trẻ. Tâm lý tiêu dùng vật chất, chạy theo đồng
tiền, làm mờ nhạt các giá trị tinh thần vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc. Thực
trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống ở một bộ phận “không nhỏ” cán bộ,
Đảng viên và quần chúng ngày càng phổ biến hơn, tinh vi hơn, nghiêm trọng hơn,
đòi hỏi chúng ta phải chấn hưng nền văn hóa dân tộc thông qua sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Ngoài ra, việc mở cửa để hội nhập với khu vực và các nước trên thế
giới, tiếp thu những thành tựu văn hóa văn minh của nhân loai đòi hỏi chúng ta phải
có một trình độ văn hóa tương ứng để tiếp biến các thành tựu đó và làm chủ được
những quá trình công nghệ để CNH-HĐH đất nước. Mở cửa hội nhập, văn hóa
Việt Nam được tiếp cận ngày càng nhiều hơn các giá trị (tinh hoa) văn hóa nhân
loại, làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc và giúp nhanh chóng xây dựng một

nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Mặt khác, trong quá trình toàn cầu
hóa, lợi thế đang nghiêng về các nước phát triển; các nước giàu đang có xu hướng
áp đặt giá trị văn hóa của họ cho các nước nghèo. Dòng chảy văn hóa đang có xu
thế từ nước mạnh sang nước yếu, từ nước giàu sang nước nghèo. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, nếu không có ý thức đầy đủ sẽ dẫn tới đánh mất đi bản sắc
dân tộc trước sự ''quốc tế hóa'' của văn hóa, khoa học và công nghệ. Cần thấy rằng,
sự hội nhập và phát triển mà không xuất phát từ đặc điểm lịch sử và truyền thống
dân tộc thì sẽ không bền vững. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa tạo khả năng quốc tế hóa
cả các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội. Những ấn phẩm văn hóa phản động,
đồi truỵ, làn sóng tội phạm, bạo lực và ma túy từ nước ngoài tràn vào đã góp phần
làm lan tràn thêm các tệ nạn xã hội ở nước ta trong những năm gần đây, cộng với
âm mưu ''diễn biến hòa bình'' của các thế lực thù địch và sự suy thoái về tư tưởng,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên thật sự là một nguy cơ làm suy
yếu nền tảng tinh thần của đất nước, làm suy yếu ngay cả chế độ.
Từ những phân tích trên cho thấy nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là hết sức cần thiết và cấp bách.
3. Những nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
6
Để thực hiện những nội dung, nhiệm vụ trên của Đảng về cách mạng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, văn kiện Hội nghị TW 5 (khóa
VIII) đã xác định 10 nhiệm vụ cụ thể như sau :
1- Xây dựng con người mới – con người xã hội chủ nghĩa trong giai đọan
cách mạng mới với các tiêu chí, đức tính như sau :
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với
nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và

cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao, vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực
Nhìn chung, mẫu con người mới là con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức; đó là
con người giàu tiềm năng sáng tạo để đáp ứng được sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước.
2- Xây dựng môi trường văn hóa :
Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, xã, khu tập thể, cơ quan, xí
nghiệp ), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi ) đời sống văn hóa lành
mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các
tầng lớp nhân dân.
Gìn giữ và phát huy đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng
mối quan hệ khắng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng bản, ấp, xã, phường văn hóa, nâng
cao tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn
minh.
Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa các trung tâm đô thị và
nông thôn, giữa các vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi,
biên giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân.
Phát triển và không ngừng nâng cao chấtg lượng hoạt động của các thiết
chế văn hóa ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm
quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên
nghiệp, phát triển phong trào quần chúng, hoạt động văn hóa, nghệ thuật
3- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật :
Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn hóa, nghệ thuật có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu

sắc xây dựng con người
Khuyến khích, tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách
sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công
chúng. Bài trừ các khuyn h hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính.
Hướng văn nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động, chân thật và sâu
sắc sự nghiệp của nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử kiên cường, bất khuất
của dân tộc. Đặc biệt khuyến khích các tác phẩm về công cuộc đổi mới thể hiện nổi
bật những nhân tố tích cực trong xã hội, những nhân vật tiêu biểu của thời đại. Cổ
vũ cái đúng, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người
với xã hội, với thiên nhiên; phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp
hèn. Sáng tạo nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật cho thiếu niên, nhi đồng với hình
thức, nội dung thích hợp; nghiêm cấm xuất bản loại sách kích thíc bạo lực ở trẻ
em.
Phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội phê bình
văn học, nghệ thuật. Bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công
dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sỹ, các nhà văn hóa. Nâng cao chất lượng,
phát huy tác dụng của nghiên cứu, lý luận
Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ
của Đảng .
Không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ
thuật của công chúng, đặc biệt quan tâm tầng lớp thanh niên, thiếu niên, nhi đồng.
Tạo điều kiện để nhân dân tham gia tiêu cực sáng tạo và phê bình, được hưởng thụ
ngày càng nhiều tác phẩm văn nghệ có giá trị trong nước và ngoài nước.
Chăm sóc đời sống vật chất tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi
cho văn nghệ sỹ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo văn nghệ sỹ trẻ làm tốt công tác
bảo vệ bản quyền tác giả.
Liên hiệp văn học, nghệ thuật Việt Nam (bao gồm các hội sáng tác văn
học, nghệ thuật ở Trung ương) và các hội văn nghệ ở các tỉnh, thành phố là những
tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo có bộ máy chuyên trách

gọn nhẹ, có sự tài trợ của nhà nước về kinh phí.
4- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa :
Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của
bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. hết sức
coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và
dân gian), văn hóa cách mạng bao gồm các văn hóa vật thể và phi vật thể.
Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do ca ông
để lại
5- Phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ .
Đẩy mạnh vịêc thực hiện Nghị quyết TW 2 (Khóa VIII) về giáo dục, đào
tạo và khoa học – công nghệ. Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách
nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu CNXH, đạo đức, lối sống, nếp sống
văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tươn gắn lại của mỗi
người và tiền đồ của đất nước; bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn
hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ giảng viên và tu chỉnh hệ thống sách giáo
khoa, nâng cao chất lượng giảng dạy các bộ môn văn ngữ, lịch sử, chính trị, pháp
luật, đạo đức; giảng dạy nhạc họa ở các trường phổ thông.
Hoạt động khoa học xã hội – nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ,
phải góp phần đắc lực giải quyết các vấn đề trên lĩnh vực văn hóa, thúc đẩy các
hoạt động văn hóa, thông tin, văn học, nghệ thuật.
6- Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng .
Củng cố, xây dựng, phát triển, từng bước hiện đại hóa hệ thống thôn gắn
tin đại chúng
Sắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống truyền hình, phát thanh, thông
tấn, báo chí, xuất bản, thông tin mạng nhằm tăng hiệu quả thông tin, chống lãng
phí; phối hợp hoạt động của các loại hình thông tin, báo chí, giữa thông tin, báo
chí với lĩnh vực văn hóa - văn nghệ
Xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông quốc gia phù
hợp đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin đại chúng của thế giới.

Đẩy mạnh thông tin đối ngoại. Tận dung thành tựu của mạng Internet để
giới thiệu công cuộc đổi mới và văn hóa Việt Nam với thế giới, đồng thời có biện
pháp hiệu quả ngăn chặn, hạn chế tác dụng tiêu cực qua mạng Internet cũng như
qua các phương tiên thông tin khác.
Không ngừng nâng cao trình độ chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư
tưởng văn hóa của hệ thống truyền thông đại chúng. Khắc phục xu hướng thương
mại hóa trong hoạt động báo chí xuất bản.
Chăm lo đặc biệt về định hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa, cũng như về
kỹ thuật hiện đại đối với truyền hình là loại hình báo chí có ưu thế lớn, có sức thu
hút công chúng đông đảo.
7- Bảo tồn , phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số .
Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng,
phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu
số.
Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc
sử dụng ngôn ngữ, chử viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào các
dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của
dân tộc mình. Phát hiên, bồi dưỡng tổ chức lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên
cứu văn hóa, văn học, nghệ thuật là người dân tộc thiểu số
Ưu tiên tài trợ cho các tác giả dân tộc thiểu số có tài năng sáng tạo các
tác phẩm về đề tài dân tộc và miền núi. Đào tạo đội ngũ trí thức thuộc đồng bào
dân tộc, các dân tộc thiểu số và tạo điều kiện để trí thức, cán bộ dân tộc thiều số
trở về phục vụ quê hương. Phát huy tài năng các nghệ nhân.
Đầu tư và tổ chức điều tra sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn
hóa, văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số.
Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, mở rộng mạng lưới thông
tin ở vùng dân tộc thiểu số.
Thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu
số sớm giảm tỷ lệ hộ đói nghèo, ổn định và cải thiện đời sống , xóa mù chữ, nâng
cao dân trì, xóa bỏ hủ tục.

8- Thực hiện chính sách văn hóa trong tôn giáo .
Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của dân, bảo đảm cho
các tôn giáo hoạt động bình thường trện cơ sở tôn trọng pháp luật, nghiêm cấm
xâm phạm tự do tín ngưỡng và không tin ngưỡng. Thực hiện nhất quán chính sách
đại đoàn kết dân tộc.
Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện trong tôn giáo,
đồng thời tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ nạn mê tín di đoan; chống việc lợi
dụng tôn giáo, tín ngưỡng, thực hiện ý đồ chính trị xấu.
Chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, giúp đở đồng bào theo đạo, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, xây dựng môi trường văn hóa,
thực hiện tốt trách nhiêm công dân đối với tổ quốc.
9- Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa
Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế
giới, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài.
Phổ biến những kinh nghiệm tốt, xây dựng và phát triển văn hóa của các nước.
Ngăn ngừa và phát triển văn hóa của các nước. Ngăn ngừa sự xâm nhập các sản
phẩm văn hóa phản động, đồi trụy.
Giúp đở cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình
nước nhà, thu nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng
yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài
năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước.
10- Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa :
Củng cố và hoàn thiện thể chế văn hóa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng; sự quản lý có hiệu quả của nhà nước, vai trò làm chủ của nhân dân
và lực lượng những người hoạt động văn hóa, tạo nhiều sản phẩm và sinh hoạt văn
hóa phong phú , đa dạng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa hiện có, sắp
xếp hợp lý các cơ quan hành chính, các đơn vị sự nghiệp và kinh doanh, nâng cấp
các đơn vị văn hóa, nghệ thuật trọng điểm, tạo chất lượng mới cho toàn ngành.
Thực hiện khẩu hiện “nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa", hình

thành các hình thức sáng tạo và tham gia hoạt động văn hóa của các tập thể, cá
nhân trong khuôn khổ luật pháp và chính sách. Khuyến khích các hình thức bảo trợ
văn hóa.
Xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở
Hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin
trong điều kiện cơ chế thị trường; ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo
văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, Hội nghị lần thứ X (Khóa IX) nhấn
mạnh ba nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Một là, tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức,
lối sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà
7
nước, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thôn
xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở
Cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa
cơ bản, lâu dài.
- Để xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh,
cần tập trung ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực trong Đảng, trong hệ thống chính
trị, những tiêu cực, tệ nạn xã hội. Cần khắc phục tình trạng mất đoàn kết nghiêm
trọng trong không ít tổ chức Đảng, quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng mạnh
hơn, tiếp tục đưa ra xét xử được những vụ tham nhũng lớn, xử lý những cán bộ,
Đảng viên kể cả một số cán bộ cấp cao của Đảng khi vi phạm kỷ luật và pháp
luật, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng , đạo đức, lối sống trong Đảng và nhân
dân. Khắc phục tình trạng lãnh phí, thất thoát trong doanh nghiệp nhà nước, trong
quản lý đất đai, trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong chi tiêu ngân sách nhà nước.
- Để tạo sự đồng thuận xã hội cao hơn trong sự nghiệp tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước; khắc phục những mâu thuận trong nội bộ nhân dân,
ngăn chặn tình trạng khiếu kiện đông người. Mở rộng dân chủ xã hội, cần chặn
đứng tình trạng vô chính phủ, dân chủ quá trớn, không tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước cộng đồng. Chúng ta cần đẩy mạnh việc bảo tồn và phát huy các

truyền thống văn hóa dân tộc nhưng cần chấm dứt tình trạng phục hồi những hủ
tục, mê tín dị đoan có chiều hướng gia tăng; đẩy mạnh cuộc vận động phòng chống
tệ nạn xã hội, xóa bỏ hiện tượng mại dâm, nghiện hút, cơ bạc, đảm bảo an toàn
giao thông.
- Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng thông qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, lối sống cho phù hợp từng đối
tượng cụ thể. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng , chỉnh đốn Đảng và cải
cách hành chính, cương quyết đưa những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ
chức Đảng và cơ quan nhà nước.
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả, nhiệm vụ xây dựng con người Việt
Nam theo 5 đức tính được xác định trong Nghị quyết TW 5 (Khóa VIII) : cụ thế
hóa theo các đối tượng, gắn chặt mục tiêu xây dựng con người với hoạt động thực
tiễn các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng của quần chúng. Quy tụ mọi hoạt
động văn hóa, phát huy thế mạnh của từng loại hình văn hóa- thông tin phục vụ
nhiệm vụ bồi dưỡng lòng yêu nước, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam thời
kỳ CNH-HĐH , xây dựng CNXH.
Ba là, chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân
cư, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đep, phong phú .
Thường xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa
ngày càng cao và đa dạng, các tầng lớp nhân dân đi đôi với nhiệm vụ bồi dưỡng
các tài năng văn hóa, khuyến khích văn nghệ sỹ sáng tạo được nhiều công trình
văn hóa - nghệ thuật tiêu biểu, có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương xứng
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc đổi mới
- Để có môi trường văn hóa lành mạnh tốt đẹp, phong phú , cần phải bảo vệ
môi trường tự nhiên sao cho sạch đẹp, cần phải xây dựng nền tảng xã hội : quan hệ
giữa người và người phải thân ái, giữa cấp trên và cấp dưới phải tôn trọng và
đoàn kết.
- Để có môi trường văn hóa cần xây dựng văn hóa trong Đảng . Phải có kế
hoạch kiên trì xây dựng văn hóa trong Đảng , văn hóa lãnh đạo và quản lý, coi đó

là một nội dung có ý nghĩa quyết định để nâng tầm lãnh đạo, uy tín chính trị-đạo
đức của cán bộ, Đảng viên, các tổ chức Đảng từ TW đến cơ sở. Các cấp ủy đảng,
các cơ quan Đảng và hệ thống chính trị phải có chương trình xây dựng văn hóa
trong Đảng và xây dựng cơ quan văn hóa
c. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay
- Xây dựng tư tưởng theo thế giới quan Mác Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam .
- Xây dựng đạo đức, lối sống theo các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
Mác Lênin, đạo đức Hồ Chí Minh và đạo lý tốt đẹp của dân tộc .
- Xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết trong các tổ chức
Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình; cải thiện
đời sống văn hóa ở những vùng đời sống văn hóa còn quá thấp kém, nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng
nhu cầu thiết yếu nhất về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân .
3. “ Hơn 50 năm sau Đề cương văn hóa Việt Nam, Nghị quyết TW 5
khóa 8 được coi là chiến lược văn hóa của Đảng thời kỳ CNH-HĐH vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Những định hướng,
mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc đã được khẳng định một lần nữa và phát triển lên tầm cao tại Đại
hội lần IX của Đảng . Và từ đó đến nay, hơn 3 năm của nhiệm kỳ TW khóa IX,
trong khi đẩy mạnh việc thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội IX, lấy phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng ta
thông qua việc thực hiện Nghị quyết TW 5 khóa VIII đã khơi dậy phong trào toàn
Đảng , toàn dân chăm lo xây dựng và phát triển văn hóa, tức là xây dựng nền tảng
tinh thần của xã hội, góp phần quan trọng tạo nên những thành tựu kinh tế xã hội,
quốc phong nước ninh, đối ngoại và sự ổn định chính trị của đất nước (trích bài
phát biểu của đồng chí Nông Đức Mạnh khai mạc Hội nghị lần thứ 10 BCH TW
Đảng khóa IX ngày 5/7/2004)
4. “văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động sáng
tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt

Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để
không ngừng hoàn thiện mình. văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tinh thần, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, là rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ta. Quan điểm chỉ
đạo cơ bản của Đảng ta đối với việc xây dựng nên văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc là coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KTXH (trích bài phát biểu của đồng chí
Nông Đức Mạnh khai mạc Hội nghị lần thứ 10 BCH TW Đảng khóa IX ngày
5/7/2004)
Tóm lại, thực hiện câu nói của Bác Hồ: "Văn hóa soi đường cho quốc dân
đi", việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm sắp tới là khát
vọng to lớn và quyết tâm chiến lược của Ðảng ta nhằm phát triển mạnh mẽ văn hóa
dân tộc, chấn hưng đất nước, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên
sánh vai với các nước trên thế giới. Đây là sự nghiệp lâu dài của cả quốc gia, dân
tộc và để sự nghiệp thành công, đòi hỏi phải có nghị lực phi thường, sức đóng góp
sáng tạo của toàn dân, đặc biệt là các thế hệ trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt
động văn hóa - thông tin, của mọi cấp, mọi ngành liên quan đến vai trò lãnh đạo của
Đảng và quản lý của nhà nước
Câu hỏi 5 : Trong sắc lệnh số 65 về “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt
Nam” do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23/11/1945 viết “Việc bảo tồn cổ tích
là việc rất cần cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam". (HCM - Văn hóa
nghệ thuật cũng là một mặt trận – Trang 386). Vận dung lý luận văn hóa đã
học, đồng chí hãy phân tích luận điểm trên ?
Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO thì văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và
trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống
các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của
mỗi dân tộc.
1. Giải thích cổ tích là di sản văn hóa – nêu khái niệm di sản văn hóa – phân
loại di sản văn hóa :
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chính trị lỗi lạc, là anh hùng dân tộc, là danh

nhân văn hóa - là biểu tượng cao đẹp của nền văn hóa Việt Nam. Người đã có công
lớn trong việc gắn kết văn hóa phương Đông với văn hóa phương Tây, phát triển và
hoàn thiện vấn đề văn hóa trong hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người luôn đề cao việc kế thừa những giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc. Trân trọng và luôn quan tâm đến việc bảo quản,
giữ gìn di sản văn hóa, không chỉ của dân tộc mà của cả nhân loại; Người nhận thức
rất sớm về vấn đề văn hóa và phát triển, đặc biệt là việc giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong công cuộc kiến thiết và xây dựng đất
nước. Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, ngày 23 tháng 11 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh về việc bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt
Nam, mở đầu sắc lệnh viết: “…việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần cho công cuộc
kiến thiết nước Việt Nam”.
Để hiểu rõ quan điểm của Người trong sắc lệnh này, chúng ta cần tìm hiểu
“cổ tích” là gì ? Theo Từ điển bách khoa toàn tập năm 1992: Cổ tích là danh từ chỉ
di tích lịch sử từ xưa, thường là chỉ các công trình kiến trúc xưa còn để lại. Như
vậy, cổ tích được hiểu là giá trị của quá khứ, do quá khứ để lại và nó chỉ phát huy
tác dụng khi được cộng đồng nhận thức, khai thác sử dụng để đáp ứng nhu cầu đời
sống hiện tại. Đó là những công trình kiến trúc, là sự kết tinh tài năng sáng tạo của
cá nhân, cộng đồng trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngày nay, khi tiếp cận lĩnh vực văn hóa truyền thống, chúng ta thường bắt
gặp thuật ngữ: di sản văn hóa. Vậy di sản văn hóa là gì? và liên quan như thế nào
với “cổ tích” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong sắc lệnh trên.
Di sản văn hoá là tổng thể những giá trị văn hoá được tích luỹ trong lịch sử,
nó được cộng đồng nhận thức, khái thác sử dụng, để đáp ứng nhu cầu cuộc sống
hiện tại. Di sản văn hoá đã kết tinh tài năng sáng tạo của cá nhân, cộng đồng và của
giai đoạn lịch sử nhất định, nó phản ánh nhu cầu khác vọng của cá nhân, của cộng
dồng về tự do, về hạnh phúc, về sự hoàn thiện, nó thể hiện sự vươn lên của con
người. Vì vây, di sản văn hoá thể hiện nhiều hình thức khác nhau rất phong phú, rất
đa dạng, để thuận lợi khai thác và sử dụng thì người ta chia di sản văn hoá nhiều
loại hình khác nhau. Căn cứ vào hình thức biểu hiện, cách thức tồn tại thì di sản văn

hoá bao gồm: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hoá phi vật thể (di sản tinh thần).
- Di sản văn hoá vật thể: là những di sản văn hoá tồn tại dưới dạng những
vật thể cụ thể như: đền đài, cung điện, thành quách, thư viện, sách, mẫu vật ở bảo
tàng, công cụ sản xuất ở các giai đọan lịch sử, tài liệu lưu trữ, các di tích thắng cảnh
thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt về văn hoá.
- Di sản văn hoá phi vật thể: là những di sản văn hoá nó không thể hiện dưới
dạng những vật thể cụ thể, mà chủ yếu nó được lưu giữ trong ký ức cá nhân, cộng
đồng và nó được thể hiện thông qua các hoạt động XH như: âm nhạc, sân khấu,
ngôn ngữ, truyền thuyết, huyền thoại, lễ hội, lễ nghi, tín ngưỡng, phong tục, tập
quán, y học dân tộc, nghệ thuật nấu ăn, bí quyết nghề thủ công mỹ nghệ.
Việc phân chia di sản văn hoá vật thể hay di sản văn hoá phi vật thể chỉ là
tương đối, trên thực tế không tách biệt hoàn toàn. Bởi di sản văn hoá vật thể chỉ là
vật chất hoá các di sản văn hoá tinh thần; còn di sản văn hóa phi vật thể cũng tồn tại
trên cơ sở vật chất, mà trước hết nó được lưu giữ trong óc người và tồn tại và lưu
truyền qua hoạt động đời sống xã hội. Ngoài ra, dựa trên nguồn gốc lịch sử, cách
thức lưu truyền của di sản văn hoá, người ta chia di sản văn hoá thành 2 loại: di sản
văn hóa dân gian và di sản văn hóa bác học; riêng đối với nước ta hiện nay, theo
cách chia này, còn có di sản văn hoá cách mạng.
Như vậy, từ những quan điểm, khái niệm và cách phân chia di sản văn hóa,
cho thấy “cổ tích” nêu trong sắc lệnh về bảo tồn cổ tích do Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký năm 1945, là Người muốn nói đến các di tích lịch sử, nó thuộc về di sản văn hóa
vật thể. Mà trong điều 4 của sắc lệnh đã ghi rõ: “Cấm phá hủy đình chùa, đền miếu,
hoặc những nơi thờ tự khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ chưa được
bảo tồn. Cấm phá hủy những bia ký, đồ vật, chiếu sắc, văn bằng, giấy má, sách vở
có tính cách tôn giáo nhưng có ích cho lịch sử mà được bảo tồn”.
2. Kế thừa là quy luật quan trọng trong phát triển văn hóa :
Cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, văn hóa luôn nằm trong quá
trình phát triển và biến đổi không ngừng. Sự phát triển từ thấp đến cao, sự thay đổi
từ nền văn hóa này sang một nền văn hóa khác là hiện tượng thường xuyên xảy ra
trong lịch sử. Trong văn hóa, tính kế thừa đã trở thành một quy luật cơ bản của sự

phát triển.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, kế thừa là một trong những mặt bản
chất nhất của quy luật phủ định của phủ định biểu hiện trong tự nhiên, xã hội và tư
duy như là mối liên hệ tất yếu khách quan giữa cái cũ và cái mới trong quá trình
phát triển. Quy luật kế thừa trong phát triển văn hóa, có những biểu hiện khác
nhau, tùy theo lĩnh vực văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần. Trong lĩnh vực sản
xuất vật chất, tính kế thừa được thực hiện ngay cả khi con người không nhận thức
được thái độ của mình đối với sự kế thừa đó, nhưng trong văn hóa tinh thần thì trái
lại, con người ý thức rất rõ về việc tiếp thu hay phê phán các giá trị văn hóa có
trước; việc thực hiện quy luật kế thừa có thể là trực tiếp (như trong lĩnh vực khoa
học) hay là gián tiếp (như trong nghệ thuật, bởi tính độc đáo của sáng tạo nghệ
8
thuật không cho phép nghệ sĩ bắt chước thành tựu của người đi trước dù người đi
trước là một thiên tài).
Trong lĩnh vực văn hóa, nói kế thừa là nói đến di sản văn hóa, bởi vì kế thừa
là kế thừa những di sản đã có. Văn hóa trong bất cứ thời nào đều đồng thời bao
gồm việc sử dụng di sản văn hóa quá khứ và sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới. Kế
thừa di sản văn hóa quá khứ là hiện tượng có tính quy luật. Tuy vậy, không phải lúc
nào con người cũng ý thức được rõ ràng việc kế thừa các di sản văn hóa quá khứ.
Đã có một thời của lịch sử nhân loại, các thành tựu rực rỡ của văn hóa Hy Lạp cổ
đại bị bỏ quên, nhưng cũng chỉ một thời gian sau đó, thời Phục Hưng đã làm sống
lại nền văn hóa nhân bản đó. Tuy nhiên kế thừa phải gắn liền với sáng tạo, đổi mới.
Sự kế thừa và sáng tạo bảo đảm cho văn hóa một quá trình phát triển tiệm tiến, khi
nhanh, khi chậm nhưng liên tục.
Sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới XHCN đòi hỏi phải biết tiếp thu, tất
nhiên có chọn lọc, tất cả những giá trị văn hóa nhân loại. Bản thân sự ra của chủ
nghĩa Mác đã nói lên điều đó. Lênin cho rằng: chủ nghĩa Mác sở dĩ giành được ý
nghĩa lịch sử trên toàn thế giới về mặt hệ tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng là
vì chủ nghĩa Mác không những đã không vứt bỏ những thành tựu hết sức quý báu
của thời đại tư sản, mà trái lại, còn tiếp thu và cải tạo tất cả những gì quý báu trong

lịch sử hàng ngàn năm phát triển của tư tưởng và văn hóa tiến bộ của nhân loại.
Là lãnh tụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rất rõ kế thừa giá trị
truyền thống văn hóa là khai thác những yếu tố hợp lý và tiến bộ nhằm phục vụ
mục tiêu, nhiệm vụ mới của đất nước. Tinh thần ấy thể hiện rất rõ trong Báo cáo
chính trị của Hồ Chí Minh đọc tại Đại hội lần thứ II của Đảng: “Tinh thần yêu nước
cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê,
rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấy kín đáo trong rương, hòm. Bổn phận
của chúng ta là làm cho những của cao quý kín đáo ấy được đưa ra trưng bày”.
3. Ý nghĩa của di sản văn hóa :
Ngày nay, văn hóa được nhận thức là nền tảng tinh thần của xã hội. Phát
triển văn hóa và con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển KT-XH. Mà
quá trình phát triển văn hóa là quá trình kế thừa, sử dụng các di sản văn hóa và sáng
tạo ra các giá trị văn hóa mới. Đặc biệt các di sản văn hóa dân tộc có ý nghĩa rất
quan trọng trong sự phát triển nền văn hóa nói riêng và trong sự phát triển chung
của một quốc gia, dân tộc.
a- Về mặt Nhận thức: Di sản văn hoá là cơ sở quan trọng để nhận thức về
quá khứ lịch sử. Di sản văn hoá cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm, tri thức
trong ứng xử với môi trường tự nhiên, XH và bản thân để tồn tại và phát triển. Gợi
mở những vấn đề để chúng ta tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu và trên cơ sở đó góp
phần giải quyết vấn đề của cuộc sống ngày hôm nay, những vấn đề tự do, những
vấn đề hạnh phú. Như vậy, di sản văn hoá không chỉ giúp cho chúng ta hiểu rõ quá
khứ, mà trên cơ sở hiểu đúng, hiểu rõ quá khứ, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về
hiện tại và từ đó mới có những dự báo tương đối chính xác cho tương lai.
b- Về mặt Giáo dục: Di sản văn hoá góp phần giáo dục ý thức cộng đồng, ý
thức cội nguồn, thái độ trân trọng đối với lịch sử. Thông qua đó góp phần củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc, mà người ta ví nó như chất keo gắn bó các thành viên
trong cộng đồng.
c- Về mặt Thẩm mỹ: Di sản văn hoá kết tinh những tài năng sáng tạo của cá
nhân, cộng đồng nhất định và nó xuất hiện trong bối cảnh lịch sử đặc thù. Chính vì
vậy, rất nhiều di sản văn hoá đạt được tính độc đáo, không lập lại; thậm chí có

những di sản văn hóa trở thành mẫu mực, ghi lại dấu ấn của một sự kiện lịch sử và
vì vậy có rất nhiều di sản văn hoá tiêu biểu những tâm tư tình cảm của con người.
Di sản văn hoá không chỉ cung cấp những tư liệu để sáng tạo giá trị văn hóa mới,
mà còn góp phần tạo cảm hứng, tạo dựng thế giới cảm quan cho sự sáng tạo các giá
tri mới. Nhờ đó, nó làm cho các giá trị quá khứ được chuyển nhập vào thời hiện
đại, tạo nên những truyền thống. Ví dụ như: Cuộc đời hoạt động và nhân cách của
Chủ tịch HCM làm nên những dấu ấn lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
trong điều kiện mở của hội nhập kinh tế, quốc tế hiện nay
d- Về mặt Kinh tế: Trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, di sản văn hóa còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển nền kinh tế quốc gia.
Một đất nước có những di sản văn hóa được bảo vệ, quản lý tốt sẽ góp phần rất lớn
vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chủ yếu là bằng cách phát triển ngành
kinh tế dịch vụ và hoạt động du lịch.
Tóm lại: Di sản văn hoá là các sản phẩm, các giá trị văn hóa do các thế hệ
trước sáng tạo và truyền lại cho các thế hệ sau, bao gồm các di sản vật thể và di sản
phi vật thể (di sản tinh thần). Di sản văn hóa là tài sản vô giá, có tác dụng gắn kết
cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc quốc gia dân tộc, là cơ sở để sáng tạo
những giá trị mới và để giao lưu văn hoá với các cộng đồng dân tộc, quốc gia khác.
Ngoài ra, di sản văn hóa còn góp phần thỏa mãn nhu cầu văn hóa của nhân dân,
nâng cao ý thức tự hào dân tộc và góp phần phát triển KT-XH của đất nước. NQ
TW5, khoá VIII xác định: “Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy nhưng giá
trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn
hóa vật thể và phi vật thể”.
Đối với nước ta, giá trị văn hóa kết tinh trong các di sản văn hóa, nó được
tích lũy trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc còn được lưu giữ lại. Những di sản này rất phong phú, da dạng, tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau: cổ vật, công trình kiến trúc hoặc còn ẩn trong lòng đất
hoặc đang được lưu trữ trong các bảo tàng, các công cụ sản xuất, đồ dùng bằng
sành sứ, những thành quách, chùa tháp, đình làng, phố cổ, lăng tẩm, cung điện…
thuộc loại văn hóa vật thể. Văn hóa phi vật thể đa dạng hơn gồm các loại văn hóa,

các loại hình nghệ thuật âm nhạc, ngôn ngữ, triết lý, đạo đưc, truyền thuyết, huyền
thoại, lễ hội, lễ nghi, phong tục tập quán… đặc biệt là những danh nhân văn hóa
anh hùng dân tộc, những trí thức dân tộc.
Di sản văn hóa là truyền thống văn hóa. Khi đưa thế hệ sau lựa chọn, trước
hết đó là dấu ấn, là hiện thân của lịch sử dân tộc, nó chứa đựng những giá trị thẩm
mỹ, là biểu trưng của văn hóa, là tiềm tàng của nền văn hóa dân tộc, đồng thời nó
cũng là tiềm năng để duy trì dân tộc và con người dân tộc. Di sản văn hóa là hiện
thân cụ thể của truyền thống văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc. Truyền thống văn
hóa dân tộc là sự nối tiếp liên tục của các giá trị văn hóa và cũng chính là các giá trị
văn hóa do lịch sử để lại. Nhưng không phải hoàn toàn là giá trị do lịch sử để lại
đều trở thành truyền thống, chỉ có những giá trị nào được thế hệ sau tiếp nhận làm
sống lại mới trở thành truyền thống. Quy luật tồn tại và phát triển nên truyền thống
dựa vào thuộc tính năng động nhất của nó là chọn lọc, biến đổi sáng tạo. Trong đó
di sản là nguyên liệu cho sự sáng tạo. Không có di sản, không có quá trình chọn lọc
biến đổi và sáng tạo, không có truyền thống văn hóa.
4. Thực trạng, phương hướng, giải pháp bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
trong thời kỳ hiện nay : a- Thực trạng:
Đất nước ta có điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng về thời tiết, khi hậu,
địa hình. Do đó các di sản văn hoá ghi lại dấu ấn những vùng, miền khác khau như:
miền núi, đồng bằng, trung du, vùng biển…rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh, về
mặt lịch sử - xã hội, do sớm hình thành quốc gia và có quá trình phát triển một cách
liên tục qua các giai đoạn. Sớm và thường xuyên có sự giao lưu với các nước, nhất
là Trung Hoa, Ấn Độ, sau này các nước phương Tây, Hà Lan, Pháp. Sớm có chiến
tranh và thường xuyên có chiến tranh, những đặc điểm lịch sử này để lại những dấu
ấn trên các di sản văn hoá.
Trong điều kiện thường xuyên phải chống giặc ngoại xâm, đặc biệt trước âm
mưu đồng hóa dân tộc của các nước xâm lược nước ta, cha ông ta đã có ý thức bảo
vệ di sản văn hóa từ rất sớm, từ thời Lý Thường Kiệt, Quang Trung - Nguyễn Huệ
và gần đây là trong hai thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ, mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực cho mọi người, con cháu noi theo.

Ngay sau khi khai sinh Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác Hồ đã ký sắc lệnh
về bảo tồn di sản văn hóa trên toàn cõi Việt Nam.
Thời gian qua chúng ta đã thực hiện việc kiểm kê, đánh giá, bảo tồn các di
sản văn hóa. Tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế; mà nguyên nhân là
do sự nhận thức chưa đúng của một bộ phận cán bộ, nhân dân, trong đó có quan
niệm đồng nhất sản phẩm của chế độ với bản thân chế độ đó, coi sản phẩm là biểu
tượng của chế độ. Từ đó, đi đến trong đấu tranh xóa bỏ chế độ cũ đã xóa bỏ luôn
những sản phẩm văn hóa của chế độ đó. Ví dụ như: khi xoá bỏ nền thống trị của
chế độ phong kiến, đã xảy ra tình trạng đập phá lăng tẩm, thành quách; xóa mê tín,
dị đoan thì xóa luôn hoạt động lễ hội, tín ngưỡng tôn giáo; đánh địa chủ thì phá
luôn những công trình văn hóa có liên quan đến địa chủ ….
Đất nước Việt Nam dày đặc các di tích lịch sử - văn hoá, chính những di tích
này đã tạo nên “khí thiêng sông núi”, thức tỉnh, nuôi dưỡng lòng yêu nước thương
nòi của bao thế hệ. Hiện nay, cả nước có khoảng trên 1.500 di tích văn hoá được
xếp hạng, không kể các di tích do tỉnh, huyện, xã quản lý. Trong đó có 5 di tích
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới: Phố cổ Hội An, Thành cổ
Huế, Đình Mỹ Sơn, Vịnh Hạ Long và Đầm Phong Nha.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, các di sản văn hoá bắt đầu bị phá
hoại nghiêm trọng. Nhiều pho tượng quý ở những ngôi chùa cổ nổi tiếng bị lấy cắp
như ở chùa Tây phương, chùa làng đa sĩ. Nhiều núi đá voi tại khu vực được coi là
thắng cảnh đã bị phá nham nhở làm vật liệu xây dựng như ở Hạ Long, Sa Pa, núi
Chùa Trầm và núi Sài Sơn (Hà Tây),.v.v Nhiều khu vực lễ hội bị ô nhiễm bởi nạn
buôn thần, bán thánh, mê tín dị đoan, chụp giật và còn biết bao nhiêu tệ nạn khác đã
xâm phạm, huỷ hoại tài sản văn hoá dân tộc. Những tài sản văn hoá ấy là duy nhất,
đã mất đi thì không có gì thay thế được. Tác dụng của các di sản đó đối với việc
khơi dậy lòng yêu quê hương, yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần cộng
đồng và sự gắn bó với cộng đồng là rất lớn.
b- Phương hướng - Giải pháp:
Việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa đòi hỏi phải nghiên cứu, phân
tích chọn lựa các yếu tố tích cực trong di sản để kế thừa, nâng cao trong sự sáng tạo

ra những giá trị văn hóa mới của văn hóa dân tộc.
Giáo dục các thế hệ mới thấu hiểu, tự hào, tôn trọng di sản của quá khứ, biết
khám phá các giá trị của văn hóa trong di sản để kế thừa và phát huy. Cần phải
chuyển đổi những giá trị cũ thành những giá trị mới đáp ứng yêu cầu của thời đại
và bù đắp những thiếu hụt trong di sản bằng những giá trị mới.
Đầu tư cho việc bảo tồn, tu tạo các di tích lịch sử, văn hóa một cách có quy
hoạch, có sự chỉ đạo thống nhất. Nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân và các
cơ quan nhà nước, các cơ quan đoàn thể xã hội trong việc bảo vệ các di sản văn
hóa. Coi di sản văn hóa là tài sản vô giá của cộng đồng, xác định các chủ thể của
các tài sản đó để có trách nhiệm gìn giữ, bảo quản và tôn tạo.
Đồng thời với việc sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới, tạo ra di sản cho
tương lai là việc giới thiệu di sản văn hóa dân tộc với thế giới, giúp cho nhân dân
thế giới hiểu biết, trân trọng và tham gia các hoạt động đóng góp bảo tồn các di sản
văn hóa của chúng ta. Thông qua đó mà phát triển tình hữu nghị, tinh thần hợp tác
quốc tế, tạo điều kiện để phát triển KT-XH và phát triển văn hóa của đất nước.
Về giải pháp thực hiện:
- Cần tích cực làm tốt công tác sưu tầm, kiểm kê, nghiên cứu đánh gía các di
sản văn hoá. Trên cơ sở đó có kế hoạch quản lý tốt và khai thác sử dụng một cách
có hiệu quả. Trong sưu tầm đặc biệt lưu ý đến di sản văn hoá dân gian. Bởi vì, nước
ta là nước nông nghiệp truyền thống, có nền văn hóa lúa nước đặc sắc, cho đến nay
về cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, dân cư nông thôn sống dựa vào sản xuất nông
nghiệp còn khá đông (khoảng 70%). Bộ phận di sản văn hoá dân gian là rất lớn và
có vai trò quan trọng cả trong lịch sử và hiện tại. Để nghiên cứu văn hoá VN thì
không thể không nhiên cứu di sản văn hoá dân gian. Ngày nay, nước ta đang trong
tiến trình công nghiệp hóa, đô thi hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình này
làm cho di sản văn hoá dân gian có nguy cơ bị biến mất rất nhanh, và khó có thể
tìm lại được.
- Gắn bảo tồn các di sản văn hoá với việc phát huy các giá trị của di sản văn
hoá, tức là phải giữ gìn, lưu truyền đồng thời khai thác, sử dụng có hiệu quả di sản
văn hoá. Đối với các di sản văn hoá vật thể cần phải làm tốt công tác trùng tu, tôn

tạo để giữ gìn, bảo quản được lâu dài. Công việc này đòi hỏi phải hết sức thận
trọng, đảm bảo yêu cầu về mặt kỹ thuật. Đối với loại di sản phi vật thể, để duy trì,
bảo tồn được nó thì phải đưa nó vào trong cuộc sống hiện tại và phải giữ gìn môi
trường, cảnh quan, cơ sở vật chất cho sự tồn tại của nó.
- Bảo tồn phải gắn liền với việc phê phán, chống lại, loại bỏ các hiện tượng
phản văn hoá, những tục lệ lạc hậu có nguy cơ kìm hãm sự phát triển.
- Hiện nay chúng ta đã có Luật Di sản văn hoá, vấn đề đặt ra là phải đưa luật
vào cuộc sống để thực hiện. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho nhân
dân, đặc biệt là chú trọng những người làm công tác quản lý trong lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật. Luật phải được thực thi nghiêm túc từ trong cán bộ, đảng viên, trong
các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt đối với các di sản văn hoá vật
thể cần có thái độ hết sức thận trọng, bình tĩnh và phải trên cơ sở khoa học; mọi
quyết định vội vàng, nóng vội đều có thể để lại những hậu quả dai dẳng, khó khắc
phục được.
- Cuối cùng là gắn việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá với việc chống
lại âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống phá cách mạng
9
Việt Nam trên mặt trận tư tưởng văn hoá, nghệ thuật. Nhất là đối với hoạt động
xuyên tạc, bôi nhọ, xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc.
Tóm lại, vấn đề kế thừa, bảo vệ và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức,
thẩm mỹ, các di sản văn hóa nghệ thuật của dân tộc bảo tồn và tôn tạo các di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của đất nước. Trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặt biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản
sắc văn hóa dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới làm giàu đẹp
thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc
hại, những khuynh hướng hàng ngoại coi thường các giá trị nhân văn
Câu hỏi 6 : Năm 1947 tuyên truyền về việc xây dựng đời sống mới trong nhân
dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời
sống mới thì dân tộc nhất định sẽ phú cường” (Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 5
– NXBQG Hà nội – 1955 – Trang 99). Từ quan điểm trên, đồng chí hãy phân

tích vị trí, vai trò của lối sống đối với sự phát triển của KTXH và những vấn
đề liên quan đến hoạt động xây dựng lối sống văn hóa hiện nay ?
Bài làm
1. Nêu khái niệm đời sống mới,
Sau khi cách mạng tháng Tám giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lưu tâm ngay đến việc xây dựng đời sống mới trong nhân dân. Năm 1947 tuyên
truyền về việc xây dựng đời sống mới trong nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết “Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới thì dân tộc nhất định sẽ
phú cường”. Phong trào xây dựng đời sống mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát
động trong năm 1947 là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng tháng Tám trên
lĩnh vực văn hóa ở ở nước ta nhằm xây dựng cuôc sống khoa học, lành mạnh từ gia
đình đến thôn xóm, phố phường, đây là một cuộc vận động cách mạng, một cuộc
đấu tranh chống lại cái cũ, lạc hậu để xây dựng đời sống mới tươi trẻ và tiến bộ.
Ngày nay, khi đất nước đã hoàn tòan giải phóng, trong sự tác động phức tạp của
nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng đời sống mới càng có ý nghĩa hơn bao giờ
hết và nội hàm đời sống mới giai đoạn hiện nay được hiểu thực chất như một lối
sống có văn hóa.
2. Nêu khái niệm lối sống :
Như vậy, lối sống là gì ? Lối sống là một phạm trù xã hội mang tính
khách quan, nó khái quát toàn bộ hoạt động của nhóm, của xã hội, của dân tộc, của
cá nhân trong một hình thái KTXH nhất định và đời sống hàng ngày của con
người. Lối sống được biểu hiện qua lao động, qua hưởng thụ, qua quan hệ giữa
người với người, qua sinh hoạt tinh thần và văn hóa. Lối sống là sản phẩm tất yếu
của một hình thái KTXH nhất định, góp phần củng cố và phát triển hình thái xã hội
ấy. Tìm hiểu lối sống trước hết từ phương thức hoạt động sản xuất của con người, ở
mặt quan hệ với thiên nhiên (lực lượng sản xuất) và quan hệ với xã hội (quan hệ sản
xuất)
Lối sống bao gồm nhiều thành tố cơ bản như : mức sống, nếp sống, lẽ
sống và chất lượng sống, phong cách sống. Mức sống nói lên trình độ sinh hoạt vật
chất và tinh thần mà con người được hưởng thụ, nó là một chỉ báo về lối sống,

phản ánh trình độ con người đã đạt được về mặt sản xuất. Nếp sống : hình thành
hành vi ứng xử của con người, nó biểu hiện sự ổn định, tính bền vững của lối sống,
là chiều sâu của lối sống. Tất cả những cách thức làm ăn, sinh sống, suy nghĩ, đối
xử … đã được mọi người trong xã hội thừa nhận là đúng, đều làm như thế và
hướng cho lớp trẻ cũng làm như thế, được lặp đi lặp lại lâu ngày thành thói quen
xã hội, thành phong tục tập quán, thành lễ chế, luân lý, pháp luật, của toàn xã hội,
của cả một thời, và có truyền từ đời này qua đời. Lẽ sống được hiểu như là khát
vọng, hoài bão, lý tưởng, mục đích, động cơ, nhu cầu của cá nhân. Đây là phạm trù
nhân sinh quan của lối sống, là cơ sở tinh thần động lực của nếp sống, lối sống.
Phong cách sống trước hết thể hiện ở thói quen, lao động sản xuất và chính trị xã
hội, trong sinh hoạt, trong các phong tục tập quán chi phối các hoạt động cụ thể. Nó
là một phương thức hoạt động của con người được xác định bởi điều kiện kinh tế
XH và địa lý khách quan, các mong muốn chủ quan, các quan điểm cá nhân, của cả
tập thể XH hay cả một XH nói chung. Chất lượng sống : nói lên khả năng phát triển
hài hòa của con người trong bản thân dân tộc, giữa con người với tự nhiên. Biểu
hiện tổng hợp qua mức sống, mức hưởng thụ, mức học tập.
Lối sống mới XHCN mà chúng ta xây dựng có những đặc trưng mang tính
nguyên tắc, của con đường đi lên CNXH. Nó được xây dựng trên cơ sở của những
yếu tố :
Một là lối sống mới XHCN được xây dựng dựa trên chế độ sở hữu đa dạng,
trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai trò chủ đạo : điều này đã được văn kiện ĐH IX
(Trang 78) ghi rõ: “chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về TLSX chủ yếu từng
bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về
cơ bản. Xây dựng chế độ đó là một quá trình phát triển KTXH lâu dài qua nhiều
bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử nghiệm để xây
dựng chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất nói chung với bước
đi vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu qủa xây dựng quan hệ sản xuất
theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”
Hai là lối sống mới dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động : làm việc

theo khả năng, hưởng thụ theo lao động. .
Ba là lối sống mới dựa trên nền tảng chính trị vững chắc, nhà nước của dân
do dân và vì dân.
Bốn là lấy chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng
chỉ đạo.
Năm là xóa bỏ các bất bình đẳng về chủng tộc, dân tộc, giới tính, thực
hiện tự do, công bằng, dân chủ và nhân ái trong quan hệ xã hội. Lối sống XHCN
mang trong mình những giá trị tinh thần cao cả, là một biểu hiện cụ thể của chủ
nghĩa nhân đạo.
Như vậy, những đặc điểm của lối sống mới XHCN là : tính tập thể chân
chính giữa người với người, sự giúp đỡ trên tinh thần đồng chí với nhau và tinh
thần quốc tế XHCN … thỏa mãn ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu vật chất và
tinh thần của nhân dân và dựa trên cơ sở đó, phát triển một cách toàn diện và cân
đối mỗi thành viên trong xã hội.
Ngày nay, lối sống mới còn là một lối sống có văn hóa, tức là mang toàn bộ
phẩm chất tốt đẹp của con người và phẩm chất đó phù hợp với thời đại.
3. Nêu vị trí của lối sống - 1 trong những lĩnh vực then chốt của VH
Vấn đề lối sống là một trong những lĩnh vực then chốt của văn hóa. Lối
sống cùng với đạo đức và chuẩn giá trị xã hội là sự vận dụng, thực hành và cũng là
sự đúc kết bảng giá trị đã đạt được của văn hóa dưới dạng các khuôn mẫu (chuẩn
mực văn hóa). Vì vậy. vị trí của lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội là : xác
định cái thiện và bản sắc dân tộc, để phát triển văn hóa, xây dựng con người mới
trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
4. Vai trò của lối sống có văn hóa đối với phát triển xã hội.
Lối sống còn có vai trò quan trong đối với phát triển xã hội, bao gồm :
Một là lối sống bảo đảm sự liên kết cộng đồng. Trên cơ sở cấu trúc của
lối sống (nếp sống, phong tục, tập quán, mức sống, lẽ sống ), mối quan hệ liên
kết cộng đồng giữa thành viên trong xã hội, giữa con người với tự nhiên, con người
với xã hội được duy trì. Bất cứ cộng đồng nào cũng có nền tảng của lối sống,
phương thức của lối sống và những chuẩn mực của lối sống đặc thù của mình.

Ngoài ra, lối sống còn là mặt văn hóa cuộc sống con người, nét văn hóa được biểu
hiện vừa trong lối sống vật chất (văn hóa ẩm thực, văn hóa tiêu dùng ), vừa biểu
hiện trong những giá trị tinh thần ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, với quan niệm về nghệ thuật.
Thứ hai, lối sống có thể xem như là văn bản văn hóa duy trì sự phát
triển tinh thần xã hội. Trong lối sống thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc thông qua
những thành tố của nó (phong tục, tập quán, thói quen, lễ chế ) . Trong quá khứ,
khi trình độ văn hóa của xã hội chưa phát triển thì thông qua lối sống để giáo dục
con người toàn diện từ sản xuất (hội mùa) đến lịch sử (kế tục bằng lịch sử) truyền
đạt kinh nghiệm, giáo dục con người giữ được truyền thống lịch sử.
Thứ ba là nhờ có lối sống những tư tưởng chính trị, triết học, quan điểm thẩm mỹ mới
được hiện thực hóa.
Bốn là lối sống tạo ra không gian hết sức rộng lớn, cởi mở, tự do để cho mọi cá nhân phát
triển trong khuôn khổ cộng đồng.
Tóm lại, từ những phân tích trên cho thấy, lối sống tác động rất lớn
đến sự phát triển của văn hóa, xã hội cũng như thịnh vượng của một quốc gia, dân
tộc. Nếu như đạo đức đóng vai trò như lẽ sống thì lối sống đóng vai trò định hình,
định tính đối với việc xây dựng con người và phát triển văn hóa. Việc xây dựng lối
sống mới trong đó cơ bản là các khuôn mẫu ứng xử và các thể chế xã hội - văn hóa
sẽ góp phần tổng hòa các quan hệ xã hội, cân bằng các giá trị vật chất và tinh thần ở
mỗi con người và trong toàn xã hội, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện,
hài hòa và từ đó làm động lực thúc đẩy dự phát triển của đất nước. Trong giai đoạn
hiện nay, Đảng ta đặt vấn đề xây dựng lối sống có tính văn hoá là một nội dung
quan trọng trong chiến lược xây dựng con người mới và như vậy, việc xây dựng lối
sống có văn hoá đã trở nên bức bách, không thể thờ ơ khi chúng ta quan tâm đến
việc hình thành nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa đầu thế kỷ 21 .
5. Phân tích những đặc trưng của lối sống văn hóa
Ngày nay, lối sống văn hóa được biểu hiện qua các đặc trưng sau :
- Một là phải tôn trọng lao động và giá trị của lao động, của người lao
động, một ý nghĩa tốt đẹp của đời sống : lao động được đặt lên vị trí hàng đầu trong

bảng giá trị của xã hội : lao động là nghĩa vụ, là lương tâm, là phẩm chất của con
người mới
- Hai là phải có một sinh hoạt lành mạnh nó có liên quan đến sức khỏe,
trí thông minh của con người
- Ba là tôn trọng giá trị gia đình : vừa là đạo lý vừa là nét đẹp của văn
hóa.
- Bốn là phải quan tâm đến cuộc sống chính trị - xã hội phát huy tính
tích cực của chính trị, hướng tới sự phát triển toàn diện có nhân cách
Ngoài ra, đối với nước ta, lối sống văn hóa mới phải mang tính dân
chủ, công bằng trong sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hoá. Lối sống mới Việt
Nam là lối sống đạo đức, thể hiện ở chủ nghĩa nhân đạo, tình yêu thương và tôn
trọng con người. Đó là, cái thiện, cái ác, lương tâm, danh dự, nghĩa vụ đều phải dựa
trên cái đúng, cái đẹp. Xa rời chuẩn mực của cái đúng cái đẹp, các quan hệ đạo đức
chưa đủ vươn mình ra khỏi những giá trị cũ. Lòng nhân ái Việt Nam vốn bắt nguồn
từ tình cảm cộng đồng đã có từ lâu đời như “thương người như thể thương thân” là
nguyên tắc luân lý cao đẹp từ xưa đến nay, cần được nâng lên tầng cao mới. Lòng
nhân ái Việt Nam được tôi luyên trong phong trào đấu tranh cách mạng và được
nâng lên thành tinh thần quốc tế chân chính và nhân ái.
Việc xây dựng, hình thành những chuẩn mực của một lối sống văn hóa
mới trong cộng đồng thời gian qua đã và đang góp phần nâng cao tính tích cực
trong hoạt động thực tiễn của nhân dân ta, giúp họ biết cách sống thực sự : lao
động hết sức mình, thể hiện một trình độ văn hóa cao trong sinh hoạt, có thói quen
quản lý tập thể các công việc xã hội và Nhà nước, sử dụng thời gian nhàn rỗi một
cách có lợi cho phát triển thể lực, tinh thần và đạo đức của mình, đẩy lùi khỏi đời
sống tất cả những gì gây thiệt hại cho xã hội và cho con người. Lao động tập thể,
chính là một bảo đảm cho những kết quả cả trong mọi công việc nhỏ bé hằng ngày
lẫn trong sự nghiệp vĩ đại xây dựng CNXH và CNCS
* Thực trạng :
Thực tế những năm qua cho thấy rằng lối sống văn hóa của xã hội ta
hiện nay có bước tiến bộ rõ rệt. Mức sống đã gia tăng trong một bộ phận dân cư.

Lối sống đã khởi sắc và tỏ ra năng động, tính tích cực công dân được khơi dậy và
phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại, trông chờ trong cơ chế cũ. Bầu không
khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, mặt bằng dân trí được nâng cao, sở trường,
năng lực cá nhân con người được khuyến khích, tôn trọng. Trong sự phong phú,
đa dạng và bộn bề của đời sống, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hô Chí Minh
được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo vẫn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam bảo đảm cho xã hội phát triển đúng hướng. Đã định hình được những nhóm
giá trị chính như : độc lập, tư do cho dân tộc và cho mỗi người, giá trị việc làm có
thu nhập cao, giá trị tôn trọng nghệ nghiệp, chuyên môn, giá trị cái đẹp và sự đa
dạng cái đẹp Các mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa - dù tác động dữ dội
– đã không thể ngăn nổi nhân dân ta duy trì và phát triển truyền thống tốt đẹp
(tình làng nghĩa xóm, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ những người bất hạnh, v.v )
Tuy nhiên, lối sống hiện nay vẫn còn nhiều điều tồn tại, đáng lo ngai.
Đó là những hiện tượng suy thoái đạo đức, đặc biệt là nạn tham nhũng, hối lộ,
buôn lậu, gian lận thương mại, mua bằng, bán điểm, mua bán chức quyền trước
10
sự tấn công của thói ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, sức mạnh đồng
tiền và chủ nghĩa thực dụng. Đó là trạng thái dao động, hoài nghi, giảm sút niềm
tin, phai nhạt lý tưởng ở một bộ phận đảng viên, cán bộ, kể cả một số cán bộ
trung, cao cấp. Đó là nhiều hiện tượng nhức nhối trước đây không hề có trong
quan hệ gia đình, đạo lý thầy trò, quan hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn giá trị
và nếp sống vốn tốt đẹp. Đó là một bộ phận dân cư, kể cả một số thanh niên, học
sinh, sinh viên, sự hiểu biết còn quá ít về lịch sử dân tộc, về các giá trị truyền
thống mà lịch sử và cách mạng đã xây nên, trong khi đó lại phục hồi không phân
biệt tốt xấu các vốn cổ dân tộc, đồng thời đi liền với tâm lý sùng ngoại đôi khi
đến mức mù quáng, phi lý, kệch cỡm. Đó là các tệ nạn xã hội có chiều hướng gia
tăng, sự đam mê nhu cầu vật chất và những dục vọng thấp hèn, lối sống bất chấp
đạo lý, dư luận xã hội và luật pháp đang xô đẩy một số người đi vào con đường
tội lỗi.
6. Những nhiệm vụ liên quan đến xây dựng lối sống mới hiện nay


Từ những phân tích trên cho thấy, việc xây dựng một lối sống văn hóa đang trở là vấn đề
bức bách của toàn xã hội. Việc xây dựng lối sống mới hiện nay cần tập trung vào mấy vấn đề
trọng tâm như sau : Một là phải coi trọng giá trị truyền thống của đạo lý, . Hai là coi trọng pháp
luật. Ba là phải xây dựng giá trị tinh thần lao động mới tích cực sáng tạo làm giàu đất nước.
Bốn là phải phát huy tính tích cực chính trị xã hội của mỗi người, Năm là phải giữ gìn, phát huy
thuần phong mỹ tục và những giá trị văn hóa mới hình thành, khuyến nghị các địa phương xây
dựng các chương trình, hành động cụ thể có trọng tâm, trọng điểm nhằm bảo tồn phong tục tập
quán và các giá trị truyền thống ở địa phương, nhất là ở các vùng nông thôn. Sáu là tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa của nền văn minh, văn hóa nhân loại. Bảy là phải phát động phong
trào xây dựng gia đình văn hóa mới, triển khai tích cực, cụ thể và có hiệu quả hơn cuộc vận
động xây dựng “nếp sống văn minh, gia đình văn hóa”, thực hiện các quy ước về việc cưới,
tang, lễ hội và quy ước làng văn hóa. Tám là phải xây dựng các thiết chế văn hóa
Trong việc xây dựng lối sống mới, cần lưu ý rằng nội dung lối sống
mới rất phong phú nó có quan hệ tới con người, đến phương thức sản xuất, đến hình
thái kinh tế - xã hội, đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm, thái độ, động cơ sinh hoạt
của con người. Do vậy, xây dựng lối sống mới phải xây dựng một cách toàn diện.
Bên cạnh đó, xây dựng lối sống mới phải trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng, giữa cái phổ biến và cái đặc thù, giữa cá nhân và tập thể một
cách hài hòa trong cơ cấu lối sống XHCN. Không thể có một lối sống chung, chỉ
có lối sống của một xã hội nhất định, của một dân tộc nhất định, ở một thời đại nhất
định, do vậy phải biết xử lý tốt mối quan hệ giữa tính truyền thống và tính hiện đại
trong nếp sống.
Trước mắt trong thời kỳ đổi mới, xây dựng lối sống mới cần chú ý tập trung vào 3 vấn đề
chính như sau : một là tiếp tục phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc (thuần phong mỹ
tục), hai là xây dựng lối sống phù hợp với xã hội hiện đại : công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lối
sống chính trị, lối sống dân chủ, nhân đạo, lịch sự tiến bộ …, ba là sự hội nhập quốc tế ngày
càng cao đòi hỏi xây dựng lối sống phải thống nhất.
Câu hỏi 10:Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ
nhất (1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Văn hóa soi đường cho quốc dân

đi ” (Báo Cứu quốc, số ra ngày 24-11-1946). Bằng lý luận văn hóa đã học, đồng
chí hãy phân tích tư tưởng trên và liên hệ với sự vận dụng của Đảng ta trong
giai đoạn hiện nay.
Trong lời tuyên bố mở đầu thập kỷ thế giới văn hóa vì phát triển, ông Tổng
giám đốc Tổ chức khoa học và văn hóa liên hiệp quốc (UNESCO) đã nhấn mạnh
“kinh nghiệm của hai thập kỷ vừa qua cho thấy rằng trong xã hội ngày nay, bất
luận là trình độ kinh tế nào, hoặc xu hướng chính trị nào, văn hóa và phát triển là
hai mặt gắn liền với nhau. Nước nào tự đặt cho mình một mục tiêu phát triển kinh
tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm
trọng và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu đi nhiều Phát triển cần
phải thừa nhận văn hóa giữ vai trò trung tâm và vai trò điều tiết xã hội. Nói tóm lại
trọng tâm, động cơ và mục đích phải được tìm trong văn hóa. Đây là bài học quý
báo rút ra từ việc tổng kết gần 3 thế kỷ phát triển công nghiệp trên”
Như vậy, sự phát triển của một quốc gia, dân tộc : hưng thịnh hay suy vong
đều có vai trò của văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong diễn văn khai mạc Hội
nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (1946) đã viết : “Văn hóa soi đường cho quốc
dân đi” (Báo Cứu quốc, số ra ngày 24-11-1946). Vì vậy tìm hiểu về văn hoá có ý
nghĩa hết sức thiết thực và sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng bảo tồn và phát huy
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp sức đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước hiện nay
1. Văn hóa là gì ? B/chất của VH
Thuật ngữ văn hoá xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và cho đến
nay vẫn là một trong những khái niệm phức tạp và khó xác định. Song, có thể định
nghĩa văn hóa như sau : văn hóa là hoạt động tinh thần nhằm phát huy những năng
lực bẩm sinh và bản chất của con người để sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh
thần dựa trên các chuẩn mực : chân, thiện, mỹ nhằm duy trì sự tồn tài và phát triển
của cá nhân và cộng đồng xã hội. Văn hóa cũng là hoạt động nhằm tạo ra những
giá trị những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi dưỡng sự hình
thành nhân cách con người. Hoạt động văn hóa thực chất là hoạt động khách thể
hóa hoạt động năng lưc con người, biến năng lực con người thành hiện thực.

Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO thì văn hóa là tổng thể sống động
các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá
trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân
tộc.
Như vậy, khái niệm văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở
của mọi hoạt động văn hóa là khát vọng hướng tới cái chân, thiện và mỹ - ba trụ cột
vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại.
Văn hóa có 7 thuộc tính : Một là văn hóa mang tính lịch sử, Hai là văn hóa mang tính
truyền thống do những giá trị văn hóa được lưu giữ, phát triển và truyền bá qua các giai đoạn
lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác, Ba là văn hóa mang tính dân tộc thể hiện rõ ở bản sắc văn
hóa dân tộc, nó nói lên đặc điểm của một dân tộc, biểu hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của một
dân tộc. Do các điều kiện lịch sử riêng, các dân tộc hình thành những truyền thống tâm lý riêng.
Các truyền thống và tâm lý đó tạo nên bản sắc dân tộc. Văn hóa dân tộc là sự biểu hiện tập
trung của bản sắc dân tộc, đồng thời các hoạt động văn hóa có tác dụng giáo dục phổ biến sâu
rộng cái bản sắc dân tộc đó. Bốn là văn hóa mang tính giá trị (vật thể, phi vật thể, vật chất hoặc
tinh thần) : dù tồn tại trong các sản phẩm vật thể hay phi vật thể, cái làm nên nội dung của nó
chính các giá trị. Năm là văn hóa bao giờ mang tính nhân sinh, văn hoá luôn hiện diện với tư
cách là thuộc tính chỉ có riêng và vốn có của riêng con người, chỉ có con người mới sáng tạo
văn hóa và hoàn thiện mình thông qua môi trường văn hóa, Sáu là văn hóa mang tính phái sinh.
Bảy là trong xã hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp. Là phương thức sản
xuất của tinh thần, văn hóa không thể không phản ánh và không chịu sự qui định của phương
thức sản xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của các giai cấp khác nhau, làm nảy sinh
những tư tưởng, tình cảm khác nhau
Để hiểu rõ bản chất của văn hóa, cần phải thấy rằng văn hóa là do con người
sản sinh ra. Cũng như mọi sinh thể trong vũ trụ, con người là một bộ phận của tự
nhiên, chịu sự quy định chặt chẽ của tự nhiên, nhưng khác với các sinh vật khác,
con người chỉ trở thành con người khi tạo ra thiên nhiên thứ 2 của mình bằng lao
động và tri thức : đó chính là văn hóa. Chính trong quá trình phát huy những năng
lực bản chất để cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và thông qua đó cải biến chính

bản thân, con người đã sáng tạo ra văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”
Như vậy con người là chủ thể của văn hóa, tuy nhiên qua hoạt động văn hóa,
con người đồng thời cũng trở thành sản phẩm của văn hóa. Nếu tự nhiên là cái nôi
đầu tiên nuôi sống con người, thì văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó, toàn bộ đời sống
tinh thần của con người được hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Như vậy,
văn hóa chính là phương thức để con người tồn tại và phát triển, là cách thức để
con người tách mình ra khỏi động vật. Con người không thể tồn tại nếu tách rời tự
nhiên, cũng như vậy, con người không thể trở thành con người nếu tách rời môi
trường văn hóa.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề phát triển văn hóa và xây dựng con người
có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Phát triển văn hóa là nhằm xây dựng con người, không
ngừng hoàn thiện con người và chính con người tạo ra phát triển cao hơn của văn hóa. Nói một
cách khái quát thì con người vừa là chủ thể, là vừa là sản phẩm của văn hóa. Không thể nói đến
văn hóa mà không có con người, cũng như không thế nói đến con người tách rời văn hóa
2. Văn hóa định hướng cho sự phát triển KT-XH.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V BCH TW Đảng Khóa VIII khẳng định “Văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KTXH” (Đảng Cộng
sản Việt Nam - Văn kiện ĐH VIII – Trang 110)
a. VH là nền tảng t/thần của XH
Ta biết rằng, đời sống xã hội có hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là
nền tảng vật chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống
xã hội. Văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội, vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và trong cả cộng đồng; nó được truyền lại, tiếp nối và phát huy
qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc chính trị -

xã hội của từng dân tộc, đồng thời tác động hàng ngày đến tư tưởng, tình cảm của
mỗi thành viên, xã hội và môi trường xã hội, văn hóa Vì văn hóa là ''nền tảng tinh
thần của xã hội'', nên khái niệm văn hóa không thể hiểu theo nghĩa hẹp mà phải
được hiểu theo nghĩa rộng, ngang với ''nền tảng vật chất của xã hội'', Xã hội phải
đứng hai chân trên hai ''nền tảng'', nếu chỉ có một nền tảng thì xã hội không thể
đứng vững. Như vậy, cũng có nghĩa là văn hóa góp phần tạo nền móng của xã hội.
Nền móng có vững chắc thì sự phát triển của đất nước mới lành mạnh. .
Nói văn hóa là nền tảng tinh thần cũng có nghĩa là coi văn hóa là tổng thể các
giá trị, các tiềm năng sáng tạo của đất nước. Muốn phát triển cần phải dựa vào các
giá trị đó, cần khai thác và phát huy các giá trị đó. Nghị quyết Trung ương 5 viết:
''Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng
tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh
tế - xã hội bền vững”
Là “nền tảng tinh thần của xã hội”, văn hoá không chỉ nằm ở một số người, ở
lớp “tinh hoa”, mà nằm trong toàn xã hội và không phải nằm ở một số ngành, nghề
mà có mặt ở tất cả các lĩnh vực sinh hoạt, hoạt động và quan hệ con người. Nghị
quyết Trung ương 5 chỉ rõ. Phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống
và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng
địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người''.
Văn hóa là nền tảng tinh thần, đòi hỏi phải đặt văn hóa vào vị trí quan
trọng. Cũng như kinh tế tạo nên giá trị vật chất, nền tảng vật chất và nền tảng tinh
thần tạo những điều kiện cần và đủ để xã hội tồn tại và ph/triển. Thiếu đ/kiện v/chất
thì không có sự tồn tại của con người, nhưng thiếu đ/kiện tinh thần thì xã hội không
thể phát triển được. Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử, cơ sở vật chất
và tinh thần thường xuyên thấm lẫn vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Chừng nào nền
tảng tinh thần suy yếu, chừng đó xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn XH
xuất hiện và sự ph/triển k/tế sẽ gặp khó khăn
Với ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống XH, văn hóa phải được
xem vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy ph/triển KT-XH.

b. VH là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố nội sinh.
Bàn về việc xây dựng phát triển nhân cách con người, nhất định phải nói tới văn hóa. Văn hóa là
do con người gieo trồng nên nhưng đồng thời hệ thống giá trị văn hóa lại góp phần vào giáo dục
và tự giáo dục con người. Trong văn kiện Đại hội Đảng khóa IX, nói đến vai trò của văn hóa đối
với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, văn kiện đã chỉ rõ: “Mọi
hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực, sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan
dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng, xã
hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam - văn kiện ĐH IX – Trang 104). Văn hóa khơi dậy và phát huy
mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát huy năng lực bản chất người. Mối q/hệ con người
với văn hóa là gắn liền nhau, VH vừa thể hiện trong con người, đồng thời VH là môi trường, là
điều kiện cho sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Tức là, văn hóa góp phần vào điều
tiết quá trình phát triển KT-XH.
c. VH là m/tiêu ph/triển KT-XH
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn hóa luôn được xác định là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và điều đó thể hiện một cách nhất quán trong
đường lối văn hóa của Đảng ta từ ngày mới thành lập đến nay. Trong mỗi chính
sách KT-XH luôn đòi hỏi phải bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Xây dựng và
phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, con người phát triển toàn diện'', nhằm mục đích nâng cao chất lượng đời sống
11
xã hội, tạo cơ sở vật chất cho sự phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần. Đặt văn
hóa là mục tiêu bởi vì mọi tâm huyết và công sức mà Đảng và nhân dân ta đang bỏ
ra sẽ trở thành vô nghĩa, nếu như mục tiêu cuối cùng của chúng ta không phải là
XD một XH VNam và những con người VN ph/triển toàn diện trong một cuộc sống
đầy đủ về vật chất và cao đẹp về tinh thần
Đối với một quốc gia, phát triển và tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với
nhau. Muốn phát triển bền vững và toàn diện thì động lực không thể thiếu là phát
triển văn hóa. Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng có khả năng phát huy mặt

tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách và chủ quan của các điều kiện
bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển của xã hội được hài hòa, cân đối,
lâu bền. Văn hóa hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày
càng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Văn hóa còn góp phần phần tăng cường sự
hiểu biết, mở rộng sự giao lưu hợp tác giữa nước ta và các nước khác trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi. Các giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa truyền
thống là cơ sở tinh thần để ngăn chặn, hạn chế các tệ nạn xã hội, xu hướng “sùng
ngoại”, sùng bái tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng đóng vai trò điều tiết trong quan hệ
quốc tế, để mở cửa và giữ vững được độc lập, chủ quyền, hợp tác kinh tế - văn hóa
với nước ngoài mà không để người ta lợi dụng biến đất nước mình thành nơi cung
cấp nguyên liệu và nhân công giá rẻ, nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận
những công nghệ lạc hậu, những ảnh hưởng văn hóa độc hại.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng còn có khả năng ngăn chặn, khắc
phục được những ham muốn quá mức dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên
và gây ô nhiễm môi trường sinh thái, cổ vũ xây dựng một lối sống có điều độ và
hướng đến những hành vi ứng xử có văn hóa của con người đối với con người và
đối với thiên nhiên.
Như vậy, với vai trò là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH,
văn hóa phải điều tiết sự phát triển của kinh tế, phải gắn sự phát triển của kinh tế
với tiến bộ xã hội đồng thời văn hóa phải thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí
tuệ, năng lực sáng tạo của con người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân
văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở
thành giá trị cao quý và chuẩn mực của toàn xã hội. Trong thời đại ngày nay, một
đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều hay ít lao động và tài nguyên thiên
nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con
người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa,
nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lí, lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mỹ
của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các

lĩnh vực của đời sống con người càng cao thì khả năng phát triển KT-XH càng lớn
và hiện thực.
3. Chứng minh lịch sử văn hóa.
a. Thời kỳ kháng chiến.
b. Thời kỳ đổi mới.
Nhìn chung, trong thời kỳ đổi mới thời gian qua đánh giá về vai trò của văn
hóa trong đời sống KTXH, Đảng đã nhận định văn hóa đã có những thành tựu và
tiến bộ, nhưng khách quan thì những thành tựu đạt được còn chưa tương xứng và
chưa vững chắc, chưa tác động có hiệu quả nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Văn hóa xét trên phương diện động lực thúc đẩy sự phát triển tỏ ra chưa đủ
mạnh. Hàm lượng chất xám trong sản phẩm hàng hóa của ta còn thấp, quy trình
công nghệ lạc hậu, tổ chức sản xuất kinh doanh còn thất thoát, lãng phí nhiều.
Văn hóa chưa đủ sức tác động, chi phối, điều chỉnh quá trình sản xuất, kinh doanh
theo hướng văn minh, hiện đại, hiệu quả. Ðáng quan tâm hơn, văn hóa chưa điều
chỉnh mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng, tình cảm, những quan hệ đạo đức, lối sống,
nếp sống của con người. Có nhiều biểu hiện về sự xuống cấp của đạo đức, lối
sống rất đáng lo ngại. Nói về tình hình này, trong diễn văn bế mạc Hội nghị, đồng
chí Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh đã có nhận định: "Nhìn vào tổng thể việc xây
dựng nền văn hóa cũng như từng mặt, từng lĩnh vực văn hóa, văn học - nghệ
thuật, thông tin báo chí , chúng ta đều nhận thấy được một bức tranh đan xen
những thành tựu và tiến bộ với những yếu kém và khuyết điểm".
Sự "đan xen" giữa thành tựu và yếu kém, giữa "sáng" và "tối" trong đời sống
văn hóa là một thực tế đáng lo lắng hiện nay. Sự "đan xen" đó diễn ra trên mọi lĩnh
vực, mọi ngõ ngách của đời sống. Ở nông thôn, bên cạnh những "làng văn hóa"
tươi sáng phong phú đời sống văn hóa vật chất, tinh thần, cũng còn không ít loại
"làng Nhô", "làng Bến", làng nghiện ngập gây băn khoăn, lo lắng cho xã hội. Ở
thành thị, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đang mở ra nhanh chóng các khu
công nghiệp, các chung cư cao tầng, các trung tâm kinh doanh sang trọng nhưng
cạnh đó là tình trạng hàng vạn người lao động không đủ nơi ăn nghỉ, sinh hoạt văn

hóa tử tế, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, văn hóa độc hại tiếp tục lan tràn.
Những chuyển biến tích cực trong hoạt động của Ðoàn Thanh niên thường xuyên
động viên tuổi trẻ "lập thân lập nghiệp", "thanh niên tình nguyện", "sáng tạo khoa
học công nghệ" vẫn chưa làm nguôi được nỗi băn khoăn của xã hội về sự phát
triển đạo đức, lối sống chưa ngang tầm của thanh niên nước ta.
Thực tế cho thấy, trong bối cảnh toàn cầu hoá, không ít quốc gia đã phải trả
giá cho việc quá chú trọng phát triển kinh tế mà coi nhẹ v/hoá , quá quan tâm đến
việc đáp ứng nhu cầu hiện đại mà lãng quên truyền thống, di sản, bản sắc VH d/tộc
mình .
c Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Rút ra, tại sao nói văn hóa định hướng cho sự phát triển KT-XH?
Từ thực trạng trên , để khắc phục những hiện tượng suy thoái, biến chất, phản
văn hoá ấy, Nghị quyết Trung ương 5 (khoá 8) của Đảng đã xác định rõ đường lối
phát triển nền văn hoá của ta là xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc mà cốt lõi của nền văn hoá ấy là tư tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội theo
thế giới quan Mác-LêNin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì
con người , vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, toàn diện, tự do của con người
trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân với cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên
Theo quan điểm của Đảng tại Hội nghị BCHTW 5 khóa VIII (7/1998) những
nội dung của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc được biểu hiện
qua những đặc trưng sau đây:
* Nền văn hóa tiên tiến
Nền văn hóa tiên tiến phải được hiểu: Đó là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ
xã hội mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH theo chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM. Đó là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ,
nền văn hóa mà trong đó dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt của đời sống văn
hóa dân tộc, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa, tạo động lực cho sự
phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân. Đó là nền văn hóa
mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, là nền văn hóa mang tính hiện đại về trình
độ dân trí, khoa học, công nghệ,… Nền văn hóa tiên tiến không chỉ trong nội dung

tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội
dung. Tóm lại, nền văn hóa tiên tiến có thể được cụ thể hóa bằng những khía cạnh
cơ bản như sau: tiên tiến về trình độ học vấn, về dân trí, về trình độ khoa học và
công nghệ; tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống; tiên tiến do
sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, cả về hình thức và về nội dung. Nền văn
hóa tiên tiến VNam còn là sự kết hợp truyền thống dân tộc với chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng HCM.
* Nền văn hóa đậm đà bản sắc Dtộc:
Nền văn hóa tiên tiến cũng là nền văn hóa đậm đà bản sắc D/tộc. Tính chất
dân tộc luôn luôn gắn bó với tính chất tiên tiến của nền văn hóa và hai mặt này liên
quan biện chứng với nhau. Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những đặc trưng về
văn hóa, về đời sống tinh thần dân tộc ấy, là những nét đặc biệt, độc đáo về tinh
thần, về văn hóa, về cách sống và sức sáng tạo để phân biệt dân tộc này với dân tộc
khác. Đó là truyền thống được tạo ra và hun đúc trong lịch sử hình thành và phát
triển của dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện qua các mặt như
sau:
- Nền văn hóa bao gồm sự thống nhất trong tính đa dạng và phong phú của nền
văn hóa của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, của các vùng, các địa
phương trong nước. Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng,
khi tất cả hội nhập nền văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam thì nó trở nên hết sức
phong phú, đa dạng.
- Đó là nền VH mà tính phong phú đa dạng được nhân lên nhiều lần do có bề
dày hàng nghìn năm lịch sử và được trãi nghiệm qua các cuộc đ/tranh dựng nước và
giải phóng đất nước.
- Bản sắc văn hóa dân tộc còn biểu hiện cụ thể ở những giá trị văn hóa bền
vững của dân tộc Việt Nam, là tổng hợp các giá trị tinh thần tiêu biểu của dân tộc,
bao gồm 6 giá trị: Một là tinh thần yêu nước, yêu quê hương nồng nàn. Hai là tinh
thần đoàn kết dân tộc. Ba là tính cộng đồng gắn kết giữa cá nhân, gia đình, quê
hương, tổ quốc. Bốn là tinh thần nhân nghĩa, nhân ái thắm nhuần chủ nghĩa nhân
văn, nhân đạo sâu sắc của con người Việt Nam: sống có tình nghĩa, thủy chung

trong gia đình, với làng xóm, với cộng đồng, yêu thương quý trọng con người, tinh
thần trọng lẽ phải, trọng đạo đức, học thức, yêu cái đẹp, cái hay. Năm là tinh thần
lao động cần cù sáng tạo của nhân dân ta. Sáu là lối sống tinh tế, khiêm tốn, giản dị
và trung thực của con người Việt Nam, sự tế nhị trong tâm hồn, trong phong cách
giao tiếp. Có thể nói yêu nước và tiến bộ vừa là đặc trưng bao quát nhất của nền
văn hóa tiên tiến, vừa là đặc trưng của bản sắc dân tộc.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc này chỉ có
thể phát triển bền vững và phát huy đầy đủ bản sắc của nó trên cơ sở tiếp thu được
những tinh hoa trí tuệ của loài người, nền văn hóa tiên tiến phải là nền văn hóa đậm
đà bản sắc dân tộc nhưng không thể tách khỏi quan hệ với thế giới. Bởi xu thế toàn
cầu hóa đang diễn ra là tất yếu xu thế đó là khách quan, mang tính thời đại, trước
hết trong lĩnh vực kinh tế, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, không một quốc gia
có thể đứng biệt lập mà có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác, phải nhận thức được
rằng toàn cầu hóa là một quá trình đầy mâu thuẩn, phức tạp, mặt tất yếu kỹ thuật,
kinh tế là mặt tích cực có lợi ta phải tận dụng, song cũng không thể bỏ qua mặt xã
hội kinh tế, mặt bản chất giai cấp của quá trình toàn cầu hóa.
Việc XD đường lối ph/triển một văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của
Đảng được dựa trên nền tảng cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc.
Về cơ sở lý luận, đường lối phát triển văn hóa của Đảng ta xuất phát trên cơ sở
chủ nghĩa Mác-Lênin. Theo học thuyết Mác-Lênin, kiến trúc thượng tầng chịu sự
quy định của cơ sở hạ tầng, vì vậy sự phát triển của văn hóa chịu sự quy định của
cơ sở kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là muốn phát triển văn hóa phải phát triển
kinh tế vì kinh tế là nền tảng sự phát triển, là cơ sở vật chất của xã hội và vì vậy nó
cũng là tiền đề để tạo nên cơ sở vật chất-kỷ thuật phát triển văn hóa. Tuy nhiên,
thừa nhận văn hóa chịu sự quy định của cơ sở kinh tế nhưng chúng ta cũng phải
thấy tính độc lập tương đối của văn hóa so với kinh tế. Mặt khác, nói đến văn hóa
cũng tức là nói đến con người. Con người vừa là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, đồng
thời thông qua hoạt động văn hóa, con người trở thành sản phẩm của văn hóa. Văn
hóa chính là phương thức để con người tồn tại và ph/triển, là cách thức để con
người tách mình ra khỏi động vật. Như vậy, đến lượt mình, văn hóa- với tư cách là

hoạt động tinh thần mang tính sáng tạo-lại trở thành động lực của phát triển.
Cách mạng văn hóa là một quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng CNXH bởi vì Cách
mạng văn hóa là một bộ phận của cách mạng XHCN, như Lênin đã từng khẳng định: giai cấp
công nhân sau khi đã hoàn thành cách mạng thì khâu cuối cùng có xây dựng được CNXH hay
không là tùy thuộc vào cuộc cách mạng văn hóa. Có thể thấy rằng Nghị quyết TW 5 về văn hóa
chính là sự tiếp tục triển khai Tư tưởng HCM về văn hóa: gốc của văn hóa chính là dân tộc, văn
hóa phải soi đường cho quốc dân, dân tộc và văn hóa là một mặt trận, văn nghệ sĩ là các chiến
sĩ trên mặt trận này.
Về cơ sở thực tiễn, việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
là hết sức cần thiết trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước bởi những lý do
sau:
- Sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng ta và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy
cao độ năng lực của con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước, thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Mặt khác, cùng với tiến trình đổi mới đất nước, chấp nhận nền kinh tế thị
trường là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, kết cấu xã hội, nhu cầu tăng nhanh về văn
hóa của mọi tầng lớp dân cư, quá trình dân chủ hóa xã hội,…những yếu tố này làm
thay đổi đời sống văn hóa dân tộc. Khi tiếp xúc với nền văn minh vật chất, con
người dễ nảy sinh tâm lý sùng bái kỹ thuật, chạy theo cái mới, cái hiện đại và đối
lập với cái truyền thống. Tâm lý tiêu dùng vật chất, chạy theo đồng tiền làm mờ
nhạt các giá trị tinh thần vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc. Thực trạng suy
thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống ở một bộ phận “không nhỏ” cán bộ, Đảng viên
và quần chúng ngày càng phổ biến hơn, tinh vi hơn, nghiêm trọng hơn, đòi hỏi
chúng ta phải chấn hưng nền văn hóa dân tộc thông qua sự nghiệp xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
12
- Ngồi ra, việc mở cửa để hội nhập với khu vực và các nước trên thế giới, tiếp
thu những thành tựu văn hóa văn minh của nhân loại đòi hỏi chúng ta phải có một
trình độ văn hóa tương ứng để tiếp biến các thành tựu đó và làm chủ được những

q trình cơng nghệ để CNH-HĐH đất nước. Mở cửa hội nhập, văn hóa Việt Nam
được tiếp cận ngày càng nhiều hơn các giá trị (tinh hoa) văn hóa nhân loại, làm giàu
thêm cho nền văn hóa dân tộc và giúp nhanh chóng xây dựng một nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Mặt khác, trong q trình tồn cầu hóa, lợi thế đang
nghiêng về các nước phát triển; các nước giàu đang có xu hướng áp đặt giá trị văn
hóa của họ cho các nước nghèo. Dòng chảy văn hóa đang có xu thế từ nước mạnh
sang nước yếu, từ nước giàu sang nước nghèo. Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện
nay, nếu khơng có ý thức đầy đủ sẽ dẫn tới đánh mất đi bản sắc dân tộc trước sự
“quốc tế hóa” của văn hóa, khoa học và cơng nghệ.
* Sự thống nhất, nhất qn trong quan điểm của Đảng ta về vấn đề VH
Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) có ý nghĩa chiến lược về văn hóa của Cách
mạng nước ta trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Nghị quyết là một nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân ta, làm cho nền tảng tinh thần của chế độ ta, của xã hội nước ta ngày càng vững
chắc, tiến bộ, phong phú, góp phần giữ vững độc lập, thống nhất, định hướng
XHCN và thúc đẩy nhanh q trình phát triển đất nước.
Về mục tiêu, thơng qua việc triển khai các nhiệm vụ văn hóa cụ thể, mục tiêu
cần phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ về chất lượng văn hóa trên các
mặt:
- Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao văn hóa-nền tảng tinh thần
của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện
quyết định bảo đảm cho sự phát triển tồn diện và bền vững của đất nước.
- Trong q trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng
với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần
tiếp tục đẩy mạnh cơng tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền
thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự
phát triển của thời đại.
- Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân
tộc anh em, làm phong phú nền văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và

nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống các
khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ phá hoại khối đại đồn kết dân tộc.
- Nghiên cứu, nắm bắt kịp thời thành tựu của văn hóa – thơng tin hiện đại, huy
động mọi tiềm lực xã hội cho sự nghiệp phát triển văn hóa, chăm lo các tài năng,
chủ động có kế hoạch, chính sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho văn hóa
nước nhà phát triển vững chắc và đúng hướng trong thời kỳ mới.
Về nhiệm vụ trọng tâm, Đảng ta đã xác định :
- Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và
đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà
nước, MTTQ, các đồn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thơn xóm,
đơn vị, tổ chức cơ sở,…
Cần xác định đây là nh/vụ quan trọng thường xun, vừa cấp bách, vừa cơ
bản, lâu dài.
Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, thơng qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối sống theo Tư tưởng
HCM.
- Nâng cao chất lượng, hiệu qủa nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam theo
5 đức tính được xác định trong Nghị quyết TW 5(khố VIII); cụ thể hóa theo các
đối tượng, gắn chặt mục tiêu xây dựng con người với hoạt động thực tiễn và các
phong trào thi đua u nước sâu rộng trong quần chúng.
- Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây
dựng mơi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thường xun nâng cao
trình độ phổ cập văn hóa, đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của
các tầng lớp nhân dân đi đơi với nhiệm vụ bồi dưỡng các tài năng văn hóa.
Thực hiện nhiệm vụ, phương hướng đó, một số giải pháp chủ yếu cần phải áp
dụng trong q trình triển khai thực hiện bao gồm :
- Giải pháp hàng đầu là nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ
chức Đảng và cấp ủy các cấp đối với lĩnh vực văn hóa; bảo đảm định hướng chính
trị đi đơi với vận dụng đúng đắn những đặc trưng của cơng tác văn hóa; chủ động
xây dựng qui hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa từ địa phương đến TW. Các cấp

ủy, tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước có kế hoạch, biện pháp đẩy mạnh việc xây
dựng văn hóa trong tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước để làm gương cho xã
hội, nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ này.
- Phát huy tính năng động sáng tạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ
và các đồn thể nhân dân, các hội sáng tạo văn học - nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật
và thơng tin, báo chí trong sự nghiệp văn hóa, tạo nên sức mạnh tổng hợp. Tăng
cường cơng tác quản lý Nhà nước về văn hóa, nhất là trong lĩnh vực báo chí, xuất
bản, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm Luật báo chí, xuất bản nhằm khắc
phục kịp thời những yếu kém, khuyết điểm trong lĩnh vực này.
Có kế hoạch triển khai chương trình giáo dục văn hóa, thẩm mỹ, nâng
cao chất lượng giáo dục khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục đạo đức, lối sống
trong nhà trường từ Phổ thơng đến Đại học. Phát huy vai trò của đội ngũ văn nghệ
sĩ, những người hoạt động văn hóa tham gia hỗ trợ, giúp đỡ nhà trường thực hiện
nhiệm vụ này.
- Đẩy mạnh giáo dục về CNXH, bồi dưỡng lòng u nước, tinh thần tự hào
dân tộc, tạo chuyển biến rõ rệt về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí
tuệ người Việt Nam theo 5 đức tính đã được Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) xác
định.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu, tun truyền giáo dục Tư tưởng HCM, đẩy mạnh
phong trào “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, đẩy lùi
tiêu cực, lạc hậu, khẳng định giá trị tốt đẹp của VH VN, con người Việt Nam thời
kỳ mới.
- Tăng đầu tư cho văn hóa, phấn đấu đến 2010 ít nhất đạt 1,8% tổng chi ngân
sách của Nhà nước; tiếp tục bảo đảm kinh phí cho các chương trình mục tiêu phát
triển văn hóa. Phát triển các doanh nghiệp văn hóa đủ khả năng đứng vững trong cơ
chế thị trường, đạt được hiệu quả văn hóa-xã hội, nâng cao chất lượng phục vụ.
Động viên các tầng lớp nhân dân, nhất là người say mê hoạt động văn hóa, cả trong
và ngồi nước, đầu tư và đóng góp cho sự nghiệp văn hóa, vì sự phồn vinh của văn
hóa dân tộc.
Tóm lại, thực hiện câu nói của Bác Hồ: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”,

việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong những năm sắp tới là khát
vọng to lớn và quyết tâm chiến lược của Đảng ta nhằm phát triển mạnh mẽ văn hóa
dân tộc, chấn hưng đất nước, đưa nước ta thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên
sánh vai với các nước trên thế giới. Đây là sự nghiệp lâu dài của cả quốc gia, dân
tộc và để sự nghiệp thành cơng đòi hỏi phải có nghị lực phi thường, sức đóng góp
sáng tạo của tồn dân, đặc biệt là các thế hệ trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt
động văn hóa – thơng tin, của mọi cấp, mọi ngành liên quan đến vai trò lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước
Câu hỏi 12: Văn hóa như sau: văn hóa là hoạt động nhằm phát huy năng lực
bẩm sinhvà bản chất của con người vươn tới chân, thiện, mó. Là hoạt động
nhằm tạo ra những giá trò, những chuẩn mực XH , là môi trường thứ 2 , là
nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con người.
Thuật ngữ văn hóa xuất hiện từ lâu trong ngôn ngữ cuả dân tộc ta và của nhân
loại; cho đến nay văn hóa vẫn là 1 trong những khái niệm phức tạp và khó xác
đònh. trong cuốn sách văn hóa theo… của Kaplan D và Manners R.A xuất bản tại
NewYork năm 1972, 2 tác giả cho rằng đã có tới 200 đònh nghóa về văn hóa.
Song có thể đònh nghóa văn hóa như sau: văn hóa là hoạt động nhằm phát huy
năng lực bẩm sinhvà bản chất của con người vươn tới chân, thiện, mó. Là hoạt
động nhằm tạo ra những giá trò, những chuẩn mực XH , là môi trường thứ 2 , là
nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con người
tổng thư ký UNESCO Fedetico Mayor cho rằng: văn hóa là tổng thểsống động các hoạt động
sáng tạo (của cá nhân và cuả cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nênhệ thống các giá trò; các truyền thống và thò hiếu- những
yếu tố xác đònh đặc tính riêng của mỗi dân tộc
Với ý nghóa đó thì văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hạt động
trên các lónh vực KT, XH hay cư xử, giao tiếp… Cho đến cả những suy tư thầm kín nhất. DO
đó, nói đến văn hóa là nói đến con người; nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện XH. Con
người không thể tồn tại nếu tách rời tự nhiên, cũng như vậy. Con người không thể trở thành con
người nếu tách rời môi trường văn hóa, Tại hội nghò ĐB những người tích cực làm công tác văn
hóa quần chúng toàn miền bắc lần I (11/2/1960), HCN nêu rõ “văn hóa phải thiết thực phục vụ

nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Vì vậy
nội dung văn hoá phải có ý nghóa giáo dục”
VK9 của Đảng có đoạn “văn hóa là nền tảng tinh thần cuả XH, thể hiện tầm cao và chiều sâu
trình độ phát triểncủa dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩysự phát triển KT-XH.
Văn hóa VN là sự kết tinh những giá trò tốt đẹp trong quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người cới XH và với thiên nhiên, được đúc kết từ cuộc sống, từ thực tiễn đấu tranh
dựng nước và giữ nướccủa nhân dân ta qua hàng ngàn năm lòch sử, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa dân tộc. đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc theo đònh hướng
XHCN với những đặc trưng cơ bản là đại chúng, dân tộc, hiện đ và nhân văn”.
Như vậy văn hóa là nền tảng tinh thần XH, vừa là mục tiêu ,vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển KT-XH. Để thục hiện điều này,Đảng ta nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là
nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực phục vụ nhân dânvề lónh vực văn hóa ở cơ sở, và coi đó là
nhiệm vụ quan trọng lâu dài. Đời sống văn hóa là một phức hợp bao gồm những hoạt động của
con người nhằm thỏa mãnhai loại nhu cầu: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, 2 nhu cầu
naỳ hình thành nhu cầu văn hóa
Văn hóa thiết thực phục vụ nhân dân chung quy là nhằm không ngừng thỏa mãn nhu cầu ngày
càng đầy đủvề văn hóa trong hoạt động lao động sáng taọ cũng như trong hoạt động tiêu dùng,
tiêu thụ các giá trò, các sản phẩm phẩm văn hóa cho quần chúng ở cơ sở. Hiện nay, các dạng
hoạt động văn hóa được duy trì tng đối phổ biến ở cơ sởlà: thông tin tuyên tuyền cổ động,
văn nghệ quần chúng, thư viện, nhà văn hóa… toàn bộ các hoạt động trên chỉ có thể thực hiện
tốt thông qua các thiết chế văn hóa ở cơ sở. vì vậy,xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở không chỉ
dừng lạiở sự thỏa mãn nhu cầu văn hóa của quần chún nhân dân ở cơ sở, mà còn phải thông
qua các hoạt động giao lưu, gắn liền với việc củng cố và hoàn thiện các thiết chế văn hóa, đặc
biệt là các thiết văn hóa ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu vùng xa.
Theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, cần củng cố xây dựng các cơ sở văn hóa
ở cấp tỉnh, huyện. Nhà văn hóa, thư viện, rạp chiếu bóng… Ở phường xã hay cụm KT kỹ thuẫt
tùy thuộcthực tế tình hình ở cơ sở. Đây là nhiệm vụ quan trọng có tầm chiến lïc, vì nó vừa
thiết thực phục vụ nhu cầju văn hóa của nhân dân, vừa tạo ra những điều kiện để tiến hànhcông
cuộc xây dựng nền văn hóa mới, lối sống và con người mớingay tại cơ sở. Đại hội 5 của Đảng
chỉ rõ: “một nhiệm vụ của CM tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống

hàng ngày cu3a nhân dân”
Văn hóa là nền tảng tinh thầncủa XH nên văn hóa phải góp phầnvào việc nâng cao đời sống
vui tươi, lành mạnh của quần chúng nhân dân. Bởi vì sự nghiệp văn hóa suy cho cùng là vìcon
người, như nhận đònh của Đảng ta ”nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp văn hóa là bồi dưỡng
con người VN về trí tuệ, bản lónh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, nhân cách, xây dựng
thế giới quan KH, nhân sinh quan XHCN, hướng con người tới những giá trò chân, thiện, mó. Vì
vậy,trong quá trình phát triền KT-XH, coi trọng chính sách đầu tư cho văn hóa, đầu tư cho con
người, khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia phát triển và sáng tạo văn hóa,
đồng thời hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn”
Để phản ánh rõ nét vai trò của văn hóa là góp phần nâng cao đời sốngvui tươi, lành mạng của
nhân dân, chúng ta cần làm rõ một số chúc năng co bản của văn hóa sau đây:
_Chức năng nhận thức:văn hóa có vai trò trong việc phát triển năng lực nhận thức của con
người, nâng cao khả năng hiểu biết cuả con ngườivề tự nhiên, XH và tư duy. Hiệu quả hoạt
động của con người phụ thuộc rất lớn vào năng lực nhận thức, năng lực nhận thức càng phát
triển thì hoạt động của con người càng có hiệu quả, ngược lại nếu năng lực nhận thức kémthì
hoạt động của con người sẽ kém hiệu quả
13
Chức năng nhận thức có mặt trong bất cứ hoạt động văn hóa nào, thiếu chức năng nhận thức thì
không thể nói đến bất cứ chức năng nào khác. Một tác phẩm nghệ thuật trước khi làm rung
cảm trái tim người đọc, người xem thì tác phẩm đó phải được mọi người hiểu, phải mang đến
cho họ nhận thức mới về cuộc sống của con người… Vì vậy, nâng cao trình độ nhận thức của
con người cũng chính làphát huy những tiềm năng của con người. Đó là bước đầu rất quan
trọng để hoàn thiện con người, hoàn thiện XH, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi,
lành mạnh của nhân dân. Không phải ngẫu nhiên trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống pháp, Bác Hồ đã đề ra khẩu hiệu “diệt giặc dốt”, “diệt giặc ngoại xâm”
_Chức năng giáo dục: nói đến chức năng giáo dục là nói đến việc đònh hướng XH,là lý tưởng,
đạo đức và hành vi của con người theo “điều hay lẽ phải”. Chức năng này có vai trò rất quan
trọng trong việc giaó dục hình thành nhân cách con người, sự phát triển toàn diện của con
người thông qua việc truyền tảinhững tri thức kinh nghiệm, kỹ năng, mô thức ứng xửcủa cộng
đồng cá nhân. Sức mạnh và hiệu quả của chức năng này là nó tác độngđược toàn bộ các năng

lực tinh thần của con người, tác động đến chỗ sâu kín nhất của đời sống tinh thần
_Chức năng thẩm mó của văn hóa là hướng con người đến cái đẹp, cái hoàn thiệnvà lý tưởng
thẩm mó hài hòa trong mối quan hệ giữa con người với tư nhiên, con người với XH, con người
với bản thân mình. cần khẳng đònh rằng, cùng với nhu cầu hiểu biết, con người luôn có nhu cầu
hùng đến cái đẹp. Mác viết: ”bản chất cu3a con người là biết nhào nặn hiện thực theo quy
luật của cái đẹp”. Do đó, cảm xúc thẩm mó ở một mức độ nào đó taạo nên giá trò đạo đức của
con người, góp phần nâng cao đời sống con người
_Chức năng dự báo và chức năng giải trí cuả văn hóa có tác động đến việc nâng cao đời sống
tinh thần của nhân dân. Văn hóa là tổng thể những hoạt động về tinh thể những trí tuệ, là sự
phát hiện dần daần những quy luật của tư nhiên, XH, con người. Do đó văn hóa có thểđưa ra
những dự báo cần thiết để mở rộng hiểu biết, sức tưởng tượng khám phá và sáng tạo của con
người
Mặt khác, nếu hiểu giải trí một cách tích cực thì nhu cầu giải trí không những có ý nghóa bù đắp
lại sức lao động đã mất đi mà cònphát triển những năng khiếu văn hóa nghệ thuật tiềm tàng và
bẩm sinh ở mỗi con người, tạo điều kiện phát triển tòn diện con người
Như vậy, với những phân tích trên, có thể kết luận bản chất của văn hóa là nhằm SX ra những
giá trò tinh thần, văn hóa là tổng thể của rất nhiều hoạt động hướng đến mục tiêuhòan thiện con
người, phát triển con người. Về phương diện đó, mục tiêu của văn hóa thống nhất với mục
tiêucủa hoạt động KT-CT của XHCN. Văn hóa không thể phát triển đầy đủ ngoài quỹ đaọ của
CNXHvà CNXH khó phát triển vững chắc nếu văn hóa không phát triển. Do đó, không được
coi văn hóa như là hoạt động thuần túycó ý nghóa minh họa và tuyên tuyền đường lối, chính
sách về kinh tế, CT. Văn hóa không chỉ là phương tiện để đạt những phúc lợi trong cuộc sống,
mà nó phải nhằmmục đích phát triển và hoàn thiện con người, văn hóa tạo ra môi trường và là
nguồn năng lượng để hình thànhnhân cách, bản lónh đạo đừc và lương tâm. Văn hóa có sức
mạnh taọ nên mối quan hệ hài hòa giữa con người với con người, giữa con người với tư nhiên
và tạo nên mối quan hệ cảm thông giữa các dân tộc và thời đại
Văn hóa là nền tảng tinh thần của XH, là mục tiêu và động lực của sự phát triển KT-XH. Do
đó, để thực hiện tốt vò trí vai trò cu3a mình, một vấn đề cực kỳ quan trọng là nôi ding của văn
hóa phải mang ý nghóa giáo dục gắn liền với chân, thiện, mó
Văn hóa là tổng thể hoạt động sáng tạo của cáccá nhân, các cộng đồng trong quá khứ và tong

hiện tai. Trải qua hàng ngàn thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy tạo nênmột hệ thống các giá tò,
truyền thống, thò hiếu và tập quán. Văn hóa vừa là kết quả hoạt độngthực tiễn của con người,
vừa ảnh hưởng trực tiếp sâu xến hành vi của từng con người và cộng đồng dân cư trong SX
và tổ chức đời sống, trong sinh hoạt gia đình, giao tiếp ứnh xửngoài XH, trong hoạt động quản
lý, trong quan hệ quốc tế…Văn hóa là đònh hướng XH, là hướng lý tưởng đạo đức, hành vi của
con người theo chuẩn mực XH. Do vậy, nôi dung của văn hóa phải phù hợp với chuẩn mực
XH, phù hợp với truyền thống dân tộc, tính giai cấp của một chế độ XH nhất đònh. Ngoài ra,
văn hóa phải tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp để xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
CT HCM rất quan tâm đến đời sống tinh thần dân tộc, đối với Bác, việc phát huy cốt cách
truyền thống dân tộc không tách rời việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, Bác dạy:
khôi phục cái cũ nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra. Học cái cũ lá
để sáng tạo cái mới, phục vụ cho cuộc sống mới chư,ù không phải quay về cái cũ. Đối với tinh
hoa văn hóa nhân loại, việc khai thác là để làm giàu, lảm đẹp nền văn hóa dân tộc, để phát huy
những truyền thống đẹp đẽ vốn có của dân tộc. Những quan điểm của Bác về văn hóa đến bây
giờ vẫn còn giữ nguyên giá trò. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu và quán triệt đầy đủ, sáng tạo tư
tưởng của Bác về văn hóa văn nghệlà cơ sở quan trọng để chúng ta tiến hành đổi mới , nâng
cao trình độ lãnh đạo và văn học nghệ thuậtnhằm khắc phục những yếu kém về phát triển văn
hóa văn nghệ ở nước ta hiện nay
Ngày nay chúng ta đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH, trong thời kỳ này những ký ức, tập quán,
tâm lý của XH cũ còn in đậm nét trong mỗi con người của chúng ta, trong khi đó hình thái KT-
XH mới đang dần hình thành, nen chưa gây được ấn tượng sâu sắc. Chúng ta chưa giải phóng
khỏi quan niệm phát triển con người một cách phiến diện để vươn tới quan niệm toàn diện về
phát triển con người. Trong thực tiễn thường chúng ta chỉ thấy những nhu cầu trước mắt, có khi
là những nhu cầu thiển cận như chăm lo nhu cầu tối thiểu về vật chất của con người mà không
nhìn thấy yêu cầu có tính chiến lược để dần dần hình thành những con ngưới có sự phát
triểnh hòa, phong phú. Sự hạn chế đó là nguyên nhân của tình trạngxem nhẹ đời sống tinh
thần của con người, xem nhẹ yêu câu phát triển naăng khiếu của người lao động. Kết quả của
tình trạng đó dễ dẫn đến chỗ tạo nên những con người chỉ lo lợi ích vật chất trước mắt bỏ qua
những giá trò cao đẹp của cuộc sống . Những hành vi thô tục càn quấy , hiện tương làm ẩu làm

dối …đang là những hiện tượng khá phổ biến ở nước ta hiện nay. Tất cả những điều đó là đi
ngườc với quy luật sáng tạo của cái đẹp, pah3những thẩm mỹ, thể hiện trình độ VH thẩm mỹ
thấp. Vì vậy mọi hoạt động VH phải hướng con người đến việc phát huy những năng lực tinh
thần cao đạp của con người hướng đến công tác giáo dục VH thẩm mỹ cho quần chúng nhân
dân.
Yêu cầu xây dựng con người mới XHCN đòi hỏi chúng ta giáo dục thẩm mỹ cho quần chúng
nhân dân. Đó là giáo dục tư tưởng thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, năng lực thẩm mỹ. Giáo dục
lý tưởng thẩm mỹ là giáo dục mục đích sống của con người trong XH. Người Việt đề cao nhân
cách luận là đề cao tính cộng đồng dân tộc. Giáo dục tình cảm thẩm mỹ là giáo dục nhằm hình
thành ở cho người những quan hệ thẩm mỹ, là cho con người có thái độ sống tích cực, sống có ý
thức. Giáo dục thò hiếu thẩm mỹ là giáo dục ý thích về cái đẹp theo giá trò VH thẩm mỹ của
dân tộc. Giáo dục năng lực thẩm mỹ là trên cơ sở có được lý tưởng thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ
và thò hiếu thẩm mỹ.
Chúng ta cũng chú ý rằng sự thiếu thốn về vật chất khó tạo ra sự phong phú về tinh thần và sự
nghèo nàn về tinh thần của quần chúng nhân dân không thể tạo ra được một khối lượng vật
chất, phong phú , đa dạng. Vả chăng cái mà chúng ta vươn tới không chỉ nhằm SX thật nhiều
của cải vật chất điều đó CNTB đã làm được nhưng cái mà CNTB không muốn và khjông thể
làm được là phát triển và làm phong phú d0ời sống và tinh thần của quần chúng nhân dân. Đó
là cái đích, là lý tưởng của CNXH
Trên cơ sở nhận thức rõ vò trí, vai trò của VH. Tiếp thu và phát triển quan điểm của Hồ Chí
Minh về VH, từ sau CM tháng 8 thành công Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã tích cực xây
dựng nền VH phù hợp trong từng thời kỳ của lòch sử. Đạc biệt trong quá trình đổi mới, ĐH VI
của Đảng như làn gió mới làm tăng thêm sinh khí cho đờisống VH văn nghệ nước t. ĐH VI
khẳng đònh :không có hình thái tư tưởng có thể thay thế được VH nghệ thuật trong việc xây
dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghó, nếp sống của con người.
Các ĐH VII, VIII, IX tiếp tục phát triển những luận điểm VH của ĐH VI. ĐH IX xác đònh :
xây dựng nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
phát triển KT XH. Mọi hoạt động VH đều nhằm xây dựng con người VN phát triển toàn diện
về CT, tư tưởng , trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân
ái, tôn trọng nghóa tình…VH trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế

thưà truyền thống CM của dân tộc, phát huy ý chí tự lực, tự cường trong xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, “thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi lành mạnh
của quần chúng”. Để xây dựng và phát triển nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta
cần tiến hành những nhiệm vụ cơ bản mang tính bức xúc sau đây :
- Quán triệt và tuyên truyền phổ biến rộng rãi chủ nghóa Mác Lên nin và tư
tưởng HCM trong dân chúng làm cho chủ nghóa Mác Lên nin và tư tưởng HCM
trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thành của XH ta.
- Xây dựng con người mới với các tiêu chí phát triển về trí tuệ, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần trong sáng về đạo đức, đáp ứng được nhu cầu
của CNH, HĐH.
- Xây dựng lối sống mới;
- Xây dựng gia đình VH, hướng vào các tiêu chíù gia đình no ấm, thuận hoà, dân
chủ, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc;
- Xây dựng môi trường VH trong lành bao gồm cả sinh thái tự nhiên và sinh thái
XH.
- Xây dựng đời sống VH cở sở;
- Giữ gìn và phát huy các giá trò, các di sản VH của DT. Đáng chú ý là các giá
trò các di sản VH của các DT ít người trong cộng đồng DT VN.
- Xây dựng các thiết chế VH đủ mạnh để tổ chức các hoạt động VH, xây dựng
nền VH DT.
- Tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về VH
- Phát triển VH KH, VH giáo dục, VH nghệ thuật.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước trên lãnh vực VH
văn nghệ
Cau hỏi 16: Tại đại hội đại biểu những con người tích cực làm công tác
văn hóa quần chúng toàn miền Bắc lần thứ nhất( con người 11-2-1960) Hồ
Chủ Tòch nêu rõ:
“Văn hóa phải thiết thực ï phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng
cao đời sống vui tươi lành mạnh của quần chúng. Vì vậy, nội dung văn hóa
phải có ý nghóa giáo dục”. ( Hồ chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Ctqg Hà Nội

1996, tr 59) Bằng lý luận văn hóa đồng chí hãy phân tích luận điểm trên.
Bài làm:
Nói tới văn hóa là nói tới con người, xây dựng nền văn hóa là xây dựng cái
nôi thứ hai, môi trường thứ hai, trong đó mọi mặt đời sống tinh thần của con
người ( trí tuệ tư tưởng, tình cảm, đạo đức lối sống…)được nuôi dưỡng và phát
triển. Như vậy, con người với vai trò vừa là chủ thể vừa là khách thể của văn
hóa.Văn hóa phải phục vụ cho con người, cho đại đa số quần chúng, nhân dân
lao động đem lại cho Họ một đời sống vui tươi lành mạnh. Đó là quan điểm của
Đảng ta, quan điểm mác xít. Người làm công tacù nghệ thuật không thể thoát ly
cuộc sống mà họ đang tồn tại, không thể tách mình ra khỏi cộng đồng, ra khỏi
dòng chảy của quốc gia, dân tộc. Xuất phát từ quan điểm trên, tại Đại hội đại
biểu người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng toàn miền Bắc lần thứ
nhất ( ngày 11-2-1960) Chủ tòch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “… ” Đây là quan điểm
chỉ đạo cho đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng ta là ánh sáng soi đường cho
những người làm công tác văn hóa nghệ thuật nói chung và văn nghệ só nói
riêng.
Nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của con
người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, khái niệm văn hóa chứa đựng bản
chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là khát vọng hướng tới cái chân, cái
thiện và cái mỹ. Có thể coi đó là ba trụ cột vónh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Khi
nào, cái chân, cái thiện và cái mỹ bò lãng quên, thì chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc. Sự xuất
hiện lối sống ích kỷ tàn bạo, việc cổ vũ cho chiến tranh xâm lược, việc tuyên truyền cho chủ
nghóa hưởng lạc, sống gấp, các trường phái nghệ thuật suy đồi VV… đều là biểu hiện sự suy
thoái về văn hóa của con người.
Cũng như mọi sinh thể trong vũ trụ. Con người là một bộ phận của đại tự
nhiên, chòu sự quy đònh chặt chẽ của đại tự nhiên. Nhưng khác với các sinh vật
khác, con người còn có một “khoảng trời riêng”, một thiên nhiên thứ hai, thiên
14
nhiên đó do con người tạo ra bằng lao động và tri thức của mình. Thiên nhiên đó
chính là văn hóa. Nếu đại tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, thì

văn hóa là cái nôi thứ hai, ở đó, toàn bộ đời sống tinh thần của con người được
hình thành, được nuôi dưỡng và phát triển. Con người không thể tồn tại nếu tách
rời đại tự nhiên, cũng như vậy, con người không thể trở thành con người nếu
tách rời môi trường văn hóa.
Thường, người ta chia văn hóa ra hai lónh vực văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần. Sự phân chia này cũng là cần thiết để có cái nhìn toàn diện hơn đối
với các sản phẩm văn hóa. Bên cạnh các sản phẩm tinh thần như các tác phẩm
văn học- nghệ thuật những phát minh khoa học, các phong tục tập quán vv… Tuy
vậy, sự phân chia đó cũng chỉ có ý nghóa tương đối. Cái gọi là văn hóa vật chất
hay văn hóa vật thể thật ra là vật thể hóa các giá trò tinh thần.
Như vậy, văn hóa là hoạt động tinh thần hướng tới việc sản xuất ra các giá
trò chân, thiện, mỹ. Tổng thể các hoạt động văn hóa tạo nên một thiên nhiên thứ
hai, một môi trường thứ hai nuôi dưỡng con người. Chính với ý nghóa đó, văn
hóa co1 những chức năng xã hội đặc biệt. Các chức năng xã hội giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về bản chất của văn hóa và vò trí, vai trò của văn hóa trong đời sống
xã hội
Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa kiệt xuất. Nghò quyết UNESCO viết: "sự
đóng đóng góp quan trọng những mặt của Chủ tòch Hồ Chí Minh trong các lónh
vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng
ngày năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của người là hiện thân của
những khát vọng, của các dân tộc trong việc khẳng đònh bản sắc dân tộc của
mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau"
Hồ Chí Minh là biểu hiện tập trung cốt cách tâm hồn của người Việt Nam,
thể hiện cái khí thế xông lên của dân tộc, cái hùng thiêng sông núi Việt Nam. Tư
tưởng về văn hóa của Hồ Chí Minh là cách cảm, cách nghó, cách nói của người
luôn thể hiện ở cách cảm, cách nghó, cách nói của dân tộc Việt Nam. Nội dung
của các tác phong đó là lao động, chiến đấu của dân tộc Việt Nam.
"Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp.
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông.
Nay ở trong thơ nên có thép.

Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
( Cảm tưởng thiên gia thi”. Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh)
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, vò trí văn hóa có tầm quan trọng trong cuộc
sống con người. Người nói: "Vì lẻ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hóa" (Hồ Chí Minh toàn tập - tập 3 - trang 431). Có thể nói văn hóa là
toàn bộ những giá trò về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
hoạt động thực tiễn lòch sử của mình. Hồ Chí Minh cho rằng ; văn hóa là linh
hồn, là bản sắc của dân tộc. Hệ thống giá trò tinh thần của mọi dân tộc hình
thành nên bản sắc của mỗi dân tộc. Văn hóa thực chất là cái để phân biệt giữa
dân tộc này với dân tộc khác. Và Hồ Chí Minh cho rằng: phải gìn giữ và phát
huy bản sắc dân tộc, lấy văn hóa xưa để bồi đắp văn hóa nay.
Từ đó, cho văn hóa phải có một chức năng cực kỳ quan trọng trong đời
sống xã hội.
Chức năng bao trùm của văn hóa là chức năng giáo dục. Nói đến giáo dục
là nói đến việc đònh hướng xã hội, hướng lý tưởng đạo đức và hành vi của con
người vào điều hay lẽ phải, theo đúng chuẩn mực xã hội tính giai cấp và tính và
tính dân tộc con người văn hóa chủ yếu được biểu hiện ở đây. Do điều kiện lòch
sử riêng, các dân tộc hình thành những truyền thống tâm lý riêng. Văn hóa dân
tộc là sự biểu hiện tập trung bản sắc dân tộc, đồng thời các tác động văn hóa có
tác dụng giáo dục phổ biến sâu rộng cái bản sắc đó.
Cùng với tính dân tộc trong xã hội có giai cấp văn hóa mang tính giai cấp,
là phương thức sản xuất tinh thần, văn hóa không thể không phản ánh và không
chòu sự qui đònh của phương thức sản xuất vật chất điều kiện sinh hoạt của các
giai cấp khác nhau, làm nảy sinh những tinh thần tình cảm khác nhau,
Mối quan hệ giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại đang nổi lên
như một vấn đề lý luận và thực tiễn lớn trong lónh vực văn hóa ở thời đại ngày
nay.

Với chức năng giáo dục, văn hóa tạo nên sự phát triển liên tục của lòch sử
nhân loại và lòch sử dân tộc không bao giờ có thể cắt đứt con người với lòch sử,
nên cũng không thể tách con người ra khỏi văn hóa, vì văn hóa cũng là bản thân
lòch sử của con người là cội nguồn của mỗi con người, việc giáo dục con người
bằng văn hóa, bằng các giá trò truyền thống văn hóa có vai trò rất quan trọng
Hồ Chủ Tòch nhắc nhở, giáo dục: "dân ta phải biết sử ta cho từng gốc tích nước
nhà Việt Nam". Sức mạnh và hiệu quả của giáo dục văn hóa là ở chỗ nó huy
động được toàn bộ các năng lực tinh thần và tác động tới chỗ sâu kín nhất của
đời sống tinh thần của con người.
Văn hóa là hoạt động tinh thần để hướng tới chân, thiện, mỹ, mỗi hình thức
hoạt động tinh thần phát huy các chức năng xã hội khá nhau
Trước tiên là chức năng nhận thức. Nói đến chức năng này không thể quên
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Từ những kinh nghiệm đúc kết trong
lòch sử dân tộc và thế giới Đại Hội VIII Đảng ta đã chỉ rõ: “ giáo dục và đào tạo
phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Bằng nhiều hình thức đa dạng bảo
đảm cho mọi người được học, nhất là người nghèo và con em các gia đình chính
sách” (VKĐH Đ B TQ lần THỨ VIII, Nxb CTQG hà nội 1996 tr 29).
Nâng cao nhận thức của con người là phát huy những tiềm năng của con
người. Bước đầu hoàn thiện con người hoàn thiện xã hội.
Cùng với chức năng nhận thức là chức năng thẩm mỹ, chức năng này gắn
liền với văn học nghệ thuật. Vì lẽ con người luôn luôn hướng tới cái đẹp. Mác
nói: “ bản chất con người là biết nhào nặn hiện thực theo qui luật của cái đẹp”.
Biết rung động trước cái đẹp, ở một mức độ nào đó tạo nên phẩm chất đao5 đức
của con người. Vươn tới cái đẹp là một trong những động lực quan trọng tạo nên
những tiến bộ về vật chất và tinh thần của cuô5c sống con người. Do đó, chức
năng thẩm mỹ không thể tách rời chức năng nhận thức.
Người ta còn nói đến chức năng dự báo. Văn hóa là tổng thể những hoạt
động về tinh thần và trí tuệ, là sự phát hiện dần dần những qui luật tự nhiên của
xã hội và của con người, nhằm mở rộng sự hiểu biết sức tưởng tượng khám phá
và sáng tạo của con người.

Đến với văn hóa nghệ thuật là để thỏa mãn những sở thích cá nhân, để tìm
niềm vui, giải tỏa những căng thẳng sau thời gian lao động. Do vậy, văn hóa còn
có chức năng giải trí; tạo điều kiện cho sự phát triển của con người, chức năng
này không tách rời chức năng giáo dục.
Người khẳng đònh, văn hóa trong chính trò và chính trò trong văn hóa: "Văn
hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể đứng ngoài mà ở trong
KT và chính trò". Văn hóa còn là động lực, mục tiêu của sự nghiệp CM. Độc lập
dân tộc mang lại giá trò đích thực cho văn hóa, xây dựng chủ nghóa XH là phải có
nền văn hóa cao "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi", "phải đem văn hóa lãnh
đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ". Văn hóa là động lực của
sự nghiệp CM.
Hồ Chí Minh là thể hiện văn hóa Việt Nam phải mang nội dung XHCN và
tính dân tộc sâu sắc. Văn hóa Việt Nam XHCN là nền văn hóa xây dựng trên cơ
sở khối liên minh Công nông, là nền văn hóa được sự lãnh đạo của Đảng. Đồng
thời, nền văn hóa phải là của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng, và phục vụ
quần chúng nhân dân. Người khẳng đònh: "chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho
sáng tác nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó
người dân cũng sẽ quên anh ta". Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng: "công tác
văn hóa phải lấy lợi ích của nhân dân làm khuôn phép, nói chuyện tuyên truyền
khẩu hiệu, viết báo… phải xác đònh từ trong quần chúng mà ra, về sâu trong quần
chúng"Theo Hồ Chí Minh một tác phẩm giá trò là một tác phẩm hay, chân thật,
hùng hồn, phong phú về nội dung, phương thức phản ánh hoàn hảo, đáp ứng được
yêu cầu của công chúng.
Kế thừa vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Đảng ta đã xác đònh
văn hóa có vò trí rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.Phải thực hiện tốt Nghò
quyết Trung ương 4 khóa 8 về KT - XH, phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả
KT, phấn đấu đảm bảo duy trì tăng trưởng KT bền vững, thì mới có điều kiện
phát triển văn hóa mới. Cả KT và văn hóa phải hòa quyện vào nhau để đưa đất
nước ta vững bước vào thế kỷ 21" (văn hóa Hội nghò lần thứ 5 BCH TW Đảng
Khóa 8 - trang 87)hiện nay cần phải tập trung một số vấn đề sau:

Phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo: "đẩy mạnh việc thực hiện Nghò quyết
Trung ương 2 Khóa 8 về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Coi trọng giáo
dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm, nghóa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu
chủ nghóa XH, đạo đức, lối sống, nếp sống văn hóa, lòch sử dân tộc và bản sắc
dân tộc ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đề của đất nước, bồi
dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trò văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại…" (Nghò quyết Trung ương 5 Khóa 8 - Trang 63).
Phải xây dựng con người Việt Nam trong tương lai có đời sống mới, có lối
sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân nghóa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, qui ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái". Và "giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình
Việt Nam.Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha, mẹ. Coi trọng xây dựng
gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khắng khích giữa gia đình, nhà trường
và XH. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao
tính tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn
minh…" (Nghò quyết Trung ương 5 khóa 8 - trang 60)
Như vậy,Văn Hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc
nâng cao đời sống vui tươi lành mạnh của quần chúng. Nội dung văn hóa phải
có ý nghóa giáo dục”, có vậy, văn hóa mới phát huy hết giá trò tinh thần của
mình.Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay /.
Câu hỏi 18: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 có ghi: “Văn
hóa là nền tảng tinh thần của XH vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
phát triển KT XH. Mọi hoạt động văn hóa văn nghệ phải nhằm xây dựng và
phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm sống, xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh cho sự nghiệp phát triển XH”.
Bằng lý luận văn hóa, đồng chí hãy phân tích nhận đònh trên.

Tinh thần đó đã được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua cứu quốc
ngày 25/11/1946 gốc “văn hóa và dân tộc”.

Xây dựng và phát triển văn hóa tốt luôn phải xuất phát từ nền tảng dân tộc,
không được xa rời dân tộc bởi vì “gốc văn hóa là dân tộc” để hiểu rõ câu nói đó
của Hồ Chí Minh chúng ta đi vào làm rõ từng khía cạnh của vấn đề.
Trước hết phải nói rằng khi nhận thức về văn hóa luôn luôn chòu sự tác
động ảnh hưởng của tiến bộ khoa học và tiến bộ XH. Tíng đa dạng và phức tạp
của văn hóa đòi hỏi nhiều phương pháp tiếp cận. Vơiù phương pháp tiếp cận theo
quan niệm giá trò chúng ta có thể đònh nghóa văn hóa như sau: văn hóa là toàn bộ
những hoạt động giao lưu của con người được sáng tạo trong sự ứng xử toàn diện
với thiên nhiên, với XH với chính bản thân mình để tồn tại và phát triển, là quá
trình con người không ngừng hoàn thiện và phong phú hóa cái quan hệ người tính
15
của XH. Cộng đồng và cá nhân có được cộng đồng thừa nhận khẳng đònh thành
hệ giá trò văn hóa chân thiện mỹ là cột trụ vónh hằng của hệ giá trò văn hóa dân
tộc và nhân loại.
Khi nói đến văn hóa là nói đến con người với tư cách là chủ thể của văn hóa
sáng tạo ra văn hóa toàn bộ những sản phẩm vật chất và tinh thần của XH đều
do bàn tay, khối óc con người sáng tạo ra khi họ ứng xử với tự nhiên, XH và bản
thân.
Khi nói đến người tính tính cộng đồng và tính sáng tạo con người và chỉ có
con người mới có tính cộng đồng, con người đã nhận biết mình khi nhìn vào đồng
loại “Pôn chỉ là pôn khi nhìn vào Pie chỉ pie khi nhìn con người bằng xương bằng
thòt của pôn cũng thấy bản thân mình trong đó. Bản chất con người là soi mình
vào đồng loại như coi vào vào một tấm gương” (Mác).
Tính sáng tạo là năng lực phản ánh hiện thực và năng lực cải tạo thế giới
đó là quá trình con người chiếm hữu, sở hữu tự nhiên và tự nhiên quan trọng nhất
là con người năng lực sáng tạo của con người muốn thực hiện được phải có lực
lượng vật chất bô nào đôi bàn tay, khả năng nghe nhìn.
Khi nói đến văn hóa là nói đến sự hoàn thiện của XH và của cá nhân, đó là
sự hoàn thiện nhân cách cộng đồng là sự hoàn thiện không ngừng toàn bộ đời
sống XH theo hệ giá trò chân thiện mỹ.

Như vậy cái “gốc văn hóa là dân tộc” được thể hiện như thế nào? Ta thấy
rằng bản chất văn hóa gồm nhiều thuộc tính. Thuộc tính nhân loại, thuộc tính
giai cấp nhưng tập trung nhất vào thuộc tính dân tộc bởi vì không một dân tộc
nào tồn tại biệt lập với nhân loại và tồn tại với chỉ 1 giai cấp.
Bản chất của văn hóa là nhằm để phát triển XH, dân tộc và con người, sức
mạnh của dân tộc cuối cùng được qui đònh bởi con người của dân tộc bởi đời
sống tinh thần của dân tộc là giá trò của nền văn hóa dân tộc.
Trong sự phát triển nền văn hóa dân tộc thì cuối cùng con người quyết đònh
bởi vì chính con người dân tộc duy trì sự sống văn hóa của dân tộc, là lực lượng
tiếp nhận giá trò quá khứ và tạo ra giá trò mới, chính con người dân tộc giữ lấy
tiếng nói thuần phong mỹ tục và phát triển ý thức dân tộc, con người không có ý
thức dân tộc là người mang ý thức nô lệ dễ làm điều xấu và không dám được.
Con người tồn tại thế hệ và kế tục những giá trò tốt đẹp của thế hệ sau đối
với thế hệ trước là yếu tố đảm bảo cho sự phát triển dân tộc. Nước ta trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa cần phải quan tâm đến con người
đặt con người vào vò trí trung tâm vì con người là yếu tố sống động nhất trong
cuộc sống để phát triển văn hóa XH. Do đó, giữa văn hóa và dân tộc có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
Vậy dân tộc là gì?
Dân tộc là 1 hình thái 1 vận động của lao động XH loài người. Sự vận động
ấy đưa đến tính cộng đồng trên các mặt: lãnh thổ, quốc gia, KT XH văn hóa ( có
ngôn ngữ, tâm lý, lối sống, tín ngưỡng, nghệ thuật).
Lãnh thổ là 1 yếu tố đầu tiên của mỗi dân tộc mang tính đặc trưng, qui đònh
nền văn hóa của dân tộc đó, quốc gia là lãnh thổ có chủ quyền ở đó có Nhà
nước.
KT XH mang tính nhân loại. Văn hóa mang tính dân tộc tính đặc thù riêng
có của dân tộc.Có thể nói dân tộc là nền tảng là cội nguồn là cái gốc của văn
hóa. Còn văn hóa là bộ mặt tinh thần của dân tộc nó được hình thành và phát
triển dân tộc. Vì lẻ đó Bác Hồ nói “gốc văn hóa là dân tộc”. Tại sao nói gốc văn
hóa là dân tộc?

Bởi vì dân tộc nào cũng tồn tại trong điều kiện tự nhiên đặc thù chính điều
kiện tự nhiên ấy qui đònh sự phát triển văn hóa. Tự nhiên cung cấp nguồn sống,
con người muốn tồn tại muốn phát triển thì phái khai thác tự nhiên. Cải tạo tự
nhiên, chiếm hữu sở hữu tự nhiên là điều kiện hàng đầu để phát triển văn hóa.
Tính cộng đồng tính sáng tạo cũng bắt nguồn từ đó tự nhiên là tiềm năng là kho
dự trữ cho sự phát triển trí tuệ con người điều kiện tự nhiên thay đổi sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển văn hóa của cộng đồng dân tộc.
Quá trình phát triển nhu cầu lao động đầu tiên ( ăn, mặc, ở, đi lại, duy trì
nòi giống) và đổi mới không ngừng nhu cầu ấy “những con người đầu tiên khi
thoát khỏi lòa động vật về căn bản không khác loài động vật nhưng mỗi bước
tiến bộ văn hóa là 1 bước tiến con người về phía tự do”(ngghen).
Nếu không nắm được quan hệ tự nhiên và không làm chủ được tự nhiên thì
con người không thể tự do muốn tự do phải nắm được tự nhiên và làm chủ tự
nhiên.
Nền văn hóa lúa nước là sự phát sinh ra đời của con người với điều kiện tự
nhiên. Do đó, con người tồn tại đến cùng với nền văn hóa của nó.
Tự nhiên trong một quan hệ biện chứng với con người. Tự nhiên bò tha hóa
vào trong con người với nó lao động sáng tạo của con người. Chính qui luật tự
nhiên chi phối mục đích phương thức hoạt động của con người vai trò tự nhiên là
ờ chỗ đóù.
Điều kiện tự nhiên thứ nhất (vũ trụ) là vô cùng cho nên trí tuệ của con người
và văn hóa phát triển vô hạn, cần phải bảo vệ điều kiện tự nhiên là nhân tố quan
trọng hàng đầu để phát triển giá trò của cuộc sống con người.
Sở dó văn hóa có tính dân tộc bởi vì dân tộc nào cũng tồn tại trong điều kiện
lao động đặc thù có nghóa là mỗi dân tộc trong quá trình phát triển sự hình thành
tính cộng đồng. Tíng cộng đồng không phải là sự vận động tự thân mang tính duy
tâm thần bí mà nó là sản phẩm của vận động lao động.
Trước hết là lao động không mạnh ứng xử với tự nhiên chính lao động ấy
mang bản chất XH và lao động không mạnh với tự nhiên thể hiện thành nhiều hệ
thống.

Thứ 2 lao động con người ứng xử với cộng đồng nó phản ánh trên nền tảng
lao động thứ nhất là bằng một quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Lao động phát triển của XH qui đònh công nghệ văn hóa, công nghệ vận
động là sự chuyển giao văn hóa từ thời đại sang thời đại khác từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Sự vận động của các thế hệ ấy quyết đònh sự chuyển giao XH giữa
các thế hệ đây là qt > bc.
Chất lượng phát triển văn hóa của mỗi dân tộc được thể hiện tập trung
trong công nghệ, chuyển giao văn hóa phát triển qt thay đổi công nghệ và suy
cho tận cùng nếu nó phát huy được những tiềm năng dân tộc đã tạo ra trong lao
động thì dân tộc sẽ phát triển và vững chắc. Nếu ngược lại sẽ rơi vào hậu quả
mất bản sắc dân tộc hoặc làm cho nền văn hóa ngưng trệ không phát triển đây
ch1nh là 1 vấn đề có tính lý luận vá thực tiễn đối với nước ta hiện nay. Lao động
của dân tộc mang tính đặc thù nó qui đònh đặc thù văn hóa. Dân tộc ta liên tục
chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập dân tộc nên hệ giá trò cao nhất là chủ nghóa
yêu nước chủ nghóa anh hùng CM, chủ nghóa nhân văn.
Ở nước ta văn hào Nguyễn Du và Đồ Chiểu góp phần tạo nên nến văn hóa
dân tộc Việt Nam. Bản thân văn hóa cũng có lao động của nó. Mỗi 1 nền văn hóa
không bao giờ tự khép kín mà nó phát triển trong giao lưu kế thừa.
Quốc tế giao lưu kế thừa phong phú hóa nền văn hóa dân tộc mình đồng thời
cũng góp phần làm phong phú nền văn hóa nhân loại. Ở đây tính nhân văn, hiện
đại được thể hiện thực hiện như vậy không có sự mâu thuẫn đối lập giữa tính dân
tộc của văn hóa với tính nhân văn.
Như vậy tính dân tộc của văn hóa thể hiện ở những điểm nào?
Tính dân tộc được thể hiện trong truyền thống văn hóa dân tộc, đó là những
giá trò văn hóa của thời đại sau gìn giữ và phát triển. Truyền thống là cái không
thấy được nó như một dòng chảy liên tục khi nhìn vào chò Dậu có bóng dáng
nàng Kiều. Truyền thống trừu tượng nhưng cũng được thể hiện trong những hình
tượng giá trò cụ thể. Không phải toàn bộ những giá trò để lại đều là truyền thống
chỉ có những giá trò nào được thế hệ sau tiếp nhận làm sống lại mới trở thành
truyền thống.

Quản lý tồn tại phát triển của truyền thống chưa vào thuộc tính năng đó,
quan trọng nhất giá trò của nó là chọn lọc biến đổi sáng tạo, không có dò bản
không có qt chọn lọc biến đổi và sáng tạo, không có truyền thống văn hóa. Như
vậy nói đến dân tộc không thể nói đến truyền thống, để đảm bảo tính dân tộc
phát triển nhất thiết phải kế thừa truyền thống những truyền thống nổi bật ở Việt
Nam và chủ nghóa yêu nước, chủ nghóa anh hùng nhân đạo tính cộng đồng,
truyền thống về ý thức thân phận của cá nhân với cộng đồng và ngược lại, ý thức
về giá trò nhất là coi trọng giá trò tinh thần.
Trong quan hệ về giá trò có sự thống nhất hài hòa các mặt.
Giữa cái đẹp và thực dụng giữa cái triết lý và cái thực tiễn, giữa lý và tình,
giữa cao cả vó đại và cái bình thường.
Tính dân tộc của văn hóa biểu hiện rất rõ ở bản sắc văn hóa của một dân
tộc là sự thể hiện sức mạnh của nền văn hóa dân tộc như truyền thống cộng
đồng.
Bản sắc văn hóa dân tộc tạo ra bản lónh không thay đổi bản chất của mình
trong quản lý lao động như ý chí đối lập tự do là bản lónh của nền văn hóa Việt
Nam mà Bác Hồ là người tiêu biểu, cội nguồn dân tộc là vua Hùng.
Bản sắc văn hóa là bộ gien nòi giống về mặt tinh thần là cái để nhận biết
dân tộc giữa cộng đồng nhân loại. Bản sắc văn hóa lá quá trình dân tộc tự ý thức
để giữ lấy và tạo ra tiềm năng phát triển.
Bản sắc văn hóa là cái người là sợi chỉ hồng liên kết và xuyên suốt truyền
thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa và dòng chảy liên tục vừa đào sâu
vừa mở rộng và phát triển không ngừng bản sắc văn hóa dân tộc. Có như vậy
mới hiện đại hóa được nền văn hóa dân tộc.
Từ bản sắc văn hóa nói trên ta đi đến nhân cách văn hóa cộng đồng và con
người. Từng con người và cộng đồng XH cũng là 1 dạng tồn tại văn hóa. Văn hóa
tích lũy và kết tinh trong từng con người trong cộng đồng XH nhằm hoàn thiện
con người và XH hình thành phát triển nhân cách.
Vậy nhân cách là trung tâm của hệ giá trò tinh thần và cộng đồng nhân cách
biểu hiện trong văn hóa lao động văn hóa giao tiếp văn hóa gia đình và văn hóa

cá nhân.
Nhân cách là sản phẩm của nhân loại Lênin nói “ cùng với dòng sửa mẹ con
người hấp thu tâm lý đạo đức của XH mà nó là thành viên nhân cách con người
sinh ra và lớn lên phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm, tứ các
quan hệ phát triển tự nhiên với XH với thế giới động vật và tinh thần”.
Như vậy bản sắc văn hóa thể hiện 1 cách toàn diện trong cộng đồng và
trong cuộc sống con người. Khi ứng xử với tự nhiên, với XH với bản thân mình.
Đường lối xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với đặc
trưng: dân tộc hiện đại và nhân văn vừa mang tính thực tiễn là sự đònh hướng
phát triển nền văn hóa dân tộc để xây dựng 1 nền văn hóa mới vấn đề kế thừa
giá trò truyền thống Việt Nam phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề có ý
nghóa chiến lược nhằm phát triển KT XH dân tộc con người, nhằm tạo điều kiện
cho nhân dân lao động thật sự là chủ nhân của nền văn hóa dân tộc qt quốc tế
hóa toàn cầu hóa sinh hoạt loài người tăng lên bao nhiêu thì quốc tế dân tộc ý
thức về cội nguồn, ý thức về độc lập tự chủ của quốc gia dân tộc càng tăng lên
bấy nhiêu. Nền văn hóa phát triển đậm đà về bản sắc bấy nhiêu thì càng phong
phú gần gủi và thống nhất với nền văn hóa chung toàn nhân loại.
Để có 1 nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc kế thừa và phát huy
các giá trò truyền thống văn hóa dân tộc. Mặt khác phải tiếp thu văn hóa nhân
loại 2 mặt ấy diễn ra đồng thời có mang bản chất tiếp thu văn hóa nhân loại trên
nền tảng “gốc văn hóa là dân tộc” nhằm làm phong phú và nâng cao văn hóa
dân tộc để thích ứng với thời đại trên con đường phát triển.
16
Trong công cuộc đổi mới đất nước hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
XH công bằng, dân chủ, văn minh kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc là 1 việc trọng đại có ý nghóa chiến lược của sự kết hợp 1 nền văn hóa mới “
đi vào KT thò trường mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tiếp thu không tinh hoa của nhân loại, không phải coi trọng những giá trò
truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không để tự mình đánh mất mình.
Trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” VKĐH8./.

Câu hỏi 19: đồng chí hãy phân tích các đặc trưng của lối sống lành mạnh
và sự hình thành lối sống lành mạnh ở nước ta hiện nay.
I/- Những vấn đề chung về lối sống:
Khái niệm về lối sống đã được Mác và Ăng Ghen đề cập nhiều lần trong các
tác phẩm của mình. Ngày nay, việc xây dựng lối sống mới là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Việc hình thành các quan điểm
khoa học về lối sống có ý nghóa quan trọng liên quan trực tiếp đến vấn đề xây
dựng phát triển và hoàn thiện con người trong XH mới.
Theo Mác và Ăng Ghen, con người muốn sống được nghóa là muốn tái SX ra
sự tồn tại thể xác của mình, trước hết phải SX. Phương thức SX là một hình thức
hoạt động của con người, thông qua hoạt động đó mà con người biểu hiện đời
sống của mình, biểu hiện bản thân mình. Mác và Ăng Ghen đã từng nói: "những
cá nhân là như thế nào điều đó phụ thuộc những điều kiện vật chất của sự SX của
họ. Phương thức SX là phương thức sinh sống nhất đònh của của con người, nó là
mặt cơ bản của lối sống, phương thức SX là điều kiện KT - XH của lối sống, là cơ
sở đầu tiên để chúng ta tìm hiểu lối sống. Song, không thể đồng nhất hai khái
niệm phương thức SX và lối sống vì những lẽ sau:
Trong XH có giai cấp không thể có một lối sống cho tất cả mọi người: lối
sống hoàn toàn khác nhau giữa hai giai cấp đối lập, trong cùng một phương thức
SX sự khác nhau giữa giai cấp chủ nô và nô lệ, giữa PK và nông dân, giữa tư sản
và vô sản.
Phạm vi của lối sống rộng hơn phạm vi của phương thức SX. Ngoài hoạt
động SX con người còn có nhiều hoạt động phong phú khác như hoạt động XH,
hoạt động chính trò, tư tưởng, văn hóa, bồi dưỡng sức khỏe và rèn luyện phẩm
chất cá nhân.
Phạm vi của lối sống tương ứng với phạm vi của hình thành KT - XH. Nhưng
hai phạm trù không đồng nhất với nhau. Hình thành KT - XH gắn liền với hoạt
động lối sống của con người, nhưng nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức của
con người. Trong khi đó lối sống phản ánh hoạt động của chủ thể bao gồm nhận
thức, tình cảm, thái độ, động cơ trong mọi hoạt động bản thân của con người.

Với tinh thần trên, chủ nghóa Mác gắn lối sống phương thức sx và hình thái
KT - XH. Tuy nhiên khi đònh nghóa về lối sống còn có những điểm khác nhau, ở
chỗ mỗi người thường nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của lối sống. Việt
Nam, các Nghò quyết của Đại hội Đảng đã nêu lên nguyên lý cơ bản của chủ
nghóa Mác - Lê nin về XH và con người, vạch ra bức tranh chung của XH Việt
Nam, nhấn mạnh những đặc trưng của con người và lối sống mới. Từ những
phạm vi rộng lớn của lối sống, có thể đònh nghóa lối sống như sau: lối sống na
một phạm trù XH học khái quát toàn bộ hoạt động sống của dân tộc, các giai
cấp, các nhóm XH, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái KT - XH
nhất đònh, và biểu hiện trên tất cả các lónh vực của đời sống: trong lao động và
hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn
hóa:
II/- Những đặc trưng cơ bản của lối sống lành mạnh:
Lối sống là dấu hiệu phân biệt khác nhau giữa cộng đồng này với cộng
đồng khác, là một tổng thể những hình thái hoạt động của con người, phản ánh
những đặc điểm về sinh hoạt vật chất, tinh thần và XH của cộng đồng người đã
tạo nên lối sống đó. Lối sống XH là một sản phẩm tất yếu của một hình thái KT -
XH, nó góp phần củng cố và phát triển hình thái KT - XH đó. Lối sống mới có
những đặc trưng cơ bản của con người đi lên chủ nghóa XH. Nó được xây dựng
trên cơ sở có yếu tố sau:
Chế độ sở hữu đa dạng trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Nguyên tắc của lối sống mới là nguyên tắc phân phối theo lao động.
Lối sống mới dựa trên nền tảng chính trò vững chắc. Đó là Nhà nước XHCN
là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Lấy chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm hệ tư tưởng chỉ đạo.
Xóa bỏ các bất bình đẳng về chủng tộc, dân tộc, giới tính, thực hiện tự do
tinh thần, công bằng dân chủ và nhân ái trong mối quan hệ XH.
Mọi XH muốn ổn đònh phải xây dựng được một lẻ sống phù hợp đạo lý. Lẻ
sống là bộ phận cốt lõi nhất của lối sống, vai trò của nó giống như chiếc hoa tiêu
chỉ đường tiến tới. Chúng ta chọn lẻ sống "mỗi người vì mọi người, mọi người vì

mỗi người" làm nguyên tắc ứng xử của các công dân trong XH. Để thực hiện
được lẻ sống cái đẹp ấy mỗi XH phải lựa chọn một bản gía trò thích hợp làm
hướng phấn đấu cho mọi người. Ngày nay, Đảng ta chủ trương nâng cao mức
sống nhân dân để tạo điều kiện cho lối sống tốt đẹp, vì bản thân sự giàu có mà
không mang đến sự tốt đẹp cho XH, cho cộng đồng thì XH đó không có lối sống
tốt đẹp và lành mạnh.
Ngoài ra, nếp sống là chiều sâu của lối sống, là mặt ổn đònh của lối sống,
nếp sống là khuôn mẫu ứng xử của con người. Nếp sống có nhiều thành tố thói
quen, tập quán, tục lệ, phong tục. Vì vậy, xây dựng nếp sống mới là phải xóa bỏ
những tập tục, thói quen lạc hậu, lỗi thời. Ngoài ra, phải xây dựng lý tưởng sống
tốt đẹp, nghóa là xây dựng cho con người những ước mơ, hoài bão để vươn tới
chân, thiện, mỹ, và phê phán lối sống phản tiến bộ, ích kỷ, hẹp hòi, thực dụng.
Do lối sống mới có quan hệ mật thiết với phương thức SX nên vấn đề quan
trọng hàng đầu của lối sống mới là lao động (kể cả lao động chân tay và lao
động trí óc). Lao động là lương tâm là nghóa vụ, là phẩm chất của con người mới.
Nội dung quan trọng nhất của lối sống mới là tinh thần dân chủ XH. Lối
sống mới của nước ta là phải thiết lập được các gía trò dân chủ và nhân bản, thực
hiện được quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa nông thôn và thành thò, giữa
của dân tộc trong cộng đồng nhằm phát huy mọi khả năng của các dân tộc, các
thế hệ. Dân chủ cũng như tự do là quyền sống thiêng liêng của mỗi người, nó thể
hiện quyền tham gia của mọi người vào quyền quyết đònh chung có liên quan đến
họ. Dân chủ còn là sự lựa chọn cách thể hiện mình trong quá trình tồn tại, vì thế
dân chủ là phương tiện cơ bản để thực hiện tiến bộ XH.
Mặt khác, công bằng là một đạo lý xuất hiện ngay từ buổi nguyên sơ của
XH loài người. Ngày nay, công bằng là sự công bằng trong điều kiện xây dựng
đất nước đi lên theo đònh hướng XHCN. chế độ XHCN công bằng trước hết là
thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, đảm bảo công ăn việc làm cho
mọi người lao động, bảo đảm quyền hưởng thụ mọi phúc lợi XH như: quyền được
chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, quyền được học hành và quyền được sử dụng thời
gian nhàn rỗi theo sở thích.

Lối sống mới Việt Nam còn là lối sống đạo đức, thể hiện ở chủ nghóa nhân
đạo, tình thương yêu và tôn trọng con người. Đó là cái thiện, cái ác lương tâm,
danh dự, nghóa vụ đều phải dựa trên cái đúng, cái đẹp. Xa rời chuẩn mực của cái
đúng và cái đẹp, các quan hệ đạo đức chưa đủ vươn mình ra khỏi những gía trò
cũ. Lòng nhân ái Việt Nam vốn bắt nguồn từ tình cảm cộng đồng đã có từ lâu đời
như "thương người như thể thương thân" là nguyên tắc luân lý cao đẹp từ xưa, nay
cần nâng lên tầm cao mới. Lòng nhân ái Việt Nam được tôi luyện trong phong
trào đấu tranh CM gỉai phóng dân tộc và được nâng lên thành tinh thần quốc tế
chân chính. Đây chính là gía trò truyền thống nên phong hóa ngàn xưa của dân
tộc và của cộng đồng, cũng là một phẩm chất mới của lối sống mới. Vì vậy, phải
kế thừa nền phong hóa tiến bộ và tính had của dân tộc.
Một mặt quan trọng của lối sống mới là các giao tiếp văn hóa. Lời ăn, tiếng
nói, cách thức chào hỏi đều dựa trên nền tảng văn minh, lòch sự và tôn trọng lẫn
nhau. Các thủ tục về cưới xin, ma chay, giỗ chạp đều chứa đựng những giá trò
văn hóa lâu đời. Chúng ta không được coi nhẹ việc kế thừa và đổi mới những gía
trò q báu đó.
Một trong những mặt cơ bản của lối sống là đời sống hàng ngày. Nó bao
gồm toàn bộ lónh vực sinh hoạt sau giờ lao động, học tập, công tác. Những hoạt
động này chiếm khoảnh 2/3 lượng thời gian của một ngày, nhằm bảo đảm cho
người lao động phục hồi thể lực, thỏa mãn những nhu cầu về đời sống như: ăn, ở,
học hành, nghỉ ngơi, giải trí, giao tiếp XH, sinh hoạt gia đình. Thời gian qua,
chúng ta thật sự chưa quan tâm đến ý nghóa tích cực này của thời gian ngoài lao
động.
nước ta lối sống XHCN được hình thành là do kết quả những cải cách cơ
bản của Đảng Cộng sản được tiến hành trên tất cả các lónh vực của đời sống XH,
trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu SX chủ yếu, sự thống nhất về các thành
phần chính trò, văn hóa của XH và hệ tư tưởng của chủ nghóa Mác - Lê nin. Lối
sống XHCN được xây dựng trên cơ sở sự phát triển cao của lực lượng SX và các
quan hệ SX XHCN dựa trên một nền tảng chính trò vững chắc là Nhà nước
XHCN, trên một nhận thức XH mới của nhân dân và được hình thành dưới ảnh

hưởng của chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lối sống XHCN
được thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau: làm việc theo năng lực, hưởng
theo kết quả lao động, sự đảm bảo các quyền XH và sự tự do của quần chúng lao
động, chủ nghóa nhân đạo chân chính, chủ nghóa quốc tế XHCN và sự tin tưởng
lạc quan vào XH mới.
Theo qui luật phát triển của hình thái KT - XH thi ở chế độ XHCN, lối sống
mới XHCN được hình thành và phát triển như một kết quả khách quan của các
thay đổi sâu sắc trong điều kiện sống của XH, của quá trình xây dựng chủ nghóa
XH. Trên cơ sở nền KT XHCN, lối sống mới phát triển theo hướng tiến bộ của cơ
cấu XH, chế độ chính trò và đời sống tinh thần của nhân dân. Sự phát triển theo
hướng tiến bộ, tích cực của lối sống mới XHCN còn là kết quả tác động của công
tác giáo dục chính trò, tư tưởng trong quần chúng nhân dân lao động. Lối sống
XHCN chứa đựng những gía trò tinh thần cao cả mà biểu hiện cụ thể của nó là
chủ nghóa nhân đạo. Đặc điểm chính của lối sống XHCN là tính tập thể chân
chính giữa người và người, sự giúp đỡ trên tinh thần đồng chí và tinh thần quốc
tế XHCN. Lối sống XHCN là nhằm không ngừng thỏa mãn ngày càng đầy đủ hơn
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động, phát triển toàn diện và
cân đối mỗi thành viên trong cộng đồng XH.
II/- thực trạng lối sống nước ta hiện nay:
Nghò quyết 5 BCH TW Đảng khóa 8 đánh giá thực trạng những thành tựu về
tư tưởng, đạo đức, lối sống là những lónh vực then chốt của văn hóa đã có những
chuyển biến quan trọng, đồng thời chỉ ra những mặt yếu kém tồn tại của văn hóa,
nổi lên trước hết ở nhận thức tư tưởng, đạo đức và lối sống. Đó là:
Những thành tựu:
Chủ nghóa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng sáng tạo
đã tỏ rõ gía trò bền vững làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và CM ở nước ta, là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần XH
phát triển đúng hướng.
thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghóa XH, tinh thần trách
nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, Đảng viên được nâng lên một

bước. Nhiều nét mới trong gía trò văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình
thành. Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và
năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong XH tăng lên. Thế
17
hệ tiếp thu những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp và xây
dựng bảo vệ Tổ quốc.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về CM và kháng chiến, tưởng
nhớ các anh hùng dân tộc, q trọng các danh nh6an văn hóa, các chương trình
đền ơn đáp nghóa đối với những người có công CM và hoạn nạn đã trở thành
phong trào quần chúng. Tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng được tôn trọng.
Những mặt yếu kém:
Trước những biến động chính trò trên thế giới, một số người dao động, hoài
nghi về con đường đi lên chủ nghóa XH, phủ nhận những thành ủa của chủ nghóa
XH hiện thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghóa XH ở nước ta,
phủ nhận lòch sử CM Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua đó không ít
người còn mơ hồ bàng quan mất cảnh giác trước những luận điệu thù đòch, xuyên
tạc, bôi nhọ chế độ ta.
Dưới sự tác động của nền KT theo cơ chế thò trường, tệ sùng bái nước ngoài,
coi thường gía trò văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng các, cá nhân vò
kỷ… gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng
tiền, đòa vò na chà đạp lên tình nghóa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí đồng
nghiệp.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức
có quyền, suy thoái về đạo đức lối sống, nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà
nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa, chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện
tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa đòa vò,cục bộ đòa
phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ biến. Những hiện tượng yếu kém về tư
tưởng đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ Đảng viên đã làm giảm năng
lực sức mạnh của Đảng trong sự nghiệp xây dựng một nền văn hóa vì sự nghiệp
phát triển toàn diện con người, vi hạnh phúc của con người.

IV/- Một số vấn đề cấp bách và xây dựng lối sống lành mạnh ở nước ta hiện
nay:
Nghò quyết 5 BCH TW Đảng khóa 8 về việc xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp
CM XHCN ở nước ta. Đây là Nghò quyết lòch sử lần đầu tiên của Đảng ta về văn
hóa. Nội dung của Nghò quyết là khẳng đònh hoạt động trong tầm quan trọng đặc
biệt về tư tưởng đạo đức lối sống và xem đó là những lónh vực then chốt của văn
hóa. Đó là tiến hành sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong Đảng và bộ máy
Nhà nước từ TW đến cơ sở về tư tưởng đạo đức lối sống nhằm phát huy vai trò
gương mẫu của từng cán bộ Đảng viên và viên chức Nhà nước.
Từ việc đặt vấn đề trên Nghò quyết đề ra nhiệm vụ cụ thể về xây dựng nền
văn hóa. Đó là đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người mới trong giai
đoạn mới, từ đó xây dựng đời sống văn hóa, môi trường văn hóa lành mạnh và đề
ra những nhiệm vụ cấp bách trong tình hình mới.
1- Ý nghóa của Nghò quyết TW 5 khóa 8:
Nghò quyết Trung ương 5 khóa 8 đã làm nổi bật vò trí, tầm quan trọng của
đạo đức, tư tưởng lối sống của nền văn hóa Việt Nam. Tư tưởng đạo đức, lối sống
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có quan hệ chặt chẽ với các lónh vực khác
như: KT, chính trò. Vì vậy, có thể xem nó là điều kiện của phát triển, ổn đònh XH,
động lực của sự phát triển KT với ý nghóa nó là thành tố văn hóa.
Phải phát huy tính tích cực chính trò XH của mỗi con người, vì con người vừa
là chủ thể sáng tạo gía trò văn hóa, vừa là sản phẩm của văn hóa. Do đó muốn
xây dựng lối sống trước tiên phải phát huy được vai trò tích cực của con người,
biến họ thành chủ thể tự giác trong việc xây dựng lối sống văn hóa. Một trong
những vấn đề nhức nhối của XH ta hiện nay là suy thoái và đạo đức của một bộ
phận không nhỏ cán bộ Đảng viên trong đó có cán bộ có chức có quyền đã gây
bất bình đẳng trong nhân dân. Vì vậy, phải đào tạo và xây dựng cán bộ có phẩm
chất đạo đức có lối sống tốt là công bộc của nhân dân như Bác Hồ đã từng kêu
gọi: cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
2- Ý nghóa của việc hình thành lối sống, xây dựng lối sống cộng đồng:

Lối sống xây dựng trên cơ sở bảo đảm sự liên kết cộng đồng. Vì bất cứ cộng
đồng nào cũng có nền tảng của lối sống, phương thức của lối sống, chuẩn mực
của lối sống và chỉ có thông qua cộng đồng như một điều kiện tự nhiên, con
người mới là sản phẩm của văn hóa. Vì vậy, trên cơ sở cấu trúc của lối sống mà
siết chặt mối quan hệ liên kết với cộng đồng.
Lối sống là một văn hóa cuộc sống của con người. Các gía trò văn hóa tác
động vào con người bắt nguồn nhiều con đường nhưng quan trọng là phải được
thông qua cộng đồng mà cá nhân tồn tại. Lối sống của con người được thông qua
giáo dục trực tiếp, thông qua việc ảnh hưởng của các cá nhân khác, thông qua
quá trình hình thành truyền thống lòch sử và văn hóa trong bản thân, nhờ giáo
dục và ảnh hưởng của các cá nhân khác, thông qua phong tục tập quán, lễ hội,
tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn ngữ với quan niệm về nghệ thuật.
Lối sống văn hóa biểu hiện trong lối sống vật chất và trong những gía trò
tinh thần. Khi đã hình thành nhân cách văn hóa thì mỗi con người, cá nhân luôn
soi mình vào trong cộng đồng (dân tộc) để gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa
dân tộc trong mình, tiếp nhận và giữ gìn gien văn hóa ấy.
Lối sống như là văn bản văn hóa duy trì sự phát triển tinh thần XH. Trong
lối sống thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Quá khứ trình độ văn hóa chưa phát
triển thì thông qua lối sống để giáo dục con người toàn diện từ SX đến lòch sử
truyền đạt kinh nghiệm, giáo dục con người giữ được truyền thống lòch sử.
Nhờ có lối sống mà những tư tưởng chính trò, triết học quan điểm thẩm mỹ
mới được hiện thực hóa. Đồng thời lối sống tạo ra không gian hết sức rộng lớn,
cởi mở, tự do để cho mọi cá nhân phát triển trong khuôn khổ của cộng đồng.
3- Những vấn đề chung về xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay:
Nội dung lối sống mới rất phong phú, nó có quan hệ đến con người, đến
phương thức SX, đến hình thái KT - XH, đến nhận thức tư tưởng, tình cảm, thái
độ, động cơ hoạt động của con người. Do vậy xây dựng lối sống mới phải xây
dựng một cách toàn diện.
Xây dựng lối sống mới phải trên cơ sở giải quyết tốt mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng giữa cái phổ biến và cái đặc thù, giữa cá nhân và tập thể một

cách hài hòa trong cơ cấu lối sống XHCN.
Xây dựng lối sống mới phải tôn trọng đònh hướng nghiêm ngặt của XH mới,
đồng thời tôn trọng sự tự giác của cá nhân. Chúng ta cũng khẳng đònh rằng
không có một lối sống chung mà chỉ có lối sống của một XH nhất đònh, của dân
tộc nhất đònh và ở một thời đại nhất đònh. Vì vậy, phải biết quan tâm toto mối
quan hệ giữa tính truyền thống và tính hiện đại trong nếp sống.
Những biện pháp xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay là:
Bắt nguồn nhiều hình thức phong phú, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo
dục làm cho nhân dân nhận thức rõ và gắn liền với lợi ích XH, đấu tranh với các
hiện tượng tiêu cực của XH. Trong quá trình đổi mới KT ở nước ta có những bước
phát triển khả quan, song một bộ phận đông đảo dân cư vẫn còn khó khăn thiếu
thốn, nhưng nếu mỗi người đồng tâm nhất trí thì chúng ta vẫn có thể giảm bớt
những khó khăn nếu tổ chức hợp lý đời sống và từng bước khắc phục những hiện
tượng tiêu cực của XH.
Tăng cường dân chủ XH, vì đây vừa là nội dung quan trọng của lối sống,
đồng thời nó là điều kiện quan trọng nhất để phát huy tính tích cực của XH, của
nhân dân. Phát huy quyền làm chủ tập thể nghóa là quyền đó được pháp chế hóa
thực hiện cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong mọi hoạt động
của đời sống XH.
Công bằng XH nghe qua tưởng rằng là đơn giản nhưng thực hiện sẽ gặp
nhiều điều khó khăn. Bởi lẽ không ai có thể say sưa tích cực lao động khi mà
người vất vả nhất thì nghèo đói mà những kẻ ăn bám, buôn bán gian lận, tham
nhũng là những kẻ giàu có sống xa hoa trên thể xác và tinh thần của họ. Vì vậy,
chống hiện tượng tiêu cực là việc làm cần thiết và cấp bách để tạo dựng môi
trường công bằng XH thật sự.
Dân chủ XH là điều kiện quan trọng nhất để phát huy tính tích cực chính trò
của mỗi con người. Dân chủ là nguyện vọng của mọi công dân được góp phần
vào sự nghiệp chung và được chia phần trách nhiệm cùng XH. Dân chủ là điều
kiện Đảng mọi công dân góp phần xây dựng pháp luật của chính mình. Đồng thời
pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện một nền dân chủ chân chính hợp tình và

hợp pháp.
Những nhiệm vụ cần lưu ý xây dựng lối sống mới ở nước ta hiện nay là:
Tiếp tục phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là khôi phục
những thuần phong mỹ tục và xây dựng nền văn hóa mới. Dân tộc ta tự hào về
nên văn hiến của mình, về những qui tắc trong nếp sống được coi là thuần phong
mỹ tục. Các phong tục thể hiện nếp sống và lối sống nghóa là nó chòu sự qui đònh
của KT, chòu sự chi phối của hệ tư tưởng của XH, của chính trò, của pháp luật,
của tôn giáo. Do đó trong điều kiện hiện nay với những phong tục không còn phù
hợp thì chúng ta phải loại bỏ mà chỉ giữ lấy những phong tục còn phù hợp yêu
cầu đổi mới của đất nước.
Xây dựng lối sống phù hợp với XH hiện đại: công nghiệp hóa hiện đại hóa,
lối sống chính trò, lối sống dân chủ, nhân đạo, lòch sử và tiến bộ … việc cải tạo
lối sống cũ lạc hậu và xây dựng lối sống mới phải tiến hành trên cơ sở phát triển
KT, phát triển XH, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
nâng cao mức sống mọi mặt của nhân dân. Bên cạnh đó giáo dục chủ nghóa Mác
- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết và phổ biến rõ ràng trong
nhân dân. Ngoài ra, phải quan tâm nâng cao trình độ học vấn, sự hiểu biết của
nhân dân nhằm đáp ứng nhu cầu của việc xây dựng lối sống phù hợp XH hiện đại
và góp phần thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.
Trong quá trình hội nhập toàn cầu hóa quốc tế hóa ngày càng cao đòi hỏi
xây dựng lối sống phải thống nhất được cái phổ biến và cái đặc thù, hòa nhập
cái cá tính cái bản sắc dân tộc. Có nghóa là chọn lọc tiếp thu lối sống tiến bộ,
những nhân tố của lối sống tiến bộ của nhân loại, ra sức ngăn chặn mặt tiêu cực
của đời sống hợp tác không phù hợp với lối sống văn hóa của dân tộc như: lối
sống đi vào mù quáng, lối sống tiêu dùng hàng hóa, lối sống cô đơn, lối sống ích
kỷ nhiều chiều, có nghóa là vừa không thấy đồng loại vừa hủy hoại chính mình.
Phát động phong trào cho lối sống Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc. Vì lối sống nó có phạm vi rộng lớn bao quát nhiều lónh vực đời sống văn hóa
XH và cá nhân. Bên cạnh đó xây dựng đời sống văn hóa với liên quan đến nhiều

ngành nhiều cấp như: giáo dục, dẫn tới, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật,
cho nên phải xem việc xây dựng lối sống không phải chỉ là một ngành, một cao
nào mà là công việc của toàn XH, và xây dựng lối sống phải được triển khai
mạnh mẽ, thường xuyên và rầm rộ. Điều quan trọng là khơi dậy được ý thức tự
giác trong nhân dân, làm cho họ tự hào về lối sống của dân tộc, phong hóa của
dân tộc.
V/- Kết luận chung:
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CM XHCN ở nước ta.
Để xây dựng được lối sống mới lành mạnh đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải cấp
thiết phát động một phong trào rộng lớn của toàn dân, bao gồm các cấp, các
ngành để đặt lại toàn bộ vấn đề nếp sống của XH. Đồng thời kiên quyết đấu
tranh với mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một nền phong hóa đáp ứng được yêu
cầu của XH mới, xứng đáng là bộ máy văn hóa của chế độ XHCN tốt đẹp.
Toàn Đảng, toàn dân ra sức phấn đấu để Tổ quốc ta mãi mãi là quốc gia
văn hóa, dân tộc ta là dân tộc văn hóa, nền văn hóa nước ta không ngừng phát
triển, xứng đáng với tầm vóc của dân tộc trong lòch sử và trong thế giới hiện đại
ngày nay.
18
Cau hỏi 20: Trong thư gởi các nghệ só nhân dòp triển lãm hội họa năm
1951, chủ tòch Hồ chí Minh có viết:
“VHNT cũng là một mặt trận, anh chò em là chiến só trên mặt trận ấy”
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, NXBCTQG, HN, 1995, trang 368). Vận dụng
hiểu biết về LLVHNT, đồng chí hãy phân tích tư tưởng trên.
Bài Làm
Trong toàn bộ các giá trò tư tưởng Hồ Chí Minh, Tư tưởng về văn hóa NT
cùa người chiếm một vò trí quan trọng. Hiện nay, xây dựng nền VHNT Việt
Nam trong Giai đoạn mở cửa, phát triển KINH TẾ nhiều TP vận động theo cơ
chế thò trường và giữ gìn bản sắc VHDT, chống chủ nghóa ĐẾ QUỐC trong
VĂN HÓA , vẫn luôn luôn tìm thấy những chỉ dẫn có ý nghóa đònh hướng cho hệ

thống TT Hồ Chí Minh.
Văn kiện HNTW4 K7 đã xác đònh hoàn toàn đúng đắn rằng: chủ chủ nghóa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của nền VĂN HÓA
Việt Nam, nền VĂN HÓA mà chúng ta chủ trương XÂY DỰNG làm nền VĂN
HÓA đậm đà BSDT với ba đặc trưng cơ bản là dân tộc, hiện đại và nhân văn.
Chính vì vậy sự nghiên cứu, tìm hiểu và học tập các giá trò tư tưởng về VHNT
của Hồ Chí Minh luôn là những vấn đề cần thiết đặt ra.Hồ Chí Minh đã từng
nêu trong tư tưởng rất sâu sắc : “VHNT cũng là một mặt trận, anh chò em là
chiến só trên mặt trận ấy”. Tư tưởng đó thể hiện ý nghóa, tầm quan trọng của Hồ
Chí Minh nhằm tập hợp cả dân tộc thành một sức mạnh kháng chiến, đặc biệt là
các văn nghệ só. Tư tưởng đó của Người đã đặt nền móng cho việc xây dựng
nền VĂN HÓA NT mới, khẳng đònh tầm quan trọng của ý chí VĂN HÓA NT
trong đời sống XÃ HỘI và khẳng đònh văn nghệ só đối với XÃ HỘI .
Từ pp tiếp cận theo quan niệm giá trò, chúng ta có thể nêu khái niệm
VHNT như sau:VHNT là một hệ các tư tưởng – thẩm mỹ – nghệ thuật được thực
tại hóa trong quá trình phát triển năng lực NT của các cá nhân và cộng đồng
(nghệ só, công chúng, giai cấp , dân tộc, nhân loại) thông qua các hoạt động
sáng tạo, bảo quản, phổ biến, đánh giá và tiêu thụ các giá trò nghệ thuật.
Qua đó cho thấy : chủ thể giá trò là hệ thống quan niệm tư tưởng- thẩm mỹ
– nghệ thuật. Hệ thống này gồm có : lý tưởng thẩm mỹ, thò hiếu thẩm mỹ, tình
cảm thẩm mỹ. Khách thể giá trò là hệ thống hình tượng nghệ thuật bao
gồm:Kiến trúc điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múa, văn chương, sân khấu, điện
ảnh…Nói chung là các loại hình nghệ thuật và các gía trò gắn liền với chúng, tức
các tác phẩm nghệ thuật, các hình tượng nghệ thuật.
Như vậy chúng ta có thể nói gía trò VHNT góp phần gía trò Văn hóa nói chung, là sự
thật tại hóa tư tưởng-thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo tác phẩm NT, bằng hình tượng NT sinh
động , cụ thể , trực tiếp và độc đáo.Ca1c giá trò VHNT đặc sắc tồn tại như một sinh mệnh, có
sức lan tỏa lớn, tạo sự hài hào cuộc sống con người.
Như vậy VHNT có những đặc trưng gì?
Một là, giá trò VHNT thể hiện một cách tập trung nhất, tinh tế nhất, các

khía cạnh phong phú, phức tạp đời sống tư tưởng , thẩm mỹ của con người dưới
dạng các hình tượng NT sinh động, cụ thể, cảm tính, trực tiếp. Từ đó đối tượng
của NT được xác đònh và phạm vi chủ yếu là những lónh vực giá trò đặc thù
người tư duy hình tượng NT , vì vậy bộc lộ phát hiện những năng lực bản chất
người, có khả năng đem lạisựhài hòa cho con người, về nhân cách, về tri giác
thế giới,về cuộc sống nội tâm.
Hay là, giá trò VHNT được thể hiện cụ thể trong các tác phẩm NT là hình
tượng độc đáo, không lập lại. Giá trò VHNT không chỉ là sự phản ánh những giá
trò vốn có trong đời sống, mà còn là sự sáng tạo ra giá trò mới hướng tới sự hoàn
thiện nhân cách cá nhân và cộng đồng.
Ba là, giá trò VHNT có tính lan tỏa, lây nhiễm, kết dính và liên kết. Tác
phẩm sau khi ra đời đi vào cuộc sống như một sinh mệnh, tác động vào tâm hồn
công chúng để tạo ra nhân cách VH. Những gía trò NT đặc sắc sẽ vượt giới hạn
không gian và thời gian để đến với những cộng đồng khác nhau và những thế hệ
khác nhau cơ sở khách quan của sự mở rộng trường tác động này là do tính nhân
loại phổ biến qui đònh.
Bốn là, giá trò VHNT phản ánh gía trò XÃ HỘI dưới dạng toàn vẹn, sinh
động và hoàn chỉnh nên có nhiều lớp ý nghóa khác nhau, tiềm ẩn trong đó nhiều
cách hiểu khác nhau chân lý NT mang tính tương đối, gắn liền với nhu cầu sáng
tạo của chủ thể.
Năm là, giành trò VHNT không chỉ tồn tại ở đội ngũ nghệ só tồn tại ở tác
phẩm mà còn tồn tại ở công chúng với những nhu cầu và thẩm mỹ khác nhau.
Tiếp theo trên cơ sở nghiên cứu trên, chúng sẽ lần lượt đi vào phân tích tư
tưởng Bác về VHNT mà đề bài đã nêu.
Như chúng ta biết tư tưởng Hồ Chí Minh về vhvn là một hệ thống các quan
niệm của Người về các lónh vực khác nhau trong hoạt động VHNT. Trong đó,
những di sản về VĂN HÓA và mỹ học có vai trò nổi bật. Xuyên suốt tư tưởng
Hồ Chí Minh về VĂN HÓA nói chung, VHNT nói riêng là sự nghiệp này phải
gắn chặt với số phận và vận mệnh của dân tộc.
Dân tộc vừa là cơ sở, vừa là mục đích của sự nghiệp xây dựng nền VĂN

HÓA mới “gốc của VĂN HÓA là dân tộc”. Điều này có ý nghóa khi chúng ta
tiến hành sự nghiệp đổi mới, mở cửa giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thò
trường. Người vẫn thường nhấn mạnh đến sự mở cửa giao lưu học tập tiếp thu
các giá trò VĂN HÓA của thế giới, đặc biệt đề cao sứ mệnh lòch sử vai trò trách
nhiệm của bản thân VHNT đối với dân tộc, đối với nhân dân .
Mặt khác, VHNT góp phần nâng cao nhận thức của con người về tự nhiên,
XÃ HỘI và nội tâm. Thông qua NT để truyền tải đến con người làm cho đời
sống con người phong phú. Góp phần hình thành nhân cách con người, đònh
hướng con người chân, thiện, mỹ, con đường tình cảm, tự giác hoàn thiện nhân
cách. Vì vậy nó tạo được ấn tượng sâu sắc khó phai mờ. Góp phần giáo dục con
người hướng tới cái đẹp, lý tưởng thẩm mỹ…và góp phần thảo mãn cho nhu cầu
giải trí của con người.
VHNT có khả năng liên kết cộng đồng, hình thành một tình cảm, tinh thần,
xu hướng vươn lên dân chủ,tự do, là nhân văn. Đồng thời hướng tới những giá trò
cao đẹp, tác động sâu sắc vào tâm hồn tình cảm của con người. Để thực hiện tốt
vai trò của VHNT là một cộng đồng, VHNT phải là vũ khí sắc bén, phải hướng
tới đấu tranh cho độc lập, tự do của tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự
phát triển toàn diện của con người, đấu tranh bảo vệ VHDT bảo vệ đường lối
quan điểm của Đảng. Đồng thời đấu tranh lên án cái sai, cái ác, đấu tranh cho
hòa bình hữu nghò giữ các DT. Muốn làm được điều âấy đòi hỏi VHNT phải tiến
đậm đà bản sắc DT, đa dạng phong phú, phải dựa trên nền tảng lý luận tiên
tiến. Sáng tác cho hay cho nhiều để cổ động nhân dân tuyên truyền ra thế giới
và lưu lại cho đời sau. VĂN HÓA phải có sức mạnh riêng của nó tác động đến
tâm hồn tình cảm của con người một cách sâu sắc, NT phải tôn trọng sự thật đề
cao chính nghóa như lời Bác hồ nói: “các nhà văn, nhà thơ, nghệ só cần miêu tả
cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn”.
Chính vì vậy, Người nhiều lần nhấn mạnh VHNT là một mặt trận “có mặt
nhiều trận,như mặt trận KINH TẾ, mặt trận CHÍNH TRỊ, mặt trận văn hóa. Mà
mặt trận văn hóa này liên kết với các thành viên hoạt động văn hóa NT, tổ chức
thành một lực lượng thống nhất hướng tới phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc.

Vò trí của đội ngũ các hoạt động của văn hóa và văn nghệ só là vò trí của người
chiến só trên mặt trận này. Vai trò của họ vừa là người xung kích gương mẫu,
vừa đònh hướng cho nhân tâm xã hội. Tư tưởng văn hóa NT của Hồ Chí Minh
luôn luôn là những giá trò trung tâm có ý nghóa đònh hướng cho việc xây dựng
nền văn hóa NT dân tộc.
VHNT là mặt trận của VHNT phải góp phần vào nên văn hóa tiên tiến, lấy
hệ tư tưởng giai cấp tiên tiến để luận xét giá trò. VHNT phải đtranh phát triển
nền dân chủ trên mọi mặt đời sống chính trò – kinh tế – xã hội . Phải thấm
nhuần tính nhân dân mà Đảng ta đã đặt vấn đề rất sớm là phục vụ kháng chiến
công – nông –minh , nền VHNT góp phần đấu tranh cho hòa bình, cho sự nghiệp
đại đoàn kết dân tộc.
Hồ Chí Minh “Văn hóa là vũ khí” mà là vũ khí lợi hại như là biết phát huy
chủ nghóa yêu nước là quyết đònh nhất trong sự nghiệp cách mạng.
Nghệ thuật còn góp phần đấu tranh cho sự phát triển con người làm cho con
người thoát cảnh bóc lộät, phát triển toàn diện.
VHNT có tác dụng rất lớn đối với mặt trận chính trò : “Hoạt động sáng tạo
văn hóa, văn nghệ và sản phẩm là đa dạng, đa thanh, đa phong cách. Nhưng
mục đích chính và kết quả hoạt động sáng tạo ấy phải vì sự nghiệp xây dựng
bảo vệ tổ quốc, phát triển đất nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, phát triển
dân tộc và con người”(NQĐHTW 8). Muốn VHNT phục vụ chính trò , chúng ta
phải học tập, Hồ Chí Minh đã nói:”Chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm
và “ một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, hay Lenin “ kẻ mù chữ đứng ngoài
chính trò “ là vậy.
Trong lòch sử VĂN HÓA Việt Nam đã có nhiều kinh nghiệm, nhiều bài học
về sự kế thừa giá trò truyền thống VĂN HÓA, Nguyễn Trãi, đã quan
niệm”nhân” “nghóa”của nho giáo thống nhất với lòng tự hào dân tộc và ý thức
quốc gia của nhân dân ta thời ấy. Tấm lòng chắc ân, ưu ái của Nguyễn Du,
Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương đối với phụ nữ đã tạo nên những hình tượng
nghệ thuật giàu chất thẩm mỹ, là kết quả truyền thống văn hóa dân tộc xa xưa,
là sự vang vọng của hiện thực xã hội phong kiến đen tối và cuộc đấu tranh giai

cấp khốc liệt đương thời. Giá trò thẩm mỹ ấy ta lại tiếp tục được phát triển trong
các nhà văn hậu thế, thấy nàng Kiều của Nguyễn Du, trong hình ảnh chò Dậu
của Ngô Tất Tố.
Bác cũng nói rằng chúng ta học tập để xây dựng nền văn hóa Việt Nam đó
là một mặt trận văn hóa dân tộc mà “phương Đông hay Phương Tây có cái gì tốt
ta học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam . Nghóa là lấy kinh nghiệm tốtcu3a
văn hóa xưa và nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật sự có tinh thần thuần
túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ…
VHNT phải là mặt trận, nhưng để làm được việc đó VHNT phải hấp dẫn,
phải hay, phải phong phú đa dạng, Bác “ chưa xem là muốn xem, xem rồi là bổ
ích”. Như vậy NT cũng là sức mạnh riêng của việc tác động đến tình cảm, tư
tưởng con người một cách sâu sắc, phải tôn trọng sự thật, hư cấu nhưng không
làm biến chất sự thật.
Muốn có mặt trận Văn hóa vững chắc, làm thế nào để phát huy vò trí đó
của VHNT trong sự nghiệp phát triển con người, phát triển dân tộc:
-Phải là 1 nền văn hóa tiên tiến, tức là 1 nền văn hóa lấy hệ tư tưởng của
giai cấp tiên tiến mà liên kết các gía trò, nhìn nhận và phân tích xã hội, cuộc
sống . Đó là hệ tư tưởng của giai cấp CÔNG NHÂN và chủ nghóa Mác Lê nin
làm nền tảng
- Phải là 1 nền văn hóa mang tính dân chủ và mang tính nhân dân Hồ Chí
Minh “ nghóa là người dân phải làm chủ các giá trò văn hóa “ người dân phải
19
góp phần sáng tạo gía trò văn hóa chứ không chỉ là người tiêu thụ các giá trò văn
hóa
- Phải là nền văn hóa lấy dân tộc làm gốc, phải bảo vệ và phát huy truyền
thống dân tộc.
Hồ Chí Minh “kế thừa truyền thống dân tộc là phải sáng tạo chứ
không phục cổ”
-Phải là nền văn hóa giàu tính nhân văn, đề cao giá trò con người, lòng tin đối với người
dân lao động, của người nghệ só VHNT phải làm đẹp con người. Hồ Chí Minh “người ta ai cũng

có phần thiện, phần ác…” làm thế nào động viên phát huy cái thiện, cái tốt và đấu tranh chống
cái xấu, cái ác. Làm đẹp cuộc đời, làm đẹp con người là nhiệm vụ của người nghệ só mà trước
hết chúng ta thấy thể hiện rất rõ ở Hồ Chí Minh .
-Phải làm nền VHNT phong phú , đa dạng, tôn trọng sự thật, Hồ Chí Minh
“ tác phẩm nghệ thuật của các chú cứ viết đúng sự thật… cái tốt khen cho đúng
mức, cái xấu chê vừa phải.
Theo quan điểm của Đảng, sự nghiệp của người nghệ só luôn gắn với sự
nghiệp văn hóa. Vũ khí trong tay của người nghệ só là nghệ thuật, người nghệ só
ấy dùng văn hóa nghệ thuật phụng sự phục vụ tổ quốc, phụng sự kháng chiến ,
phụng sự nhân dân . Đấu tranh cho độc lập dân tộc , bảo vệ hạnh phúc tự do cho
nhân dân, góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới,xã hội mới và bảo
vệ những truyền thống văn hóa dân tộc. Bác Hồ nói”…nhà thơ cũng biết xung
phong “. Trong thơ Bác Hồ gởi văn nghệ só và trí thức Nam Bộ “…ngòi bút của
các bạn cũng là vũ khí trong sự nghiệp phò chính…” tức là người nghệ só phải
biết đấu tranh bảo vệ cái tốt, chống lại cái ác, cái sai.
Qua nghiên cứu , ta thấy tác dụng của văn hóa nói chung và VHNT nói
riêng trong nhiều trường hợp cụ thể nó có thể là tiếng trống lệnh huy động sức
mạnh toàn dân đứng lên đánh tan quân xâm lược mà hòch tướng só Trần Hưng
Đạo, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Cáo bình ngô của Nguyễn Trãi là
một dẫn chứng về sức mạnh hùng hồn. Kế tục truyền thống cha ông, dân tộc ta
đã sinh ra nhiều chiến só trên mặt trận văn hóa như: nguyễn Đình Thi,Lê Anh
Xuân, Anh Đức, Hoàng Việt… Bản thân VHNT là một mặt trận tức là đấu tranh
để khẳng đònh đường lối sáng tác đúng đắn, quan điểm sáng tác đúng đắn, đó là
sự nghiệp phục vụ nhân dân, phục vụ sự phát triển dân tộc, phát triển con
người. Bác Hồ nói: Phục vụ đông đảo quần chúng công – nông – minh, nghệ
thuật gắn liền với cuộc sống, phục vụ đời sống. Để thực hiện tốt vai trò người
chiến só, người chiến só phải không ngừng học tập và rèn luyện quan điểm lập
trường đúng đắn, phải có tư tưởng nghệ thuật tiến bộ, phải nhạy cảm với cuộc
hiện thực, biết phân tích cuộc sống và phải dùng cuộc sống với cái lý tưởng
thẩm mỹ, tình cảm cao đẹp. Người nghệ só phải biết vấn thân vào cuộc sống

nhân dân, cùng chiến đấu và cùng sống với nhân dân , lấy cuộc sống của nhân
dân làm đối tượng phản ánh và hướng tới phụng vụ đông đảo quần chúng nhân
dân .
Vì sao người nghệ só là chiến só trên mặt trận ấy? Phải chăng vì sự nghiệp
của người nghệ só là dùng nghệ thuật văn hóa để đấu tranh, xem VHNT là 1 thứ
vũ khí tinh thần chống lại mọi lực cản cho sự phát triển xã hội, phát triển con
người.
Một nền văn hóa NT tiên tiến của thời đại nay, khi công cuộc đấu tranh
giai cấp là 1 hiện thực nổi bật , chi phối toàn bộ đời sống xã hội , thì nền văn
hóa NT ấy phải lấy tư tưởng chính trò của giai cấp tiên tiến, tức giai cấp công
nhân hiện đại làm nền tảng lý luận và phục vụ sự nghiệp chính trò giải phóng
dân tộc, giải phóng nhân dân lao động.
Quan hệ giữa văn hóa và chính trò, theo Hồ Chí Minh là chính trò lãnh đạo
văn nghệ và văn nghệ phục vụ cho đường lối chính trò của giai cấp tiên tiến,
của Đảng tiên phong cho giai cấp ấy. Nhưng nghệ thuật phục vụ chính trò theo
nói bằng tiếng nói chung của nó.
Hồ Chí Minh đánh giá cao sức mạnh của nghệ thuật, coi VHNT là một mặt
trận, Người khẳng đònh:
“cũng như các chiến só khác, chiến só nghệ thuật có nhiệm vụ nhất đònh ,
tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân …”
Hồ Chí Minh hơn ai hết là người hiểu rõ sức mạnh của nghệ thuật” văn
nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng “ như vậy ngừơi chiến só hẳn
nhiên là người chiến só!
Người nghệ só muốn trở thành người chiến só phải đạt những phẩm chất sau:
+Có quan điểm lập trường đúng đắn.
+Luôn luôn đứng vững trên quan điểm “gốc của văn hóa là dân tộc” và
“Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm chính trò lý luận của chủ nghóa Mác – Lênin.
+Phải có tư tưởng nghệ thuật tiến bộ, biết phân tích cuộc sống và biết phản
ánh cuộc sống với tư tưởng thẩm mỹ tốt đẹp.

+Đấu tranh không để rơi vào lai căng mất gốc, mục tiêu sáng tác phải đi
vào phát triển, đoàn kết giữa người với người, với các dân tộc, đấu tranh với các
luồng văn hóa phẩm độc hại, chống diễn biến hòa bình. Muốn làm được hình
thành 1 giá trò văn hóa mới.
Văn kiện ĐH 8 của Đảng đã nêu:
“ÔPhátuy người tốt việc tốt, hình thành các hệ giá trò và chuẩn mực xã hội
phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”
+Tổ chức kiểm kê, đánh giá trên qui mô cả nước về di sản văn hóa nói
chung di sản VHNT nói riêng.
+Xây dựng đội ngũ nghệ só mới về chính trò , trình độ chuyên môn, cung
cấp những cơ sở vật chất , thông tin đầy đủ để họ đảm đương vai trò người chiến
só trên mặt trận văn hóa tư tưởng của Đảng .
+Xây dựng trường, viện,b/s vào hệ thống giáo dục phổ thông những tri thức
cần thiết về VHNT. Tăng cường giới thiệu các hoạt động VHNT dân tộc trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
Nâng cao chất lượng giảng dạy NT của các trường đào tạo đội ngũ sáng
tạo và nghiên cứu NT. Đầu tư thỏa đáng cho việc xây dựng cơ sở vật chất , kỹ
thuật cho công tác bảo quản tôn tạo, nghiên cứu khai thác các giá trò VHNT dân
tộc .
+Nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với lónh
vực này, chống khuynh hướng thả nổi hoặc kìm hãm gây cản trở cho việc khai
thác, khôi phục tôn tạo các di sản văn hóa phải được cấp tỉnh và TW kiểm soát
trên cơ sở luận chứng khoa học, luận chứng kỹ thuật.
Câu h ỏ i 21 Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 của
Đảng Cộng sản Việt Nam có đoạn: "mọi hoạt động văn hóa văn nghệ, nhằm
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây
dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống,
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự nghiệp phát triển XH".
(Trích văn kiện Đại hội ĐB lần thứ 8. NXB chính trò QUỐC GIA - trang
110). Bằng lý luận văn hóa đồng chí hãy phân tích luận điểm trên.

Khái niệm văn hóa:
Thuật ngữ Văn hóa xuất hiện từ lâu đời trong ngôn ngữ nhân loại và cho
đến nay văn hóa vẫn là một trong những khái niệm phức tạp và khó xác đònh.
Song, có thể đònh nghóa văn hóa như sau: văn hóa là hoạt động nhằm phát huy
những năng lực bẩm sinh và bản chất của con người, vươn tới cái chân, thiện,
mỹ. Là hoạt động nhằm tạo ra những gía trò, những chuẩn mực XH - là môi
trường thứ hai cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con người".
Theo đònh nghóa của UNESCO: "Văn hóa là tổng hòa sống động các hoạt
động sáng tạo (của các cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện
tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các gía trò,
các truyền thống và thể hiện những yếu tố xác đònh đặc tính riêng của mỗi dân
tộc"
Với ý nghóa đó thì văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con
người, dù đó là hoạt động SX vật chất và SX tinh thần, hay trong quan hệ giao
tiếp XH, trong thái độ ứng xử với thiên nhiên. Vì vậy, nói đến văn hóa là nói tới
con người, là nói đến việc phát huy những năng lực bản chất của con người nhằm
hoàn thiện con người, hoàn thiện XH. Cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là khát
vọng hướng tới chân, thiện, mỹ và có thể coi đó là ba trụ cột vónh hằng của sự
phát triển văn hóa nhân loại. Như vậy, khi nào chân, thiện, mỹ bò xem nhẹ hay
lãng quên chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc. Sự xuất hiện các trường phái nghệ
thuật suy đồi, lối sống ích kỷ, tàn bạo, việc cổ vũ cho chiến tranh xâm lược, việc
tuyên truyền cho chủ nghóa thực dụng … đều là biểu hiện cho sự suy thoái văn
hóa của con người.
II/- Chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu, động lực của văn hóa hướng về phát
triển, xây dựng nền văn hóa tiên tiến.
1- Chức năng của văn hóa:
A/- Chức năng nhận thức:
Văn hóa có vai trò trong việc phát triển năng lực nhận thức của con người,
nâng cao khả năng hiểu biết của con người về tự nhiên, XH, tư duy. Hiệu quả
hoạt động của con người phụ thuộc rất lớn vào năng lực nhận thức, năng lực

nhận thức càng phát triển thì hoạt động của con người càng có hiệu quả. Ngược
lại, nếu năng lực nhận thức kém thì hoạt động của con người sẽ kém hiệu quả.
Trong phát triển nhận thức cần lưu ý: nội dung tri thức và năng lực tư duy của cá
nhân, của cộng đồng, hai yếu tố trên có quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn
nhau. Vì vậy, nâng cao nhận thức con người cũng chính là phát huy tiềm năng ở
con người. Đó là bước đầu rất quan trọng để hoàn thiện con người, hoàn thiện
XH.
Chức năng nhận thức có mặt trong bất cứ hoạt động văn hóa, thiếu chức
năng nhận thức thì không thể nói đến bất cứ chức năng nào khác. Một tác phong
trước khi làm rung cảm trái tim người đọc, người xem thì tác phong đó phải được
mọi người hiểu, phải mang tới cho họ nhận thức mới về cuộc sống, về con người…
ngày nay, trong điều kiện tiến bộ của khoa học ca công nghệ, xu hướng ngày
càng tăng của quốc tế hóa đời sống XH đòi hỏi nhiều ở chức năng nhận thức của
văn hóa. Vì vậy, khẳng đònh rằng, việc phát huy chức năng nhận thức của văn
hóa làm một động lực quan trọng thúc đẩy KT XH phát triển trút ngắn khoảng
cách giữa các nước chậm phát triển và phát triển.
B/- Chức năng giáo dục:
Nói đến chức năng giáo dục là nói đến việc đònh hướng XH, làm hướng lý
tưởng đạo đức và hành vi của con người vào điều hay lẽ phải. Chức năng giáo
dục là giáo dục hình thành nhân cách của con người, sự phát triển toàn diện của
con người thông qua việc chuyển tải những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, mô
thức ứng xử của cộng đồng đến với cá nhân. Sức mạnh và hiệu quả giáo dục của
văn hóa là ở chỗ nó huy động được toàn bộ các năng lực tinh thần của con
người, và tác động tới chỗ sâu kín nhất của đời sống tinh thần.
C/- Chức năng thẩm mỹ của văn hóa là hướng con người đến cái đẹp, cái
hoàn thiện và lý tưởng thẩm mỹ văn hóa trong mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên, con người với XH, con người với bản thân mình. Cần khẳng đònh rằng,
cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hướng tới cái đẹp. Mác coi
nhu cầu và khả năng hướng tới cái đẹp là dấu hiệu cơ bản phân biệt con người
20

với con vật. Cảm xúc thẩm mỹ, tức khả năng biết rung động trước cái đẹp ở một
mức độ nào đó tạo nên gía trò đạo đức của con người.
Lòch sử ghi nhận rằng: bao đời nay người dân sống giữa cảnh sương mù
nhưng mấy ai nhận ra vẽ đẹp của nó, đến thế kỷ 19 một họa só tài ba bằng tài
năng nghệ thuật của mình đã vẽ ra bức tranh sương mù của Luân Đôn với sự hài
hòa của nhiều màu sắc khi đó người Luân Đôn mới cảm nhận về vẽ đẹp cảnh
sương mù của mình. Con người luôn sáng tạo theo qui luật của cái đẹp và gọi là
năng lực bản chất người, nó có tính phổ cập toàn diện trong toàn nhân loại, có
nghóa cái đẹp được thể hiện toàn diện trong cuộc sống của con người. Điều đó
được ghi nhận rằng công cụ lao động lúc đầu SX ra trên cơ sở tính ích dụng của
nó, về sau con người luôn hướng tới tạo dáng cho vẽ đẹp của nó, làm cho con
người thích thú khi sử dụng công cụ lao động do chính mình sáng tạo ra.
D/- Chức năng dự báo là nắm bắt được qui luật khách quan của tự nhiên,
XH và tư duy tạo ra những vấn đề có tính chất dự báo. Dự báo càng chính xác
bao nhiêu thì có ý nghóa bấy nhiêu đối với XH. Văn hóa có thể đưa ra những dự
báo cần thiết về tự nhiên, XH và con người. Lòch sử đã chứng minh cách đây 4
thế kỷ, lúc mà CNTB mới manh nha, nhà viết kòch SECHXPIA trong các vở kòch
của mình đã từng dự báo về vai trò tác oai tác oái của đồng tiền trong chế độ tư
bản, và cũng trong mấy thập kỷ gần đây trước sự phát triển ồ ạt con người
TBCN, nhiều nhà văn hóa đã dự báo thảm cảnh sẽ xảy ra đối với nhân loại như:
sự cân bằng sinh thái bò phá vỡ, sự ô nhiễm bầu khí quyển và sự hài hòa của con
người và tự nhiên bò mất đi… và ngày nay đã trở thành sự thật hiển nhiên của
cuộc sống
E/- Chức năng giải trí:
Là đáp ứng nhu cầu giải trí của con người. Giải trí là hoạt động sống là nhu
cầu của con người, nó tồn tại từ xưa đến nay trong quá trình phát triển của XH
loài người, nó cũng là hình thức con người thỏa mãn nhu cầu sáng tạo, nhu cầu
nghỉ ngơi, nhu cầu tạo sự quân bình trong đời sống. Vì vậy, giải trí đúng nghóa là
nhu cầu rất cần thiết của con người.
2/- Nhiệm vụ của văn hóa: để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến

đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước cần tiến hành nhiệm vụ cơ bản sau:
Xây dựng hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trên nền tảng của chủ nghóa
Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xây dựng con người mới, con người XHCN với các tiêu chí phát triển về trí
tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức.
Xây dựng lối sống mới có văn hóa, chú ý đến tất cả các thành tố cơ bản của
lối sống như mức sống, nếp sống, chất lượng sống, phong cách sống và lý tưởng
sống.
Xây dựng gia đình văn hóa hướng vào các tiêu chí gia đình ấm no, thuận
hòa, dân chủ, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.
Xây dựng môi trường văn hóa trong lành bao gồm cả sinh thái tự nhiên và
sinh thái XH. Bảo đảm đời sống văn hóa được củng cố và phát triển liên tục và
không ngừng gắn kết con người văn hóa - hoạt động văn hóa và sản phẩm văn
hóa.
Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đặc biệt chú ý đến các hoạt động văn hóa
cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu hoạt động sáng tạo cũng như tiêu dùng của các
giá trò, các sản phẩm văn hóa cho quần chúng nhân dân cơ sở.
Giữ gìn và phát huy các gía trò, các di sản văn hóa dân tộc, chú ý các giá
trò, các di sản văn hóa của các dân tộc ít người trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam.
Xây dựng các thiết chế văn hóa đủ mạnh để tổ chức các hoạt động văn hóa
xây dựng nền văn hóa dân tộc.
Tăng cường åmở rộng giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa trên cơ sở phát
triển nền văn hóa dân tộc giữ gìn độc lập tự chủ với phương châm mở cửa phải
có điều kiện, giao lưu phải giữ nguyên tắc.,
Phát triển văn hóa khoa học, văn hóa giáo dục và văn học nghệ thuật đáp
ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lónh vực văn hóa văn nghệ.
3/- Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT - XH:

A/- Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển KT - XH:
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển nghóa là phát triển phải hướng tới
một nên văn hóa cao là nâng cao trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ năng lực
sáng tạo của con người. Chăm lo phát triển văn hóa chính là chăm lo phát triển
cho con người, là điều kiện tạo cho con người phát triển toàn diện.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển KT, nghóa là phát triển KT phải nhằm
mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống con người, tạo cơ sở vật chất cho sự
phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần là điều kiện để thực hiện công bằng
XH.
B/- Văn hóa là động lực phát triển KT - XH:
Bài học đã từng nói: "Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề cùng
phải chú ý đến, cùng coi là quan trọng ngang nhau: chính trò, KT, XH, văn hóa"
và "văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi". Các nhân tố văn hóa phải gắn kết
chặt chẽ với đời sống và hoạt động XH trên mọi phương diện. Biến văn hóa
thành một nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển. Vì vậy, văn hóa
có vai trò to lớn trong việc khơi dậy nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con
người.
Ngày nay, nói đến phát triển KT phải giải quyết 2 vấn đề cơ bản đó là: phải
giải quyết tốt vấn đề con người và giải quyết tốt cơ sở vật chất kỹ thuật của XH.
Hai mặt đó không thể tách rời nhau, cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển đến đâu
thì con người phát triển đến đó và con người phát triển đến trình độ nào thì cơ sở
vật chất kỹ thuật mới trang bò đến trình độ đó. Song, con người là yếu tố quan
trọng bậc nhất của văn hóa vì suy cho cùng mọi hoạt động của con người là vì
con người.
C/- Văn hóa với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước:
Đảng ta khẳng đònh phát triển đất nước theo đònh hình XHCN, khẳng đònh
này đã chi phối lónh vực đời sống chính trò, KT, văn hóa, con người quan hệ dân
tộc, quan hệ quốc tế … nghóa là các hoạt động đó phải theo đònh hướng XHCN.
Mục tiêu đònh hướng XHCN là dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ,
văn minh; công nghiệp hóa hiện đại hóa. Vậy những vấn đề đặt ra của văn hóa

để thực hiện các mục tiêu đó là:
Văn hóa hình thành cơ sở khoa học cho việc thực hiện các mục tiêu ấy.
Văn hóa hiểu theo nghóa rộng là toàn bộ những hoạt động có ý thức của con
người.
Văn hóa hiểu theo nghóa hẹp hơn là bao gồm toàn bộ đời sống tinh thần của
XH với các những lónh vực chủ yếu như: tư tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục và
khoa học văn học nghệ thuật, thi đại chúng, giao lưu văn hóa, thể chế văn hóa.
Đó là những mặt của đời sống tinh thần. Tác động trực tiếp và hướng dẫn các
hành vi của con người góp phần hình thành môi trường lành mạnh cho sự phát
triển. Vì vậy, xây dựng văn hóa chính là xây dựng con người, góp phần hình
thành nguồn nhân lực cho việc thực hiện mục tiêu ấy. Bác nói: "muốn xây dựng
chủ nghóa XH trước hết cần phải có những con người XHCN".
Cùng với sự phát triển KT - XH nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân
không ngừng tăng lên. Song, nhu cầu vật chất có hạn còn nhu cầu về văn hóa và
tinh thần có thể nói là vô hạn. Việc phát triển văn hóa vừa là mục tiêu vừa là
động lực của quá trình phát triển XH.
III/- Phát triển nền văn hóa tiên tiến trong việc xây dựng con người Việt
Nam với tư cách là chủ thể về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn và tình cảm, lối sống
và môi trường văn hóa lành mạnh.
1)- Xây dựng con người Việt Nam với tư cách là chủ thể của tư tưởng, đạo
đức lối sống:
Nói đến văn hóa là nói đến con người, nói con người là trước hết nói đến tư
tưởng và đạo đức lối sống. Chủ nghóa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ
tư tưởng tiến bộ XH của thời đại, đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của XH nước ta. Dựa trên nền tảng của hệ tư tưởng đó từng bước xây dựng và
hoàn thiện hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, tổ chức và phát triển nền văn hóa
Việt Nam theo đònh hướng XHCN.
Nghò quyết Trung ương 5 về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, đã đánh giá những thành tựu và những mặt yếu kém về tư tưởng, đạo đức
lối sống là những lónh vực then chốt trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa nước

ta đó là:
* Những thành tựu:
Chủ nghóa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển
sáng tạo làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và CM
nước ta là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần của XH phát triển
đứng hướng.
thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghóa XH, năng lực thực tiễn
của cán bộ Đảng viên được nâng lên một bước. Khẩu hiệu hành động vì mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh" được nhân dân ta ủng
hộ mạnh mẽ.
Những nét mới trong gía trò văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước được
hình thành tính tích cực công dân được phát huy, không khí dân chủ trong XH
được tăng lên, thế hệ trẻ Việt Nam tiếp thu nhanh chóng những kiến thức mới và
có ý chí vươn lên. Nhiều việc làm thiết thực mang bản sắc văn hóa dân tộc đang
trở thành phong trào quần chúng rộng rãi được quần chúng tích cực tham gia.
B/- Những tồn tại:
Trước những biến động của thế giới một số người dao động, hoài nghi về
con đường XHCN, phủ nhận chủ nghóa XH hiện thực trên thế giới, phủ nhận con
đường đi chủ nghóa XH ở nước ta, phủ nhận lòch sử Việt Nam được sự lãnh đạo
của Đảng. Không ít người mơ hồ mất cảnh giác hoặc bàng quan trước những
luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của kẻ đòch.
Tệ sùng bái nước ngoài coi thường gía trò văn hóa dân tộc, chạy theo lối
sống thực dụng, vò kỷ gây tác hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc, nạn buôn
lậu và tham nhũng phát triển, các tệ nạn XH gia tăng, nạn mê tín dò đoan và
nhiều hủ tục cũ đang lan tràn và phổ biến.
Nghiêm trọng là sự suy thoái về đạo đức lối sống ở một số bộ phận không
nhỏ ở cán bộ Đảng viên. Trong đó có cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng
dùng tiền của Nhà nước để ăn chơi sa đọa. Hiện tượng quan liêu cửa quyền sách
nhiễu nhân dân, cục bộ đòa phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ biến làm tổn
thương thanh danh và uy tín của Đảng gây bất bình trong quần chúng.

Trên cơ sở đánh giá thực trạng về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống Nghò
quyết Trung ương 5 đề ra những nhiệm vụ bao quát và những quan điểm chỉ đạo
cơ bản trong đó đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống
và đời sống văn hóa lành mạnh trong XH. Trước hết là trong tổ chức Đảng, Nhà
nước các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình.
Cũng như đối với bất cứ lónh vực hoạt động XH nào, sự nghiệp văn hóa đòi
hỏi sự thống nhất cao giữa lý luận và thực tiễn, nói và làm. Hơn bất cứ lónh vực
nào văn hóa đòi hỏi sự nêu gương đặc biệt là về lónh vực tư tưởng đạo đức, lối
sống, những tấm gương trước hết phải là ở cán bộ Đảng viên, viên chức Nhà
nước, cán bộ đoàn thể chính trò XH. Bác dạy: " Đảng không những là trí tuệ danh
21
dự mà con là đạo đức văn minh và chính Bác là cả một tấm gương vó đại thu
phục và cảm hóa lòng người, không chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh mà con là đạo
đức Hồ Chí Minh. Ngày nay tiếc rằng trong cán bộ Đảng viên và không chỉ ở cấp
thấp có một bộ phận thoái hóa biến chất, làm giáo dục niềm tin của nhân dân,
tổn hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước, đó là điều nhức nhối nhất. Vì vậy, đặt
vấn đề xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống lành mạnh trước hết phải đặt ra từ
trong Đảng và bộ máy Nhà nước, các đoàn thể và trước hết là từ đội ngũ cán bộ
Đảng viên.
Mặt khác, xây dựng đời sống văn hóa, gia đình cái nôi hình thành nhân cách
con người, nơi giữ gìn và lưu truyền di sản văn hóa dân gian, truyền thống.
Nhưng gia đình cũng có thể là sức mạnh đáng sợ khi nó là cái "lô cốt " kiên cố,
nơi ẩn nấp những tập tục và lề, thói cổ hủ. Vì vậy, xây dựng gia đình văn hóa
nhất là về đạo đức, lối sống phải hết sức quan tâm đến văn hóa gia đình.
Sự nghiệp xây dựng nền văn hóa không phải là việc riêng của ngành văn
hóa mà là sự nghiệp chung của tất cả các ngành, các cấp, của toàn dân và của
toàn XH. Trong sự nghiệp văn hóa, đặc biệt trong xây dựng tư tưởng đạo đức, lối
sống, mỗi thành viên XH, mỗi gia đình, mỗi tổ chức, mỗi tập thể và cộng đồng
phải tự mình vừa là chủ thể vừa là đối tượng.
2/- Xây dựng môi trường văn hóa trong sạch và lành mạnh:

Xây dựng môi trường văn hóa trong sạch và lành mạnh bao gồm cả sinh thái
tự nhiên và sinh thái XH. Ngày nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình
trạng suy thoái môi trường tự nhiên và môi trường XH vẫn còn phổ biến. Suy
thoái môi trường tự nhiên là sự ô nhiễm môi trường sống như: ô nhiễm nguồn
nước, không khí do các chất thải con người và sự phá hoại rừng… Suy thoái môi
trường XH là các tệ nạn XH như tham nhũng, quan liêu, buôn bán hàng giả, xì
ke, ma túy, mại dâm… ngoài ra, trong lónh vực văn hóa đang tồn tại sự xuống cấp
về tư tưởng đạo đức, lối sống ảnh hưởng đến môi trường văn hóa lành mạnh và
sự phát triển bền vững của đất nước.
Vì vậy, xây dựng nền văn hóa tiên tiến phải đối mặt với môi trường tự nhiên
và môi trường XH. Nghò quyết Trung ương 5 xác đònh nhiệm vụ xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh bao gồm các nhiệm vụ cơ bản sau:
Tạo ra ở các đơn vò cơ sở, các vùng dân cư đời sống văn hóa lành mạnh,
đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân
dân.
Đặc biệt giữ gìn và phát huy những đạo lợi ích tốt đẹp của gia đình truyền
thống của Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha, mẹ; coi trọng
xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng mối quan hệ khắng khít giữa gia đình, nhà
trường và XH.
Đẩy mạnh xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa; nâng cao tính tự quản
của cộng đồng dân cư trong việc xây dựng nếp sống văn minh, thu hẹp khoảng
cách đời sống văn hóa giữa thành thò và nông thôn; giữa vùng KT phát triển và
vùng sâu vùng xa, biên giới và hải đảo và giữa các tầng lớp nhân dân.
Phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ
sở, đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm quốc gia, tăng
cường hoạt động của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển
phong trào quần chúng hoạt động văn hóa nghệ thuật.
KẾT LUẬN: sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa ở nước ta hiện
nay có nhiều thời cơ thuận lợi, song cũng đứng trước những thách thức to lớn:
"Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là

động lực thúc đẩy sự phát triển KT - XH. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trò, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức,
thể chất, năng lực, sáng tạo, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn
trọng nghóa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng
và XH. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hình thành nhân cách,
kế thừa truyền thống CM của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực,
tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Văn kiện Đại hội 9 - trang 114)./.
Cau hỏi 22: “Di sản VH là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trò mới và giao lưu
văn hóa” (NQHN lần 5 BCH TWk8, trg 63)
Di sản VH là sự kết tinh của mqh tổng hòa và tương tác giữa thiên nhiên,
con người, văn hóa việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước hết
sức gian khổ. Di sản văn hóa là tài sản vô giá đã gắn kết vào một dân tộc, là cốt
lõi của bản sắc dân tộc, là cơ sở sáng tạo những giá trò và giao lưu quốc tế. Mặt
khác hết sức coi trọng bảo tồn kế thừa phát huy những giá trò văn hóa truyền
thống của bác học và dân gian. Văn hóa cách mạng bao gồm văn hóa đoàn thể,
phi đoàn thể …
Vậy văn hóa là gì, giá trò và giá trò văn hóa như thế nào:
Văn hóa là toàn bộ những hoạt động, những giao lưu của con người được
sáng tạo trong sự ứng xử toàn diện với thiên nhiên, với xã hội, với chính bản
thân mình, để tồn tại và phát triển, là quá trình con người không ngừng hoàn
thiện và phong phú hóa các quan hệ nhân tính của xã hội, cộng đồng và cá
nhân, nó được cộng đồng công nhận, khẳng đònh thành hệ văn hóa. Chân – thiện
– mỹ là cột trụ vónh hằng của giá trò văn hóa dân tộc và nhân loại.
Giá trò là sự hiện hữu của mỗi cá nhân và cộng đồng trong quá trình tồn
tại, phát triển là hệ thống ý nghóa xác lập quan niệm toàn diện về cuộc sống cá
nhân và của công đồng, được cộng đồng thừa nhận và chia sẽ, được cụ thể hóa
thông qua các chuẩn mực quy đònh hành vai ứng xử của con người. Giá trò có
chức năng đònh hướng, đánh giá và điều chính các hoạt động sống của cá nhân
và cộng đồng. Giá trò được kết tin trong sản phẩm v/chất vá tinh thần, trong

chính bản thân của con người giá trò ẩn chứa những nhu cầu của cá nhân và cộng
đồng, thực tế của giá trò lá sức lao động sáng tạo của con người.
Người ta có thể nhận thấy ở giá trò những quan niệm thầm kín, những khát
vọng cao với riêng của mỗi cá nhân hay mỗi cộng đồng. Chính những quan
điểm ấy tạo ra chuẩn mực chi phối sự lựa chọn các phương thức, phương tiện và
mục đích khả thi của hành và ứng xử và hoạt động của họ.
Nhưng suy cho đến cùng, những quan niệm, khát vọng, ao ước ấy là thể
hiện n/cầu của con người trong quá trình tồn tại, phát triển và n/cầu sản phẩm
của hoạt động thực tiển của con người .Về điểm này Mác chỉ rõ “không phái chỉ
sản xuất mới cung cấp cho vất liệu nhu cầu, mà còn cung cấp n/cầu cho vật liệu.
Khi tiêu dùng thoát ra khỏi tính chất thô bạo tự nhiên nguyên thủy của nó và
mất tính chất trực tiếp của nó vá bàn thân việc tiêu dùng ngừng lại lâu ở giai
đoạn này cũng có kết quả của một nền sản xuất bò ngừng trệ lại trong sự thô bạo
của thiên nhiên, thì bản thân tiêu dùng, với tư cách là kích thích, lại được vật
phẩm làm môi giới. Nhu cầu mà tiêu dùng cảm thấy đối với các vật phẩm đó, là
do sự tự giác đối với vật phẩm tạo ra. Một tác phẩm mỹ thuật cũng như mọi sản
phẩm khác tạo ra một công chúng hiểu biết nghệ thuật và có khả năng thưởng
thức cái đẹp. Vì vậy sản xuất không chỉ sản xuất ra một vật phẩm cho chủ thể
mà còn sản xuất một chủ thể cho vật phẩm”.
Trong đời sống xã hội có rất nhiều nhu cầu có cái chính, cái phụ, có cái
mang ý nghóa trọng đại đối với con người, cũng có cái mang ý nghóa phổ cập, rất
bình thường nhưng không thể thiếu đối với cuộc sống con người . Vì vậy giá trò
xã hội thành một hệ, được sắp xếp theo thang bật khác nhau. Người ta gọi đó là
hệ giá trò xã hội hoặc thang giá trò xã hội, thang giá trò văn hóa.
Giá trò đònh hướng cho sự lựa chọn về hoạt động, hành vi ứng xử của con
người để thực hiện và thỏa mãn những n/cầu của đời sống. Giá trò là cái để tập
hợp mọi người trong cộng đồng thành một khối vững chắc, thống hất theo mục
tiêu đã được lựa chọn, bởi nó mang tính tự nguyện.
Có nhiều cách phân chức, thiết lập hay thay giá trò. Châu âu, theo truyền
tjhô1ng có từ thời cổ đại Hy lạp - La mã, người ta quy giá trò vào 3 phạm trù:

Chân – thiện – mỹ, ngày nay quan niệm ấy trở thành phổ biến. Trung mỹ,
theo truyền thống nho giáo, người ta đề cao giá trò: trung – hiếu – tiết – nghó, về
hạnh phúc gia đình người trung mới đề cao giá trò: phúc, qui, thọ, khang, minh
hoặc phú, lộc, thọ. Những quan niệm ấy về giá trò cũng mang tính phổ biến ở
nhiều nước Chân á trong đó có VN. Nhật Bản đã chọn các giá trò: Thiện – ích
– mỹ để suy tôn. Người Nhật Bản khi đề cập đến những giá trò này là thêm vào
mặt xây dựng nhân cách cá nhân và cộng đồng.
Việc xác lập những quan niê5m giá trò như trên của văn hóa nhân lọi, chính
là sự xuất phát từ nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội. Đó là
nhu cầu về sinh học, kinh tế, trí tuệ, chính trò, về tín ngưỡng tôn giáo, về thẩm
mỹ…
Giá trò văn hóa mang tính xã hội, thuộc về xã hội cho nên về căn bản nó
mang tính cộng đồng chứ không phải là sở thích cá nhân, nói cho chặt chẽ là
những sở thích cá nhân không được đi ngược lại giá trò của cộng đồng. Giá trò
được cộng đồng công nhận, chia sẻ là sản phẩm, là sự nảy sinh của một bối cảnh
xã hội nhất đònh, nó đóng vai trò đònh hướng và điều chỉnh hoạt động sống của
cộng đồng. Giá trò là hệ thống ý nghóa được xác lập bởi nhu cầu toàn diện của
cuộc sống con người, bởi khác vọng vươn tới một cuộc sống hoàn thiện. Cho nên
giá trò mang tính lý tưởng, nó thuộc về đời sống tinh thần của con người, ở các
mức độ khác nhau nó thuộc về cái cao cả, cái trừu tượng chi phối ở bề sâu đối
với hành vi, hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Chính vì vậy giá trò giúp cho
mỗi cá nhân, mỗi nhóm dựa vào vò thế xã hội của mình để xác đònh cách thức,
xu hướng hành động cho phù hợp với lý tưởng và khác vọng trong những hoàn
cảnh cụ thể.
Như vậy cuối cùng giá trò phải được thể hiện trong các chuẩn mực. Chuẩn
mực bắt nguồn từ hệ giá trò, hiện thực hóa các thang bật giá trò bằng cách quy
đònh thành hệ thống quy tắc hướng dẫn hành động cho mọi người. Tuy vậy sự
phân biệt giữa giá trò và chuẩn mực hoàn toàn mang tính chất tương đối . những
nghi lễ trong tín ngưỡng tôn giáo, những quy đònh trong pháp luật… vừa là chuẩn
mực, đồng thời cũng mang ý nghóa giá trò. Vì vậy khi phân tích, nhận thức mqh

chuẩn mực và giá trò không nên rơi vào tình trang cực đoan.
Giá trò văn hóa chính là biểu hiện trình độ phát triển của các cộng đồng, là
đỉnh cao trí tuệ của các cộng đồng trong tiến trình lòch sử. Bản chất đặc trưng
của văn hóa trí tuệ, năng lực sáng tạo khác vọng nhân văn, thể hiện trong hoạt
động sống của cá nhân và cộng đồng đều vương tới hoàn thiện nhân cách hướng
tới nhân bản, thể hiện trong giá trò văn hóa.
Tóm lại, giá trò văn hóa là sự hiện hữu của mỗi cá nhân và cộng đồng, là
hệ thống các quan niệm xác lậy ý nghóa của hoạt động văn hóa được cá nhân và
cộng đồng thừ nhận, bảo vệ, phát triển và truyền đạt cho thế hệ sau. Giá trò văn
hóa được kết tinh trong các sản phẩm văn hóa, bao gồm cả con người thể hiện
khác vọng nhân văn và trí tuệ. Ngừng hoàn thiện các quan hệ nhân tính theo
hướng chân – thiện – mỹ.
Hệ giá trò văn hóa mang tính khác quan, tính dân tộc giai cấp, tính nhân
loại phổ biến. Hệ giá trò văn hóa bao chứa trong nó chức năng đònh hướng, chức
năng nhận thức, chức năng đánh giá và điều chính hoạt động của cá nhân và
cộng đồng. Như vậy hệ giá trò văn hóa thường mang tính chất đa năng. Tuyệt
đối hóa một tính chất hay một chức năng nào đó hay tuyệt đối hóa sự khác nhau
giữa các tính chất các chức năng của giá trò văn hóa để gây ra ……… và sai lầm.
Giá trò văn hóa tồn tại thành hệ thống là do chính nhu cầu của sự tồn tại
của con người của loài người. Con người, loài người có n/cầu vật chất và tinh
thần. Con người và loài người tồn tại, phát triển thống nhất trong 2 thực thể, thực
22
thể cá nhân và thực thể cộng đồng xã hội. Vì vậy hệ giá trò văn hóa tồn tại trên
3 dạng: dạng vật thể, chử yếu là những sản phẩm văn hóa những công nghệ văn
hóa. Dạng phi vật thể, chúng tồn tại trong ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật,
tính ngưỡng, lý tưởng và niềm tin giữ vò trí rất quan trọng. Thứ ba là từng con
người và cộng đồng xã hội cũng là một dạng tồn tại của văn hóa. Văn hóa tích
lũy và kết tinh trong từng con người. Trong cộng đồng xã hội, nhằm hoàn thiện
con người và xã hội hình thành và phát triển nhân cách. Nhân cách là trung tâm
thống nhất hệ giá trò tinh thần của cá nhân và cộng đồng. Nhân cách biểu hiện

trong văn hóa lao động, văn hóa giao tiếp, văn hóa gia đình, văn hóa cá nhân.
Hệ giá trò văn hóa biểu hiện và thực hiện trong các chuẩn mực văn hóa, chuẩn
mực văn hóa là quy tắc chung mang tính lý thuyết và lý tưởng về sự hoàn thiện
con người và xã hội. Chuẩn mực hướng dẫn con người hành động và hoạt động
sáng tạo. Những yếu tố, những dấu hiệu tạo nên chuẩn mực và tính qui đònh của
cộng đồng, tính cho phép và tính cấm đoán, tính đònh hướng các giá trò chân –
thiện – mỹ là một trụ vónh hằng của văn hóa, nó hướng con người vươn tới sự
hoàn thiện nhân cách cá nhân cũng như nhân cách cộng đồng.
Giá trò văn hóa kết tinh trong các di sản văn hóa, nó được tích lũy trong
suốt quá trình lòch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc còn
được lưu giữ lại. Những di sản này rất phong phú, da dạng tồn tại dưới hình thức
khác nhau, những cổ vật những công trình kiến trúc hoặc còn ẩn trong lòng đất
hoặc đang được lưu trữ trong các bảo tàng, các công cụ sản xuất, đồ dùng bằng
sành sứ, những thành quách, chùa tháp, đình làng, phố cổ, lăng tẩm, cung điện…
thuộc loại văn hóa vật thể. Văn hóa phi vật thể đa dạng hơn gồm các loại văn
hóa, các loại hình nghệ thuật âm nhạc, ngôn ngữ, triết lý, đạo đưc, truyền
thuyết, huyền thoại, lễ hội, lễ nghi, phong tục tập quán… đặc biệt là những danh
nhân văn hóa anh hùng dân tộc, những trí thức dân tộc.
nghóa của di sản văn hóa là truyền thống văn hóa. Khi đưa thế hệ sau lựa
chọn, trước hết đó là dấu ấn là hiện thân của lòch sử dân tộc, nó chứa đựng
những giá trò thẩm mỹ, nó là biểu trưng của văn hóa, nó là tiềm tàng của nền
văn hóa dân tộc, đồng thờ nó cũng là tiềm năng để duy trì dân tộc và con người
dân tộc. Mặt khác di sản văn hóa cũng là cơ sở để sáng tạo ra giá trò văn hóa
mới. Là cơ sở để thực hiện giao lưu văn hóa, nó là một … để sàn lọc và kết chặt
các giá trò văn hóa nhân loại, nó là chất keo liên kết cộng đồng để hướng tới cội
nguồn. Như giổ tổ Hùng Vương, những ngày lễ Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trung Trực, Bác Hồ.
Di sản văn hóa có thể làm cho con người sống lại quá khứ, sống lại thời
thơ ấu của dân tộc và của mỗi cá nhân, đ/biệt con người cùng một lúc sống hai
thế giới, thế giới hiện thực (thế giới Chúng ta đang sống) và thế giới của những

biểu tượng (thế giới trung đầu oc chúng ta) và những hồi ức về quá khứ, những
ác mộng về tương lai.
Thông qua việc sống lại của quá khứ của thế giới biểu tương nó giúp cho
con người sáng tạo hương tới tương lai những truyền thống văn hóa,những di sản
văn hóa của dân tộc không chỉ là cái để chiêm ngưỡng, để tự hào mà nó còn
tạo ra niềm cảm hứng hết sức sáng tạo. Vd: Thánh gióng, Quan Trung … đến
ngày nay ta có thể sáng taọ giá trò mới về nghệ thuật Hồ Chí Minh là người mẫu
mực cho việc coi trọng các di sản văn hóa, việc kế thừa truyền thống văn hóa và
phát huy các di sản văn hóa của dân tộc để sáng tạo các giá trò mới để phục
hưng dân tộc.
Di sản văn hóa là hiện thân cụ thể của truyền thống văn hóa và bản sắc
văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa dân tộc là sự nối tiếp liên tục của các
giá trò văn hóa và cũng chính là các giá trò văn hóa do lòch sử để lại. Nhưng
không phải hoàn toàn là giá trò do lòch sử để lại đều trở thành truyền thống, chỉ
có những giá trò nào được thế hệ sau tiếp nhận làm sống lại mới trở thành truyền
thống. Quy luật tồn tại và phát triển nên truyền thống dựa vào thuộc tính năng
động nhất của nó là chọn lọc, biến đổi sáng tạo. Trong đó di sản là nguyên liệu
cho sự sáng tạo. Không có di sản, không có quá trình chọn lọc biến đổi và sáng
tạo, không có truyền thống văn hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc là những yếu tố tạo ra sức sống của nền văn hóa
dân tộc, duy trì và phát triển nền văn hóa dân tộc trong tiến trình lòch sử. Bản
sắc văn hóa dân tộc là những yếu tố tạo thành bản lónh của cộng đồng và con
người dân tộc. Bản sắc văn hóa là “bộ gien xã hội” di truyền nòi giống về mặt
tinh thần, là cái nhận diện dân tộc giữa cộng đồng nhân loại. Bản sắc văn hóa là
quá trình dân tộc tự ý thức để giữ lấy và tạo ra tiềm năng phát triển. V/vậy nó là
cơ sở để ta có thể đi lên CNH-HĐH đất nước.
Giá trò văn hóa tiêu biểu nhất, sâu sắc nhất, bền vững nhất của dân tộc là:
truyền thống yêu nước, chủ nghóa yêu nước Việt nam. Chủ tòch Hồ Chí Minh đã
viết “nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàng. Đó là truyền thống quý báo
của dân tộc ta”. Hội nghò BCH TW Đảng lần thứ V khóa 8 khẳng đònh: Chủ

nghóa yêu nước là hệ tư tưởng xuyên suốt lòch sử dân tộc và lòch sử văn hóa dân
tộc là cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Đó chính là nhân tố quan trọng để khai
thác và phát huy nội lực trong sự nghiệp CNH-HĐH, thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Nền văn hóa nào cũng có những giá trò bền vững trở thành truyền thống,
thành niềm tự hào dân tộc có khả năng thu hút và liên kết hệ giá trò văn hóa dân
tộc. Truyền thống và bản sắc cao đẹp nhất của dân tộc Việt Nam là chủ nghóa
yêu nước. Truyền thống văn hóa dân tộc và Bản sắc dân tộc của văn hóa có
mqh biện chứng. Bản sắc văn hóa là cá nhân là sợi chỉ hồng liên kết và xuyên
suốt truyền thống văn hóa dân tộc.
Những truyền thống văn hóa là dòng chãy liên tục, vừa đào sâu vừa mở
rộng và phát triển không ngừng bản sắc văn hóa dân tộc. Hai mặt ấy thống nhất
trong sự kế thừa văn hóa và văn hóa nghệ thuật. Có như vậy mới hiện đại hóa
nền văn hóa dân tộc. Hiện đại hóa trước hét là quá trình đổi mới theo cả hai
hướng: năng động hóa các giá trò truyền thống của dân tộc để thích ứng với yêu
cầu phát triển của thời đại. Mặt khác, phải chấp nhận các yếu tố tiến bộ, hiện
đại và nhân đạo từ các nền văn hóa dân tộc khác để làm giàu cho mình. Hai quá
trình diễn ra trong mối tương quan, thích hợp thống nhất không phá vở thế cân
bằng của quá trình vận động đổi mới và phát triển. Di sản văn hóa truyền thống
có vai trò vò trí và ý nghóa rất lớn trong đời sống chung của cộng đồng cũng như
đối với việc xây dựng nền văn hóa nghệ thuật mới. Có nhận thức như vậy mới
đánh giá đúng thành tựu đã đạt được trên lónh vực này và chỉ ra những tiêu cực,
hạn chế trong việc bảo vệ và khai thác di sản văn hóa nghệ thuật trong thời gian
qua.
Tóm lại, vấn đề kế thừa, bảo vệ và phát huy các giá trò tinh thần đạo đước
thẩm mỹ các di sản văn hóa nghệ thuật của dân tộc bảo tồn và tôn tạo các di
tích lòch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của đất nước. Trong điều kiện kinh
tế thò trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặt biệt quan tâm giữ gìn và nâng
cao bản sắc văn hóa dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới làm
giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam, đấu trnh chống sự xân nhập của các loại

văn hóa độc hại, những khuynh hướng hàng ngoại coi thường các giá trò nhân
văn.
Câu h ỏ i 23: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
Đảng ta xác đònh văn hóa là nền tảng tinh thần của XH, là tầm cao chiều sâu
về trình độ phát triển của dân tộc, kết tinh những gía trò tốt đẹp nhất trong quan
hệ giữa người với người, người với XH, với thiên nhiên. Văn hóa là động lực, mục
tiêu của sự nghiệp CM. Trong các tư tưởng chủ đạo xây dựng nên văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghóa XH là tư
tưởng chỉ đạo hàng đầu. Những vấn đề trên đã kế thừa từ tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa. Và chúng ta rất tự hào về người sáng lập và lãnh đạo rèn luyện
Đảng ta đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Người được ghi nhận trong Nghò quyết
UNESCO vừa là anh hùng gỉai phóng dân tộc vừa là nhà văn hóa lớn.
Thậy vậy, Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa kiệt xuất. Nghò quyết UNESCO
viết: "sự đóng đóng góp quan trọng những mặt của Chủ tòch Hồ Chí Minh trong
các lónh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn
hóa hàng ngày năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của người là hiện
thân của những khát vọng, của các dân tộc trong việc khẳng đònh bản sắc dân
tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau"
Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa chúng ta có thể khẳng đònh: Hồ Chí
Minh kết tinh sự hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. ta biết
rằng Hồ Chí Minh là biểu hiện cao nhất của chủ nghóa yêu nước Việt Nam, là thể
hiện tập trung cốt cách tâm hồn Việt Nam: "tôi cố ý` đònh đến ngày đó (thống
nhất đất nước) tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ
và chiến só anh hùng,thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng
yêu q của chúng ta" (di chúc của Hồ Chí Minh) - NXB CTQG 1999-trang50.
Có thể nói trước lúc đi xa Hồ Chí Minh vẫn luôn quan tâm đến sự nghiệp CM
mai sau, và có được những tư tưởng ấy không phải ngẫu nhiên mà là tất yếu tinh
23
thần dân tộc, yêu quê hương đất nước luôn luôn kết tinh trong cuộc đời của
người, Hồ Chí Minh là biểu hiện tập trung cốt cách tâm hồn của người Việt Nam,

thể hiện cái khí thế xông lên của dân tộc, cái hùng thiêng sông núi Việt Nam. Tư
tưởng về văn hóa của Hồ Chí Minh là cách cảm, cách nghó, cách nói của người
luôn thể hiện ở cách cảm, cách nghó, cách nói của dân tộc Việt Nam. Nội dung
của các tác phong đó là lao động, chiến đấu của dân tộc Việt Nam.
"Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp.
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông.
Nay ở trong thơ nên có thép.
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
Bên cạnh văn hóa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh của tinh hoa văn
hóa nhân loại, Hồ Chí Minh kết tinh của tinh hoa văn hóa nhân loại cùng với
chủ nghóa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chòu ảnh hưởng của văn hóa Phương Đông
(Nho giáo, Lão gíao, Phật giáo). Người đã tiếp thu kế thừa có phê phán tư tưởng
dân chủ, nhân văn của văn hóa phục hưng của thế kỷ ánh sáng, của CM Phương
Tây và CM Trung Quốc.
Trước khi đến với chủ nghóa Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên
cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản của CM Pháp, Mỹ, chủ nghóa Tam dân của
Tôn Trung Sơn (Trung Quốc…) người đã vận dụng và phát triển các học thuyết ấy
lên thành một trình độ mới. Nhìn chung, trong quá trình hình thành và phát triển
và hoàn thiện của mình Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa
Phương Tây, Phương Đông, nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp
luận Mácxít Lêninnít. Có thể nói Hồ Chí Minh tiếp thu vận dụng sáng tạo chủ
nghóa Mác - Lê nin và làm phong phú thêm chủ nghóa Mác - Lê nin. Bên cạnh ta
thấy Hồ Chí Minh là nhân tố chủ quan rất thiên tài, vó đại, là chủ thể sáng tạo
văn hóa: "Hồ Chí Minh là hình ảnh hoàn chỉnh của sự kết hợp: đức khôn ngoan
của Phật, lòng bác ái của Chúa, Triết học của C.Mác, thiên tài CM của Lê nin
và tình cảm của người chủ gia tộc. Tất cả đều hòa hợp một dáng dấp tự nhiên".
Hồ Chí Minh đã có những đóng góp nhiều mặt trên lónh vực văn hóa. Hồ Chí
Minh là người đã đặt nền tảng cho nên báo chí CM Việt Nam. Có thể nói Hồ Chí
Minh là người đầu tiên sử dụng báo chí tuyên truyền cho CM. Hồ Chí Minh là
người sáng lập và tổ chức nhiều tờ báo yêu nước và CM: người cùng khổ (1921),

tờ báo Thanh niên 1929, Công Nông (1926), Lính Cách Mệnh (1927), tờ báo Việ
lập (1941), nhân dân (1951). Hồ Chí Minh là nhà báo vó đại, người đã viết nhiều
thể loại báo chí: Bình luận, tiểu phẩm, tùy bút. Hồ Chí Minh nói: "Về nội dung
viết mà các cô các chú gọi là đề tài thì tất cả những bài Bác viết chỉ có một đề
tài al chống độc quyền, chống PK đòa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ
nghóa XH".
Hồ Chí Minh còn là hoạt động nghệ thuật, một nhà giáo dục vó đại. Trước hết
Hồ Chí Minh là nhà thơ vó đại trong cuộc đời hoạt động của mình, người đã viết
hàng trăm bài thơ chữ Hán, tiếng Việt. Hồ Chí Minh còn là nhà văn vó đại, văn
thơ của người nhằm mục đích tuyên truyền vận động CM, nhà phê bình điện ảnh,
hội họa, điêu khắc.
Cuộc đời của Hồ Chí Minh từ Thầy giáo Nguyễn Tất Thành (trường Dục
Thanh Phản ánh Thiết) cho đến giảng viên Lý Thụy (giảng viên chính trò ở
Qang Châu Trung Quốc), người đã trở thành người Thầy vó đại của CM Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
một Đảng CM chân chính, al người Thầy người Cha thân yêu của lực lượng vũ
trang. Người đã dẫn tới nhiều thế hệ CM xả thân vì độc lập dân tộc, tự do hạnh
phúc cho nhân dân, đã tạo ra nhiều nhà hoạt động chính trò lỗi lạc, nhiều nhà
chính trò tài ba. Hồ Chí Minh là người đặt nền tảng cho nền giáo dục mới Việt
Nam , đưa nó đi theo phương châm dân tộc khoa học và đại chúng, kết hợp khoa
học với thực tiễn. Người đã mang lại gía trò tích cực cho nền văn hóa Việt Nam,
qua Hồ Chí Minh thế giới biết đích thực về văn hóa Việt Nam , cốt cách văn
nghệ Việt Nam và là người đặt nền móng cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt
Nam , chính Hồ Chí Minh đã đưa văn hóa Việt Nam hội nhập với văn hóa thế
giới , thúc đẩy sự phát triển của văn hóa nhân loại: "không có gì q hơn độc lập
tự do" đã phản ánh khát vọng của các dân tộc trên thế giới. Đồng thời nền văn
hóa nhân văn thể hiện lòng yêu thương con người, tin tưởng vào con người, nền
văn hóa Việt Nam khi hòa nhập nhân loại sẽ thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa các
dân tộc.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, vò trí văn hóa có tầm quan trọng trong cuộc

sống con người. Người nói: "Vì lẻ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ , chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học , tôn giáo , văn học nghệ thuật , những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa" (Hồ Chí Minh toàn tập - tập 3 - trang 431). Có thể nói văn hóa là
toàn bộ những gía trò về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
hoạt động thực tiễn lòch sử của mình. Hồ Chí Minh cho rằng ; văn hóa là linh
hồn, là bản sắc của dân tộc. Hệ thống gía trò tinh thần của mọi dân tộc hình
thành nên bản sắc của mỗi dân tộc. Văn hóa thực chất là cái để phân biệt giữa
dân tộc này với dân tộc khác. Và Hồ Chí Minh cho rằng: phải gìn giữ và phát
huy bản sắc dân tộc , lấy văn hóa xưa để bồi đắp văn hóa nay, cho nên phải khôi
phục vốn cũ của dân tộc. Người giáo dục: "dân ta phải biết sử ta cho từng gốc
tích nước nhà Việt Nam" và khẳng đònh: "phát huy vốn cũ q báu của dân tộc",
tức là khôi phục cái gì tốt , cái gì không tốt thì phải loại dần ra, tránh tình trạng
khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh. Người khẳng đònh: "nhân dân ta
từ lâu đã sống với nhau có tình có nghóa". Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra là chúng
ta phải biết học tập cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới trên cơ sở phát huy c
gốc của văn hóa dân tộc, đừng biến chúng ta thành kẻ bắt chước, thành kẻ vay
mà không trả. Người cũng khẳng đònh văn hóa là một mặt hợp thành toàn bộ đời
sống XH. Trong kiến thiết nước nhà 4 mặt văn hóa, KT, chính trò, XH phải chú
trọng ngang nhau, văn hóa trong KT và KT trong văn hóa thì mới nâng cao đời
sống nhân dân và thực chất là mục tiêu của văn hóa. Người khẳng đònh, văn hóa
trong chính trò và chính trò trong văn hóa: "Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi
hoạt động khác không thể đứng ngoài mà ở trong KT và chính trò" (Hồ Chí
Minh). Văn hóa còn là động lực, mục tiêu của sự nghiệp CM. Độc lập dân tộc
mang lại gía trò đích thực cho văn hóa , xây dựng chủ nghóa XH là phải có nền
văn hóa cao "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi", "phải đem văn hóa lãnh đạo
quốc dân để thực hiện độc lập , tự cường, tự chủ". Văn hóa là động lực của sự
nghiệp CM , là sự tập trung ở con người. Người dạy "Vì lợi ích mười năm
ytrô2Nho giáo cây, vì lợi ích trăm năm trồng người", "muốn xây dựng chủ nghóa

XH trước hết cần có những con người XHCN". Đặc trưng con người mới XHCN là
kế thừa được những truyền thống của dân tộc , đỉnh cao của lòng yêu nước, con
người phải có năng lực làm chủ về trình độ mọi mặt, thể lực dồi dào , đạo đức
trong sáng, "XH ta là XH dân làm chủ , đã là chủ thì phải tự xoay xở lấy , đồng
thời cũng đặt vò trí quan trọng của sự nghiệp giáo dục đào tạo con người , "bồi
dưỡng thế hệ CM cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết". Cho nên
con người có đạo đức , trí tuệ , văn hóa, sức khỏe là động lực xây dựng chủ nghóa
XH , là mục tiêu của sự nghiệp CM.
Bên cạnh nội của một nền văn hóa mới có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng. Nói tổng quát và ngắn gọn nền văn hóa mới là xác lập gía trò mới trên
nền tảng và kế tục gía trò truyền thống , bù đắp thiếu hụt những gía trò truyền
thống và tạo tiền đề hình thành gía trò tương lai. Bên cạnh phải cơ cấu lại nền
văn hóa , kết hợp chủ nghóa dân tộc với chủ nghóa quốc tế , đưa khoa học kỹ
thuật cơ cấu lại nền văn hóa "khoa học hiện đại , văn hóa tiên tiến", và xây dựng
văn hóa pháp lý, đưa phương châm sống và làm việc theo pháp luật vào trong đời
sống của mọi người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh con thể hiện: văn hóa là một mặt trận , văn nghệ só là
chiến só trên mặt trận ấy. Văn hóa là một mặt trận rất quan trọng như những mặt
trận khác , văn hóa văn nghệ có tính phức tạp nên phải có chiến lược , sách lược
rõ ràng. Vngh là chiến só trên mặt trận văn hóa cho nên vò trí của họ rất cao - là
một chiến só CM. Vậy họ phải sử dụng ngòi bút của mình , tài năng nghệ thuật
của mình để đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghóa XH. Muốn vậy phải giáo
dục, xây dựng đạo đức cho họ để họ có đạo đức CM. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "dân
tộc bò áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn có tự do thì phải tham
gia CM". Trong thời kỳ quá độ "văn nghệ cần phải phê bình rất nghiêm khắc
những thói xấu tham ô, lãng phí, lười biếng, quan liêu và cũng phải ca tụng
chân thật những người mới việc mới , để làm gương cho chúng ta ngày nay và
giáo dục cho con cháu đời sau"
Hồ Chí Minh là thể hiện văn hóa Việt Nam phải mang nội dung XHCN và tính
dân tộc sâu sắc. Văn hóa Việt Nam XHCN là nền văn hóa xây dựng trên cơ sở

khối liên minh Công nông, là nền văn hóa được sự lãnh đạo của Đảng , là nền
văn hóa hiện thực phê phán (phê phán cái bảo thủ , lạc hậu, xấu xa; nó cổ vũ
tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghóa XH). Đồng thời nền văn hóa phải
là của nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng , và phục vụ quần chúng nhân dân.
Người khẳng đònh: "chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác nhà văn bằng
những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó người dân cũng sẽ quên
anh ta". Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng: "công tác văn hóa phải lấy lợi ích
của nhân dân làm khuôn phép , nói chuyện tuyên truyền khẩu hiệu, viết báo…
phải xác đònh từ trong quần chúng mà ra, về sâu trong quần chúng"
Đối với vi xây dựng nền văn hóa Việt Nam phải phong phú nhiều màu sắc , và
có chất lượng cao. Theo Hồ Chí Minh một tác phong gía trò là một tác phong
hay , chân thật, hùng hồn, phong phú về nội dung , phương thức phản ánh hoàn
hão, đáp ứng được yêu cầu của công chúng. Bên cạnh người phê phán mặt trái
của bệnh bôi đen, bệnh tô màu, bệnh sơ lược , nghèo nàn về nội dung, cầu kỳ về
hình thức.
Kế thừa vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Đảng ta đã xác đònh văn
hóa có vò trí rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước , trong đó có một vấn đề quan trọng là xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Do đó trong giai đoạn phát triển KT hiện nay phải
gắn liền với phát triển văn hóa: "Văn hóa và KT có quan hệ gắn bó hữu cơ , là
mục tiêu , là động lực của nhau. Xây dựng và phát triển văn hóa lành mạnh cần
thúc đẩy KT phát triển mạnh mẽ và vững chắc. Ngược lại, phải thực hiện tốt Nghò
quyết Trung ương 4 khóa 8 về KT - XH , phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả
KT, phấn đấu đảm bảo duy trì tăng trưởng KT bền vững , thì mới có điều kiện
phát triển văn hóa mới. Cả KT và văn hóa phải hòa quyện vào nhau để đưa đất
nước ta vững bước vào thế kỷ 21" (văn hóa Hội nghò lần thứ 5 BCH TW Đảng
Khóa 8 - trang 87). Văn hóa là vấn đề rộng lớn của toàn bộ đời sống tinh thần
XH , nhưng hiện nay cần phải tập trung một số vấn đề sau:
Phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo: "đẩy mạnh việc thực hiện Nghò quyết

Trung ương 2 Khóa 8 về giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Coi trọng giáo
dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm , nghóa vụ công dân , lòng yêu nước,
yêu chủ nghóa XH, đạo đức , lối sống , nếp sống văn hóa, lòch sử dân tộc và bản
sắc dân tộc ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đề của đất nước ,
bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy gía trò văn hóa dân tộc , tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại…" (Nghò quyết Trung ương 5 Khóa 8 - Trang 63).
Phải xây dựng con người Việt Nam trong tương lai có đời sống mới , có lối
sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân nghóa, tôn trọng
kỷ cương phép nước, qui ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái". Và "giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt
Nam.Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha, mẹ. Coi trọng xây dựng gia
đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khắn khích giữa gia đình, nhà trường và
XH. Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa , nâng cao tính
tự quản của cộng đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh…"
(Nghò quyết Trung ương 5 khóa 8 - trang 60).
Tóm lại, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa với ý nghóa sâu xa và
rộng lớn của khái niệm văn hóa.
24

×