Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tài liệu ôn thi môn học Quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.5 KB, 20 trang )

Tài liệu ôn thi môn học : Quan hệ quốc tế

Vấn đề 1 : THỜI ĐẠI NGÀY NAY.
Bài làm
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm phát triển của cách mạng nước ta (1930-1991), Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã rút ra những bài học lớn, trong đó bài học đầu tiên là:
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự chọn lựa con đường phát triển đất nước
theo chủ nghĩa xã hội chính là sự chọn lựa phù hợp với thời đại, cho dù những biến động chính trị
diễn ra trong vài thập kỷ gần đây, những thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện nay không thể là căn cứ
để chúng ta đi đến những kết luận vội vàng mà phải căn cứ vào giá trị tư tưởng xã hội chủ nghĩa đối
với vận mệnh của toàn nhân loại cả trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai để xem xét. Trong văn
kiện Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định “thời đại ngày nay và mối quan hệ giữa các quốc gia dân
tộc là vấn đề cơ bản, cần thiết đối với một Đảng cách mạng. Việc nhận thức đúng đắn về thời đại có
ý nghĩa quyết định tới việc xác định đường lối chiến lược của cách mạng. Do vậy, việc xem xét thời
đại một cách khoa học, khẳng định thời đại một cách đúng đắn là sự cần thiết và là đòi hỏi bức xúc
hiện nay. Mỗi một thời đại đều mang trong mình những nội dung, tính chất và đặc điểm khác nhau,
bên cạnh đó nó còn chứa đựng những mâu thuẩn với những hình thức và mức độ biểu hiện cũng
khác nhau. Khi nghiên cứu, đánh giá về thời đại ngày nay để đưa ra một đường lối cách mạng đúng
đắn, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nhận định “ ”
1. Dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới
Đánh giá tình hình thế giới, Đại hội XI của Đảng đã nhận định “Nước ta bước vào thời kỳ
chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường” (VKĐH XI,
trang 27) tác động đến nhận thức về thời đại. Cụ thể như sau :
Trên thế giới : Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn
biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc
tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố
vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong
các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường còn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục
phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng
khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế


tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó
khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành, lĩnh
vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa
các nước lớn có nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài
nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các
nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh
lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh sẽ tiếp tục diễn biến phức
tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân
chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông - Nam Á vẫn sẽ là khu vực
phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo
ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tuy
còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khu vực.
Ở trong nước: những thành tựu kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986-2011) đã tạo ra cho
đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn k.tế
nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp
định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế yếu kém trong các
l.vực KTXH, xây dựng Đảng và hệ thống c.trị. Tuy nhiên, nước ta vẫn dứng trước nhiều thách thức
lớn đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức
1
nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về k.tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại.
Tình trạng suy thoái về c.trị tư tưởng, đ.đức l.sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đ.viên gắn
với tệ quan liêu tham nhũng lãng phí là nghiêm trọng, các thế lực thù địch vẫn thực hiện âm mưu
DBHB, gây bạo loạn lật đổ sử dụng các chiêu bài D.chủ, nh.quyền hòng làm thay đổi chế độ c.trị ở
nước ta. Trong nội bộ những biểu hiện xa rời mục tiêu của CNXH, tự diễn biến, tự chuyển hóa có
những diễn biến phức tạp.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin về thời đại ngày nay
Xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và trong nước nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải
nghiên cứu và nắm vững quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng ta về thời đại và thời
đại ngày nay.

Thời đại là một khái niệm dùng để chỉ sự phân kỳ lịch sử XH để phổ biến những nấc thang
trong quá trình phát triển của lịch sử XH loài người theo những tiêu chuẩn nhất định do những đặc
trưng khách quan của thời đại đó qui định. Nói cách khác, thời đại là thời kỳ lịch sử tương đối dài
có nét riêng biệt về chất, được tách ra trên cơ sở những đặc trưng khách quan nhất định. Khái niệm
thời đại còn được thay thế bởi các từ: giai đoạn, thời kỳ, nền văn minh.
Thời đại ngày nay là thời đại chúng ta đang sống, là thời đại mới, bắt đầu bằng sự thắng lợi
của cách mạnh XHCN tháng 10 Nga 1917 ở Nga. Theo Lênin: nội dung của thời đại mới là xóa bỏ
CNTB đồng thời phải thiết lập những cơ sở của XH mới XH XHCN và CSCN
Mác khẳng định loài người đã trãi qua 4 hình thái KT – XH: Cộng sản nguyên thủy, Chiếm
hữu nô lệ, phong kiến, TBCN. Mỗi hình thái KT - XH là một thời đại lịch sử nhất định có phát sinh,
phát triển và diệt vong. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng từ hình thái KT - XH này lên hình thái
KT - XH khác phải có thời kỳ tích lũy dần về lượng để biến đổi về chất. Do vậy thời kỳ quá độ có
thời gian dài chia thành nhiều bước đi, giai đoạn. Nó chứa đựng sự đan xen giữa các nhân tố của
các hình thái KT - XH, giữa cái cuộc và cái mới, giữa các quốc gia có các chế độ chính trị khác
nhau.
Chính thắng lợi của cuộc CM tháng 10 Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử thế giới :
đó chính là thời đại quá độ lên chủ nghĩa XH, nó tạo ra hai xu thế chính trị XH đối lập với CNTB;
mở đầu một hình thái KT - XH mới mà về chất nó khác hẳn hình thái KT - XH trước đó (nó xóa bỏ
mọi hình thức áp bức bóc lột, nó đưa lại sự bình đẳng cho các dân tộc). Lê nin nhấn mạnh ”chúng
ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu xây dựng nhà
nước Xô viết và do đó mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị của một giai
cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở các nơi đang tiến tới một cuộc đổi mới,
tới chổ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chổ giải phóng khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến tranh
đế quốc chủ nghĩa. ”
Như vậy, rõ ràng nội dung cơ bản của thời đại ngày nay là thời đại quá độ mà loài người
đang loại bỏ CNTB, tiến lên chế độ tốt đẹp hơn, giải phóng lao động, tránh khỏi những cuộc chiến
tranh đế quốc, mọi người đều sống trong hòa bình. Lênin cũng chỉ rõ thời đại ngày nay, giai cấp vô
sản trở thành giai cấp thống trị đứng ở vị trí trung tâm của thời đại quyết định sự vận động của lịch
sử.
Hội nghị của Đảng Cộng sản và công nhân 1957-1960 họp ở Mátxcơva nhận định : thời đại

ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới, là thời đại đấu
tranh giữa hai hệ thống XH đối lập, là thời đại gỉai phóng dân tộc và CM XHCN, là thời đại chủ
nghĩa đế quốc bị sụp đổ, chủ nghĩa thực dân bị thủ tiêu, là thời đại có nhiều nước đi lên chủ nghĩa
XH, là thời đại của chủ nghĩa XH, Chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Quan điểm của Đảng ta về thời đại ngày nay :
Dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê nin và sự vận động đầy phức tạp của nền chính trị thế
giới và nhất là những biểu hiện có tính chất đặc thù trong mỗi giai đoạn cụ thể nhất, đặc biệt là sau
năm 1991 khi tình hình thế giới thay đổi lớn, Đảng ta đã nhận định và bổ sung:
“Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH trên phạm vi toàn thế giới,
mở đầu bằng cuộc CM tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa XH, gắn liền với cuộc CM khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật XH ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ
2
nghĩa XH” (Hội nghị TW7 tháng 8/1994). Chính cuộc CM khoa học công nghệ hiện đại tạo ra
những tiền đề vật chất kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc tiến lên chủ nghĩa XH. Nó tác động đến
nên KT thế giới và mọi quốc gia. Đây là những thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, do
vậy nó đòi hỏi các nước đi từ một nền KT kém phát triển phải tận dụng lợi thế này để đẩy nhanh
phát triển lực lượng SX, để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH
Đồng thời Đảng cũng chỉ rõ xu thế của thời đại hiện nay: “Thời đại quá độ lên CNXH là thời
đại đan xen giữa CNXH và CNTB. CNXH sẽ ngày càng mạnh hơn và mở rộng từ một nước ra
nhiều nước. Còn CNTB thì ngày càng suy yếu và thu hẹp. Đó là xu thế chung có tính quy luật
xuyên suốt trong thời đại”
Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “chế độ XHCN ở Liên Xô và các
nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không
làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ
nghĩa XH.” (VKĐH 8, trang 76). Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu không phải là từ
bản chất chế độ, cũng hoàn toàn không phải là cách lựa chọn sai lầm một sự “đẻ non”, Cách mạng
tháng 10 Nga như những kẻ thù tư tưởng của CNXH, những kẻ cơ hội rêu rao, mà thực chất - như
Đảng ta đã chỉ rõ - là do sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức của Ban lãnh đạo
Đảng cộng sản các nước đó, duy trì quá lâu cơ chế cũ đã tỏ ra bất cập trước thực tiễn mới, đưa đến

khủng hoảng kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó là sự chống phá điên cuồng, tinh vi, thâm độc và toàn
diện của các thế lực đế quốc chủ nghĩa. CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, song chủ
nghĩa xã hội vẫn tỏ rõ sức sống của nó như ở Việt Nam, Trung Quốc và ở giá trị đích thực của
CN Mác – Lênin.
Văn kiện Đại hội XI (trang 69) của Đảng đã nhận định thời đại ngày nay có những đặc
điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay là :
“Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa
đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách
thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
3. Làm rõ những nội dung và biểu hiện mới của những mâu thuẩn thời đại: Thời đại ngày
nay có những đặc điểm chủ yếu bao gồm:
Thời đại ngày nay là thời đại chúng ta đang sống, là thời đại mới, bắt đầu bằng sự thắng lợi
của cách mạnh XHCN tháng 10 Nga 1917 ở Nga, mà nội dung cơ bản của nó là xóa bỏ CNTB
đồng thời phải thiết lập những cơ sở của XH mới XH XHCN và CSCN.
Như vậy, nôi dung cơ bản của thời đạị ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, là
thời đại loài người đang loại bỏ CNTB tiến lên chế độ tốt đẹp hơn, giải phóng lao động, mọi người
đều có quyền sống trong hoà bình. Lên nin nhấn mạnh: thời đại ngày nay là thời đại mà giai cấp vô
sản đứng ở vị trí trung tâm của thời đại, quyết định sự vận động của lịch sử xã hội loài người.
Tại hội nghị Đảng Cộng sản và công nhân 1957 và 1960 tại Mátxcơva đã nhận định: Thời
đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, là thời đại đấu tranh
giữa hai hệ thống xã hội đối lập, là thời đại giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN, là thời đại
CNĐQ bị sụp đổ, hệ thuộc địa bị thủ tiêu, là thời đại có nhiều dân tộc đi lên CNXH, là thời đại
thắng lợi của CNXH, CNCS trên phạm vi toàn thế giới
Một là sự phát triển mạnh của cuộc CM khoa học công nghệ hiện đại nó tác động mạnh mẽ
và trực tiếp đến đời sống nhân dân các nước, nó đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa nó đưa đến những
thuận lợi đồng thời đặt ra những thách thức nhiều nước,nhất là các nước chậm phát triển và đang
phát triển. Hai là CNXH, phong trào cộng sản và công nhân lâm vào khủng hoảng thoái trào làm
thay đổi so sánh lực lượng trên trường quốc tế, có tác động đến sự vận động của thời đại, nhưng

điều đó không làm thay đổi tính chất thời đại. Ba là nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi.
Những xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, những xung đột về sắc tộc, tôn giáo vẫn xảy ra ở
nhiều nơi. Bốn là cộng đồng thế giới đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách đòi hỏi các nước
phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Năm là cùng với sự phân cực tính chỉnh thể của thế giới
3
ngày càng tăng, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cũng tồn tại hòa
bình, hình thành nên các khu vực tập trung cho sự phát triển.
Thứ nhất: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, bao trùm nhất và xuyên suốt nhất trong thời đại ngày nay. Cu
ba vẫn còn bị cấm vận, đối với Việt Nam và Trung Quốc thì các thế lực thù địch không bao giờ
muốn Đảng Cộng sản lãnh đạo, không bao giờ muốn ta xây dựng thành công CNXH. Cuộc đấu
tranh ý thức hệ tư tưởng XHCN – hệ tư tưởng tư sản vẫn sôi động trước sự mất uy tín của CNTB và
trước mưu đồ của CN đế quốc không muốn để CNXH ở Liên Xô và Đông Âu phục hồi và ngăn các
nước khác đi vào CNXH, trước hết là các nước XHCN đang tồn tại. Tuy nhiên, mâu thuẫn này về
nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Thể hiện trước đây từ đối đầu nay chuyển sang
đối thoại, vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình, sẵn sàng chuyển đối đầu, bất đồng sang
thứ yếu để cùng hợp tác phát triển. Sự chuyển hóa ấy thể hiện dưới 3 dạng cụ thể: Thứ nhất, tiến
hành diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa bình. Hiện nay Mỹ đang thực hiện chiến
lược toàn cầu “vượt lên ngăn chặn” để thay thế cho chiến lược trước đây, đây thực chất là chiến
lược mạnh bạo hơn nhưng biện pháp sử dụng một cách tòan diện hơn, sâu sắc hơn và tế nhị hơn. Ví
dụ như : đối với khu vực Châu á – Thái bình dương. Trong quan hệ với Trung quốc thì một mặt Mỹ
ủng hộ và quan hệ hợp tác với Trung quốc nhưng mặt khác Mỹ tìm cách kiềm chế không muốn cho
Trung quốc mạnh lên, trong quan hệ với Việt Nam, Mỹ tìm cách xóa bỏ chế độ chính trị nhưng mặt
khác vì lợi ích chiến lược lâu dài, Mỹ phải đầu tư vào Việt Nam nhưng Mỹ lại gây sức ép với Việt
Nam về vấn đề nhân quyền, tôn giáo bởi vì Mỹ co rằng chính sách đối đầu về kinh tế dần dần sẽ
làm thay đổi được tư tưởng chính trị của tầng lớp thanh niên thích hưởng thụ và khi đó mới tiến
hành âm mưu lật đổ. Thứ hai là hành động lật đổ và đấu tranh, chống lật đổ. Thứ ba là áp đặt, can
thiệp và đấu tranh chống áp đặt và can thiệp từ bên ngoài.
Ví dụ như: dự luật HR 2431 được hạ viện Mỹ thông qua, trong đó đưa ra 36 nước để trừng
phạt (trong đó có Việt Nam), chúng ta đã kịch liệt phản đối buộc Mỹ không thể tiến hành dự luật

này.
Thứ hai: Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân;
Đây vẫn là mâu thuẫn vốn có trong lòng các nước CNTB. Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn
còn tồn tại thì mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội này vẫn là khách quan, giai cấp công
nhân vẫn là những người lao động làm thuê cho giai cấp tư sản. Hiện nay do cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân và những lực lượng tiến bộ trên thế giới, cùng với năng suất lao động cao do cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra, chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh trong chính sách xã
hội, thực hiện tăng phúc lợi xã hội. Nó có biểu hiện mới, nội dung, tính chất và hình thức tinh vi
hơn, xảo nguyệt hơn, nhưng có vẻ êm dịu hơn. Do giai cấp tư sản tìm mọi cách để xoa dịu cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân như: chăm lo chính sách xã hội hơn; mua chuộc một bộ phận công
nhân, trí thức; gắn lợi ích công nhân với lợi ích của các công ty thông qua việc bán cổ phần hoặc sử
dụng mọi hình thức tuyên truyền tính ưu việt của xã hội tư bản nhưng về căn bản giai cấp tư sản
không thể giải quyết được mâu thuẫn vốn có của nó giữa tư bản và lao động, giữa tính chất xã hội
hóa rất cao của LLSX và chế độ sở hữu tư nhân TBCN. Song sự phân hoá giàu nghèo vẫn diễn ra
quyết liệt, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng trong các nước tư bản chủ nghĩa. Nếu như
trước đây trong các nước tư bản chủ nghĩamâu thuẫn cơ bản nổi lên giữa giai cấp công nhân và giai
cấp tư sản thì nay mâu thuẫn này đã phát triển thành mâu thuẫn rộng lớn hơn là mâu thuẫn giữa tư
bản và lao động. Trong xã hội, không chỉ có giai cấp công nhân bị áp bức, bóc lột mà cả những
người lao động khác cũng bị bóc lột; mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã
hội hoá cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng gay gắt. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, một mặt giúp nâng cao mức sống cho xã hội, mặt khác làm cho tình
trạng thất nghiệp của những người lao động trong xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng gia tăng. Cùng
với nó là tình trạng tội phạm xã hội, ma tuý, sự suy thoái vềđạo đức, lối sống làm cho những mâu
thuẫn vốn có trong xã hội tư bản ngày càng trở nên gay gắt. Những mâu thuẫn đó chỉđược giải
quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chếđộ xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, với những âm mưu "diễn biến hoà bình" chống phá quyết liệt của kẻ thù, những
4
thủ đoạn nham hiểm của giai cấp tư sản, cùng với sự thiếu thống nhất, sự chia rẽ của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay, cách mạng xã hội chủ nghĩa còn gặp rất nhiều khó khăn.
Thứ ba: Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và kém phát triển với chủ

nghĩa đế quốc. Vào những năm 50, 60 của thế kỷ XX, với ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười
và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, khoảng 100 nước đã đấu tranh thắng lợi giành được độc lập
dân tộc ở những mức độ khác. Song, do các nước này có trình độ kinh tế, văn hoá thấp kém, cho
nên vẫn đang còn lệ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa về khoa học kỹ thuật, về tài chính, v.v. ở
mức độ khác nhau nhau như: Về tiền công rẻ mạc; Về tài nguyên khai thác cạn kiệt với giá rẻ; Về
thị trường bán hàng hoá cho các nước nghèo với giá cao; Về trao đổi không ngang giá giữa sản
phẩm công nghệ cao với khoáng sản, nông sản sơ chế từ các nước nghèo. Từ sự phụ thuộc về kinh
tế khiến họ tất yếu phải phụ thuộc các nước tư bản chủ nghĩa về chính trị. Bằng những biện pháp
tinh vi, các nước tư bản chủ nghĩa đang bóc lột các nước dân tộc chủ nghĩa một cách thậm tệ, làm
cho khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo ngày càng gia tăng. Nhiều nước hiện nay không
còn khả năng trả nợ. Theo quy luật của cơ chế thị trường, chất xám có xu hướng chảy từ nước
nghèo sang nước giàu, do vậy, các nước chậm phát triển có nguy cơ chảy máu chất xám làm cho
các nước này đã nghèo lại càng trở nên nghèo hơn. Tình trạng nghèo đói của các nước kinh tế chậm
phát triển đã là nguyên nhân dẫn tới những xung đột dân tộc, tôn giáo ở những nước này gia tăng.
Như vậy, hiện nay các nước chậm phát triển, một mặt phải tiến hành cuộc đấu tranh chống lại sự
can thiệp và xâm lược bằng quân sự, bằng kinh tế, bằng văn hoá của các nước phương Tây; mặt
khác, phải đấu tranh chống lại nghèo đói, bệnh tật, lạc hậu. Tình trạng trên làm cho mâu thuẫn giữa
các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gia tăng. Điều đó được biểu
hiện qua sự gia tăng những cuộc chiến tranh trên thế giới thời gian gần đây.
Thứ tư: Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước tư bản có sự thống nhất
với nhau về bản chất chế độ, về lợi ích giai cấp, về mục tiêu chống phá chủ nghĩa xã hội và phong
trào cách mạng, những lực lượng tiến bộ trên thế giới. Quan hệ giữa các nước tư bản chủ nghĩa,
giữa các tập đoàn tư bản chủ nghĩa là quan hệ liên minh nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Song giữa
các nước tư bản chủ nghĩa có những mâu thuẫn về lợi ích quốc gia, lợi ích của mỗi tập đoàn tư bản,
do vậy, luôn luôn diễn ra những cuộc đấu tranh lúc công khai, lúc ngấm ngầm. Mâu thuẫn trên đã là
nguyên nhân nổ ra hai cuộc chiến tranh trên thế giới. Hiện nay mâu thuẫn này được thể hiện thông
qua mâu thuẫn giữa ba trung tâm tư bản lớn: Mỹ - Nhật - Tây Âu. Mỹ dựa vào tiềm lực kinh tế -
tiềm lực quân sự tìm mọi cách tranh giành quyền lợi với Nhật và Tây Âu. Do vậy, Nhật, Tây Âu
vừa là đồng minh chiến lược, vừa là đối thủ cạnh tranh với Mỹ. Trong cuốn sách xuất bản tháng
5/2000, Hubert Vedrin, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp viết “là bạn, là đồng minh, nhưng Pháp không

chấp nhận phải đứng sau Mỹ”. Trong khi Mỹ lợi dụng “dân chủ, nhân quyền” để can thiệp vào các
quốc gia độc lập thì ông Hubert Vedrin lại nói “nhiều nơi khát vọng dân chủ nhưng không nhất thiết
là dân chủ giống hệt chúng ta” và “đừng quên là trong quá khứ, những nhà truyền giáo, quan chức
và lính tráng của CN thực dân đã rao giảng rất nhiều về dân chủ, nhân quyền, những điều mà chính
họ ít khi áp dụng.
Đây là 4 mâu thuẫn cơ bản của thời đại ngày nay hiện đang tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc
hơn, nội dung và hình thức biểu hiện đã có nhiều nét mới. Chính sự vận động của các mâu thuẫn đó
cùng với sự đấu tranh không mệt mỏi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế
giới sẽ quyết định số phận của CNTB, của giai cấp tư sản.
Vì thế, trong hoàn cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, việc nhận thức đúng đắn về
vấn đề thời đại là rất quan trọng và cần thiết, nó giúp thoát ra khỏi tình trạng hoang mang dao
động, mất phương hướng và phát hiện kịp thời và đấu tranh kiên quyết với mọi hình thức và biểu
hiện của chủ nghĩa cơ hội và xét lại. Nhận diện những biểu hiện của nguy cơ chệnh hướng XHCN
là vấn đề không phải đơn giản bởi tính phức tạp của sự nhận diện này bắt nguồn từ tính chất phức
tạp của thời kỳ quá độ. Thời gian qua ở Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều những biểu hiện cơ hội,
xét lại, cụ thể như :
- Xu hướng đòi “đa nguyên chính trị” : trong quá trình đổi mới, đặc biệt vào những thời
điểm có tính bước ngoặt, Đảng ta có những quyết sách rất quan trọng, trong đó có sự bác bỏ kiên
quyết những mầm mống đầu tiên về đa nguyên chính trị chớm xuất hiện trong Đảng. Đây là một
5
quan điểm đúng đắn bởi xuất phát từ bài học kinh nghiệm ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự
thực hiện “đa nguyên” “đa đảng”, dân chủ theo kiểu tư sản ở Liên Xô và Đông âu vừa qua, là một
bài học đắt giá đối với các nước XHCN, đã làm cho CNXH bị khủng hoảng và lâm vào thoái trào.
Đồng thời, thực tế cũng chứng minh rằng, các nước thực hiện sự cải cách hay đổi mới thu được
những thắng lợi căn bản và vững bước đi theo con đường CNXH đều đã kiên trì nguyên tắc: nhất
nguyên chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo duy nhất, đúng đắn của Đảng CS đối với hệ
thống chính trị và toàn XH
- Tìm mọi cách hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản : Hạ viện Mỹ thông qua Nghị
quyết đòi Việt Nam phải xóa bỏ điều 4 trong Hiến pháp năm 1992 (tức bỏ điều Đảng Cộng sản
lãnh đạo toàn XH) ngay trong giai đoạn Việt - Mỹ đang chuẩn bị Hiệp định thương mại, tư tưởng

này cũng đã xuất hiện ở Việt Nam. Tuy nhiên, ngược lại với quan điểm trên, Tổng thống Italia nói
“chúng tôi hoàn toàn ủng hộ hệ thống chính trị Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
- Đấu tranh với xu hướng đòi dân chủ hóa vô giới hạn ở Việt Nam (dân chủ phi giai cấp).
- Đấu tranh với xu hướng đòi tách văn hóa văn nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước: một trong những âm mưu diễn biến hòa bình của CNTB đối với các nước XHCN
trong đó có Việt Nam chính là việc kích động một số bộ phận văn nghệ sỹ đòi tách văn hóa, văn
nghệ ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng bởi họ cho rằng nếu văn hóa, văn nghệ đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng thì bản thân nó sẽ không mang tính sáng tạo mà chỉ là công cụ tuyên truyền của Đảng.
Chính bằng hình thức này cộng với sự tuyên truyền của Đài Châu Âu tự do cũng là 1 trong những
nguyên nhân làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Thực tế thời gian qua công
tác quản lý báo chí, văn hóa xuất bản của nước ta cũng còn nhiều mặt buông lỏng, để nảy sinh
những khuynh hướng không lành mạnh làm suy giảm giá trị văn hóa, đạo đức xã hội và ảnh hưởng
đến uy tín của Đảng, nhà nước. Để khắc phục những khuyết điểm trên, Đảng ta đã khẳng định: văn
hóa văn nghệ có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng CNXH, quan hệ của nó trong quá
trình biến đổi và cải biến to lớn này không thể trở thành cái đứng ngoài; mà phải là một sức mạnh
trực tiếp góp phần vào quá trình phát triển. Do đó, văn hóa, văn nghệ không thể không đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước nhưng đồng thời nhà nước cũng phải đảm bảo tự do,
dân chủ cho mọi sáng tạo văn hóa, văn học nghệ thuật, tạo điều kiện làm việc thuận lợi để phát huy
hiệu quả của lao động nghệ thuật. Văn nghệ sỹ phải nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, trước tổ
quốc và CNXH.
Đấu tranh với xu hướng đòi tư nhân hóa nền kinh tế theo kiểu TBCN. Đấu tranh với bọn cơ
hội tìm cách tác động để sửa đổi luật pháp Việt Nam theo xu hướng TBCN. Đấu tranh với xu hướng
đòi xét lại những thành quả cách mạng của dân tộc và của nhân dân.
Tóm lại, Do nhận thức đúng đắn về thời đại nên trong những năm qua Đảng ta đã xác định
đúng đắn đường lối chiến lược và sách lược, đưa đất nước Việt Nam đạt được từ thắng lợi này sang
thắng lợi khác, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước
đi lên vượt qua được khủng hoảng. Cuộc sống của nhân dân ngày càng cải thiện, uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố. Các nước ngày càng tăng cường quan hệ hợp tác
làm ăn với Việt Nam. Sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã cổ vũ động viên các nước trong đấu
tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, góp phần vào kho tàng lý luận của CN Mác Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh. Việc nhận thức và xác định đúng đắn vấn đề thời đại hiện nay cùng với xác định
đúng hướng đi của đất nước, trong đó có đường lối chính sách đối ngoại. Đảng và nhân dân ta đã
góp phần tích cực vào việc làm rõ xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người. Cho dù khúc
quanh hiện nay của lịch sử đang là sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên thế giới kép dài thêm nhưng
nó không thể làm đảo ngược được tính chất và xu thế của thời đại. CNXH vẫn đang tồn tại thoát
khỏi những khó khăn, đang tiếp tục phát triển và khẳng định vị thế của mình. Loài người vẫn đang
trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH và theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới CNXH.
Vấn đề 2: CNXH HIỆN THỰC - CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI XHCN LÀ CON ĐƯỜNG
PHÁT TRIỂN TẤT YẾU CỦA CÁCH MẠNG VN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
6
Bài làm:
Quá trình phát triển của lịch sử XH loài người mang bản chất luôn luôn vận động và biến đổi
không ngừng theo khuynh hướng tiến lên cải tổ. Do đó, công cuộc đổi mới hoàn thiện CNXH dưới
sự lãnh đạo của chính đảng CS là đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển lịch sử. Và hơn thế nữa còn
là sự đòi hỏi tất yếu của bản thân CNXH trên thế giới nói chung và CNXH ở nước ta nói riêng.
Bằng lý luận quan hệ quốc tế, chúng ta phân tích làm rõ luận điểm trên.
1. Thành tựu và vai trò, vị trí của CNXH
a. Vị trí, vai trò của CNXH :
CNXH hiện thực ra đời là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử XH loài người. Đây
là biểu hiện sự vận động không ngừng tiến lên của lịch sử. CN Mác-Lênin chỉ ra rằng: CNXH là sản
phẩm trực tiếp của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bởi CNXH là mục đích, là lý tưởng
của giai cấp vô sản cần đạt tới, do vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản qui định; CNXH cũng
là ước mơ, nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản, C.Mác đã chỉ rõ: “Sự diệt vong của CNTB và sự thắng lợi của CNCS đều là tất yếu như
nhau”. Các nhà kinh điển CN Mác-Lênin còn dự đoán thiên tài về một XH tương lai, XH CSCN.
Đó là một XH mà trong đó mọi sự áp bức, bóc lột, bất công đều bị xóa bỏ, con người được hoàn
toàn tự do và bình đẳng, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc. Và chỉ có CNXH, CNCS mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Thắng lợi cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917 đã đưa đến việc thiết lập một nhà nước XHCN đầu tiên trong lịch sử XH loài

người, đánh dấu sự ra đời của CNXH hiện thực, mở ra thời đại mới cho lịch sử nhân loại. Đó cũng
là thành quả vĩ đại, là sản phẩm trực tiếp của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cách mạng
VN là một bộ phận không thể tách rời phong trào cách mạng thế giới. Đảng Cộng sản VN là một bộ
phận của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là sản phẩm của của sự kết hợp CN Mác-Lênin
với phong trào công nhân và CN yêu nước VN. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định con
đường đi lên của cách mạng VN là tiến tới CNXH.
b. Những thành tựu của CNXH :
Tuy mới ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển nhưng trước những năm 1980, các nước XHCN đã tạo
ra được những thành tựu không thể phủ nhận trên các lĩnh vực của đời sống XH bằng sức mạnh tự thân,
CNXH đã và đang vượt qua những khó khăn thử thách để trở thành đối trọng trước CNTB trong thời đại
ngày nay. Trên thực tế, CNXH đã xác lập được chế độ xã hội của những người lao động, mà bản
chất của nó là vì con người, phục vụ con người. Nhân dân lao động là người trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất và quản lý xã hội. CNXH không ngừng tạo điều kiện cho người lao động cống
hiến trí tuệ, năng lực của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ XHCN. Tuy các nước
XHCN đều xuất phát từ một nền kinh tế có trình độ phát triển trung bình và lạc hậu, nhưng chỉ sau
một thời gian ngắn Liên Xô đã trở thành một cường quốc về kinh tế và quân sự đủ sức đánh bại CN
phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt nước đi lên
CNXH. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, chỉ sau thời gian không dài các nước XHCN đã xây dựng
được một nền kinh tế khá phát triển. Nếu chỉ đơn giản so với hai nước Liên Xô và Mỹ, đứng đầu
hai khối trong cùng một thời gian nhất định (đến năm 1985) về tổng sản lượng công nghiệp thì Liên
Xô có tốc độ tăng trưởng cao hơn. (năm 1913 nước Nga sa hoàng chỉ đạt 12,5% so với Mỹ, đến
năm 1949 Liên Xô đạt đến 40%, năm 1980 Liên Xô đạt 80%, đến năm 1985 đạt 85% so với Mỹ).
Ngoài các nước XHCN cũng đạt những thành tựu rực rỡ trong một số ngành khoa học, đặc biệt là
trong ngành nghiên cứu và chinh phục vũ trụ.
Sức mạnh và sự tác động hệ thống các nước XHCN thế giới đã làm thay đổi bộ mặt của hành
tinh. CNXH là lực lượng chủ yếu, là mũi tiến công quan trọng nhất trong công cuộc đấu tranh
chống CN đế quốc. CNXH thực sự là hậu thuẫn, là chỗ dựa của phong trào giải phóng dân tộc và
độc lập dân tộc.
Hệ thống XHCN đã là thành trì của hòa bình thế giới, là chỗ dựa tinh thần của giai cấp công
nhân của các nước tư bản trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. CNXH (cụ

7
thể là Liên Xô) đã giành được thế cân bằng chắc chắn về vũ khí chiến lược, buộc CN đế quốc phải
chấp nhận cùng tồn tại hòa bình, nhờ đó mà nhân loại bước vào giai đoạn mới, giai đoạn của hòa
bình, hợp tác và phát triển.
Thành tựu tại VN (ĐHXI): Kiểm điểm 5 năm thực hiện NQ ĐHX, nhìn lại 10 năm thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010, 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991
- Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc
độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát
triển, bước vào nhóm nước đang có thu nhập trung bình.
- Nhiều mục tiêu chủ yếu của chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới
cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
- Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Năm 2010, tổng sản phẩm trong
nước bình quân đầu người đạt 1.168USD.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện.
- Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có
tiến bộ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được
cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng.
- Chính trị - xã hội ổn định; Quốc phòng, an ninh, đối ngoại đượctăng cường; độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững.
- Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi
trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước.
- Phát huy dân chủ có tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố; Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được
nâng lên.
- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực.
- Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; Vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra tiền đề quan trọng để đẩy nhanh CNH-
HĐH và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
c. Những sai lầm của CNXH :

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt được trong quá trình phát triển của mình, các
nước XHCN đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, những sai lầm đó đã đẩy CNXH thế giới
lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc và toàn diện.
+ Về chính trị: Vấn đề dân chủ trong thời gian dài, không được thực hiện đúng và đầy đủ bản
chất nền dân chủ theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, mà là một nền dân chủ hình thức, cắt xén
thậm chí có lúc là giả dối. Các Đảng Cộng sản chưa làm tròn vai trò của người chiến sĩ tiên phong,
trong tư duy thể hiện sự giáo điều; về lý luận, biểu hiện sự lạc hậu, yếu kém chưa theo kịp sự phát
triển thực tiễn và yêu cầu cách mạng; việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng nhiều nơi còn
quá yếu, năng lực, trách nhiệm ở một số tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ lãnh đạo chưa cao. Tổ chức bộ
máy cồng kềnh hoạt động kém hiệu quả, chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nghị quyết ra nhiều
nhưng làm ít, công tác kiểm tra thiếu kịp thời, xử lý chưa nghiêm minh, thậm chí cấp trên nói, cấp
dưới không nghe. Nhà nước ở các nước XHCN vừa qua chưa thể hiện đúng là nhà nước của dân, do
dân, vì dân; không coi trọng việc điều hành và quản lý XH bằng luật pháp; chồng chéo chức năng
giữa các cơ quan hành pháp và lập pháp; lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước với quản lý sản
xuất kinh doanh, chưa phát huy hết quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tệ tham nhũng, nạn mất
dân chủ còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều vấn đề gây phiền hà cho nhân dân.
8
+ Về kinh tế: sai lầm trong chế độ sở hữu, trong một thời gian dài không thực hiện đúng và đầy
đủ những bản chất, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác–Lênin về chế độ sở hữu mà dùng biện
pháp hành chính, mệnh lệnh ép buộc, cưỡng bức chạy theo chỉ tiêu pháp lệnh. Không để cho nhân
dân tự quyết định. Chính nguyên nhân này làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, từ đó
dẫn đến mất niềm tin với Đảng và nhà nước.
Về sản xuất hàng hoá: Thời gian qua chưa nhận thức đầy đủ về nền sản xuất hàng hoá, cho rằng
CNXH phải được xây dựng trên nền kinh tế sản xuất phi hàng hoá. Từ đó đã triệt tiêu động lực sản
xuất, dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển.
Về chế độ phân phối nhiều nước XHCN mắc phải sai lầm, khuyết điểm là không thực hiện phân
phối theo lao động mà thực hiện theo phân phối cấp bậc và kèm theo chủ nghĩa bình quân.
Về quan hệ kinh tế đối ngoại: Thì chỉ quan hệ một chiều dựa vào sự giúp đỡ một bên chứ không
phải quan hệ đôi bên cùng có lợi, từ đó làm nảy sinh sự trông chờ, ỷ lại và thực hiện nền kinh tế
khép kín, cách biệt với nền kinh tế thế giới, chỉ biết quan hệ trong các nước XHCN mà thôi, chứ

không cần quan hệ với các nước TBCN tức là CNXH đã ngủ quên trên những biến động của xã hội,
say sưa với chiến thắng, thoả mãn với chế độ XHCN. CNXH đã mắc sai lầm biệt lập, đóng cửa với
nền kinh tế thế giới. Do vậy, không tiếp thu được những thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng
khoa học công nghiệp hiện đại. Mặt khác, sự đóng khung các quan hệ kinh tế giữa các nước XHCN
với nhau, đi ngược lại xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, làm cho nền kinh tế
của các nước XHCN không thể phát triển được.
CNXH, trong thời gian dài đã không chú trọng đúng mức tới các ngành khoa học ứng dụng, chưa
sử dụng đúng mức đội ngũ trí thức. Từ đó dẫn đến hậu quả chưa sử dụng hết tài năng, dẫn đến tình
trạng chảy máu chất xám từ các quốc gia XHCN sang các nước TBCN. Những sai lầm đó tích tụ
lâu ngày, chậm được phát hiện, chậm được sửa chữa đã đưa đến hậu quả nghiêm trọng chưa từng có
trong lịch sử phát triển của CNXH, dẫn đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng cộng sản, đối với Nhà
nước và chế độ XHCN bị giảm sút; nạn chuyên quyền độc đoán, tham nhũng đã làm tổn thương nghiêm
trọng đối với hình ảnh của CNXH. Mặt khác, CN đế quốc lợi dụng sai lầm đó để phản công lại
CNXH, chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người dẫn đến
sự tam rã của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu.
Tuy nhiên, chúng ta nhận thức rõ rằng sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu cũng
như những hậu quả suy giảm KT-XH ở nước ta không phải là từ bản chất chế độ, cũng hoàn toàn
không phải là cách lựa chọn sai lầm một sự “đẻ non”, Cách mạng tháng 10 Nga như những kẻ thù
tư tưởng của CNXH, những kẻ cơ hội rêu rao, mà thực chất - như Đảng ta đã chỉ rõ - là do sai lầm
về đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức của Ban lãnh đạo Đảng cộng sản các nước đó, duy trì quá
lâu cơ chế cũ đã tỏ ra bất cập trước thực tiễn mới, đưa đến khủng hoảng kinh tế, xã hội, bên cạnh đó
là sự chống phá điên cuồng, tinh vi, thâm độc và toàn diện của các thế lực đế quốc chủ nghĩa.
CNXH hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, song chủ nghĩa xã hội vẫn tỏ rõ sức sống của nó như
ở Việt Nam, Trung Quốc, Cu ba và ở giá trị đích thực của CN Mác – Lênin
Việt Nam - nằm trong hệ thống các nước XHCN - cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra
đường lối chính sách kinh tế xã hội trong giai đoạn từ trước năm 1986. Chúng ta một thời gian khá
dài đã duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự phát triển kinh
tế và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng, hành động trái với các quy luật khách quan, đẩy mạnh cải
tạo quan hệ sản xuất trong khi lực lượng SX chưa phù hợp từ đó nảy sinh ra mâu thuẩn chủ yếu
giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, nhiệm vụ công nghiệp hóa được đẩy lên một cách duy

ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Bộ máy Đảng, nhà nước cồng kềnh, phân tán, cửa
quyền. Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi
vào khủng hoảng.
Nhận thức được những sai lầm trên, các nước XHCN tiến hành cải tổ và đổi mới CNXH (từ
những năm 1980).
2. Tính tất yếu và nội dung cải tổ, đổi mới CNXH nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
9
a. Tính tất yếu:
Chính những thất bại và sai lầm trên đòi hỏi để tồn tại chế độ XHCN, Đảng ta phải thực hiện
công cuộc đổi mới, linh động, sáng tạo phù hợp với tình hình hiện nay. Hơn nữa, cho dù không mắc
phải những sai lầm, việc cải tổ, đổi mới XHCN cũng phải được tiến hành để phù hợp với quy luật
vận động tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Nói cách khác, tính tất yếu của đổi mới là một tất
yếu lịch sử khách quan do quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, đòi hỏi CNXH phải tiến
hành đổi mới vì đó là con đường tồn tại và phát triển của một xã hội tương lai. Đổi mới không chỉ là
sự đòi hỏi tất yếu của bản thân CNXH mà còn là biểu hiện lành mạnh của nhận thức đánh giá chính mình để
khắc phục những sai lầm và tìm ra những con đường phát triển đúng đắn của CNXH. Cải tổ, đối mới không
có nghĩa là bắt đầu một cuộc cách mạng khác mà là sự tiếp tục của cuộc cách mạng XHCN. Quá trình đó
phù hợp với sự đòi hỏi của thời đại trong giai đoạn hiện nay, khi mà loài người tiến đến một giai đoạn mà sự
tồn tại của các quốc gia tùy thuộc nhiều hơn vào những nhân tố KT-XH, và mối quan hệ quốc tế. Việc đổi
mới này, đòi hỏi phải có những hình thức và bước đi phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể
trong từng giai đoạn lịch sử, hướng tới mục tiêu phát triển của CNXH. Phải thực hiện một cách đầy
đủ những bản chất nhân đạo, dân chủ và văn minh. Đổi mới là quá trình tìm tòi sáng tạo để vươn
lên, đổi mới phải tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc đổi mới này, đòi hỏi
phải có những hình thức và bước đi phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn
lịch sử, hướng tới mục tiêu phát triển của CNXH. Phải thực hiện một cách đầy đủ những bản chất
nhân đạo, dân chủ và văn minh.
b. Nội dung: Đổi mới là quá trình tìm tòi sáng tạo để vươn tới là một XH thật sự tốt đẹp, thì phải
được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống XH.
Về chính trị: Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho các Đảng CS cầm quyền và nhà nước XHCN là phải
mở rộng và phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân lao động phát huy trí sáng tạo trong công

cuộc xây dựng CNXH. Muốn vậy, phải cương quyết khắc phục những quan hệ chính trị đã kiềm
hãm sự phát triển KT-XH, xây dựng mối quan hệ mới trong hệ thống chính trị; tăng cường giáo dục
lối sống theo phương châm: Sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, giữ gìn kỷ cương và trật
tự xã hội.
Về kinh tế: Vấn đề hàng đầu của công cuộc đổi mới là sự thay đổi cơ chế quản lý bằng mệnh
lệnh, tập trung, hành chánh bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ này phải tiến hành ở tất cả các khâu của nền
kinh tế, đa dạng hoá hình thức sở hữu. Trong đó sở hữu nhà nước và tập thể giữ vai trò nền tảng.
Đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, giữ vững độc lập, tự
chủ.v.v
Về vấn đề xã hội, phải thật sự quan tâm đến vấn đề con người, con người vừa là mục đích, vừa là
động lực thực hiện công cuộc đổi mới đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội.
Tuy nhiên, sau nhiều năm tiến hành cải tổ, đổi mới ở các nước XHCN đưa đến kết quả không
giống nhau. Một số nước càng lún sâu vào khủng hoảng và đi đến tan rã CNXH như Liên Xô và các
nước Đông Âu, do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân xa rời các nguyên tắc mácxít Lêninnít
về định hướng, mục tiêu và bước đi. Một số nước khác đã tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới giành
được những thành tựu bước đầu quan trọng như: Trung Quốc, Việt Nam.
c. Đổi mới ở Việt Nam:
Năm 1986, Đại hội Đảng lần VI đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nhằm
nhận thức đúng hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra
những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên,
thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về
10
chính sách xã hội. Đường lối đối ngoại mở rộng với chủ trương thêm bạn bớt thù, sau đó phát triển
từ “muốn là bạn với tất cả các nước” chuyển sang “sẳn sàng muốn là bạn với tất cả các nước”
Đại hội X: Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công
cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế
tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị
và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên
với triển vọng tốt đẹp.
3. Đặc trưng và phương hướng cơ bản đi lên CNXH ở nước ta hiện nay (VK ĐHXI).
- Đặc trưng: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới (Văn kiện ĐH XI trang 70)
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh nghiệm
lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có lòng yêu
nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ
thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển
kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển.
Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo
cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách
mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua
thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo
vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
11
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; Không phiến diện, cực đoan, duy ý chí.
4. Những bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam (ĐHXI)
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, có thể rút ra một số kinh nghiệm
sau đây:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu
đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước

đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ
phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao
chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải
đồng thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là
đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn,
suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường
quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự
phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối
sống, có sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực
tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới;
tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, của toàn xã hội.
5. Kết luận:
Tóm lại, mặc dù CNXH hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn thử thách to lớn. Song CNXH
vẫn tiếp tục duy trì củng cố xây dựng ở một số nước. Qua những năm cải tổ, đổi mới, một số nước
XHCN đã có những chuyển biến tích cực đạt những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời
12

sống xã hội, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các Đảng CS và công nhân ở các nước XHCN đã đổ vỡ. Ở
các nước này hiện nay đang có sự chuyển biến tích cực trên con đường phục hồi về tổ chức và hoạt
động của các Đảng CS, điều này càng chứng tỏ rằng CNXH có sức thu hút mạnh các lực lượng tiến
bộ của thời đại với tư cách là một chế độ xã hội văn minh nhất trong lịch sử, đại diện cho lực lượng
sản xuất phát triển trong tương lai của xã hội loài người
Ở nước ta, con đường đi lên CNXH và những thành quả của quá trình đổi mới, xây dựng CNXH
ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN đã có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng VN và phong trào cách mạng thế giới ngày nay. Đã khẳng định Cương lĩnh,
đường lối, quan điểm của Đảng ta về đổi mới và xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
là đúng đắn. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu
được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội
VII của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn con đường đi lên CNXH ở nước
ta” và “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước VN theo con đường XHCN trên nền tảng
CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM”. Sự khẳng định ngày là rất cần thiết, nhất là vào thời điểm hiện
nay, khi đất nước ta cùng nhân loại đang trong thời đại mới, thời đại tiến lên hòa bình, công bằng,
dân chủ, văn minh. Vì thế thế giới có những diễn biến rất nhanh và phức tạp, trong nước cũng đứng
trước nhiều nguy cơ và thách thức mới. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta thành công, đã chứng tỏ khả
năng đứng vững trước những biến động chính trị rất lớn của thế giới, chứng tỏ sức sống mãnh liệt
của CNXH. Đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của phong trào cộng sản và
nhân dân thế giới. Mà đồng chí Giôdecadanêva, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha,
tại diễn đàn Đại hội IX của Đảng ta đã nói: “Những thành tựu trong việc cụ thể hóa một con đường
thích hợp quá độ lên CNXH – không chỉ là tài sản vô giá của những người cộng sản VN, mà còn là
nguồn cảm hứng và tin tưởng đối với những người cộng sản và cách mạng trên toàn thế giới.
Vấn đề 3: Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng
Bài làm
Sự nghiệp đổi mới nói chung và đổi mới trong đối ngoại nói riêng của Đảng và nhà nước ta
được chính thức đánh dấu từ Nghị quyết Đại hội Đảng lần VI (1986) và Nghị quyết 13 của Bộ
Chính trị năm 1988. Trải qua 25 năm đổi mới toàn diện đất nước, đối ngoại Việt Nam đã giành
được những thành tựu quan trọng, thể hiện sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, kịp thời, phù hợp xu thế
phát triển của thời đại của Đảng và Nhà nước ta. Trong khu vực, Việt Nam chủ động và tích cực

hơn trong tiến trình hội nhập và đang ngày càng đi vào chiều sâu, nhất là trong khối cộng đồng
ASEAN. Với thế giới, Việt Nam đã tiến những bước dài trong hội nhập quốc tế thông qua việc gia
nhập APEC, WTO và là Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an LHQ 2008 - 2009. Có được
những thành tựu ấy một phần quan trọng nhờ sự đổi mới tư duy sâu sắc về cục diện thế giới cũng
như, đường lối, phương châm hoạt động trên kĩnh vực đối ngoại, góp phần tạo ra thế và lực mới của
đất nước; diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đảng ta đã căn cứ vào tình hình thực tiễn trong và ngoài nước
để có đường lối đối ngoại đổi mới phù hợp với đường lối phát triển của đất nước, đó là: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đan phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước VN XHCN giàu mạnh; là ban, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tấ, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới ”(ĐHXItrang 83)
1. Đặc điểm tình hình thế giới, trong nước và xu thế quan hệ quốc tế:
Tình hình thế giới, khu vực và trong nước trong thời gian tới ảnh hưởng rất lớn đến việc xác
định đường lối, chính sách đối ngoại của đảng, do đó ĐH XI đã nhận định: trên thế giới, hòa bình,
hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẫn nhiều bất
trắc khó lường. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc
tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn cũng sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa và
13
cuộc CM KHCN phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xh thông tin và kinh tế tri thức.
Kinh tế thế giới dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn;
Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công
nghệ, nguồn vốn….giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vđ toàn cầu như: an ninh tài chính -
lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai…sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân
các nước trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xh tiếp tục phát
triển.
Khu vực Châu Á - TBD trong đó có khu vực ĐNA, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động,
nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định: tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt.

Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên
kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, song còn nhiều
khó khăn, thách thức.
Thành tựu 25 năm đổi mới đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn
nhiều so với trước. Nền kinh tế tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau khi sụt giảm; Tuy nhiên,
nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến
phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là
nghiêm trọng làm sút giảm lòng tin của nhân dân và đảng, nhà nước Các thế lực thù địch vẫn tiếp
tục thực hiện âm mưu “diễn tiến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ có những biểu hiện xa rời
mục tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp …
+ 5 xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay đó là : - VK Đại hội VIII
Hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Đây là xu thế lớn nhất, chủ đạo nhất trong quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay, chi phối toàn bộ
các xu thế khác vì: hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc,
nhu cầu cấp bách của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới; Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày
càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết khu vực và quốc tế. Hợp tác, liên kết ngày càng tăng
nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt; Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường,
đấu tranh chống lại sự áp đặt và can thiệp từ bên ngoài (cả về chính trị, kinh tế), bảo vệ độc lập chủ
quyền và nền văn hóa dân tộc; Các nước XHCN, các ĐCS và công nhân, các lực lượng cách mạng
tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội;
Các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa
bình. Đây là xu thế mới, thể hiện rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp không
phân tuyến trong giai đoạn hiện nay.
2. Đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của ĐCS VN
* Việc hình thành đường lối, chính sách đổi mới là một quá trình bắt đầu từ khi Đảng ta ra đời
nhưng rõ nhất là bắt đầu từ ĐH Đảng lần thứ VI năm 1986. Trước tình hình quốc tế và trong nước
có nhiều khó khăn: CNXH hiện thực thế giới đã bộc lộ sự trì trệ cả về kinh tế và chính trị xã hội,

đòi hỏi CNXH phải cải tổ, đổi mới, vấn đề Campuchia; vấn đề Mỹ cấm vận và vấn đề quan hệ với
Trung Quốc. Trước hoàn cảnh đó, Đại hội VI và NQ 13 khóa VI của Bộ Chính trị đã xác định các
chủ trương lớn trong quan hệ quốc tế đó là: chủ trương thêm bạn bớt thù; tiến tới bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc và tiến tới bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Có thể nói ĐH VI, ngoài việc
khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước còn là ĐH chuyển hướng và mở cửa cho quan hệ ngoại
giao của VN.
* ĐH VII năm 1991 đã đưa ra 2 nội dung đối ngoại: Thứ nhất, đường lối đối ngoại đổi mới
của Việt Nam là độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế đối ngoại và tuyên
bố: “VN muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”; Thứ hai: nhiệm vụ của công tác đối ngoại là: “Giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu
nghị và hợp tác tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội”
14
* Đến cuối năm 1991, CNXH đã sụp đổ hoàn toàn cả ở ĐÂu và cả ở LX. Phạm vi của CNXH
thế giới bị thu hẹp lại, CNXH tạm thời lâm vào thế thoái trào và ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất từ
trước đến nay. Trong hoàn cảnh đó, HNTW 3 khóa VII (tháng 6-1992) được triệu tập và đã xác
định tư tưởng chỉ đạo của công tác đối ngoại là: “giữ vững nguyên tắc độc lập thống nhất và
CNXH, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể của nước ta cũng như những diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng
đặc điểm, từng đối tượng ta có quan hệ”. HN TW 3 cũng chỉ rõ 4 phương châm của công tác đối
ngoại là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đây là phương châm cụ thể hóa để thực hiện nhiệm vụ của
công tác đối ngoại; Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ đối ngoại. Trong quan hệ quốc tế phải dựa vào sức mạnh của mình là chính, sức mạnh
nội tại của VN là điều kiện quan trọng để mở rộng quan hệ quốc tế và không chỉ quan hệ về mặt nhà
nước như trước đây mà quan hệ cả về đảng, tổ chức chính trị-xã hội, ngoại giao nhân dân…hợp tác
với tất cả các phương với mục đích duy nhất là có lợi cho dân tộc, đất nước; Nắm vững hai mặt hợp
tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Tránh hợp tác một chiều, tránh đấu tranh một chiều và tránh
trực diện đối đầu trong quan hệ quốc tế. Vì nếu hợp tác một chiều chúng ta sẽ bị lệ thuộc và lệ

thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính trị; đấu tranh một chiều sẽ dẫn đến mất bạn bè quốc
tế; Tham gia hợp tác khu vực và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới. VN đã và đang
rất coi trọng và không thể thiếu trong hợp tác khu vực, đồng thời chú trọng quan hệ với các nước
lớn trên thế giới; Có thể nói HN TW 3 khóa VII, đường lối đối ngoại của Đảng ta đã ngày càng
được bổ sung, phát triển hoàn thiện hơn, Nghị quyết Hội nghị là văn kiện đánh dấu sự hình thành
đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
3. Đường lối chính sách đối ngoại hiện nay
Từ khi có những thay đổi trong đường lối chính sách đối ngoại, có thể khẳng định đường lối
đối ngoại đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Điều đó đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn:
đất nước ta phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực vào
đời sống cộng đồng quốc tế; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc 11/1991 và Mỹ 11/7/1995,
gia nhập khối ASEAN 28/7/1995, khai thông với ĐNA, Tây Âu, Bắc Âu; tiếp tục duy trì quan hệ
với các nước Đông Âu; xác lập mối quan hệ mới với các nước CH của LX cũ và mở rộng qh với
nhiều nước trên thế giới.
* Trên cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới và những thắng lợi của công tác đối
ngoại, Đại hội VIII của Đảng đã nêu rõ một số nội dung của đường lối chính sách đối ngoại trong
giai đoạn hiện nay:
-Về mục tiêu của công tác đối ngoại đến năm 2020 và 2000: “Mở rộng quan hệ đối ngoại,
chủ động tham gia tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường
quốc tế”.
- Nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới là: “Củng cố môi trường hòa bình và
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển KT - XH, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH”.
- Về phương hướng của công tác đối ngoại: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát
triển”. Theo hướng đó, công tác đối ngoại có 4 trọng tâm là: Ra sức tăng cường quan hệ với các
nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN. Không ngừng củng cố quan hệ với các nước
bạn bè truyền thống. Coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các tập trung kinh tế chính trị trên

thế giới. Nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển và với phong trào không
liên kết. Tăng cường hoạt động ở Liên Hiệp quốc và các tổ chức quốc tế. Phát triển quan hệ với các
Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng CM, độc lập dân tộc và tiến bộ; mở rộng quan hệ với
các Đảng cầm quyền và các Đảng khác. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ
chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc
đẩy xu thế hòa bình, hợp tác phát triển.
15
* ĐH lần IX có bước phát triển mới và cao hơn, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước
đó là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. VN sẵn sàng là bạn, là đối tác đáng tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển” Việc đổi từ “muốn” thành từ “sẳn sàng”
thể hiện đúng đắn mong muốn chân thành của VN sẽ là bạn với những ai mong muốn là bạn với
VN. Mặt khác, chúng ta biểu thị thái độ trách nhiệm cao trong quan hệ với các nước sẳn sàng là đối
tác tin cậy của các nước, nghiêm chỉnh thực hiện mọi luật lệ và cam kết chung khi thiết lập quan hệ
đối tác, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta yêu cầu các đối tác phải nghiêm chỉnh thực hiện các hiệp
định, cam kết đã thỏa thuận với chúng ta. Chỉ có như vậy mới quan hệ lâu dài. Bên cạnh đó, chúng
ta cũng mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các vùng lãnh
thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và các khu vực theo
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thỗ, không can thiệp vào nội bộ của nhau,
không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và
tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt
và cường quyền. Mặc khác, chúng ta cũng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, theo tinh
thần phát huy nội lực và ngoại lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc…Chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” bắt
nguồn từ nhận thức về quá trình toàn cầu hóa với những tác động tích cực và tiêu cực của nó. Nhận
thức rõ xu thế ấy, Đảng ta luôn luôn coi hội nhập kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia mà trong đó VN muốn phát triển kinh tế tất yếu phải đi theo con đường ấy.
(Mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế chính là nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ tiếp cận,
ứng dụng KH công nghệ kỹ thuật hiện đại, tranh thủ các nguồn vốn, kiến thức quản lý để đầu tư
vào sự nghiệp CNH-HĐH làm chuyển biến tích cực. Chính thông qua hội nhập kinh tế quốc tế,

chúng ta có điều kiện học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển, giúp nước ta đi
tắt đón đầu trong quá trình phát triển, tiếp nhận ngay những thành tựu KHKT của các nước tiên
tiến. Việt Nam là một nước nghèo, lại bị hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại nên việc đi tắt đón
đầu có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp chúng ta vượt nhanh để theo kịp quá trình tốc độ phát triển
kinh tế thế giới.
Quán triệt chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng xác định rõ : hội nhập kinh tế quốc tế
là sự nghiệp của toàn dân, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức; do đó cần phải linh hoạt, khôn khéo, tỉnh táo
trong xử lý tính 2 mặt của hội nhập, không nên nóng vội. )
* ĐH lần thứ X, đường lối của công tác đối ngoại giai đoạn này là: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng
mở đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực”. Có thể thấy rõ rằng việc thay từ “muốn làm bạn” của Nghị quyết Đại hội VII thành từ “sẳn
sàng là bạn” của Nghị quyết Đại hội IX rồi đến “là bạn” của Nghị quyết Đại hội X đã thể hiện sự
nhận thức sâu sắc hơn của Đảng ta về bối cảnh và thực chất quan hệ quốc tế hiện nay cũng như xác
định rõ hơn thái độ của chúng ta trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta biểu thị thái độ trách
nhiệm cao trong quan hệ với các nước sẳn sàng là đối tác tin cậy của các nước, nghiêm chỉnh thực
hiện mọi luật lệ và cam kết chung khi thiết lập quan hệ đối tác, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta
yêu cầu các đối tác phải nghiêm chỉnh thực hiện các hiệp định, cam kết đã thỏa thuận với chúng ta.
Chỉ có như vậy mới quan hệ lâu dài.
Về mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” để tạo điều kiện
phát triển đất nước đi lên trên con đường CNH-HĐH. Thực hiện theo nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thỗ, không can thiệp vào nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng bằng thương lượng hòa bình.
Việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân còn cho phép công dân Việt Nam hợp pháp có quyền đối
ngoại nếu đảm bảo 3 điều kiện : một là đối tác mà ta quan hệ không có những hoạt động chống đối
nhà nước và nhân dân Việt Nam, hai là đối tác được Nhà nước sở tại cho phép và ba là phải
16

được,một cơ quan, một tổ chức chính thức trong nước bảo lãnh. Đây cũng là 3 điều kiện để kiều
dân Việt Nam trở về tổ quốc.
Về hội nhập kinh tế quốc tế: Đảng chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” bắt
nguồn từ nhận thức về quá trình toàn cầu hóa với những tác động tích cực và tiêu cực của nó. Đảng
ta coi hội nhập kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia trong đó Việt
Nam muốn phát triển kinh tế tất yếu phải đi theo con đường ấy. Có ý kiến cho rằng Việt Nam
không cần phải hội nhập hoặc từ từ hãy hội nhập kinh tế quốc tế, điều này có thể sẽ dẫn đất nước
đến cảnh “một mình một chợ”. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có điều kiện học tập
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển, giúp nước ta đi tắt đón đầu trong quá trình
phát triển. Cần đặc biệt quan tâm kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững an ninh, quốc phòng, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia nhằm củng cố chủ
quyền và an ninh tổ quốc, cảnh giác cao với những âm mưu diễn biến hòa bình.
Đường lối đối ngoại của ĐH X nhằm bảo vệ những lợi ích căn bản của nước ta trong quá trình
mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, đó là độc lập dân tộc, hòa bình và phát triển
bền vững theo XHCN, tranh thủ được điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ phát triển KT-XH và bảo
vệ tổ quốc. Không chỉ “chủ động” mà chúng ta còn phải “tích cực” hội nhập kinh tế quốc tế, hội
nhập kinh tế sâu hơn và đẩy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy
phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc nhất quán thực hiện chính sách đối ngoại đa
phương hóa, đa dạng hóa còn góp phần củng cố lòng tin cho các đối tác nước ngoài khi thiết lập
quan hệ và triển khai hợp tác với nước ta trên mọi lĩnh vực.
Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đã đề ra chín nhiệm vụ quan trọng cần được thực hiện trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, đó là: Tiến hành tuyên truyền rộng rãi nhằm nâng cao nhận thức và có
sự thống nhất hành động về hội nhập kinh tế quốc tế. Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập
kinh tế quốc tế với một lộ trình cụ thể. Chủ động và khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi
mới công nghệ và trình độ quản lý. Nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm, tạo ra những sản
phẩm mủi nhọn để hàng hóa và dịch vụ của ta chiếm lĩnh thị trường thế giới và khu vực, đáp ứng
nhu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hóa,
tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, đổi mới các công
cụ và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng. Có kế hoạch cụ thể đào tạo nguồn nhân lực và vững

vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và và CNXH, có đạo đức trong sáng, tinh
thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Phải gắn kết hội
nhập kinh tế quốc tế với củng cố an ninh quốc phòng ngay từ khâu hình thành kế hoạch, xây dựng
lộ trình cũng như trong quá trình thực hiện. Kết hợp chặt chẽ hoạt động chính trị đối ngoại với kinh
tế đối ngoại. Tận dụng thành viên của tổ chức thương mại thế giới trong việc gắn quá trình đàm
phán với quà trình đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở trong nước. Kiện toàn ủy ban quốc gia và
hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm quyền, giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các
hoạt động về hội nhập kinh tế quốc tế.
* ĐH XI vừa được tiến hành vào đầu năm 2011, đã xác định rõ tiếp tục thực hiện tốt chủ
trương: “Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì một nước VN XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là: giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Theo đường lối này, VN vẫn tiếp tục mở rộng
quan hệ đối ngoại, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế thể hiện qua việc: thực
hiện có trách nhiệm các công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là LHQ. Tích cực hợp tác cùng
các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi
truyền thống và nhất là tình trạng biến đổi khí hậu. ĐH XI của Đảng cũng chỉ rõ: trong đối ngoại
17
chúng ta không còn chỉ “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” mà “chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế”, như vậy chúng ta không chỉ chủ động và tích cực hội nhập trong lĩnh vực kinh
tế mà chủ động và tích cực tham gia ngày càng sâu, rộng vào đời sống mọi mặt của quan hệ quốc tế.
Thực tiến chứng tỏ, Hội nhập không giới hạn trong một lĩnh vực của đời sống quốc tế mà thể hiện ở
mọi mặt trên cả cấp độ khu vực và toàn cầu. Tham gia mọi mặt vào đời sống quan hệ quốc tế có
nghĩa là phải tham gia vào kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,… Ớ mức trừu tượng hơn, hội nhập
còn mang ý nghĩa là một nước trong mối quan hệ quốc tế của mình dám chịu chơi, chấp nhận cuộc

chơi, và chơi theo luật quốc tế và khu vực, nghĩa là khi tham gia vào chúng ta chấp nhận những
quy tắc ứng xử mới đối với hành vi quốc gia. Thực tiễn quá trình hội nhập quốc tế Việt Nam chứng
tỏ trên thực tế Việt Nam đã từng bước hội nhập toàn diện vào khu vực và thế giới, việc thông qua
Hiến chương và tham gia xây dựng cộng đồng ASEAN là ví dụ rõ nhất của hội nhập đầy đủ, đồng
thời ta cũng đã tham gia ngày càng đầy đủ và thực chất hơn vào cơ chế hoạch định chính sách của
Liên Hiệp quốc với đỉnh cao là đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, ngay từ đầu những năm 1990, tiến trình hội nhập văn hóa của Viêt
Nam được thúc đẩy mạnh mẽ, góp phần quan trọng vào việc tăng cường hiểu biết, khai thông quan
hệ với các đối tác, trong đó có nhiều đối tác hàng đầu như Mỹ, Tây Âu và một số nước Châu Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc,… Mặt khác, trong hội nhập văn hóa chúng ta đã đưa các di sản văn hóa Việt
như Vịnh Hạ Long, Quan họ Bắc Ninh, Nhã nhạc vào kho tàng văn hóa thế giới, được UNESCO
thừa nhận và bảo vệ, điều này cho thấy, Đảng ta đã có sự nhất trí cao về hội nhập quốc tế.
* Bài học kinh nghiệm của chiến lược đối ngoại rộng mở và hội nhập kinh tế quốc tế
Qua quá trình thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta
thời gian qua, có thể rút ra 6 bài học kinh nghiệm và cũng là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá
trình thực hiện việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế. Đó là: Phải đảm bảo
nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, an ninh quốc gia và giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc; Phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa
phương mà nước ta tham gia; Phải phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài; Phải tranh thủ các thời cơ thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế; Thực hiện nhất quán
phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế trong hội nhập. Luôn đề cao cảnh
giác, không mơ hồ trước âm mưu đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện diễn biến
hòa bình, phá hoại, lật đổ chế độ ta.
Tóm lại, Việc xác định đúng chính sách đối ngoại có ý nghĩa rất lớn đối với nước ta và phong
trào cách mạng thế giới;
Nhìn chung, sau 25 năm đổi mới, với đường lối đối ngoại đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tiễn
thế giới, khu vực và đất nước trong từng giai đoạn nhất định, hoạt động đối ngoại đã góp phần quan trọng
trong việc phá thế bao vây, cô lập và cấm vận của các thế lực thù địch; góp phần tạo dựng và giữ vững môi
trường quốc tế hòa bình, ổn định và bảo vệ tổ quốc; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng
cao. VN đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước trong tổng số 200 nước trên thế giới; có quan hệ

kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất
cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế chính trị lớn trên thế giới. Quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
láng giềng khu vực, các nước bạn bè truyền thống, các nước, các đối tác ở khắp năm châu ngày càng được
củng cố và phát triển. Nước ta tham gia 70 tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó có những tổ chức quan
trọng như Liên Hiệp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Cộng đồng Pháp ngữ, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và ngày
càng đóng vai trò tích cực và có trách nhiệm đối với các vấn đề quốc tế khu vực, đóng góp nhiều sáng kiến
tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế… Đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009 và Chủ tịch của ASEAN năm 2010. Hội nhập kinh tế quốc tế
và các lĩnh vực khác cũng đã tranh thủ nguồn lực bên ngoài rất quan trọng cho công cuộc xây dựng đất
nước, điển hình như: ngoại giao kinh tế được triển khai năng động và hiệu quả, góp phần tranh thủ các
nguồn lực cho đất nước trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục gặp khó khăn, năm 2010 chúng ta vẫn đạt
được các con số về kinh tế đối ngoại đầy ấn tượng như tốc độ tăng trưởng đạt 6,7%, kim ngạch xuất nhập
khẩu trong năm 2010 là 171,38 tỷ USD, cam kết viện trợ ODA cho Việt Nam năm 2011 đạt mức 7,88 tỷ
USD; Ngoại giao văn hóa năm 2010 đã tích cực quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam trong các sự kiện lớn
18
của đất nước…Những thành tựu từ đường lối đối ngoại đúng đắn, cũng đã góp phần củng cố được niềm tin
của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước đi lên CNXH do Đảng ta khởi xướng và tổ chức
thực hiện. Khẳng định bản chất cách mạng và khoa học, bản lĩnh chính trị vững vàng của ĐCSVN trong
lãnh đạo nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước. Các hoạt động đối ngoại của Đảng, của các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta đã góp phần làm cho
dư luận thế giới hiểu đúng về VN, đồng tình và ủng hộ công cuộc đổi mới, tăng cường hậu thuẫn chính trị
quốc tế cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đường lối chính trị của Đảng ta và
những thành tựu đổi mới của VN được bạn bè QT đánh giá cao. Nhiều ĐCS và công nhân trên TG
cho rằng, đổi mới của VN là sự phát triển sáng tạo và đóng góp về lý luận và thực tiễn xây dựng
CNXH. Bên cạnh đó, việc xác định và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại của đất nước ta thời
gian qua cũng đã cũng đã đóng góp đáng kể vào quá trình xây dựng luật lệ và các chuẩn mực quốc
tế thông qua việc chúng ta tham gia tích cực vào giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc
tế. Qua các hoạt động đối ngoại, VN đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các đảng
cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp phần tích

cực vào sự hồi phục của phong trào CS và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong trào Không liên kết
và tạo niềm tin cho nhân dân nhân VN và bạn bè quốc tế vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội.
Hoặc là:
Quan điểm mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc đã khẳng định
đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Điều đó đã được kiểm nghiệm qua
thực tiễn trong quá trình phát triển đất nước ta thời gian qua đã chứng minh rõ nét nhất. Kết quả đối
ngoại những năm qua củng cố những bước tiến vững chắc của Việt Nam trên con đường đưa
phương châm “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” ngày càng
trở nên hiện thực.
Hoạt động đối ngoại góp phần quan trọng cho việc duy trì và củng cố môi trường hòa bình và
ổn định cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phương cách của Việt Nam xử lý
các vấn đề mới nảy sinh xuất phát từ lợi ích và nguyên tắc đối ngoại của chúng ta, đồng thời phù
hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế đã trở thành một
trong những tiêu chí để đánh giá công tác đối ngoại. Những hoạt động này đã góp phần không nhỏ
để có những thành tựu trong những năm qua. Kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng, chúng ta tiếp
tục duy trì được tốc độ tăng trưởng, đời sống mọi mặt của người dân được ổn định và phát triển,
phá được thế bao vây, cấm vận, chính trị xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội luôn được nâng cao,
đảm bảo. Củng cố được niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội do Đảng ta khởi xướng và tổ chức thực hiện.
Chính nhờ thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, vị trí quốc tế của Việt Nam được nâng
cao, nhất là trong ASEAN. Thông qua diễn đàn ASEAN và các hiệp ước song phương và đa
phương, Việt Nam đã góp phần tạo thế cân bằng chiến lược chung và cơ hội thuận lợi hơn cho các
quốc gia Đông Nam Á trong quan hệ các nước EU, nhất là hợp tác Á – Âu. Đối với Việt Nam, việc
mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có một ý nghĩa quan trọng. Nó sẽ tạo ra
những thuận lợi để Việt Nam mở cửa phát triển giao lưu kinh tế, thương mại văn hóa song đồng
thời cũng làm nảy sinh những khó khăn mới, nhiều vấn đề phức tạp phải giải quyết như: cải cách
thể chế, chính trị, kinh tế, xã hội, đầu tư, luật pháp, thương mại, tài chính trong từng thành viên và
tổ chức quốc tế mà Việt Nam gia nhập. Đồng thời, với vị thế cao trên trường quốc tế, chúng ta
càng phải chủ động, tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực và phải có trách nhiệm

tham gia giải quyết những vấn đề có tính chất toàn cầu, đồng thời phải tiếp tục mở rộng quan hệ với
tất cả các nước, các khu vực và các vùng đất còn lại mà ta chưa quan hệ trên thế giới
Phát huy những thế mạnh và thành quả đã đạt được, khắc phục những điểm yếu còn tồn tại trong
đường lối đối ngoại, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, với sự hợp
tác chặt chẽ của các Bộ, ban Ngành và Tỉnh thành, với sự tham gia toàn Đảng, toàn dân và toàn
19
quân lại được soi sáng bằng Nghị quyết ĐH IX, trang bị bằng CN Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối đối ngoại của ta đúng đắn của ta sẽ hoàn thành tốt hai nhiệm vụ vừa bảo vệ toàn
vẹn độc lập tự chủ cả về chính trị lẫn kinh tế - văn hóa vừa xây dựng được một đất nước giàu mạnh,
văn minh, dân chủ và công bằng.
20

×