Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

tổng hợp câu hỏi đáp án triết học duy vật lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.16 KB, 36 trang )

1
Tổng hợp câu hỏi đáp án triết học duy vật lịch sử
Câu 1:
Bằng lý luận triết học mácxít và thực tiễn quá trình đổi mới ở nước ta, đồng
chí hãy phân tích luận điểm sau:
“Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Nxb.
CTQG, Hà Nội, 2006, tr. ).
(Học viên được sử dụng tài liệu của các Nhà xuất bản trong phòng thi)
Bài làm
Xã hội lồi người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và
những quy luật đó được thực hiện thơng qua hoạt động có ý thức của con
người. Do đó, nhận thức đúng đắn bản chất của ý thức xã hội và sự chuyển
hóa từ tư tưởng thành hiện thực trong đời sống xã hội có ý nghĩa rất quan trọng
để hiểu lịch sử xã hội lồi người. Trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng mối quan
hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong phương hướng đổi
mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi lên gắn liền
với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện
mơi trường xã hội”.
Trong Văn kiện Đảng thời kỳ đổ mới Đảng ta lại khảng đònh :“Kết hợp hài
hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng tồn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trước hết sinh hoạt vật chất của
xã hội phương thức sản xuất (bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất). Sinh hoạt vật chất của xã hội còn bao gồm những sinh hoạt vật chất khác
như : trao đổi, tiêu dùng hàng ngày, kế thừa tài sản Điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội bao gồm : điều kiện tự nhiên xung quanh, hồn cảnh địa lý, dân


số và mật độ dân số … Trong các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương
thức SX là nhân tố cơ bản vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của
ý thức xã hội và nó làm thay đổi ý nghĩa của hồn cảnh địa lý và điều kiện dân
số trong sự phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm tồn bộ
những quan điểm tư tưởng lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong
muốn, truyền thống … phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển
lịch sử xã hội nhất định.
2
Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã
hội thông thường và ý thức lý luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa học,
trí tuệ của ý thức thông thường). Nói cách khác, ý thức xã hội biểu hiện qua
tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy
định nên ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, nghĩa là mỗi giai cấp đều có
những quan điểm, tư tưởng và tâm lý riêng, không có ý thức chung cho mọi giai
cấp mà chỉ có ý thức chung cho một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng thống trị
trong mỗi thời đại là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế. Giai cấp
thống trị luôn tìm cách hạn chế ý thức của giai cấp bị trị và truyền bá ý thức của
giai cấp hình thành của xã hội.
Khi nghiên cứu về ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ý thức
xã hội trong quan hệ với cơ sở vật chất, với cơ sở kinh tế để nghiên cứu và từ
đó khẳng định ý thức xã hội và tồn tại xã hội có quan hệ biện chứng với nhau.
Trong mối quan hệ đó tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định đến nội dung,
khuynh hướng phát triển của ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của
tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh
ra, nội dung của nó là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội
tác động đến nhận thức của chủ thể thì hình thành những quan điểm, tư tưởng,
nhận định và thái độ của chủ thể. Sự phản ánh của ý thức xã hội bao giờ cũng

xuyên qua một mắt khâu là lợi ích, trong xã hội có giai cấp đó là lợi ích của giai
cấp. Do đó xem xét nội dung của ý thức xã hội phải gắn chặt chẽ với quan hệ
lợi ích. Mặt khác, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phải
bất cứ tư tưởng nào, một hình thức ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và
trực tiếp các quan hệ kinh tế của thời đại mà nó có thể là phản ánh trực tiếp
hoặc gián tiếp qua khâu trung gian, nhưng xét đến cùng bằng cách này hay
cách khác nó vẫn phản ánh các quan hệ kinh tế của thời đại. Tính quyết định
của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội còn thể hiện khi tồn tại xã hội - nhất là
phương thức sản xuất - biến đổi thì ý thức xã hội (những tư tưởng và lý luận xã
hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật …) sớm muộn sẽ biến đổi theo. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh
các thời đại khác nhau có những tư tưởng khác nhau đều bắt nguồn từ sự khác
nhau của cơ sở kinh tế và sự thay đổi, phát triển của ý thức xã hội trước hết là
xuất phát từ sự thay đổi và phát triển của phương thức sản xuất.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như là một yếu tố thụ động
trái lại còn nhấn mạnh tác động tích cực, sáng tạo của ý thức xã hội đối với đời
sống kinh tế xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, nghĩa
là tuy bị tồn tại xã hội quy định nhưng ý thức xã hội lại vừa có tính quy luật,
lôgíc phát triển riêng. Sự thống nhất giữa chức năng phản ánh và chức năng
sáng tạo tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội biểu hiện ở chổ ý thức
xã hội vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự phát triển của tồn tại xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội thường xảy ra khi ý thức xã hội không
phản ánh kịp thời sự vận động, phát triển của đời sống xã hội bởi vì ý thức xã
hội chí là cái phản ánh được sinh ra từ tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội thì gắn
3
trực tiếp với hoạt động thực tiễn nên thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu
của ý thức xã hội còn thể hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của xã
hội của xã hội cũ còn rơi rớt lại vẫn tồn tại dai dẳng sau khi tồn tại xã hội đã
thay đổi, bởi vì những tư tưởng, tâm lý một khi đã ăn sâu vào đời sống xã hội

và trở thành lối sống, nếp nghĩ phong tục, tập quán, thói quen thì nó có tính ổn
định tương đối và tồn tại lâu hơn, không dễ mất đi ngay. Mặt khác, các giai cấp
lỗi thời, phản động cũng tìm cách duy trì những tư tưởng cũa nhằm phục vụ lợi
ích của chúng, như lối sống ăn bám, chây lười lao động, tệ nạn tham nhũng …
Lê nin nói rằng: “Một người bệnh chết đi ta có thể đem chôn cùng với căn bệnh
nhưng một xã hội mất đi ta không thể đem chôn cùng những căn bệnh của nó
được mà những căn bệnh này rữa ra xâm nhập vào những con người đang
sống”
Những hiện tượng ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi dễ dàng cho nên
sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư
tưởng xây dựng ý thức xã hội mới (cách mạng tư tưởng) đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư
tưởng, kiên trì xóa bỏ những tàn dư ý thức cũ đồng thời ra sức phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội,
triết học Mác đồng thời cũng thừa nhận rằng trong những điều kiện vật chất
nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến
có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, phản ánh đúng quy luật vận
động và phát triển của tồn tại xã hội. Từ đó nó đưa ra các dự báo tương lai một
cách khoa học, giúp con người xác định được mục tiêu và lựa chọn những giải
pháp, định hướng cho việc tổ chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người
để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước
tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách quan của sự phát triển xã hội thì
không có nghĩa là trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã
hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội mà
phản ánh chính xác, sâu sắc mối quan hệ tất yếu, bản chất của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội của một thời đại bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất
của thời đại đó, đồng thời là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế
hệ trước đó tích lũy được. Quan hệ kế thừa nói lên sự phát triển liên tục về tư
duy giữa các thế hệ, tuy nhiên nó không phải là việc sử dụng kế thừa máy móc

mà trên cơ sở “lọc bỏ”. Kế thừa và lọc bỏ là biện chứng của sự phát triển của ý
thức xã hội, nội dung kế thừa hoặc lọc bỏ xuất phát từ quan hệ về lợi ích và
nhu cầu của giai cấp chi phối. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội
dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức thì không những phải vạch ra tính chất phản
khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện
hiện tại mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử và
phải kế thừa, phát huy những giá trị tinh thần tiến bộ của dân tộc và nhân loại.
Tuy nhiên, xét đến cùng thì tồn tại xã hội vẫn quyết định nội dung và khuynh
hướng của sự kế thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái ý thức xã hội đều phản
ánh tồn tại xã hội với những đặc trưng riêng và giữ chức năng xã hội khác
4
nhau, không thể thay thế cho nhau nhưng lại tồn tại trong sự liên hệ tác động
xâm nhập vào nhau, làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những
tính chất bị ảnh hưởng bởi hình thái khác. Trong sự ảnh hưởng, tác động lẫn
nhau đó thì tuỳ điều kiện cụ thể mà một hình thái nào đó có ảnh hưởng lớn hơn
nhưng ở xã hội hiện đại thì ý thức chính trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Do đó
trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới phải phát triển hài hòa và đồng bộ
tất cả các hình thái ý thức xã hội tránh mâu thuẩn đối lập nhau.
Ý thức xã hội là do tồn tại xã hội quyết định nhưng lại tác động trở lại tồn
tại xã hội. Sự tác động này vừa thể hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội vừa nói lên vai trò của ý thức xã hội. Sự tác động ý thức xã hội đối với tồn
tại xã hội diễn ra hai khuynh hướng khác nhau. Những tư tưởng khoa học và
tiến bộ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại những tư tưởng lạc hậu,
phản động thì cản trở sự phát triển của xã hội. Tính chất và hiệu quả tác động
trở lại của ý thức xã hội phụ thuộc vào các yếu tố : vai trò lịch sử của giai cấp
chủ thể của tư tưởng, trình độ phù hợp của ý thức đối với hiện thực và mức độ
truyền bá và xâm nhập của tư tưởng cả bề rộng lẫn bề sâu trong quần chúng
nhân dân. Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội không phải là

trực tiếp biến đổi tồn tại xã hội mà nó tác động thông qua hoạt động của con
người ở chỗ ý thức xã hội vạch ra nội dung vận động và phát triển của tồn tại
xã hội, từ đó xác định đúng đắn các mục tiêu và lựa chọn các biện pháp tối ưu
đồng thời hướng dẫn hoạt động cải tạo .
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã
hội và Ý thức xã hội, ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là khi xem xét, giải
quyết các hiện tượng thuộc ý thức xã hội trước hết phải xuất phát từ cơ sở vật
chất, cơ sở kinh tế đã sinh ra nó, đồng thời phải xem xét tính độc lập tương đối.
Từ đó khẳng định được vai trò động lực của những tư tưởng khoa học, tiến bộ.
Từ cơ sở lý luận trên, trong công cuộc cải cách đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Tăng trưởng
kinh tế đi lên gắn liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường xã hội”
Đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội này của Đảng xuất phát từ
nhận thức rõ vai trò quyết định của kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con
đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế
bằng con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để thực
hiện được nhiệm vụ này và bảo đảm sự phát triển toàn diện của xã hội thì đi
đôi với tăng trưởng kinh tế phải phát triển văn hóa và giáo dục nhằm phát huy
mọi nguồn lực tinh thần của người Việt Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ : phải kết
hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở
và tiền đề để thực hiện tốt chính sách xã hội, là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế. Như vậy, với vai trò là nguồn gốc sản sinh ra ý thức xã hội, nền kinh tế
phát triển mạnh tạo điều kiện và là tiền đề cho việc lành mạnh hóa các QHSX,
bảo vệ truyền thống tốt đẹp của từng gia đình và của cả dân tộc.
5
Đại hội IX của Đảng cũng đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước

ta là “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân”. Nó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư
của tư tưởng cũ vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng
trong Đảng và trong nhân dân hiện nay vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt
tích cực là cơ bản, đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là
nguyên tố quan trọng tạo nên thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích
cực năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh
vực xã hội, được phát huy tinh thần đoàn kết tương thân tương ái lòng yêu
nước ý thức tự hào tự tôn dân tộc truyền thống cách mạng và lịch sử bản sắc
dân tộc được tiếp tục giữ gìn và phát huy. Tuy nhiên, Hiện nay nhiều vấn đề xã
hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị trường vừa tạo ra những yếu tố tích
cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhưng mặt khác nó lại vừa tạo ra
những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội đặc biệt là
về tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó những hạn chế mơ hồ về tư tưởng,
nhận thức và tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống cũng khá phổ biến. Sự
suy thoái về nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ - Đảng viên chưa được ngăn chặn hình thức phai nhạt
lý tưởng cách mạng sa sút phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham nhũng lãng
phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ hội thực dụng có chiều hướng phát triển.
Những mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên quan sự mất còn của Đảng, của
chế độ.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập
chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao
tính chất đạo đức cách mạng và mục tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư
tưởng cần đạt được là xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Để
thực hiện hai nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay là : nhiệm vụ trọng tâm về tư
tưởng là làm cho chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ đạo

trong đời sống tinh thần của xã hội. Còn nhiệm vụ cấp bách về văn hóa là xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc : “Hướng mọi hoạt động
văn hóa vào việc xây dựng con người VN phát triển toàn diện về chính trị,
tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, lối sống có văn hóa,
quan hệ hài hòa trong giáo dục, cộng đồng và xã hội” và nêu cao tinh thần
trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có
lối sống văn hóa làm cho gia đình thật sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào
lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”; ngăn chặn việc phục hồi các thủ tục, khắc phục tình
trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong xã hội “(VK 9 trang 114-116).
Mặt khác, trong công cuộc tiến hành cách mạng tư tưởng văn hóa, xây dựng
con người mới và nền văn hóa mới, ta phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa
những thành quả văn minh, những di sản quý giá do loài người tạo ra bao thế
hệ những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại đồng thời cũng kiên quyết
6
chống chủ nghĩa hư vơ và khuynh hướng siêu giai cấp trong việc kế thừa di
sản để lại
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu
quả kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo
cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ
về mặt xã hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết
tốt hơn việc làm thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các
vấn đề xã hội. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế tự nó khơng thể giải quyết được
tất cả các vấn đề xã hội trong đó có sự phân hóa giàu nghèo là khơng tránh
khỏi. Do đó, trong đường lối phát triển kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà
nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến khích cơng dân làm giàu hợp pháp, được
hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào tạo, chăm lo y tế, được hưởng thụ xứng đáng
với cơng sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng bình qn, ỷ lại, đãi
ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm lo việc thực

hiện phân phối cơng bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi mới tốt
chính sách bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân,
bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp
nghĩa, xóa đói giảm nghèo, tạo phong trào đồn kết giúp đỡ trong nhân dân
theo truyền thống “lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau.
Đẩy mạnh hơn nữa chống tham nhũng, bất cơng xã hội nghiêm trọng hiện nay.
Cải cách chế độ tiền lương để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và
nâng cao mức sống, mức đóng góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết
định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta khơng thể sớm có ngay một xã
hội tốt đẹp trong khi kinh tế nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động
thấp, kinh tế kỹ thuật còn lạc hậu nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, Đảng đã xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với cơng
bằng xã hội và phát triển mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó
là điều kiện đảm bảo sự thành cơng và bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Câu 2:
Đồng chí hãy vận dụng lý luận triết học mác xít và thực
tiễn xây dựng chủ nghóa xã hội ở nước ta để phân tích luận
điểm sau:
“Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là
xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghóa xã
hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trò và tư tưởng, văn hóa
phù hợp…”
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, tr. 318)
(Học viên được sử dụng tài liệu của các Nhà xuất bản trong
phòng thi)

7
Bài làm:
Học thuyết Mác xít về hình thái kinh tế xã hội là nội dung cơ
bản của CNDVLS của triết học Mác – Lênin; nó chẳng những chỉ
rõ kết cấu của các xã hội cụ thể, mà còn vạch rõ những quy
luật nội tại, cơ bản chi phối sự vận động phát triển của đời sống
xã hội nói chung, cũng như xã hội trong những giai đoạn lòch sử cụ
thể. Như vậy học thuyết Mác xít về HTKT-XH là cơ sơ ûlý luận và
phương pháp luận của các khoa học xã hội, là hòn đá tảng cho
mọi nghiên cứu về xã hội, và do đó là 1 trong những nền tảng lý
luận của CNXH khoa học. Vậy, hình thái kinh tế xã hội là gì ?
Hình thái kinh tế –xã hội là một phạm trù của Chủ nghiã duy
vật lòch sử , dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lòch sử nhất
đònh với một kiểu Quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù
hợp với trình độ nhất đònh của lực lượng sản xuất (LLSX) và với
một kiến trúc thượng tầng (KTTT) tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất (QHSX) ấy.
Cấu trúc của Hình thái kinh tế – Xã hội bao gồm ba yếu tố cơ
bản là: lực lượng sản xuất, QHSX và KTTT. Ba yếu tố cơ bản này
có quan hệ biện chứng với nhau và trở thành tiêu chuẩn khách
quan để phân biệt các xã hội cụ thể. Đây là căn cứ khoa học để
xem xét bản chất cuả một chế độ xã hội và phân biệt nó với
một chế độ xã hội khác.
Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các Hình thái kinh
tế- xã hội trong lòch sử được qui đònh bởi mối quan hệ biện chứng
giữa chính các yếu tố cấu thành Hình thái kinh tế –xã hội, hình
thành nên những quy luật phổ biến của xã hội đó la:ø quy luật về
sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX; quy luật về
mối quan hệ biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và KTTT; những quy
luật tác động trong xã hội có đối kháng giai cấp, đặc biệt là quy

luật đấu tranh giai cấp.
Trước hết học thuyết hình thái kinh tế xã hội, chỉ rõ rằng :
sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát phát triển
của xã hội ;xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải có quá
trình sản xuất và tái sản xuất, cũng như vai trò của sản xuất vật
chất trong đời sống xã hội.
Để hiểu rõ hơn sự vận động và phát triển cuả hình thái kinh
tế – xã hội ta xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các quy luật
trên.
Trước hết là Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ
phát triển của LLSX. Đây là một trong những quy luật phổ biến
trong toàn bộ tiến trình lòch sử nhân loại. LLSX và QHSX là hai mặt
của phương thức SX. Chúng có mối quan hệ biện chứng và luôn
tác động qua lại lẫn nhau.
Mối quan hệ biệnchứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệsản xuất chính là việc tạo nên phương thức sản xuất.
8
(Trình bày các khái niệm: phương thức sản xuất; lực lượng
sản xuất; quan hệ sản xuất.)
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển
của LLSX thể hiện trước hết ở vai trò quyết đònh của LLSX đối với
QHSX. Trong một PTSX, LLSX là nội dung, QHSX là hình thức. Nội
dung quyết đònh hình thức. LLSX ở trình độ nào, tính chất nào thì nó
đòi hỏi tất yếu một kiểu QHSX phù hợp với nó ở trình độ đó.
Sản xuất vật chất là quá trình vận động không ngừng và bao giờ
cũng bắt đầu từ sự thay đổi của LLSX, trước hết là công cụ lao
động. Như vậy LLSX là yếu tố biến đổi trước năng động hơn, nhanh
hơn, liên tục. QHSX cũng biến đổi sau, có tính ổn đònh tương đối hơn
và do sự biến đổi của LLSX qui đònh. Anghen khẳng đònh rằng : “Xét
đến cùng thì mọi sự thay đổi từ chế độ chiếm hữu này sang chế

độ chiếm hữu khác, từ chế độ XH này sang chế độ XH khác đều
là kết quả tất yếu của việc tạo nên những LLSX mới.”
Mặt khác QHSX bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tng đối
với LLSX, quy đònh mục đích của sx, tác động đến khuynh hướng
phát triển của công nghệ, từ đó hình thành một hệ thống những
yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX. Sự
tác động ấy diễn ra theo hai khả năng. Trường hợp phù hợp là khi
QHSX hình thành và tồn tại góp phần làm cho các yếu tố của
bản thân LLSX kết hợp được với nhau một cách tốt hơn dẫn tới
giải phóng được sức sản xuất XH, những tiềm năng sức mạnh của
tư liệu sản xuất, lòng nhiệt tình hăng say sáng tạo của người lao
động kích thích, tăng trưởng KT, đời sống người lao động được cải
thiện, nảy sinh nhiều nhu cầu mới phong phú đa dạng hơn. Trường
hợp không phù hợp: biểu hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất là khi
QHSX đã lạc hậu rồi so với trình độ mới của LLSX lúc đó nó trở
thành xiềng xích của LLSX kìm hãm sự phát triển của LLSX trên tất
cả các mặt của nó , nhưng không có nghóa là làm cho LLSX đứng
yến tại chỗ mà chỉ làm giảm khả năng phát triển của LLSX mà
thôi. Thứ hai, khi QHSX vừa thiếu đồng bộ vừa có yếu tố “vượt
trước” so với thực trạng của LLSX do chủ thể áp đặt một cách chủ
quan.
Như vậy, trong quá trình vận động phát triển của sản xuất
vật chất của xã hội. LLSX luôn luôn đòi hỏi tất yếu QHSX phải
phù hợp với nó, khi QHSX không phù hợp, mâu thuẫn ngày càng
gay gắt thì, tính tất yếu kinh tế đòi hỏi phải đổi mới hoặc hoặc
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũû thay thế bằng một quan hệ sản
xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX đảm bảo cho
LLSX phát triển không ngừng.
CSHT là tổng hợp những QHSX tạo thành cơ cấu kinh tế của
một xã hội nhất đònh. KTTT là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ

những tư tưởng xã hội : Chính trò, pháp quyền, triết học, đạo đức,
tôn giáo cùng với những thiết chế xã hội tương ứng với chúng
như nhà nước, các đảng phái, các đoàn thể xã hội được hình
thành, được xây dựng trên nền tảng của một CSHT nhất đònh.
9
Trong mối quan hệ biện chứng giữa CSHT&KTTT thì CSHT với tư
cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sản sinh KTTT tương
ứng, quy đònh tính chất của KTTT. Tính chất của CSHT như thế nào
thì tính chất của KTTT như thế ấy. QHSX nào giữ vò trí thống trò sẽ
tạo ra KTTT tương ứng. Giai cấp nào thống trò xã hội về kinh tế
cũng chiếm đòa vò thống trò xã hội về chính trò. Tất cả những yếu
tố của KTTT đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào CSHT, do
CSHT quyết đònh. Nếu CSHT thay đổi thì KTTT sớm hay muộn cũng
sẽ diễn ra. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra từ xã hội này sang
xã hội khác mang tính cách mạng, mà còn diễn ra ngay trong một
xã hội. Sự thay đổi của CSHT dẫn đến sự thay đổi của KTTT là
quá trình diễn ra hết sức phức tạp. Có những yếu tố của KTTT cũ
còn tồn tại day dẵng sau khi CSHT sinh ra nó đã bò diệt vong; có
những yếu tố của KTTT cũ được giai cấp thống trò mới duy trì, kế
thừa,bổ sung để xây dựng KTTT mới. Sự biến đổi đó xét đến
cùng là do sự phát triển của LLSX quy đònh. Song sự phát triển của
LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của CSHT và tác động đến
sự biến đổi của KTTT thông qua CSHT sinh ra nó.
Chủ nghóa duy vật lòch sử chứng minh vai trò quyết đònh của
CSHT đối với KTTT, song cũng chỉ rõ KTTT cũng có tính độc lập
tương đối. Sự phụ thuộc của chúng vào CSHT thường không trực
tiếp và không giản đơn. KTTT không phải là sản phẩm thụ động
của CSHT mà chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ
đối với cơ cấu kinh tế của xã hội thông qua nhà nước, là thiết
chế quan trọng nhất của KTTT. Thể hiện ở chức năng cơ bản là

xây dựng, bảo vệ và phát triển CSHT hiện tồn tại, chống lại
những nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại. Sự tác động trở lại của
KTTT đến CSHT có thể diễn ra theo hai khuynh hướng, một là phù
hợp với yêu cầu của LLSX, thúc đẩy KTế phát triển ngược lại nó
sẽ kìm hảm sự phát triển của đời sống KT. Do đó trong xây dựng
chủ nghóa xã hội chúng ta tránh hai khuynh hướng sai lầm: Một là
tuyệt đối hoá vai trò cuả yếu tố kinh tế, coi nhẹ vai trò cuả yếu
tố chính trò, tư tưởng, pháp lý sai lầm này sẽ dễ dẫn đến lập
trường tư tưởng không vững vàng, và nguy cơ chệch hướng XHCN…;
hai là tuyrệt đối hoá vai trò cuả yếu tố chính trò, tư tưởng, pháp lý,
xem trường vai trò phát triển kinh tế, sai lầm này dẫn đến kìm hãm
sự phát triển cuả LLSX.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội cả cơ sở hạ tầng và KTTT đều
chưa thể có đầy đủ những đặc trưng cuả CNXH. Vì vậy cuộc đấu tranh giữa cái mới
và cái cũ diễn ra hết sức gay go và quyết liệt. Nhưng CNXH nhất đònh phải chiến
thắng, vì theo quy luật khách quan hình thái kinh tế – xã hội sau bao giờ cũng tiến
bộ hơn và sẽ thay thế hình thái kinh tế – xã hội trước đó.
Ngoài ra chúng ta thấy đấu tranh giai cấp được xem như là một động lực phát
triển cuả xã hội có giai cấp. Theo Lênin : “Đấu tranh GC là đấu tranh của một bộ
phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu trang của quần chúng bò tước
hết quyền, bò áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và
10
bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay người vô sản
chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Như vậy, đấu tranh giai cấp có vai trò rất quan trọng trong tiến
trình phát triển lòch sử nhân loại. Triết học macxít chỉ rõ đấu tranh
GC là một trong những động lực phát triển quan trọng của XH có
GC. Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật
đấu tranh của các mặt đối lập ta thấy rằng mâu thuẫn nói chung
chính là nguồn gốc của sự phát triển. Nói như vậy có nghóa là sự

phát triển đó nằm ngay trong Phương thức sản xuất . Với việc giải
quyết mâu thuẩn giữa LLSX & quan hệ sản xuất, mâu thuẩn này
về mặt xã hội chính là mâu thuẩn giai cấp. Đó là, giữa một bên
là giai cấp cách mạng tiến bộ, đại diện cho LLSX đang phát triển
với một bên là giai cấp thống trò phản động lạc hậu, đại diện cho
QHSX đang kìm hảm sự phát triển của LLSX đấu tranh với nhau. Với
ý nghóa đó thì đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy XH phát
triển – là phương thức giải quyết mâu thuẩn giữa LLSX và QHSX.
Tuy nhiên động lực đấu tranh giai cấp được phát huy như thế nào ở
mổi giai đoạn lòch sử phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, tính chất
rộng rãi cuả mổi cuộc đấu tranh giai cấp. Ngày nay cuộc đấu tranh
giai cấp công nhân chống gia cấp tư sản là cuộc đấu tranh giai cấp
cuối cùng trong lòch sử nhằm giải phóng toàn bộ xã hội khỏi áp
bức bốc lột, khỏi sự phấn chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tính
chất cách mạng triệt để ấy cũng nói lên đó là quá trình đấu
tranh lâu dài, phức tạp…nhưng là quy luật tất yếu cuả lòch sử và
Mác cho rằng cuộc đấu tranh này có ý nghóa là “ đòn bẩy vó đại
cuả lòch sử”.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đấu tranh giai cấp ngày
càng phức tạp phong phú diễn ra trên tất cả các lónh vực chính trò,
kinh tế, xã hội, văn hó tư tưởng. Do đó đấu tranh để xác lập trật
tự xã hội mới – XHCN là rất phức tạp. Kinh nghiệm cuả Liên xô
cũ và các nước XHCN ở đông âu trước đây và nhất là trong
điều kiện khủng hoảng cho thấy, giai cấp vô sản các nước cần
đề phòng sai sai lầm: một là chủ quan duy ý trí, coi nhẹ quy luật kinh
tế khách quan, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp trên cơ sở nhấn
mạnh một hình thức nào đó; hai cơ hội hữu khuynh, mơ hồ về đấu
tranh giai cấp, mất cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình cuả
các thế lực thù đòch với chủ nghóa xã hội.
Qua phân tích các quy luật trên ta thấy, khi LLSX phát triển

đòi hỏi QHSX phải thay đổi để phù hợp với trình độ mới cuả LLSX,
tức là mâu thuẩn giữa QHSX và LLSX được giải quyết. đồng thời
cùng với sự thay đổi cuả QHSX thì kiến trúc thượng tầng mới được
hình thành phù hợp với QHSX hiện có. Quá trình phát triển và thay
đổi liên tục cuả các yếu tố` sẽ hình thành những hình thái kinh tế
– xã hội khác nhau, hình thái sau có trình độ tiến bộ, cao hơn hình
thái kinh tế – xã hội trước.
Như vậy, sự vận động và phat triển của xã hội là do những
quy luật khách quan qui đònh, hay “sự phát triển của các hình thái
11
kinh tế – xã hội là một quá trình lòch sử-tự nhiên”. Nghóa là các
hình thái kinh tế - xã hội phát triển từ thấp đến cao theo một quá
trình lòch sữ – tự nhiên, mà suy cho cùng nguồn gốc cuả nó là do
sự phát triển cuả LLSX.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lòch
sử tự nhiên .
Thực tế cho chúng ta thấy, lòch sử xã hội loài người vận động
phát triển liên tục không ngừng từ thấp đến cao và sẽ trải qua 5
hình thái kinh tế – xã hội kế tiếp nhau. Đó là các hình thái kinh tế
– xã hội: Công sản nguyên thuỷ; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến;
Tư bản chủ nghóa; cộng sản chủ nghóa mà giai đoạn đầu là CNXH.
Qúa trình này không phụ thuộc vào ý thức yếu tố chủ quan cuả
bất cứ cá nhân hay lực lượng sản xuất nào, mà nó tuân theo các
quy luật kinh tế khách quan vốn có cuả đời sống xã hội, mà
trước hết và cơ bản là quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát
triển cuả LLSX. Tuy nhiên, trong những điều kiện đặc biệt khi có
điều kiện khách quan, chủ quan ở thời đại cho phép, thì một quốc
gia nào đó có thể diễn ra sự phát triển đặc thù. Tức là bỏ qua
một giai đoạn nào đó trong tiến trình lòch sử để bước vào một giai
đoạn cao hơn mà không nhất thiết phải từng tự qua năm hình thái

kinh tế – xã hội, nhưng vẫn đãm bảo từ thấp đến cao tuân theo
các quy luật đặc thù cuả xã hội.
Lòch sử nhân loại đã chứng minh, hàng loạt quốc gia trên thế do
những điều kiện thuận lợi nhất đònh, đã bỏ qua một vài hình thái
kinh tế – xã hội nào đó để vượt lên một hình thái kinh tế – xã hội
cao hơn. Mác gọi đây là khả năng ‘rút ngắn”, là quá trình lòch sử
đặc thù. Quy luật kế thừa của lòch sử loài người luôn cho phép
cộng đồng nào đó, trong những điều kiện nhất đònh, do tác động
của nhân tố bên trong và bên ngoài có thể bỏ qua giai đoạn phát
triển nhất đònh để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại. Lòch sử
đã chứng minh , sự giao lưu, hợp tác với các trung tâm phát triển cao
về sản xuất vật chất kỹ thuật, văn hoá, chính trò. . . cho phép một
số nước kém phát triển hơn ‘đi tắt” Tuy nhiên, nếu “rút ngắn” một
cách nóng vội, bất chấp quy luật khách quan sẽ rơi vào “bệnh”
chủ quan , duy ý chí.
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hôò là cơ sở lý luận để
chúng ta nghiên cứu mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Nhận
thức và vận dụng đúng nguyên tắc này giúp ta tăng cường hệ
thống chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, củng cố và hoàn thiện Nhà nước kiểu mới thích ứng với
sự ptriển đa dạng các thành phần kinh tế đònh hướng đi lên XHCN,
tạo điều kiện giải phóng sức lao động, đẩy nhanh sự phát triển
của LLSX, sản xuất kết hợp với tăng cường dân chủ nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mô hình mà chúng ta xây dựng kết
hợp đồng thời kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở hạ tầng mới, phù
hợp với đặc điểm riêng có và những điều kiện đặc thù của Việt
Nam. Hiện nay, nước ta đang quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh
quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc, cuộc cách mạng khoa học
12
công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, vấn đề quốc tế hóa, toàn cầu

hóa có ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc xây dựng, phát
triển kinh tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Tuy là một quốc
gia chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, song với những điều kiện lòch
sử trong nước và quốc tế hiện tại việc qúa độ lên CNXH bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN hoàn toàn có thế thực hiện được. Điều
đó, hoàn toàn phù hợp với quy luật lòch sử - tự nhiên của học
thuyết Mác về sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế –
xã hội.
Nếu quay ngược lại dòng thời gian chúng ta sẽ nhìn thấy sự sụp
đổ của hệ thống các nước XHCN ở Đông u và Liên Xô trước
đây, chủ yếu là do trong công cuộc cải tạo và xây dựng đất nước
đã mắc phải một số sai lầm về chủ quan, không vận dụng đúng
các quy luật khách quan về hình thái kinh tế – xã hội cụ thể là :
tuyệt đối hoá trong nhận thức, vận dụng và điều chỉnh cơ chế
không phù hợp với sự vận động và biến đổi của thế giới. Trong
lónh vực kinh tế, duy trì quá lâu tình trạng sản xuất nhỏ, xây dựng
QHSX mới không phù hợp với trình độ của LLSX dẫn đến kìm hảm
sự phát triển kinh tế, gây khủng hoảng kinh tế dẫn đến hệ thống
XHCN trên thế giới phải lâm vào tình trạng thoái trào. Đó là cái
giá đắt mà những người cộng sản đã phải trả, và cũng là bài
học xương máu mà Đảng cộng sản Việt Nam đã rút ra để tiến
hành hoạch đònh và thực hiện đường lối đổi mới từ đại hội lần
Đảng thứ VI đến nay.
Con đường đi lên chủ nghóa xã hội cuả nước ta đã trải qua
nhiều giai đoạn thăng trầm, đầy khó khăn thậm chí đã rơi vào giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng về kinh tế do việc vận dụng chưa
đúng các quy luật khách quan, nhất là về phạm trù hình thái kinh
tế – xã hội.
Thật vậy, trước thời kỳ đổi mới quan điểm con đường đi lên
CNXH cuả nước ta là quá độ thẳng trực tiếp từ sản xuất nhỏ lên

CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Tức là không có trung gian,
không chấp nhận kinh tế hàng hoá, phủ nhận kinh tế thò trường,
bỏ qua kinh tế nhiều thành phần, phủ nhận những bước đi mà
CNTB khi chiến thắng chế độ phong kiến đã từng thực hiện, trong khi
đó LLSX chúng ta còn yếu kém, lạc hậu… Kết quả trong thời gian
dài đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm
trọng. Bài học kinh nghiệm xương máu ấy đã được Đảng ta đánh
giá trong đại hội VII một trong những sai lầm là bệnh chủ quan duy
ý chí, vi phạm quy luật khách quan và đã phân tích những biểu hiện
cụ thể cuả căn bệnh trong một số lónh vực : Nóng vội trong cải tạo
XHCN, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần ; có lúc đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp năng; duy trì quá lâu cơ
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai
trong việc cải cách giá cả tiền lương; công tác tư tưởng và tổ
chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Nguyên nhân cơ bản mà Đảng ta đã chỉ ra đó là về mặt
nhận thức, sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận dẫn đến việc
13
nhận thức và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ
quá độ, từ đó cho ra đời những chủ trương chính sách thiếu căn
cứ khoa học, xa rời với thực tế. Sai lầm về chủ quan duy ý chí.
Những sai phạm nêu trên đã đưa XH Việt Nam rơi vào khủng
hoảng. Thực tế, người lao động không còn động lực trực tiếp về lợi
ích để phấn đấu, không phát huy, tạo môi trường thuận lợi để khai
thác hết tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế nên
sức sản xuất vật chất bò đình trệ, kìm hảm làm cho đời sống nhân
dân cực kỳ khó khăn, xã hội rối ren, phức tạp, người dân mất
niềm tin nơi nhà nước. Nhìn nhận vấn đề trên, có thể kết luận
chủ yếu do khả năng yếu kém trong nhận thức thực tiển, yếu kém
trong nghiên cứu CN Mác – Lênin nên mô hình XD CNXH đã bò

chệch hướng so với mô hình được Lênin và Chủ tòch Hồ Chí Minh
xây dựng.
Từ đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đảng ta thực hiện đường
lới đổi mới đất nước, con đường đi lên chủ nghóa xã hội cũng
được đổi mới và xác đònh ngày càng rõ nét và đúng đắn phù
với quá trình lòch sử-tự nhiên đặc thù cuả nước ta. Đại hội VIII cuả
Đảng ta chỉ ra rằng “ Con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng
xác đònh rõ hơn” đến đại hội đảng lần thứ IX cuả Đảng thì cho
rằng “ Chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên
CNXH ở nước ta”, và khẳng đònh “ con đường đi lên cuả nước ta là
sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghóa,
tức là bỏ qua việc xác lập vò trí thống trò cuả quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghiã…”. Như vậy, chúng ta
không bỏ qua những thành tựu về khoa học công nghệ và cơ sở
vật chất, tiếp tục chọn lọc kế thừa và điều chỉnh để phát triển
thành quả đó ngày càng tốt hơn; không được bỏ qua kinh tế hàng
hoá thò trường, không được bỏ qua những thành tựu kinh nghiệm
mà chủ nghóa tư bản đạt được; đặc biệt không để mất vai trò lãnh
đạo cuả đảng cộng sản và vai trò quản lý điều hành cuả nhà
nước vô sản. đại hội IX cuả Đảng còn nêu rõ những nội dung,
nhiệm vụ cụ thể mà con đường đi lên CNXH ở nước ta phải thực
hiện đó là :Phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặn đường, tiếp tục đẩy mạnh CNH-HĐH; Phát triển nền kinh tế thò
trường đònh hướng XHCN; Tiếp tục thực hiện đường lối kinh tế đối
ngoại mở cửa. Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện thắng lợi
nội dung, nhiệm vụ đấu tranh giai cấp trong điều kiện kinh tế thò
trường đònh hướng XHCN; đảm bảo tuyệt đối sự lãnh đạo cuả
đảng cộng sản, xem đó là nhân tố quyết đònh giữ vững đònh
hướng XHCN; phát triển lực lượng sản xuất, phải gắn với việc

đồng thời xây dựng và hoàn thiện cả quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng theo đònh hướng XHCN; Tăng trưởng kinh tế phải
gắn kiền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển
văn hoá giáo dục, đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc; Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với
14
quốc phòng an ninh và phải đảm bảo cho được kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng
kinh tế quốc dân…
Có như vậy chúng ta mới có thể tạo ra sự biến đổi về chất
của XH, trên tất cả các lónh vực dù biết rằng đó là một sự
nghiệp rất khó khăn phức tạp trải qua một thời kỳ quá độ lâu
dài với nhiều chặn đường để thực hiện bằng được mục tiêu cuối
cùng là ước nguyện của cả dân tộc : xây dựng thành công CNXH
theo mô hình đã được xác đònh trong Cương lónh Đảng lần thứ VII. Đó
là một xã hội “Do nhân dân dân lao động làm chủ; Có một nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các TLSX chủ yếu; Có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp
bức bốc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghò và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới”. Cương lónh ấy đại hội IX
Đảng xác đònh mục tiêu chung cụ thể trước mắt cần đạt tới cuả
thời kỳ quá độ là “ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…một
nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc” và chỉ rõ “ Đến năm
2020 cơ bản đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại”.
Qua tổng kết thực tiển phong phú với không ít những thành
công rực rỡ và những mặt còn hạn chế trong những năm qua. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã đề ra chủ trương
:”XD CNXH bỏ qua chế độ TBN tạo ra sự biến đổi về chất của XH,
trên tất cả các lónh vực là sự nghiệp rất khó khăn phức tạp, cho
nên phải trãi qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế XH có tính chất quá
độ”(VKIX-T85) là hoàn toàn đúng với quy luật khách quan và theo
đường lối đó chúng ta hoàn toàn có khả năng để thực hiện
thành công CNXH bơỉ vì:
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ lên chủ nghóa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới và theo quy luật tiến hoá cuả lòch
sử : loài người nhất đònh sẽ tiến tới chủ nghóa xã hội.
Thế kỷ 21 là thế kỷ khoa học và công nghệ có bước phát
triển nhảy vọt, kinh tế trí thức ngày càng có vai trò nổi bật trong
sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển cuả lực lượng sản xuất cuả
các quốc gia; toàn cầu hoá kinh tế đang là một xu thế khách quan
lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, trong đó có nước ta;
cơ sở vật chất kỹ thuật nước ta ngày càng được tăng cường, kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh, tích luỹ nội bộ kinh
tế tăng trưởng qua từng năm và cơ cấu kinh tế nước ta có bước
chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại, vấn đề lương thực cơ bản
đã được giải quyết và đã có xuất khẩu cao, nhiều năm liền
15
chúng ta là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; đất nước còn
nhiều tiềm năng to lớn về tài nguyên và lao động.
Tình hình chính trò- xã hội ổn đònh, quốc phòng an ninh được
tăng cường; đặc biệt giữ vững được sự lãnh đạo cuả Đảng, đảng
luôn thể hiện chính trò vững vàng và có đường lối lãnh đạo đúng

đắn; Nhà nước đã có nhiều cố gắng lớn trong việc điều hành
quản lý; quan hệ đối ngoại luôn được mỡ rộng hội nhập kinh tế
quốc tế được chủ động và đạt hiệu quả tốt. Nhờ vậy chúng ta
tranh thủ được ngoại lực, nguồn vốn công nghệ, kinh nghiệm quản
lý , mỡ rộng thò trường để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá.
Mặt khác nhân dân ta có phẩm chất tốt. Toàn dân, toàn
quân ta tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo cuả Đảng; phát huy
được lòng yêu nước và tinh thần dũng cãm, đoàn kết nhất trí, cần
cù năng động sáng tạo, tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xa õhội chủ nghiã.
Với kết quả đạt được qua gần 20 năm đổi mới và những
tiền đề khách quan chủ quan như trên, dưới sự lãnh đạo tài tình
cuả Đảng cộng sản Việt Nam, con đường đi lên chủ nghiã xã hội
ở nước ta nhất đònh sẽ thành công như mong đợi./.
16
DÀN BÀI (Nội dung cần trình bày)
Mở bài.
Thân bài:
I –Trình bày đònh nghóa (khái niệm) hình thái kinh tế- xã
hội,kết cấu của hình thái xã hộ i( QHSX, LLSX, KTTT)
II–Trình bày tóm tắt, nội dung của :sản xuất vật chất là cơ
sở của sự tồn tại va øphát triển của xã hội, vai trò nền tảng của
sản xuất vật chất trong đời sống xã hội.
III – Trình bày biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất.
1- Khái niệm: -Phương thức sản xuất
- Lực lượng sản xuất:
+ Con người.
+ Tư liệu sản xuất.

_Quan hệ sản xuất.
2- Nội dung quy luật:Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triền của lực lượng sản xuất.
A –Vai trò quyết đònh của lực lượng sản xuất đối với
quan hệ sản xuất.
B -Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực
lượng sản xuất.
-Lưu ý: Trình bày tóm tắt nội dung quy luật, không cần
trình bày chi tiết.
3 –Sự vận dụng của Đảng ta về quy luật: QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
A -Giai đoạn trước Đại hội VI.
- Về LLSX .
- Về QHSX.
B –Giai đoạn từ Đại hội VI đến nay.
C – Phân tích đoạn trích trong Văn kiện :” Xây dựng CNXH bỏ qua chế
độ ……xã hội có tính chất quá độ”.
IV - Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
1 – Khái niệm:
2- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc hạ tầng.
17
- Lưu ý: Trình bày tóm tắt mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nếu có thể đưa
thêm nội dung đấu tranh giai cấp vào.
V- Sự phát triển cũa các hình thái kinh – xã hội là quá trình
lòch sử tự nhiên.
VI – Vấn đề bỏ qua chế độTBCN lên CNXH ở nước ta hiện
nay.
-Điều kiện khách quan .

- Điều kiện chủ quan
- Kết luận:
Câu 5:
Đồng chí hãy vận dụng lý luận triết học mácxít về con
người để phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vai trò của nhân tố con người và phát huy nguồn nhân lực
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.

Bài làm
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển KT của đất nùc ta
hiện nay, con người đóng một vai trò quan trọng đó là cơ sở quyết
đònh sự thành bại của công cuộc XD CNXH trên đất nùc ta. Để
khẳng đònh tầm quan trọng đó trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ
VII ghi rõ: “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vò trí trung
tâm thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ
XH”.
Trong lòch sử tư tưởng nhân loại đã tồn tại rất nhiều quan
điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của
con người. Trước Mác vấn đề bản chất con người vẫn chưa được
giải đáp vấn đề một cách khoa học. Không những chủ nghóa duy
tâm mà cả chủ nghóa duy vật trực quan, siêu hình cũng không
nhận thức đúng bản chất con người. Đã từng có những ý kiến
cho rằng triết học Mác-Lênin nói riêng xem vấn đề con người là
trung tâm của mọi KHXH và nhân văn. CN Mác_Lênin ra đời xuất
phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng cho
sự nghiệp giải phóng chomỗi con người và cho cả loài người.
Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự
sáng tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức trừu tượng
(chủ nghóa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác ngộ sinh vật thuần tuý
tự nhiên không phân biệt được con người với tính tầm thường của

động vật (chủ nghóa duy tâm siêu hình). Ngược lại, triết học Mác coi
“trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoá các
QHSX” và bản chất đó cũng biến đổi cùng với sự phát triển của
XH. Triết học Mác xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động
của con người thực tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính
XH với tất cả nội dung VH-LS của nó. Vạch ra bản chất con người
18
từ QHSX nhưng triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt XH trong con
người mà cho rằng con người là thực thể thống nhất của mặt sinh
vật và mặt XH.
Mặt sinh vật là toàn bộ các quá trình sinh vật diễn ra trong
con người và cấu tạo chung của cơ thể con người. Còn mặt XH là
các phẩm chất XH trong hoạt động lao động, ngôn ngữ, giao tiếp, tư
duy… Mặt sinh vật và mặt XH của con người thống nhất biện
chứng với nhau trong sự vận động của bản chất con người. Mặt sinh
vật là tiền đề, điều kiện của mặt XH. Thiếu mặt tự nhiên (sinh
vật) thì mặt XH không thể tồn tại và biểu hiện ra được. Song mặt
tự nhiên trong con người bò biến đổi, chi phối bởi mặt XH nên mang
tính XH.
Với quan điểm KH coi con người là một thực thể sinh vật – xã
hội, triết học mác đã khắc phục được cả hai khuynh hướng sai lầm
trong vấn đề con người : hoặc là đề cao mặt tự nhiên không thấy
vai trò quyết đònh của mặt XH hoặc là giản đơn con người , tuyệt
đối hoá nguồn gốc duy tâm XH, không thấy được tiền đề tự nhiên
– mặt sinh vật của con người.
Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và XH là vấn
đề có vò trí quan trọng đặc biệt trong học thuyết Mác. Các tác
phẩm của các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đề cập đến vấn đề
này một cách toàn diện, sâu sắc có hệ thống trên cơ sở chủ
nghóa duy vật lòch sử. Mối quan hệ giữa cá nhân và XH là mối

quan hệ biện chứng, mang tính tất yếu khách quan, vừa là tiền đề
vừa là điều kiện cho sự tồn tại và pt1 của XH và cá nhân. cơ sở
của mối quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn
tại trong ccác mối quan hệ XH ngược lại sự phát triển của XH được
đánh dấu bằng sự trưởng thành của mỗi cá nhân đó thực hiện.
Môi trường XH có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển
hoặc có thể làm thui chột sự phát triển của con người. Hoàn cảnh
XH, quan hệ XH tạo nên bản chất con người. Tuy nhiên điều đó
không phải là con người thụ động trước sự tác độngcủa hoàn
cảnh và tiếp nhận nó một cách có ý thức. Do đó con người có
thể làm chủ trước hoàn cảnh và có khả năng tác động lại hoàn
cảnh, cải tiến nó phù hợp hơn với nhu cầu của con người. Vì thế
cá nhân có vai trò thúc đẩy XH phát triển. Vai trò của cá nhân
ảnh hưởng tới XH tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nhân
cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, phẩm chất tốt, tài năng
cao và con người trách nhiệm cao với XH thì có tác dụng tích cực
đến XH. Ngược lại, những cá nhân bò suy thoái về nhân cách thì
gây hậu quả xấu đến XH, trở thành gánh nặng cho XH.
Như vậy, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của XH.
Sự phát triển của cá nhân góp phần thúc đẩy tiến độ XH phát
triển. Xã hội càng ptriển thì mỗi cá nhân lại tiếp nhận được ngày
càng nhiều những giá trò vật chất, tinh thần do XH ấy đáp ứng.
Thoả mãn nhu cầu chính đáng của cá nhân là động lực liên kết
19
mọi thành viên XH và là mục đích của sự liên kết đó. Do đó, cơ
sở của mối quan hệ giữa cá nhân và XH chỉ có thể phát triển
tốt đẹp khi quan hệ lợi ích được giải quyết một cách hài hoà. Tùy
theo trình độ phát triển của nền SX XH và tính chất của chế độ XH
cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích mà
mối quan hệ lợi ích giữa cá nhận và XH được giải quyết một cách

khác nhau. Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghóa vụ đối với
mọi công dân, phát huy nhân tố con người, lấy việc phục vụ lợi ích
con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động và là một
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công
cuộc xây dựng và đổi mới XH ta hiện nay.
Vận dụng chủ nghóa Mác-Lênin và tư tưởng HCM về vấn đề
con người, Đảng ta khẳng đònh : “Sự nghiệp phát triển KT đặt con
người vào vò trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng KT với công
bằng và tiến bộ XH”. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự nghiệp CNH, HĐH, của sự nghiệp XD CNXH. Vì nó xuất phát
từ mục tiêu chung của chủ nghóa Mác là giải phóng con người .
Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của
cải vật chất và CH của các quốc gia. Con người phát triển về trí
tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng
về đạo đức là động lực của sự nghiệp XD XH mới đồng thời là
mục tiêu của CNXH.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đi vào CNH, HĐH
chúng ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con người như
mong muốn. Nhiều năm qua tốc độc nâng cao dân trí ở nước ta
quá chậm. Cùng với mặt bằng dân trí còn thấp số người được
đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như số người có học vấn
đại học, sau đại học đều đang còn ít. Đến nay, còn nhiều người lao
động chưa được đào tạo nghề nghiệp.
Đó là những khó khăn hết sức to lớn cho việc tiếp thu KH
và công nghệ mới nhằm đạt tới những mục tiêu của CNH, HĐH. sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước đang đòi hỏi rất cao về bản lónh chính
trò, tính năng động và tầm cao trí tuệ của toàn dân. Cuộc chiến “ai
thắng ai” trong đua tranh trên thò trường thế giới và khu vực hiện nay
chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng của nguồn lực con người.
Nguồn lực ấy chính là động lực của sự nghiệp XD XH mới : dân

giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, cùng
với việc tạo ra nguồn lực vật chất, tài chính và phát huy các
nguồn lực đó điều quan trọng nhất hiện nay là chăm lo phát triển
nguồn lực con người VN, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới,
khả năng mới phù hợp yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Chúng ta nhận thức rõ mục tiêu và động lực chính của sự
phát triển là vì con người, do con người trước hết là người lao động.
Cương lónh của Đảng ta chỉ rõ : chính sách XH đúng đắn vì hạnh
20
phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo
của nhân dân trong sự nghiệp XD CNXH.
Hiện nay, có hàng loạt vấn đề đặt ra trước mắt chúng ta
hoặc do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của nền KT
kém phát triển hoặc mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang cơ
cấu thò trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Không thể cùng một
lúc giải quyết mọi vấn đề trong lúc năng suất lao động XH còn
thấp, nguồn thu ngân sách còn hạn hẹp lại phải tích lũy cho CNH,
HĐH đất nước. Vì vậy, Đảng ta chủ trương: cần phải lấy việc phát
triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững, phải khơi dậy trong ND lòng yêu nước, ý chí
quật cường, phát huy tài trí của con người VN, quyết tâm đưa nước
nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu…
Giải phóng con người là mục tiêu tự thân của CNXH là đặc
trưng cơ bản của XH CNXH. Giá trò của XH XHCN là phát triển con
người. Toàn bộ các hệ thống quan hệ XH phải phục vụ cho sự
phát triển con người. CNXH có mục đích là tạo ra những điều kiện
KT-XH, chính trò cho phép con người ở vào vò trí trung tâm của đời
sống CH. Phát triển KT theo con đường XD CNXH ở nước ta hiện nay
là quá trình giải phóng sức SX, khơi dậy mọi tiềm năng, động viên

và tạo điều kiện cho mọi người VN phát huy ý chí tự lực tự cường,
cần kiệm XD và bảo vệ tổ quốc. Mục đích của cơ chế thò trường
đònh hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển KT để XD Cơ sở
vật chất kỷ thuật của CNXH nâng cao đời sống ND và tăng trưởng
KT gắn liền với tiến bộ XH.
Xuất phát từ lý luận triết học Mác – Lênin về giá trò lớn lao
và ý nghóa quyết đònh của nhân tố con người và thực tiễn phát
triển KT nước ta, Đảng ta đã khẳng đònh: “Sự nghiệp phát triển KT
đặt con người vào vò trí trung tâm”.
Muốn phát huy nguồn lực con người phải có hệ thống chính
sách XH đúng đắn, “thống nhất giữa tăng trưởng KT với công
bằng và tiến bộ XH”. Do đó phải kết hợp chính sách KT với chính
sách XH trong từng bước phát triển đất nước. Phát triển KT là điều
kiện vật chất , là cơ sở ban đầu cho việc XD và thực hiện các
chính sách XH . Những chính sách XH đúng đắn tạo ra sự ổn đònh và
tạo ra động lực cho sự phát triển KT vững chắc .Tăng trưởng KT gắn
liền với công bằng và tiến bộ XH trong từng bước và trong suốt
quá trình phát triển .Công bằng XH phải thể hiện ở khâu phân
phối TLSX và khâu phân phối kết quả SX. Ở việc tạo điều kiện
cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực
của mình . Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói
giảm nghèo .Thu hẹp dần khoản cách về trình độ phát triển , về
mức sống giữa các vùng , giữa các DT, các tầng lớp dân cư
.Từng bước hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách bảo đảm
XH và hoà nhập XH
Bảo đảm XH là chăm lo , giúp đỡ để bảo đảm cuộc sống
của mọi cá nhân và cộng đồng XH trong điều kiện KT thò trường ,
21
Nhà nước cần quan tâm đến các đối tượng chính sách và gia đình
có công với nước .Hoà nhập XH là giúp giảm nhẹ khó khăn của

các gia đình và cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn , giúp đỡ
những người tàn tật , trẻ em mồ côi , nạn nhân chiến tranh , để
những người này có cuộc sống vật chất và tinh thần phù hợp với
điều kiện của cộng đồng .
Theo trình độ phát triển KT, Nhà nước tăng dần nguồn đầu tư
cho các vấn đề XH đồng thời khai thác mọi tiềm năng của ND, của
đòa phương, của các hội, các đoàn thể, tranh thủ các nguồn viện
trợ từ trong và ngòai và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ấy
để chăm lo cho con người và XH
Chăm lo cho con người và cộng đồng XH là trách nhiệm của
Nhà nứơc, của toàn XH, của mỗi đơn vò, của từng gia đình, là sự
nghiệp của toàn dân .Đảng ta chủ trương giải quyết các vấn đề
XH , thực hiện công bằng XH và công bằng XH theo tinh thần XH
hoá trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt.
Văn kiện đại hội đảng lần thứ XI tiếp tục khẳng đònh: “Mở
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là
chủ thể, nguồn lục chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”.
(VKĐH XI trang 100)
Tóm lại , khẳng đònh : ‘’ Sự nghiệp phát triển KT đặt con người
vào vò trí trung tâm , thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng
và tiến bộ XH’’. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự nghiệp CNH, hiện đại hoá, của sự nghiệp xây dựng CNXH đã
thể hiện sự nhận thức và quán triệt quan điểm Mác- Xít về con
người của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển KT của nước
ta. Thực tiễn cho thấy một trong các yếu tố để phát triển nhanh và
bền vững của đất nước, của nền KT thì nguồn lực con người là
yếu tố cơ bản nhất . Bởi lẽ nguồn nhân lực của Việt Nam với đức
tính cần cù sáng tạo khi đã có trình độ văn hoá, kỹ thuật nghiệp
vụ cao có tay nghề vững sẽ làyếu tố quyết đònh để tạo ra những
phương pháp công nghệp và công nghệ hiện đại. Nguồn nhân lực

này lại sử dụng các phương pháp , các phương tiện công nghệ tiên
tiến, hiện đại để đạt được năng suất lao động XH cao, hàng hoá
nhiều và tốt. Như vậy, nguồn lực này vừa là người sáng tạo ra,
vừa là người sử dụng các phương tiện, phương pháp công nghệ để
đạt được lợi ích KT cao nhất cho XH, cho tập thể và cho bản thân.
Do đó, cùng với việc tạo ra những nguồn lực vật chất, tài
chính thì điều quan trong nhất hiện nay là phải phát huy nguồn lực con
người Việt Nam đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Để làm được điều đó thì giáo dục và
đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự là quốc
sách hàng đầu nhằm đào tạo ra nguồn lao động mới phát triển
toàn diện : Cường tráng về thể chất, phát triển cao về trí tuệ,
trong sáng về đạo đức, phong phú về đời sống tinh thần.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải thực hiện nhiều hình thức
phân phối trong đó lấy hình thức phân phối dựa trên kết quả lao
động và hiệu quả KT là chủ yếu …tiến hành công tác xoá đói
22
giảm nghèo, thu hẹp dần về trình độ, mức sống giữa các vùng
dân cư, giải quyết tốt vấn đề việc làm , hạn chế tình trạng thất
nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn . Chăm lo sức khỏe, nâng
cao thể chất cho nhân dân…Để nhằm thực hiện mục tiêu phát
triển KT phải : “ thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và
tiến bộ XH ” và chỉ có như vậy mới tạo ra điều kiện để thúc đẩy
nền KT VN phát triển nhanh và đạt hiệu quả KT-XH cao.
23
Câu 7: Vai trò của quần chúng nhân dân, liên hệ bài học lấy dân làm gốc, phát huy
đại đoàn kết dân tộc nước ta.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những
quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người, trong đó hoạt
động của quần chúng nhân dân có vai trò quyết định rất lớn đến sự phát triển của lịch sử

xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lên nin về vai
trò của quần chúng nhân dân vào công cuộc đổi mới trong xây dựng đất nước, Đảng ta
luôn thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” và khẳng định “Đổi mới phải dựa vào
nhân dân phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là một khối người
đông đảo trong xã hội-bao hàm những lực lượng, tầng lớp nhân dân trong xã hội-mà qua
hoạt động của họ, lịch sử sẽ biến đổi tuỳ từng điều kiện lịch sử, sự kiện lịch sử. Quần
chúng nhân dân là tất cả nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong xã hội mà
qua hoạt động của họ, lịch sử sẽ phát triển. Trong xã hội có giai cấp, quần chúng nhân
dân không bao gồm giai cấp áp bức bóc lột và các thế lực thi hành chính sách chống
nhân dân.
Triết học Mác khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
của lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử.
Vai trò được thể hiện trước nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ
bản của xã hội. Nếu sản xuất vật chất là nền tảng quyết định sự phát triển của xã hội thì
quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội bởi vì họ là những người
trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Mặt khác quần chúng nhân dân là người cải tiến, chế tạo ra công cụ lao động, đồng thời
trong quá trình sản xuất, họ không ngừng tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng lao động, làm
cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Hơn nữa lực lượng sản xuất của quần
chúng nhân dân là động lực cho sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Nhu cầu sản xuất
của quần chúng đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật và hình thành các môn
khoa học mới. Như vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật
chất của xã hội.
Bên cạnh đó, quần chúng nhân dân còn là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách
mạng xã hội. Xã hội vận động và phát triển theo quy luật nội tại của nó mà trước hết là
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Mâu thuẩn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong đấu tranh có giai cấp
được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẩn đối kháng giữa các giai cấp. Đấu tranh giai
cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp mà đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là

cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là sự nghiệp của đông đảo quần chúng nhân dân
lao động. Nếu không có hoạt động của hàng triệu quần chúng thì cũng không có các
cuộc cách mạng lớn trong lịch sử. Đặc biệt trong thời kỳ bão táp cách mạng thì tinh thần
cách mạng, ý chí sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy đến cao độ.
Ngoài vai trò quyết định trong sản xuất vật chất của xã hội và là lực lượng cơ
bản trong cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân có vai trò to lớn trong sản xuất tinh
thần. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra những giá trị tinh thần của
xã hội. Tục ngữ, ca dao, hò vè, điệu múa, lời hát cũng đều là những giá trị tinh thần trực
tiếp do nhân dân sáng tạo ra. Những giá trị đó là cơ sở để phát triển nền văn hoá nghệ
thuật lớn. Mặt khác, thực tiễn lao động sản xuất và đấu tranh cách mạng của quần chúng
nhân dân là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ chuyên nghiệp sáng tác. Tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân làm cơ sở cho sự phát triển của văn hoá-nghệ
thuật. Như vậy, quần chúng nhân dân đóng vai trò quan trọng trong sản xuất tinh thần.
24
Trên tất cả các mặt sản xuất vật chất, đấu tranh cách mạng và sản xuất tinh thần
đã chứng tỏ chân lý quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử, là
lực lượng quyết định sự phát triển của xã hội.
Triết học Mácxít khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân nhưng
cũng đề cao vai trò của cá nhân, lãnh tụ-người quyết định quy mô, tốc độ, nhịp độ của
các tiến trình khách quan trong lịch sử. Cá nhân lãnh tụ là lãnh tụ của quần chúng nhân
dân, được quần chúng suy tôn, tín nhiệm làm lãnh tục của họ. Ý chí của người lãnh tụ là
sự thể hiện ý chí nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Ngược lại quần chúng nhân
dân và phong trào của quần chúng lại cần đến người tổ chức, lôi kéo, tập họp và hướng
dẫn phong trào mới, bảo đảm phong trào của quần chúng đạt hiệu quả cao. Tuy lãnh tụ
có vai trò quan trọng nhưng triết học Mácxít cũng cương quyết chống lại tệ “sùng bái cá
nhân”. Chỉ khi nào mà những tư tưởng những định hướng về đường lối trên tất cả các
mặt đời sống xã hội do các vĩ nhân, lãnh tụ vạch ra đều được sự đồng tình hưởng ứng
của các tầng lớp tổ chức quần chúng nhân dân thì khi đó vai trò của lãnh tụ vĩ nhân mới
phát huy tác dụng. Ngược lại cho dù những tư tưởng, định hướng, đường lối của các vĩ
nhân có tiến bộ tích cực đến mấy khi chưa được sự đồng tình của nhân dân thì cũng

không có giá trị. Chúng ta cần chống tư tưởng sùng bái cá nhân, tuyệt đối hóa vai trò
của lãnh tụ vĩ nhân đi đến chổ quần chúng không tin vào chính bản thân mình nhưng
ngược lại cũng phải biết trân trọng tôn kính những anh hùng vĩ nhân kiệt xuất của dân
tộc của lịch sử.
Phát huy truyền thống, coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, trong lịch sử
phát triển của dân tộc, đồng thời lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã rút ra bài học lấy lấy dân làm gốc.
Thời kỳ trước đổi mới (năm 1986) bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia
trưởng còn nặng ở một số cán bộ Đảng viên là người lãnh đạo đã làm xói mòn mối liên
hệ mật thiết vốn có giữa Đảng và quần chúng. Hậu quả của tình trạng đó không những
làm tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân bị hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm
chủ của quần chúng, làm cho quần chúng thiếu tin tưởng vào lực lượng của bản thân
mình, làm cho họ có thái độ phục tùng tiêu cực mù quáng, thiếu suy nghĩ phán đoán,
thiếu độc lập tự chủ, không phát huy được tính tích cực sáng tạo của đông đảo quần
chúng trong sự nghiệp cách mạng, mà còn làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Từ
thực tiễn nước ta Đảng đã rút ra một trong những bài học kinh nghiệm là “trong toàn bộ
hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
đi lên CNXH cũng khẳng định “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không
lường được đối với vận mệnh đất nước”.
Quán triệt bài học này, trong quá trình đổi mới chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn. Vì vậy, Đảng đã rút ra bài học đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi
ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đổi mới cũng là sự nghiệp của dân, do
dân, vì dân. Để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi, phải phát huy được tính chủ động,
sáng tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân dân. Đổi mới là một sự nghiệp
mới mẻ, chưa có tiền lệ. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất hiện cần có
nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở đây, việc dựa vào dân, qua thực tiễn phong phú
của nhân dân tiến hành tổng kết, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi

lên, đó là chìa khóa của thành công.
25
Từ khi bắt đầu khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đến nay,
cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, Đảng thực sự dựa vào dân,
huy động sức mạnh của nhân dân trong việc giải quyết những vấn đề bức xúc của cuộc
sống đặt ra. Bên cạnh đó, trong công cuộc đổi mới Đảng đã chú trọng đến việc phát huy
phong trào quần chúng và việc tăng cường công tác dân vận giữ vai trò quan trọng. Đó
là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị. Trong công tác dân vận, Đảng ta đã khẳng định 5
quan điểm xuyên suốt trong quá trình hoạt động. Một là mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, luật pháp chính sách của Nhà nước phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân và phù hợp với khả năng của quần chúng. Hai là phải biến quan
điểm, đường lối của Đảng thành phong trào cách mạng của quần chúng. Ba là phải
chăm lo lợi ích thiết thân của quần chúng và thực hiện các chính sách xã hội để đảm bảo
công bằng xã hội. Bốn là các hình thức tập hợp quần chúng phải đa dạng và phù hợp
với trình độ của từng đối tượng. Năm là phải phát huy cả hệ thống chính trị trong công
tác dân vận. Mỗi cán bộ, Đảng viên công chức nhà nước đều liên hệ tốt đều liên hệ tốt
với nhân dân và làm tốt công tác dân vận, lấy các tổ chức chính trị xã hội làm nòng cốt
trong công tác dân vận. Tất cả những nội dung trên nhằm tạo ra những phong trào mạnh
mẽ của quần chúng và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là động lực chủ yếu để
phát triển xã hội.
Mặt khác, quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình
triển khai thực hiện đường lối đó, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng dựa vào dân, lấy dân
làm gốc, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tổng kết những điển hình tiên
tiến và những kinh nhiệm hay của nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối của
Đảng để không ngừng hoàn thiện đường lối, chính sách.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, việc ban hành những chủ trương chính sách
dựa vào dân và trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã góp phần rất lớn tạo nên những thành
tựu trong sự nghiệp đổi mới đất nước do đã tạo nên sự đồng thuận trong xã hội, khơi

dậy nguồn lực vô tận của sức mạnh nhân dân cả nước là những minh chứng sinh động
về bài học dựa vào nhân dân, vì nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với thực
tiễn.
Cách mạng phải sáng tạo. Song, để sự sáng tạo không dẫn tới tình trạng vô
nguyên tắc, một mặt, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát triển lý luận, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại
và những kinh nghiệm của các nước phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Mặt khác, phải
thường xuyên tổng kết thực tiễn, tìm ra nhân tố mới để nhân rộng và phát triển; những
điểm không phù hợp trong chủ trương, chính sách cụ thể, để có sự điều chỉnh, bổ sung
và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp, cách làm mới, linh hoạt,
sáng tạo, nhạy bén nắm bắt, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, rập khuôn máy móc.
Vì vậy phải động viên được các tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tư cách người làm chủ công
việc của đất nước.
Tóm lại, vai trò của quần chúng nhân dân là rất to lớn trong việc quyết định sự
phát triển của lịch sử, vận mệnh của đất nước, điều đó đã được khẳng định trong triết
học Mácxít và lịch sử cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới để xây
dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người cán bộ công chức, đảng viên phải
nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của quần chúng nhân dân để định hướng đúng đắn trong
nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích của nhân dân đồng thời gần gũi với nhân

×