1
Câu 1: Phân tích xã hội học (XHH) là 1 khoa học và vai trò của XHH đối với công
cuộc phát triển của nước ta hiện nay.
Những biến đổi nhanh chóng và phức tạp của xã hội Châu Âu vào cuối thế kỷ 18 đầu thế
kỷ 19 đã đặt ra những yêu cầu thực tiễn mới đối với nhận thức xã hội, từ đó đã thúc đẩy quá
trình hình thành và phát triển một bộ môn khoa học mới – môn xã hội học vào thế kỷ 19. Thành
tựu này có công lao đóng góp của nhiều nhà xã hội học, nhưng tiêu biểu nhất là A.Côngtơ,
H.Spencer, Duychkem, M.Vêbơ và C.Mac.
Xã hội học là khoa học nghiên cứu sự hình thành và phát triển vận hành các nhóm, các
tổ chức, các cộng đồng xã hội, là khoa học nghiên cứu về các mối quan hệ xã hội với tính cách
là cơ sở tác động qua lại giữa các cá nhân và các nhóm, các cộng đồng xã hội, và là khoa học
về quy luật hành động của quần chúng. Xã hội học ra đời từ những điều kiện, tiền đề về kinh
tế-chính trị và lý luận khoa học.
Điều kiện về kinh tế, đó chính là sự ra đời và phát triển khách quan của chủ nghĩa tư
bản, cuộc cách mạng công nghiệp, đô thị hóa, cách mạng thương mại đã tác động mạnh mẽ dẫn
đến sự thay đổi toàn bộ đời sống xã hội. Sự biến chuyển này làm lay chuyển tận gốc trật tự
kinh tế cũ đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm trước đó. Hình thái kinh tế-xã hội kiểu phong
kiến bị sụp đổ trước sự bành trướng của công nghiệp và thương mại. Kéo theo sự biến đổi
trong đời sống xã hội, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ trật tự xã hội phong kiến.
Hệ thống giá trị, văn hoá của xã hội hiện đại thay thế hệ thống giá trị, văn hoá của xã hội nông
nghiệp truyền thống, các mối quan hệ xã hội đa dạng và trở nên phức tạp hơn. Nhiều vấn đề xã
hội phát sinh cần được giải quyết. Điều kiện như thế đòi hỏi về mặt nhận thức khoa học phải có
một ngành khoa học thích hợp ra đời để giải quyết các vấn đề mới phát sinh, đó chính là xã hội
học.
Điều kiện chính trị, đó chính là những biến động chính trị lớn ở Pháp, Anh, Đức, Ý,…
góp phần làm thay đổi thể chế chính trị, trật tự xã hội Châu Âu, mà điển hình là cuộc Cách
mạng tư sản Pháp năm 1789, đánh dấu cho thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến thay bằng nhà
nước tư sản. Trong thời kỳ này mâu thuẫn về lợi ích giữa các tầng lớp xã hội, nhất là giai cấp tư
sản và giai cấp công nhân vô sản đã lên đến đỉnh cao, làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản đầu
tiên trên thế giới: Công xã Pari năm 1871. Những biến động trên đã tác động to lớn đến các nhà
xã hội học cũng như nhiều nhà tư tưởng khác đã quan tâm nghiên cứu để tìm cách lý giải phù
hợp nhất trước những biến đổi của xã hội.
Tiền đề lý luận khoa học, của xã hội học chính là những thành tựu của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội, những phát minh mới, các quy luật tự nhiên được phát hiện ra, giúp
các nhà xã hội học thấy được những mô hình, quan niệm về cách xây dựng lý thuyết, cách
nghiên cứu quá trình, hiện tượng xã hội một cách khoa học. Trong khoa học xã hội lý giải xã
hội dựa trên nhiều nhân tố xã hội mới như địa lý, môi trường, pháp lý, kinh tế , đặc biệt là sự
ra đời phương pháp luận nghiên cứu khoa học. Đây cũng là nhân tố quan trọng cho sự ra đời
và phát triển xã hội học. Các hiện tượng xã hội, quá trình xã hội, hành động xã hội đã trở thành
đối tượng nghiên cứu khoa học.
Xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học là gì thì hiện nay vẫn còn là vấn đề đang
tiếp tục tranh luận, bởi vì có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi nghiên cứu vào xã hội, nhưng
tổng hợp các quan điểm. G. V. Ôxipốp đưa ra định nghĩa: Xã hội học là khoa học về các quy
luật, tính quy luật xã hội chung và đặc thù của sự phát triển; về sự vận hành của các hệ thống
xã hội xác định về mặt lịch sử; về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy
2
luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc.
Xuất phát từ mối quan hệ và sự tác động qua lại của xã hội học với thực tiễn xã hội, xã
hội học có 3 chức năng cơ bản sau:
Chức năng nhận thức, xã hội học trang bị cho người nghiên cứu môn học những tri
thức khoa học về bản chất của hiện thực, xã hội và con người, nó cung cấp một hệ thống các
khái niệm, phạm trù, lý luận và phương pháp nghiên cứu, trên cơ sở đó, xã hội học giúp người
nghiên cứu có thể phát hiện ra các quy luật, tính quy luật, cơ chế nảy sinh, sự vận động và phát
triển của các quá trình xã hội.
Chức năng thực tiễn, xã hội học không phải nghiên cứu xã hội để biết cho vui mà thực
sự nó góp phần hết sức quan trọng vào việc cải biến hiện thực. Nó cung cấp những thông tin
cho các hoạt động thực tiễn của con người và xã hội, cung cấp các điều kiện cho việc quản lý
các quá trình xã hội, giúp cho sự điều chỉnh các quá trình xã hội dự đoán và dự báo về các quá
trình phát triển của xã hội.
Chức năng tư tưởng, xã hội học tham gia vào quá trình giáo dục tư tưởng, quá trình
đấu tranh tư tưởng để đảm bảo tính khách quan, tính khoa học.
Về phương pháp nghiên cứu xã hội học có 5 phương pháp cơ bản:
Thứ nhất là, phương pháp xã hội học trước tiên phải cụ thể hóa phương pháp triết học xã
hội trong việc nghiên cứu xã hội một cách toàn diện như một hệ thống xã hội.
Thứ hai là, xã hội học đòi hỏi phải nghiên cứu xã hội dưới góc độ cơ cấu, sự hình thành,
phát triển chức năng và làm rõ vị trí tương tác của nó. Vì vậy cần vận dụng phương pháp cơ
cấu và chức năng.
Thứ ba, xây dựng khung lý thuyết tối thiểu ban đầu để khảo sát thực tại xã hội, nhà xã
hội học xác định đối tượng nghiên cứu của mình dựa trên các ý tưởng, các giả thuyết và phải
xây dựng lý thuyết làm công cụ trí tuệ, giúp người nghiên cứu hiểu được thực tại nào đó, giải
thích một số sự kiện nhất định.
Thứ tư, phải xây dựng nhiều phương pháp như phương pháp quan sát, phương pháp
phỏng vấn, phương pháp trưng cầu ý kiến, phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp thống
kê… để thu thập thông tin và xử lý thông tin. Phương pháp quan sát thường được nhà xã hội
học sử dụng vì nhà xã hội học không thể sử dụng biện pháp thí nghiệm như trong lĩnh vực tự
nhiên hay kỹ thuật.
Thứ năm, xã hội học có thể sử dụng các phương pháp khác như phương pháp đối chiếu,
so sánh, phương pháp phân tích mối liên hệ giữa các biến số, phương pháp phân tích nhân quả,
phương pháp thực nghiệm và đồng thời phải biết cách sử dụng cả những phương pháp của
những ngành khoa học khác để nghiên cứu vấn đề một cách khách quan, khoa học.
Ở VN chúng ta, nhìn chung bộ môn xã hội học còn tương đối mới mẻ, các nghiên cứu về
xã hội học chưa gập được sự quan tâm của xã hội. Mặt khác, chất lượng của các công trình
nghiên cứu này cũng là 1 vấn đề đáng quan tâm, 1 số nhà nghiên cứu mãi chạy theo các dự án
để tăng thu nhập mà ít quan tâm tới chất lượng nghiên cứu. Đây cũng là thực trạng chung của
các nghiên cứu ở VN. Sản phẩm nghiên cứu xong để cất vào tủ, ít được áp dụng trong thực
tiễn.
Về tình hình phát triển kinh tế-xã hội, sau những năm đổi mới đất nước có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH-HĐH phát triển, kinh tế thị
trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhiều khu
công nghiệp lớn được tập trung hình thành và ngày càng phát triển, quá trình đô thị hoá đang
3
diễn ra với tốc độ nhanh chóng, các luồng di dân từ nông thôn ra thành thị để tìm việc làm diễn
ra với mức độ lớn, thương mại trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng về quy mô và trình
độ. Cơ cấu xã hội Việt Nam cũng có nhiều thay đổi, kể cả cấu trúc, quan hệ gia đình và cả
những chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội.
Tuy nhiên đất nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển kinh tế còn lạc hậu so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị,
còn nhiều yếu kém. Chưa thực hiện tốt việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội. Môi trường ở nhiều nơi bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng
cuộc sống. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa
các vùng có xu hướng giãn ra. Nhu cầu về việc làm chưa được đáp ứng tốt. Có nhiều vấn đề
mới nảy sinh nhất là trên lĩnh vực xã hội. Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng
đúng mức. Tình trạng suy thoái xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội
phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ.
Từ thực trạng tình hình kinh tế-xã hội hiện nay của nước ta, việc nghiên cứu xã hội học
là hết sức quan trọng.
Thứ nhất, xã hội học nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc các mặt của đời sống xã hội, nghiên
cứu sâu mối quan hệ giữa con người trong sự tương tác với môi trường xã hội, mối quan hệ
giữa các nhóm, các giai tầng trong cơ cấu xã hội, sự tương tác giữa hệ thống xã hội này với hệ
thống xã hội khác, từ đó giúp cho các nhà quản lý nắm bắt được thực trạng xã hội, đưa ra
những kiến nghị xác đáng và các giải pháp nhằm tác động vào xã hội theo chiều hướng tích
cực, hiệu quả.
Thứ hai, bằng các phương pháp đặc thù của xã hội học như việc thu nhập, phân tích các
chứng cứ và số liệu, xã hội học có khả năng đưa ra những dự báo xã hội, phát hiện ra những
mối quan hệ giữa các hiện tượng và quá trình xã hội, từ đó có thể thấy được thực trạng của vấn
đề diễn ra trong tiến trình xã hội cần được xử lý và đề xuất ra các kiến nghị, giải pháp về mặt
xã hội. Trên cơ sở đó, các nhà quản lý, các nhà hoạch định và thực thi chính sách có cơ sở khoa
học để đề ra các quyết định quản lý phù hợp.
Thứ ba, qua chức năng tư tưởng, xã hội học giúp cho cán bộ hình thành phong cách làm
việc khoa học, phong cách làm việc lãnh đạo đúng đắn, giúp chúng ta hiểu hơn về quần chúng
nhân dân lao động, về tâm tư nguyện vọng, để có những chính sách vận động thuyết phục, sử
dụng tốt nguồn nhân lực con người trong quá trình công tác để xã hội phát triển đi lên đúng quy
luật khách quan.
Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất
nước, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại và mở cửa giao lưu với các nước trên thế giới Hệ
thống giá trị chuẩn mực đang biến đổi mạnh mẽ, việc quản lý xã hội trên các mặt còn nhiều
lúng túng, xã hội đang phát sinh nhiều vấn đề mới, thì nhiệm vụ xã hội học ngày càng hết sức
quan trọng. Xã hội học cần phải chủ động, thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội để thực hiện chức năng thực tiễn của mình. Đồng thời góp phần xây dựng, bổ sung, hoàn
chỉnh lý luận của chuyên ngành nghiên cứu xã hội học.
4
Câu 2: Phân tích ý nghĩa của việc nghiên cứu các thành phần cơ bản của cơ cấu xã
hội (CCXH) đối với hoạt động lãnh đạo của nhà quản lý.
Cơ cấu xã hội là một khái niệm rộng không chỉ liên quan đến hành vi xã hội mà còn là
mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố khác nhau trong hệ thống xã hội. Cơ cấu xã hội bao gồm
cả thiết chế gia đình, dòng họ, tôn giáo, kinh tế, chính trị, hệ thống văn hóa, giá trị, chuẩn mực
xã hội, hệ thống các vị trí vai trò
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu xã hội nhưng nhìn chung các nhà xã hội
học đều có điểm thống nhau, nhất là khi đề cập đến cơ cấu xã hội đều đề cập đến thành phần xã
hội và mối liên hệ xã hội. Theo I.Rôbớtsơn-nhà xã hội học người Mỹ cho rằng cơ cấu xã hội là
mô hình của các quan hệ giữa các thành phần cơ bản trong hệ thống xã hội. Những thành phần
này tạo nên bộ khung cho tất cả xã hội loài người, mặc dù tính chất giữa các thành phần và các
quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác.
Các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội là nhóm xã hội, vị thế xã hội và vai trò xã hội,
thiết chế xã hội.
Thành tố cơ bản thứ nhất là nhóm xã hội, trong đó nhóm xã hội được hiểu là một tập
hợp người trong đó các cá nhân có mối quan hệ tương tác với nhau theo một kiểu cấu trúc nào
đó, hay nói cách khác, nhóm xã hội là tập hợp người có quan hệ với nhau về vị thế, vai trò,
những nhu cầu lợi ích và những định hướng giá trị nhất định.
Ở góc độ xã hội học, nghiên cứu nhóm không phải chỉ nghiên cứu số lượng mà còn
nghiên cứu mối quan hệ tạo nhóm. Từ đó, người ta chia nhóm xã hội ra làm hai loại cơ bản là:
Nhóm sơ cấp (nhóm cấp 1) là nhóm tương đối nhỏ, có số lượng thành viên ít nhưng quan hệ
tình cảm mật thiết như nhóm gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Nhóm thứ cấp (nhóm cấp 2) là
nhóm bao gồm số lượng người đông hơn, trong đó mối quan hệ cá nhân có thể là không trực
tiếp mà thông qua một khâu trung gian, nhất là thông qua những quy tắc tổ chức và ứng xử rõ
rệt, quan hệ tình cảm ít mật thiết như đoàn thể, xí nghiệp, cơ quan.
Theo quan điểm của xã hội học thì thành viên của các nhóm xã hội khác nhau thực hiện
vai trò xã hội khác nhau. Con người trưởng thành chủ yếu trong quá trình tham gia vào mối
quan hệ đan chéo của các nhóm xã hội. Một mặt nó xác định được vị trí khách quan của mỗi
cá nhân trong hệ thống hoạt động xã hội trong cơ cấu xã hội. Mặt khác, nó ảnh hưởng đến sự
hình thành ý thức của cá nhân, ở đó cá nhân chịu sự tác động của một hệ thống các quan điểm,
chuẩn mực, giá trị của nhiều nhóm xã hội khác nhau. Thực chất làm công tác quản lý là quản lý
nhóm. Trưởng của nhóm chính thức nếu không có cái chất của người thủ lĩnh (uy tín) thì chỉ
lãnh đạo nhóm bằng mệnh lệnh mà thôi, muốn làm công tác lãnh đạo tốt, người lãnh đạo phải
quản lý được cả nhóm chính thức và không chính thức bởi vì trong lòng của một nhóm chính
thức sẽ có nhiều nhóm không chính thức.
Thành tố cơ bản thứ hai là vị thế xã hội và vai trò xã hội, vị thế xã hội là chỗ đứng của
một cá nhân trong không gian xã hội, hay nói cách khác là một vị trí nào đó trong cấu trúc xã
hội. Vị thế xã hội cũng có thể được hiểu là chỗ đứng của cá nhân hay nhóm xã hội trong một cơ
cấu xã hội nhất định. Thông thường, mỗi người không chỉ có một vị thế mà còn có nhiều vị thế,
trong đó, vị thế nghề nghiệp là quan trọng nhất, có vai trò quyết định đối với với việc xác định
những đặc điểm nào đó của một cá nhân.
Vị thế xã hội có thể được chia làm hai loại đó là: Vị thế tự nhiên là vị thế mà cá nhân có
được không bằng nổ lực, công sức. Vị thế đạt được là vị thế trong đó cá nhân có được nhờ nổ
5
lực của chính bản thân trên con đường hoạt động xã hội, kể cả cơ may và thủ đoạn.
Vai trò xã hội là một tập hợp các mong đợi, các quyền lợi và những nghĩa vụ của một cá
nhân hay nhóm xã hội do vị thế xã hội quy định. Trong cuộc sống con người chủ yếu do nhiều
vai trò xã hội khác nhau quy định, đồng thời vai trò xã hội phải tương ứng với vị thế xã hội.
Chính vị thế xã hội quy định vai trò xã hội và ngược lại, vai trò xã hội sẽ củng cố vị thế xã hội.
Vấn đề mà xã hội học quan tâm chính là mối quan hệ chặt chẽ giữa vị thế xã hội và vai trò xã
hội. Vị thế xã hội qui định vai trò xã hội, vị thế như thế nào thì vai trò tương ứng như thế đó.
Vai trò sẽ củng cố vị thế, mất vai trò là mất vị thế, mất uy tín là mất phần thăng hoa của vị thế.
Thành tố cơ bản thứ ba là thiết chế xã hội, thiết chế xã hội là một tập hợp tương đối bền
vững của các giá trị, chuẩn mực xã hội, vị thế, vai trò xã hội và nhóm xã hội; được tạo ra và
hoạt động để thỏa mãn những nhu cầu và thực hiện các các chức năng xã hội quan trọng. Thiết
chế xã hội cũng có thể hiểu là một tổ chức hoạt động xã hội, quan hệ xã hội nhất định, đảm bảo
tính bền vững và tính kế thừa các quan hệ xã hội đó.
Các nhà xã hội học phân chia chức năng của thiết chế xã hội thành chức năng công khai
và chức năng tiềm ẩn, chức năng cơ bản và chức năng riêng biệt. Qua nghiên cứu xã hội, cả xã
hội sơ khai và xã hội hiện đại, các nhà xã hội học xác định bất kỳ quốc gia nào muốn tồn tại và
phát triển đều phải có năm thiết chế xã hội cơ bản đó là thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục,
thiết chế kinh tế, thiết chế chính trị, thiết chế tôn giáo.
Thiết chế xã hội còn chứa đựng các nét của nó, đó là những đơn vị nhỏ nhất của thiết
chế như các biểu tượng của văn hóa, mã hóa hành vi.
Trong xã hội học, mỗi thiết chế có một đối tượng riêng để hướng tới phục vụ, nhằm đáp
ứng các nhu cầu xã hội chuyên biệt liên quan đến đối tượng; bao gồm nhiều giá trị cơ bản mà
các giá các giá trị đó được các thành viên chia sẽ. Thiết chế xã hội có các đặc trưng cơ bản:
Thiết chế xã hội có tính bền vững tương tương đối và thường biến đổi chậm, vì nó được
hình thành trên cơ sở của một hệ thống những giá trị, chuẩn mực lâu đời và khá bền vững của
xã hội. Những thiết chế đã lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với nhu cầu thực tiễn của xã
hội sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Do đó các nhà quản lý phải nhạy bén để tìm mọi cách
đổi mới thiết chế sao cho phù hợp với nhu cầu đổi mới của xã hội.
Mỗi thiết chế xã hội có tầm bao quát rộng đến mức các hoạt động của nó chiếm một vị
trí trung tâm trong xã hội. Một sự thay đổi trong thiết chế có thể đưa đến sự thay đổi đáng kể
trong xã hội và ảnh hưởng đến các lĩnh vực khác. Do vậy, bất kỳ sự đổ vỡ của thiết chế nào
cũng dẫn đến vấn đề nghiêm trọng cho xã hội.
Các thiết chế xã hội có mối quan hệ với nhau và có xu hướng phụ thuộc vào nhau. Các
thiết chế xã hội chủ yếu duy trì những giá trị và chuẩn mực chung, phản ánh những mục tiêu xã
hội chung. Vì vậy các thiết chế có mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào nhau. Khi một thiết
chế cơ bản thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của một loạt các thiết chế xã hội khác, đặc biệt là
thiết chế kinh tế.
Các thiết chế cơ bản có mối quan hệ qua lại ở mức độ cao. Chúng quan hệ với nhau
trong sự phát triển và hiệu quả. Các thiết chế cần thiết duy trì sự thăng bằng và ổn định bởi vì
nhiều chức năng của thiết chế có một phần trùng lên nhau, nên duy trì sự cân bằng của các thiết
chế trong cùng một thời gian, ở cùng một vị trí là điều rất khó khăn. Chẳng hạn, thiết chế gia
đình đổ vỡ thì nạn ly hôn tăng, thiết chế pháp luật đổ vỡ thì tội phạm tăng, thiết chế chính trị đổ
vỡ thì xã hội rối loạn. Do đó, nhà quản lý không được coi trọng hay xem nhẹ thiết chế nào mà
6
phải tạo điều kiện cho các thiết chế vận hành đồng bộ mới tạo sức mạnh cho hệ thống xã hội.
Từ những nội dung trên, ta thấy tinh thần và các quan hệ khác nhau giữa các thành tố cơ
bản trong một hệ thống xã hội sẽ đưa đến các cơ cấu xã hội khác nhau, cơ cấu xã hội khác nhau
quyết định chiều hướng phát triển khác nhau của xã hội. Vì vậy việc nghiên cứu cơ cấu xã hội,
các thành tố cơ bản của cơ cấu xã hội rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
Thứ nhất nghiên cứu cơ cấu xã hội qua các thành tố cơ bản sẽ giúp cho nhà quản lý
nhận diện đúng đắn thực trạng xã hội, từ đó đưa ra mô hình cơ cấu xã hội phù hợp, vận hành
một cách hợp lý trên cơ sở thiết chế nhất định. Bởi vì chỉ trên cơ sở mô hình cơ cấu xã hội tối
ưu mới có phương thức quản lý tối ưu.
Thứ hai, nghiên cứu cơ cấu xã hội giúp cho nhà quản lý thấy được tầm quan trọng của
thiết chế đối với sự ổn định cơ cấu xã hội và trong quản lý xã hội. Chúng ta thấy rằng yếu tố để
duy trì trật tự xã hội, tạo sự ổn định làm điều kiện cho xã hội phát triển chính là thiết chế xã
hội. Bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng sử dụng thiết chế xã hội để làm công cụ quản lý xã
hội Trên cơ sở hiểu sâu sắc về thiết chế, các nhà quản lý tạo điều kiện cho các thiết chế xã hội
cơ bản thực hiện chức năng của mình, để tạo sức mạnh cho hệ thống xã hội, đồng thời theo dõi
và tìm mọi cách để cải cách thiết chế, đổi mới sao cho nó phù hợp với nhu cầu đổi mới đang
nảy sinh trong xã hội.
Thứ ba, nghiên cứu nhóm xã hội nhằm đưa ra cơ cấu nhóm xã hội như thế nào là hợp lý
nhằm có được nghệ thuật quản lý, xác định được thành phần, cấu trúc nhóm, các giá trị, chuẩn
mực của nhóm, từ đó góp phần đưa ra mô hình cơ cấu xã hội phù hợp.
Thứ tư, nghiên cứu vị thế xã hội và vai trò xã hội nhằm xác định đúng vị thế của từng
cá nhân, từng nhóm và sắp xếp bối trí các vai trò phù hợp để phát huy được vị thế vai trò, điều
kiện cho các cá nhân, các nhóm trong cơ cấu xã hội ổn định và phát triển được bởi vì vị thế, vai
trò không phù hợp thì không phát triển được, tạo ra nhiều mâu thuẩn xã hội.
Thứ năm, nghiên cứu thiết chế xã hội để thiết lập trật tự và ổn định xã hội, thiết chế
không chặt chẽ thì xã hội không có kỹ cương, xã hội không có thiết chế là xã hội rối loạn.
Đồng thời không được coi trọng hay xem nhẹ bất cứ một thiết chế nào mà phải tạo điều kiện
cho các thiết chế thực hiện chức năng đồng bộ làm tăng thêm sức mạnh cho hệ thống xã hội.
Đây là công cụ để quản lý, điều chỉnh xã hội theo đúng chuẩn mực của nó.
Tóm lại, với vai trò của người làm công tác quản lý lãnh đạo đất nước không thể tách
rời việc nghiên cứu cơ cấu xã hội và các thành tố cơ bản của nó, nhằm có những chủ trương
chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội, điều chỉnh xã hội phát triển theo
đúng mục tiêu. Nghiên cứu cơ cấu xã hội giúp ta hiểu được bức tranh chung, khái quát xã hội
từ đó dễ chọn lựa xây dựng một cơ cấu xã hội tối ưu bảo đảm cho sự ổn định phát triển xã hội.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có đường lối đúng đắn và đưa ra cơ cấu xã hội
hợp lý, góp phần đưa đất nước ta vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
7
Câu 3: Phân tích đặc điểm phân tầng xã hội và di động xã hội của nước ta trong
thời kỳ đổi mới và những yêu cầu đặt ra hoạt động lãnh đạo quản lý.
Hay: Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu phân tầng xã hội và di động xã hội trong
điều kiện nước ta hiện nay.
Tầng xã hội là tập hợp các cá nhân, các nhóm xã hội có cùng hoàn cảnh xã hội giống
nhau hay bằng nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, địa vị xã hội. Theo đó, phân tầng xã hội
là thuật ngữ phản ánh sự phân hóa xã hội thành những tầng xã hội khác nhau có điều kiện, hoàn
cảnh, địa vị khác nhau; chỉ các nhóm xã hội chênh lệch nhau về kinh tế, trình độ, quyền lực,
thu nhập, nhà ở hay bất kể mặt nào trong đời sống xã hội. Phân tầng xã hội khác với bất bình
đẳng xã hội. Bất bình đẳng chỉ sự chênh lệch về cá nhân và mang tính chất tạm thời, còn phân
tầng xã hội chỉ sự chênh lệch thuộc về nhóm và thường kéo dài.
Nguyên tắc dẫn đến sự phân tầng trong xã hội đó là do có hiện tượng bất bình đẳng
trong đời sống xã hội về các mặt như thể chất, năng lực, điều kiện, cơ may do phân công lao
động xã hội, trong xã hội có những ngành nghề có thu nhập uy tín cao hơn những ngành nghề
khác. Phân tầng xã hội có ba đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tầng xã hội là sự phân hóa, sắp xếp các cá nhân thành những tầng lớp
thang bậc khác nhau trong cơ cấu xã hội.
Thứ hai, phân tầng xã hội luôn luôn gắn với bất bình đẳng xã hội và sự phân công lao
động trong xã hội.
Thứ ba, phân tầng xã hội thường được lưu truyền từ xã hội này đên xã hội khác, tuy
nhiên nó không phải là bất biến mà có thể có những thay đổi nhất định như sự di chuyển từ
tầng lớp này sang tầng lớp kháctrong cơ cấu xã hội hoặc trong nội bộ từng tầng lớp riêng biệt.
Phân tầng xã hội có hai dạng thức là phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội
không hợp thức. Phân tầng xã hội hợp thức là do sự khác nhau về năng lực thể chất, mức độ
cống hiến thực tế của mỗi cá nhân đối với xã hội, dạng thức phân tầng xã hội này được xem là
tích cực, là động lực tạo điều kiện cho xã hội phát triển ổn định và bền vững. Phân tầng xã hội
không hợp thức là do làm ăn phi pháp, tham nhũng, tham ô, thủ đoạn mà có, dạng thức phân
tầng xã hội này là tiêu cực, cản trở sự phát triển của xã hội.
Lý giải sự phân tầng xã hội, Mác dựa vào yếu tố kinh tế, Mác cho rằng ai nắm được tư
liệu sản xuất thì người đó có quyền lực. Theo Mác, lợi ích kinh tế, quyền lực chính trị, uy tín xã
hội đều bắt nguồn từ cấu trúc giai cấp và đấu tranh giai cấp, đó là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội có giai cấp. M.Vêbơ cũng có điểm giống Mác là dựa vào yếu tố kinh tế để phân
tầng, nhưng khác với Mác, M.Vêbơ nhấn mạnh hoàn cảnh kinh tế của cá nhân trên thị trường.
Ngoài yếu tố kinh tế, M.Vêbơ còn dựa vào hai yếu tố khác là địa vị xã hội và quyền lực chính
trị. Ông cho rằng không phải lúc nào yếu tố kinh tế cũng quyết định, khi có địa vị xã hội và
quyền lực sẽ có kinh tế. Thật ra hai quan điểm trên không mâu thuẩn nhau, nhưng quan điểm
của M.Vêbơ chưa lưu ý đầy đủ và thấu đáo đến yếu tố sở hữu về tư liệu sản xuất. Đây là nhân
tố cốt lõi của sự phân tầng xã hội. Bên cạnh quan điểm của Mác và M.Vêbơ còn có nhiều lý
thuyết lý giải sự phân tầng xã hội như lý thuyết chức năng, lý thuyết xung đột và lý thuyết dung
hòa. Trong đó:
Lý thuyết chức năng cho rằng, phân tầng xã hội là hiện tượng phổ biến, tất yếu, không
thể tránh khỏi trong xã hội loài người. Hiện tượng này tồn tại trong quá khứ và sẽ tiếp tục tồn
tại như là một đặc trưng của xã hội hiện tại và tương lai. Lý thuyết này quan niệm việc phân
8
tầng xã hội là tích cực và là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bởi vì một số địa vị trong
xã hội xét về mặt chức năng là quan trọng hơn những địa vị khác, một số địa vị có ý nghĩa then
chốt trong xã hội, do vậy đòi hỏi phải có người tài năng đảm nhận và tài năng đó lại thuộc vào
tư chất của từng cá nhân và phải trải qua quá trình đào tạo, huấn luyện mới có được, do đó việc
thụ hưởng những lợi ích do địa vị mang lại cũng chính đáng.
Các nhà xã hội học theo lý thuyết xung đột thì cho rằng phân tầng xã hội làm hạn chế
sự phát triển của các cá nhân ở các tầng lớp dưới. Sự phân phối không đồng đều của cải vật
chất đã tạo ra tình trạng những người có điều kiện về kinh tế sẽ hưởng nhiều lợi ích về giáo
dục Mặt khác, có những người được hưởng nhiều lợi ích nhưng không xuất phát từ tài năng
chính đáng của mình, mà được hưởng do thừa kế từ dòng dõi.
Các nhà xã hội học theo lý thuyết dung hòa cho rằng, cả hai cách lý giải của lý thuyết
chức năng và lý thuyết xung đột nêu trên đều có điểm phù hợp. Một mặt, họ cho rằng những
yếu tố thuộc về tư chất tự nhiên kèm theo các yếu tố như địa vị kinh tế, chính trị, xã hội dẫn
đến phân tầng, nhưng mặt khác, do động cơ ích kỷ thúc đẩy người ta chiếm giữ các vị trí xã
hội, dẫn đến các mâu thuẫn và xung đột xã hội.
Hiện nay phân tầng xã hội là hiện tượng mang tính chất toàn cầu, khách quan, bắt đầu
xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, đến nay sự phân tầng xã hội xuất hiện phổ biến ở tất cả
các quốc gia trên thế giới, mức độ diễn ra có sự khác nhau giữa các quốc gia. Ở Việt Nam, thời
kỳ năm 1975 – 1986 phân tầng xã hội có diễn ra nhưng ở dạng che giấu tiềm ẩn, thời kỳ 1986
đến nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập nền kinh tế thế giới, phân tầng xã
hội ở Việt Nam đi theo xu hướng phân tầng xã hội của toàn cầu, mức độ diễn ra ngày càng gay
gắt và đa dạng, sự chênh lệch về trình độ, địa vị, nhất là khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa.
Một bộ phận giàu lên rất nhanh thông qua nền kinh tế thị trường và sự phân hóa này là tất yếu
trong giai đoan hiện nay.
Những điều kiện trên cho thấy chúng ta không thể thả nổi vấn đề phân tầng, vì thả nổi sẽ
gây ra rối loạn xã hội. Sự biến động về phân tầng xã hội cần phải được điểu chỉnh để khoảng
cách giàu nghèo không quá lớn, nhằm tránh những xung đột trong xã hội. Đảng và Nhà nước ta
đã điều chỉnh hiện tượng này thông qua chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách trợ giá cho
nông sản, thực phẩm, chính sách đầu tư ưu đãi cho các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Trong đó, chính sách xóa đói giảm nghèo được xác định là nhiệm vụ xã hội trọng tâm của toàn
đảng, toàn dân. Yêu cầu xóa đói giảm nghèo trong các năm tới là mở rộng nội dung để đảm bảo
các yêu cầu cơ bản về lương thực, nhà ở, y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa, thông tin, đi lại,
giao tiếp,…phải tiếp cận và vận dụng hợp lý chuẩn quốc tế về xóa đói giảm nghèo, phải bảo
đảm xóa đói giảm nghèo vững chắc. Chống tái nghèo, phải tập trung mọi nguồn lực làm
chuyển biến rõ rệt tình trạng nghèo đói ở các vùng trọng điểm, vùng đặc biệt khó khăn. Xoá đói
giảm nghèo phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng
địa phương, nhất là từng vùng. Tập trung giúp cho các địa phương nghèo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hoá. Đầu tư để
giải quyết dứt điểm về cơ sở hạ tầng thiết yếu của các xã nghèo, huyện nghèo trước hết là
thuỷ lợi, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, trung tâm cụm xã, đường giao thông, điện,…
Từ thực trạng vấn đề phân tầng xã hội ở Việt Nam trên và quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta cho thấy nghiên cứu phân tầng xã hội có vai trò rất quan trọng, giúp cho nhà quản lý
hiểu được thực trạng của vấn đề phân tầng, mức độ phân tầng để có biện pháp điều chỉnh, đề ra
9
chủ trương, chính sách phù hợp. Thả nổi vấn đề phân tầng xã hội sẽ làm cho xã hội mất ổn
định. Nó còn giúp cho ta phát hiện đâu là phân tầng hợp thức, đâu là phân tầng không hợp thức
để có biện pháp tạo điều kiện cho phân tầng hợp thức phát triển và hạn chế phân tầng không
hợp thức. Giúp cho người làm công tác quản lý giải quyết mâu thuẫn giữa các nhóm xã hội để
hướng tới công bằng xã hội.
Việc nghiên cứu phân tầng xã hội cho phép đi sâu phân tích thực trạng xã hội, nhận diện
một cách chân thực những đặc trưng và xu hướng phát triển của đất nước, để vạch ra chính
sách xã hội phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể ở nước ta. Bên cạnh sự phân tầng xã hội,
trong nội dung cơ bản của cơ cấu xã hội còn có di động xã hội, di động xã hội là sự chuyển đổi
của cá nhân, nhóm xã hội từ vị thế này sang vị thế khác.
Có bốn hình thức di động cơ bản, đó là di động theo chiều ngang, là sự chuyển đổi vị thế
của một cá nhân hay nhóm xã hội nào đó sang một vị thế khác cũng nằm trên một cấp độ như
nhau, không ảnh hưởng lớn đến vị thế xã hội của cá nhân hay nhóm xã hội đó; di động theo
chiều dọc là sự chuyển đổi vị thế của cá nhân hay nhóm xã hội, chuyển đổi vị trí kèm theo
chuyển đổi địa vị cao hay thấp theo nấc thang trong xã hội; di động liên thế hệ là sự di chuyển
vị thế xảy ra giữa các thế hệ, di động theo chiều hướng đi lên khi mà thế hệ sau có vị trí xã hội
giành được cao hơn thế hệ trước và ngược lại; di động nội thế hệ là sự thay đổi vị thế của một
cá nhân khi so sánh với cá nhân khác tron cùng một thế hệ.
Sự di động xã hội bị tác động bởi các yếu tố trình độ học vấn, kinh tế, lý lịch, nguồn gốc
xuất thân, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, đảng phái, thâm niên công tác, địa bàn cư trú. Các yếu tố
về mặt sinh học như giới tính, sức khoẻ, tuổi tác. Trong đó trình độ học vấn là một trong những
yếu tố tác động mạnh nhất đến di động xã hội. Những cá nhân có trình độ học vấn cao có khả
năng di động xã hội lớn có thể đảm nhiệm công việc với trình độ chuyên môn cao và có cơ hội
đạt nhiều vị thế cao.
Việc nghiên cứu sự di động xã hội nhằm nhận diện được thực trạng, xu hướng di động
xã hội để có biện pháp tác động hoặc điều chỉnh mô hình cơ cấu xã hội phù hợp. Nắm bắt được
các yếu tố tác động đến sự di động xã hội, từ đó có biện pháp phát huy các yếu tố tích cực, hạn
chế các yếu tố tiêu cực, đưa ra các chính sách để tạo xã hội phát triển bền vững.
Qua việc nghiên cứu giúp cho ta thấy được mối quan hệ giữa di động xã hội và phát
triển xã hội có sự tác động qua lại lẫn nhau, sự di động xã hội tích cực sẽ giúp cho xã hội phát
triển và ngược lại.
10
Câu 4: Phân tích đặc điểm sai lệch xã hội và những yêu cầu đối với hoạt động kiểm
soát xã hội ở nước ta hiện nay. Liên hệ thực tiễn địa phương.
Hay: Ý nghĩa của việc nghiên cứu sai lệch xã hội và kiểm soát xã hội trong điều
kiện nước ta hiện nay. Liên hệ thực tế địa phương.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển, bất cứ xã hội nào cũng có cơ chế ràng buộc hành động
của các thành viên, các nhóm phải tuân thủ những giá trị, chuẩn mực văn hoá, các quy tắc đã đề
ra. Nhưng xã hội luôn vận động trong những điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội không
ngừng biến đổi. Với những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, các thành viên
trong xã hội không phải lúc nào cũng thực hiện được những hành vi đúng theo những giá trị,
chuẩn mực văn hoá, những quy phạm của xã hội, những đòi hỏi của nhóm mà họ đã tham gia.
Những hành vi của cá nhân hay nhóm không phù hợp với nhưng giá trị, chuẩn mực đang được
xã hội thừa nhận gọi là sai lệch xã hội.
Sai lệch xã hội luôn mang tính xã hội, nó là một hiện tượng vô cùng đa dạng và phong
phú, có tính tương đối theo không gian, thời gian; có lúc không rõ ràng; thường phải có sự
đồng thuận lên án của xã hội và diễn ra khi xung đột vai trò của xã hội. Khi xem xét sai lệch xã
hội, người lãnh đạo, quản lý phải căn cứ vào vị thế, vai trò xã hội mà cá nhân, nhóm đó đang
đóng vai. Để thuận tiện trong việc nghiên cứu, sai lệch xã hội được phân chia thành nhiều loại;
căn cứ vào số lượng người thực hiện, hành vi sai lệch được chia làm hai loại: sai lệch cá nhân
và sai lệch nhóm; dựa vào mức độ sai lệch của hành vi so với chuẩn mực, quy tắc xã hội, người
ta chia sai lêch xã hội gồm 2 loại: hành vi sai lệch mức độ thấp và hành vi sai lệch mức độ cao;
dựa vào tính chất tác động của hành vi đối với XH ta có thể chia chúng thành 2 loại: hành vi sai
lệch tích cực, hành vi sai lệch tiêu cực.
Hành vi sai lệch XH chịu tác dộng của nhiều yếu tố; bằng các phương pháp tiếp cận
khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra những lý thuyết giải thích nguồn gốc sai lệch khác nhau.
Ta có thể chia các lý thuyết đó làm 2 nhóm: nhóm giải thích bằng nguồn gốc tâm sinh lý và
nhóm giải thích bằng nguồn gốc xã hội. Nhóm giải thích bằng nguồn gốc tâm sinh lý gồm các
lý thuyết cơ thể học, lý thuyết nhiễm sắc thể, giải thích hành vi sai lệch bằng tâm lý. Nhóm giải
thích bằng nguồn gốc XH có lý thuyết về nền văn hóa phụ, lý thuyết dán nhãn, lý thuyết điều
tiết. Mỗi lý thuyết đều có giá trị riêng, tuy nhiên quan điểm của các nhà mácxít cho là các hành
vi sai lệch xã hội phát sinh, tồn tại và phát triển đều có nguồn gốc và nguyên nhân vốn có trong
nền kinh tế - xã hội, được chủ thể xã hội tiếp nhận và thể hiện bằng hành vi cụ thể, hay nói
cách khác, sai lệch xã hội có nguồn gốc từ xã hội là có nhiều giá trị thực tiễn hơn cả. Vì trong
thực tế, trong những thời điểm giao thời chuyển đổi xã hội, khi xã hội loạn lạc, hay khi nhu cầu
xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội không trung khớp nhau thì sai lệch xã hội có xu
hướng tăng cao hơn trong điều kiện bình thường.
Đối với nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ sản xuất còn thấp kém, chịu ảnh
hưởng nặng nề do hậu quả chiến tranh, cơ chế quản lý kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, từng
bước hoà nhập với kinh tế thế giới và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hệ thống giá trị
chuẩn mực xã hội đang biến đổi mạnh mẽ, cái mới xuất hiện song song với cái cũ đang tồn tại,
một số truyền thống giá trị chuẩn mực tốt đẹp của dân tộc có nguy cơ bị mai một, việc quản lý
XH trên các mặt còn nhiều lúng túng do đó trong XH xuất hiện nhiều sai lệch cả tích cực và
tiêu cực.
Một số vấn đề nổi cộm hiện nay ở nước ta là tệ nạn XH và tệ nạn tham nhũng, buôn lậu.
11
Tệ nạn XH bức xúc hiện nay là nạn ma túy và mại dâm gây nhiều tác hại cho mọi mặt đời sống
XH. Còn tệ nạn tham nhũng và buôn lậu thường xuyên xảy ra, với quy mô tính chất, hậu quả
ngày càng nghiêm trọng, nó luôn liên quan đến cán bộ, công chức làm cản bước tiến của XH,
tổn hại của uy tín của Đảng và Nhà nước ta.
Để khắc phục sai lệch XH, cần nhận diện và xác định đúng nguyên nhân, nguồn gốc sai
lệch XH, đưa ra giải pháp thích hợp để hạn chế, khắc phục sai lệch XH.
Nếu sai lệch XH có tính tích cực, nó phản ánh một cách suy nghĩ và hành động đi trước
thời đại, thúc đẩy việc hình thành giá trị chuẩn mực mới thì nhà quản lý phải biết điều chỉnh
những chính sách và tạo môi trường, điều kiện cho sai lệch tích cực ấy nhân rộng trong cộng
đồng. Nếu sai lệch XH là tiêu cực tha hóa, ảnh hưởng xấu đến đời sống cộng đồng nhà quản lý
phải phân biệt đó là hành vi của nhóm hay chỉ đơn lẻ là cá nhân. Nếu đó chỉ là sự phản kháng
của một cá nhân do tâm lý dồn nén, chịu đựng quá lâu những bất công hoặc là do trình độ nhận
thức kém thì biện pháp giáo dục, thuyết phục và cảm thông có thể quan trọng hơn là biện pháp
trừng trị. Nếu sai lệch của nhóm, của số đông nguyên nhân chính là do tình trạng quản lý lỏng
lẽo thì giải pháp xử lý phải cân nhắc giữa lợi ích cộng đồng với lợi ích của bản thân những
người vi phạm để giải quyết triệt để, chấn chỉnh lại các hoạt động quản lý chặt chẽ hơn, kiên
quyết hơn.
Nếu sai lệch xã hội xuất phát từ đói nghèo, thất nghiệp, từ sự sa sút các giá trị chuẩn
mực XH thì biện pháp phòng ngừa là phải sử dụng những biện pháp tổng hợp, giải quyết tận
gốc nguyên nhân XH của sai lệch XH như: xóa đói giãm nghèo đi đôi với việc nâng cao trình
độ dân trí, xây dựng lối sống có văn hóa, ngăn chặn ảnh hưởng có tiêu cực của kinh tế thị
trường và giao lưu quốc tế. Xác định và củng cố các giá trị chuẩn mực XH. Nhưng nếu hành vi
sai lệch XH là của một nhóm có tổ chức và mức độ sai lệch là lớn thì phải sữ dụng nghiêm
khắc công cụ luật pháp để trừng trị răn đe.
Từ tình hình điều kiện nước ta ở trên, việc nghiên cứu sai lệch XH trong giai đoạn hiện
nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Qua việc nghiên cứu giúp cho nhà quản lý nước ta thấy
được thực trạng sai lệch XH, nhận diện và xác định đúng nguyên nhân, nguồn gốc, mức độ sai
lệch XH, từ đó cái nhìn của nhà quản lý đầy đủ, không phiến diện để lý giải đúng đắn các hiện
tượng sai lệch.
Từ nhận diện đúng sai lệch XH giúp các nhà quản lý đưa ra biện pháp cụ thể, chính sách
phù hợp đối với từng sai lệch XH nhằm điều chỉnh các sai lệch XH. Đồng thời giúp cho việc
kiểm soát XH, điều chỉnh hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN, xây dựng nhà nước do dân,
của dân, vì dân.
Bên cạnh đó, để ngăn chặn điều chỉnh kịp thời các sai lệch XH, phải có biện pháp kiểm
soát XH. Kiểm soát XH là tất cả các hoạt động nhằm điều chỉnh các hành vi sai lệch, khuyến
khích các hành vi hợp chuẩn, làm cho XH ổn định, phát triển. Bản chất của kiểm soát XH là
quá trình là cho hành vi và quan hệ của các thành viên XH đúng mực, hợp chuẩn diễn ra thuận
lợi, đồng thời ngăn chặn được các sai lệch XH.
Tùy theo cách tiệp cận khác nhau ta có những cách phân loại kiểm soát XH khác nhau.
Căn cứ vào phương thức thực hiện, ta có kiểm soát nội tâm và kiểm soát bên ngoài. Căn cứ vào
hình thức tổ chức, ta có kiểm soát chính thức và kiểm soát không chính thức. Kiểm soát nội
tâm là cách thức kiểm soát thông qua việc giúp cho cá nhân lĩnh hội và thực hiện các chuẩn
mực quy tắc một cách tự giác, họ tự xác định cái đúng cái sai, cái không được làm, cái nên làm
12
để lựa chọn hành vi ứng xữ phù hợp. Còn kiểm soát từ bên ngoài là XH dùng các công cụ quản
lý và các thiết chế để duy trì trật tự XH. Đây là việc sử dụng các tác động như xữ phạt, bắt
giam, tẩy chay, xa lánh,…
Kiểm soát chính thức là hình thức kiểm soát XH do những cơ quan chủ yếu được nhà
nước lập ra, nhằm bảo vệ pháp luật như cảnh sát, toàn án, trại giam, viện kiểm soát,… kiểm
soát không chính thức là kiểm soát của các nhóm nhỏ và nhóm không chính thức bắng cách
xem xét, đánh giá mọi hành vi của các thành viên theo cả các chuẩn mực thành văn và các
chuẩn mực không thành văn; các hành vi sai lệch bị mọi người lên án, bị tẩy chay tố giác,…
Mỗi hình thức kiểm soát xã hội có tính ưu việt riêng của nó, không được xem nhẹ hình thức
nào, nhà quản lý phải có sự phối hợp giữa các hình thức trên, trong từng giai đoạn có sự chú
trọng đến hình thức hợp lý để đạt kết quả tốt nhất.
Trong điều kiện XH hiện nay, các điều kiện có thể làm phát sịnh sai lệch xã hội còn
nhiều, dẫn đễn xã hội xuất hiện nhiều sai lệch XH; nhà quản lý phải nhìn nhận đúng nguyên
nhân phát sinh các sai lệch xã hội để tìm cách khắc phục, trong đó vấn đề quan trọng là xây
dựng, kiện toàn các hệ thống giá trị; đồng thời tăng cường công tác kiểm soát XH, trong đó chú
ý tăng cường công tác kiểm soát nội tâm, chú ý giáo dục con người để mỗi cá nhân tự kiểm
soát mình, tự hạn chế sai lệch XH.
Khi sai lệch XH đã xãy ra thì cương quyết xữ lý bằng kiểm soát chính thức, thực hiện
theo đúng quy định của pháp luật, từ đó tạo cho pháp luật nghiêm minh, mọi người đều tự giác
chấp hành. Qua đó hạn chế được tối đa những hành vi tệ nạn XH, tiêu cực tham ô, tham nhũng,
lãng phí quan liêu,… khuyến khích các hành vi hợp chuẩn ngăn chặn các hành vi không hợp
chuẩn nhằm ổn định trật tự XH, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triễn XH, thực hiện mục
tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng dân chủ văn minh.
Tóm lại, cùng với tiến trình đi lên của sự nghiệp đổi mới nhiều vấn đề mới nãy sinh
phong phú và đa dạng, vấn đề nghiên cứu sai lệch XH và kiểm soát XH cần được chú trọng
nhằm góp phần nâng cao ý thức chấp hành trong quản lý XH của nhà nước. Ngăn chặn và đẩy
lùi các hành vi sai lệch tiêu cực là công việc cấp thiết hiện nay của toàn XH, tạo động lực mạnh
mẽ cho sự phát triễn thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh XH công bằng dân chủ văn minh.
13
Câu 5: Ý nghĩa của việc nghiên cứu dư luận xã hội (DLXH) trong điều kiện nước ta
hiện nay.
Sức mạnh của dư luận xã hội từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con
người. Rất ít người phủ nhận sự tác động của dư luận đến việc điều chỉnh hành vi của các cá
nhân, nhóm người trong xã hội về vai trò của dư luận cũng đặc biệt quan trọng đối với các nhà
lãnh đạo quản lý trong việc hoạch định những chiến lược, đường lối, chủ trương và đưa ra các
quyết định quản lý nhằm đạt được những mục đích đã đề ra. Vậy dư luận xã hội là gì?
Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị sự phán xét, đánh giá và thái
độ của các nhóm xã hội đối với các vấn đề liên quan đến lợi ích của các nhóm trong xã hội. Dư
luận xã hội được hình thành thông qua các cuộc trao đổi, thảo luận công khai. Đối tượng của
dư luận là các hiện tượng, sự kiện, quá trình xã hội đang diễn ra, tác động đến lợi ích của các
nhóm xã hội, thu hút được sự quan tâm của công chúng.
Dư luận xã hội khác với tin đồn bởi tác động của cả hai hoàn toàn khác nhau. Tin đồn là
hiện tượng truyền thông tin từ cá nhân này sang cá nhân mang nặng chính kiến, yếu tố chủ
quan của cá nhân, bao hàm cả sự phóng đại vì vậy nó có thể ban đầu xuất phát từ sự thật nhưng
do lan truyền tính bịa đặt khá cao làm sai lệch so với thông tin ban đầu. Tin đồn thường lan
truyền thông tin không chính thức và không có trách nhiệm xã hội. Còn dư luận xã hội là biểu
thị ý kiến, sự đánh giá và thái độ của tập thể, của số đông nhiều người, mang tính khách quan
và được truyền đi một cách công khai, chính thức trên các phương tiện truyền thông đại chúng
và có tính trách nhiệm xã hội cao bởi nó hàm chứa gợi ý cả cách giải quyết vấn đề.
Dư luận xã hội có bốn tính chất cơ bản đó là tính công chúng, công khai; tính lợi ích;
tính lan truyền và tính biến đổi.
Tính công chúng, công khai được thể hiện thông qua chủ thể của dư luận xã hội. Chủ
thể tiếp cận thông tin về đối tượng, sử dụng phương tiện truyền thông để trao đổi, bàn bạc với
nhau để nhiều người cùng biết, đó là tính công khai của dư luận xã hội. Xét theo góc độ đối
tượng, các thông tin về đối tượng phải được phổ biến, công bố qua con đường chính thức.
Tính lợi ích đối với dư luận xã hội luôn gắn chặt với lợi ích của nhóm, các tổ chức trong
xã hội, gồm các lợi ích về vật chất và lợi ích về tinh thần. Lợi ích vật chất là sự kiện hiện tượng
ảnh hưởng đến kinh tế, đến sự ổn định cuộc sống của các nhóm xã hội. Còn lợi ích về tinh thần
tức là sự kiện, hiện tượng đụng chạm đến hệ thống giá trị chuẩn mực xã hội của các nhóm xã
hội.
Tính lan truyền của dư luận xã hội là lan truyền từ cá nhân này truyền đến cá nhân
khác, từ nhóm này truyền đến nhóm khác, lan truyền rộng rãi trong công chúng và có ảnh
hưởng đến xã hội, tính lan truyền càng nhanh thì dư luận xã hội càng lớn.
Tính biến đổi, dư luận xã hội luôn luôn biến đổi theo không gian và thời gian vì không
gian khác nhau dẫn đến môi trường văn hoá khác nhau, các giá trị chuẩn mực khác nhau. Đồng
thời, thời gian khác nhau cũng dẫn đến giá trị chuẩn mực thay đổi theo sự phát triển của xã hội
dẫn đến thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá của công chúng.
Khác với tri thức khoa học, dư luận xã hội bao hàm các nhân tố chủ quan, phức tạp và
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Có thể chia các yếu tố đó ra thành năm nhóm cơ
bản đó là quy mô, cường độ và tính chất của các sự kiện, hiện tượng, mức độ dân chủ hoá đời
sống xã hội, các yếu tố thuộc về tâm trạng xã hội, phong tục tập quán, hệ thống giá trị chuẩn
mực xã hội hiện hành, công tác truyền thông, vận động.
14
Dư luận xã hội có vai trò to lớn trong quản lý xã hội và trong suốt quá trình phát triển
của lịch sử xã hội loài người, dư luận xã hội ủng hộ, khuyến khích những hành vi tốt đẹp, trung
thực dũng cảm, tình yêu thương đồng loại và bao giờ cũng lên án ngăn cản những hành vi sai
trái. Khi xã hội phân chia giai cấp thì dư luận xã hội thường bị chi phối bởi ý thức hệ của giai
cấp thống trị. Mỗi nhà nước muốn quản lý kiểm soát xã hội phải được dư luận xã hội tán đồng
vì vậy giai cấp thống trị luôn truyền bá tư tưởng thống trị, giá trị của giai cấp mình tạo dư luận
ủng hộ giai cấp đó.
Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng dư luận xã hội vì mọi hoạt động của Đảng và
Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Qua dư luận xã hội
để nắm bắt được tâm trạng của nhân dân, hiểu được nguyện vọng và lợi ích của họ để đề ra chủ
trương, chính sách phù hợp, Bác nói đã từng nói: Giữ chặt mối quan hệ với dân chúng và lắng
nghe ý kiến của dân chúng là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi.
Dư luận xã hội tiềm ẩn một sức mạnh to lớn thể hiện qua các chức năng cơ bản đó là
chức năng điều hoà quan hệ xã hội, chức năng điều chỉnh hành vi cá nhân và nhóm, chức năng
giám sát và tư vấn.
Chức năng điều hoà quan hệ xã hội, chúng ta biết rằng trong xã hội tồn tại nhiều nhóm
với các vị thế và lợi ích khác nhau, nên khi một sự kiện xã hội xảy ra có ý kiến phán xét và thái
độ khác nhau. Dư luận xã hội là một cơ chế thảo luận, trao đổi liên tục tìm ra các quan điểm
chung trong lợi ích, nhìn nhận, đánh giá thực tiễn xã hội. Qua trao đổi, thảo luận mỗi nhóm sẽ
thấy được lợi ích của họ trong tương quan với lợi ích của nhóm khác-của xã hội. Vì vậy, ý kiến,
thái độ dần dần phải xuất phát từ lợi ích chung.
Chức năng điều chỉnh hành vi cá nhân và nhóm, với chức năng này thì sự lên án hay
ủng hộ của dư luận xã hội tác động mạnh mẽ đến hành vi của cá nhân, nhóm, buộc họ phải điều
chỉnh cho phù hợp với giá trị, chuẩn mực xã hội. Tuy nhiên, sự đánh giá phán xét của dư luận
xã hội không phải khi nào cũng đúng, cũng hợp lý và tích cực đối với sự phát triển của xã hội
và con người. Trước dư luận xã hội, cá nhân, nhóm sẽ điều chỉnh hành vi như thế nào còn phụ
thuộc vào ý chí của họ. Nhìn chung không ai có thể “bỏ ngoài tai” được dư luận xã hội.
Chức năng giám sát và tư vấn, chức năng này thể hiện rõ nét khi đối tượng của dư luận
xã hội là hoạt động của các tổ chức lãnh đạo, quản lý xã hội. Trong chế độ xã hội dân chủ,
người dân có nhiều cơ hội tham gia vào kiến thiết, quản lý nhà nước; có quyền bầu ra người
lãnh đạo, quản lý, đồng thời bằng dư luận xã hội họ phán xét, đánh giá chủ trương, chính sách
và kết quả hoạt động của cá nhân, cơ quan lãnh đạo, quản lý. Việc xây dựng quy chế dân chủ ở
cơ sở, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là tạo điều kiện cho dư luận xã hội
thực hiện chức năng giám sát, tư vấn.
Việt Nam chúng ta đang trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại và mở cửa giao lưu với các nước trên thế giới. Hệ thống giá trị chuẩn mực đang biến
đổi mạnh mẽ, việc quản lý xã hội trên các mặt còn nhiều lúng túng, xã hội đang phát sinh nhiều
vấn đề mới. Dư luận xã hội được xem là một trong những công cụ, phương tiện hiệu quả để
hạn chế, ngăn ngừa và phòng chống những tiêu cực nhằm ổn định trật tự xã hội.
Với xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, trình độ văn hoá của quần chúng ngày càng
được nâng cao, dân chủ càng mở rộng thì sức mạnh của dư luận xã hội ngày càng lớn, nó tác
động đến xã hội như những luật lệ bất thành văn. Vì vậy, nghiên cứu dư luận xã hội có ý nghĩa
15
rất quan trọng đối với công tác quản lý xã hội, đối với việc đề ra và triển khai các chủ trương
nhiệm vụ cụ thể trong từng thời điểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động quản lý xã hội đòi hỏi
chúng ta phải hiểu biết sâu sắc thực tiễn xã hội, hiểu biết nhu cầu và lợi ích của quần chúng
trong sản xuất cũng như trong đời sống. Nghiên cứu dư luận xã hội là một trong những hình
thức tốt nhất để thu thập thông tin phản ánh tâm tư nguyện vọng cũng như suy nghĩ và cảm xúc
của các tầng lớp xã hội. Tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội một cách nghiêm túc là phương tiện
cần thiết để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và mở rộng dân chủ xã hội.
Nghiên cứu dư luận xã hội giúp ta nắm bắt kịp thời thực trạng tư tưởng của các nhóm xã
hội khác nhau, cũng như những diễn biến của thực trạng này trong từng thời kỳ. Đây cũng là
những nguồn thông tin vô cùng quý giá giúp ta khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng,
khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo, quản lý xã hội. Các thông tin này còn là
những tín hiệu phản hồi từ phía quần chúng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ KT–XH từ đó
có cơ sở điều chỉnh, bổ sung các chủ trương chính sách phù hợp hơn.
Nghiên cứu dư luận xã hội một mặt góp phần nâng cao ý thức giác ngộ chính trị trong
quần chúng, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, động viên quần chúng tham gia vào việc quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Mặt khác, góp phần làm tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, nhà
nước với quần chúng nhân dân, góp phần hoàn thiện công tác lãnh đạo quản lý xã hội trên cơ
sở khoa học.
Nghiên cứu dư luận xã hội giúp chúng ta có những thông tin về các mặt hoạt động của
các cơ quan nhà nước và giúp cho nhân dân nhận thức và thực hiện các chủ trương, chính sách,
của Đảng, của nhà nước và các tổ chức xã hội để giải quyết các vấn đề còn vướng mắc. Những
thông tin này là mộ trong những căn cứ quan trọng để Đảng và nhà nước kiểm tra công tác của
mình để có những chủ trương, quyết định cần thiết phù hợp với thực tế.
Nắm được dư luận xã hội, người quản lý có thể tiên đoán được những điểm nóng trong
đời sống xã hội, chuẩn bị trước các biện pháp can thiệp kịp thời, giải quyết được mâu thuẫn,
ngăn chặn được bạo lực, gây rối.
Tóm lại, cùng với tiến trình đi lên của sự nghiệp đổi mới, nhiều vấn đề mới nảy sinh
phong phú và đa dạng, vấn đề nghiên cứu dư luận xã hội và việc sử dụng thông tin dư luận xã
hội cần được chú trọng nhằm góp phần nâng cao ý thức giác ngộ, ý thức chính trị trong quần
chúng tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đồng thời tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng, nhà nước với quần chúng nhân dân góp phần hoàn thiện công tác lãnh đạo quản lý
xã hội trên cơ sở khoa học; phát huy được tinh thần dân chủ xã hội, tạo điều kiện cho công tác
lãnh đạo, quản lý đạt kết quả cao.
16
Câu 6: Phân tích vai trò của chính sách XH và những yêu cầu đối với hoạt động
hoạch định và thực hiện chính sách XH ở nước ta trong thời kỳ hiện nay.
Hay: Phân tích vai trò của chính sách xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay và
quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề này.
Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, việc xât dựng và thực hiện chính sách xã
hội một cách đúng đắn là động lực to lớn nhằm phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những năm qua, song song với nhiệm vụ thúc
đẩy phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cũng hết sức quan tâm đến chính sách XH và nhờ
có những quan điểm đúng đắn, hợp lý trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách XH mà
đất nước ta đã đạt được những thành tựu lớn về phát triễn kinh tế, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi cho việc phát triển nhân cách, phẩm
chất, năng lực, trí tuệ và thể chất cho con người Việt Nam; đảm bảo yếu tố công bằng xã hội
trong từng bước phát triển. Những kết quả mà chính sách XH mang lại đồng thời cũng phản
ánh tính ưu việt của chế độ ta, góp phần không nhỏ vào việc giữ vững, cũng cố và phát triển
XH.
Chính sách XH là sự thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương giải quyết các vấn đề
XH, dựa trên những tư tưởng, quan điểm chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất chế độ chính
trị XH, phản ánh lợi ích và trách nhiệm cộng đồng XH nói chung và từng nhóm XH nói riêng
nhằm tác động trực tiếp vào con người và điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con người
với con người, con người với XH vì sự công bằng XH, an sinh XH góp phần ổn định, phát triển
và tiến bộ XH.
Để đạt tới sự công bằng, an toàn, tạo điều kiện phát triển con người một cách toàn diện,
chính sách XH phải thực hiện tốt các nhiệm vụ như:
Tái tạo tiềm năng nhân lực của đất nước thông qua các chính sách về dân số, giai đình,
bảo vệ sức khỏe, bảo hộ lao động, tổ chức nghỉ ngơi, giải trí, khắc phục các tệ nạn XH, bảo
đảm an toàn XH.
Góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền tảng vững chắc của XH với các chính
sách về nhà ở, bảo vệ môi trường sinh thái, sự phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ
thuật,…
Nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước, tạo thêm nhiều việc làm cho các tầng
lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, đào tạo lại và đào tạo mới người lao động để tiếp thu kỹ
thuật, công nghệ hiện đại và không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Tạo điều kiện cho XH ngày càng có nhiều khả năng và biết tiêu thụ sản phẩm vật chất,
tinh thần một cách đúng đắn, tiết kiệm phù hợp với trình độ phát triển sức sản xuất của đất
nước và những chuẩn mực đạo đức, pháp lý của chế độ XH mới.
Tạo lập, hình thành mô hình lối sống mới theo hướng phát triển toàn diện của cá nhân
kết hợp hài hòa với sự phát triển của cộng đồng trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, đồng thời xây dựng những giá trị mới phù hợp với bản sắc dân tộc và yêu
cầu của thời đại.
Trong quá trình xây dựng các chính sách xã hội và triển khai vào thực tiễn cuộc sống,
chúng ta phải chú ý đến các mối quan hệ cơ bản giữa chính sách xã hội với các chính sách
khác, nhằm tạo sự cân đối để thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên. Đó là, quan hệ hợp lý giữa
chính sách XH và chính sách kinh tế, thực chất, đó chính là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
17
tế, thực hiện công bằng và thúc đẩy xã hội. Quan hệ họp lý đó thể hiện chính sách xã hội và
chính sách kinh tế là một thể thống nhất, sự thống nhất đó được xác định ở quan hệ hợp lý giữa
chúng, mà ở đó sự kết hợp là tối ưu nhất, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triễn và tiến bộ
XH. Sự kết hợp đó dựa trên nguyên tắc chính sách kinh tế phải tìm được động lực trên XH và
đảm bảo ổn định XH; ngược lại, chính sách XH phải thúc đẩy kinh tế phát triển và phù hợp với
điều kiện kinh tế cho phép.
Bên cạnh đó, mục tiêu, đối tượng của chính sách XH và khả năng giải quyết của nền
kinh tế trong một thời gian nhất định phải có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đó là quan hệ cân
đối tích cực và chủ động, vừa đảm bảo tính mục tiêu của chính sách vừa có tính khả thi cao;
trong từng giai đoạn có lựa chọn mục tiêu, sắp xếp nguồn lực, xác định đối tượng ưu tiên, thiết
kế bước đi cho thích hợp.
Tiếp theo, phải đảm bảo quan hệ cân đối theo mặt bằng của các chính sách XH. Cơ sở lý
luận của quan hệ cân đối là quan điểm về công bằng XH. Mọi chính sách XH phải được điều
chỉnh theo nguyên tắc công bằng để tạo ra sự hài hòa trong mối quan hệ XH. Trước hết là quan
hệ lợi ích để không tạo ra sự chênh lệch quá đáng hoặc bình quân chủ nghĩa, vượt quá giới hạn
cho phép, gây ra những điểm nóng mất ổn định của XH.
Quan hệ cân đối trong chính Sách XH liên quan đến hình thành cơ cấu XH, phù hợp
định hướng mục tiêu phát triển XH. Chính sách XH phải xuất phát từ cơ cấu XH, tác động vào
cơ cấu XH để duy trì hay làm biến đổi nó theo hướng đạt được một cơ cấu XH tối ưu, bảo đảm
sự phát triển XH trong sự ổn định.
Tiếp đến, phải giữ quan hệ cân đối trong lồng ghép các chính sách XH nhằm tập trung
các nguồn lực và giải quyết các đồng bộ các mục tiêu trong hệ thống chính sách XH. Trong
cùng một thời điểm, một địa bàn nhất định phải lồng ghép giữa các chính sách để giải quyết
đồng bộ các mục tiêu.
Cuối cùng là phải đảm bảo quan hệ cân đối giữa mục tiêu, nội dung, hành vi, phạm vi,
quy mô của chính sách XH với khả năng tổ chức tiếp nhận, triễn khai thực hiện chính sách XH.
Một chính sách XH ra đời nếu không có cơ chế vận hành riêng sẽ không đến được mục tiêu,
đối tượng và hiệu quả. Tức là chính sách và đối tượng bao giờ cũng phải qua khâu tổ chức thực
hiện; có như thế thì chính sách xã hội mới sớm đi vào cuộc sống.
Hiện nay, nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm đưa nước ta từ một nước đang phát triển thành một quốc gia phát triển;
và trong quá trình đó, nhân tố con người được xem là nguồn lực quan trọng nhất. Phát triển con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế XH; và đây cũng là điều kiện
thực hiện công nghiệp hóa. Để phát triển con người toàn diện, một trong những công cụ, biện
pháp mà nhà nước áp dụng là thực hiện hàng loạt các chính sách XH.
Thật vậy, chúng ta có thể thấy rằng chính sách XH là chính sách với con người, phát huy
mọi tiềm năng, nguồn lực con người trong việc ổn định và phát triển XH, ảnh hưởng to lớn đến
sự phát triển của XH. Nhiệm vụ của chính sách XH là căn cứ trên các yếu tố kinh tế, xã hội để
đề ra và thực thi biện pháp, các giải pháp làm cho con người, cho nhân dân lao động có điểu
kiện sống ngày càng tốt hơn về cả vật chất lẫn tinh thần, qua đó khơi dậy tính tích cực của mỗi
con người. Với ý nghĩa đó, chính sách XH thật sự là một nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy sự phát
triển của XH.
Chính sách XH còn quan trọng bởi ảnh hưởng của nó đến mọi mặt của đời sống xã hội,
18
là công cụ để khắc phục những hạn chế về phân hóa, mâu thuẩn và khác biệt xã hội, để điều tiết
các quan hệ XH nhằm phát huy khả năng của toàn XH vào những mục tiêu chung. Khi có vấn
đề xã hội nãy sinh, tức là cơ cấu XH của xã hội đó có điểm không còn phù hợp thì cần phải
điều chỉnh vào các phân hệ của cơ cấu XH bằng cách dùng các chính sách XH tác động vào,
nhằm cho XH được công bằng, tạo môi trường tích cực cho XH phát triển và từ đó hướng tới
hình thành cơ cấu XH mới phù hợp, tối ưu, bảo đảm cho XH tồn tại và phát triển trong sự ổn
định.
Chính sách XH còn có vai trò quan trọng bởi nó luôn hướng tới sự công bằng XH, do đó
tạo tính tích cực, năng động XH, làm cho XH phát triển bền vững. Nhưng công bằng có nghĩa
là cào bằng mà là có sự chênh lệch hợp lý: ai cống hiến nhiều, hy sinh nhiều thì phải hưởng lợi
ích nhiều hơn. Vì vậy công bằng ở đây là sự cân đối mặt bằng giữa các chính sách, là giải quyết
chính sách XH sao cho vấn đề lợi ích giữa các đối tượng có thể có chênh lệch nhưng XH chấp
nhận được. Nếu không có chính sách XH phù hợp, giải quyết đúng đắn vấn đề mấu chốt này có
thể làm triệt tiêu các động lực xã hội, dẫn tới sự trì trệ và khủng hoảng xã hội.
Trong những năm qua, trên cơ sở Chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm các nước,
quan điểm của Đảng ta về chính sách xã hội tập trung vào một số điểm được xác định rõ trong
các văn kiện đại hội đảng, gần đây nhất là Nghị quyết đại hội Đảng XI. Đó là sự kết hợp các
mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục,… giải quyết tố các vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người.
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời
theo mức độ góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội, thực hiện các
chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, công hiến và hưởng
thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. tập trung giải quyết
các vấn đề xã hội bức xúc.
Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá
đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ
các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ
phận dân cư nghèo. Khắc phục tư tưởng ỷ lại.
Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ công cộng thiết
yếu, bình đẳng cho mọi người về giáo dục và đào tạo, tạo việc làm, chăm sóc sức khoẻ, văn
hoá-thông tin, thể dục thể thao,…
Tóm lại, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao
động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc,… Coi nhẹ
chính sách xã hội là coi nhẹ con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH. CSXH đúng đắn vì
hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảng ta chủ trương giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế
độ ta, chế độ xã hội chủ nghĩa.