TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
Đề tài tiểu luận triết học:
TRÀO LƯU TRIẾT HỌC KHOA HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY THỜI HIỆN ĐẠI
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
NHÓM 2 LỚP Đ1- K22
HỌC VIÊN THỰC HIỆN:
6. Trần Thuận Ánh
7701220055
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
TP.HCM, ngày 10 tháng 12 năm 2012
Học viên: Trần Thuận Ánh
2
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, khi có sự xuất hiện của lồi người thì các hiện tượng siêu tự nhiên là
một vấn đề khó lý giải và khó hiểu cho lồi người. Con người tự đặt ra nhiều câu hỏi:
tại sao lại có các hiện tượng, mưa bão, lũ lụt, sự thay đổi của khí hậu v.v... làm cho con
người phải suy nghĩa và dần dần đi đến tìm hiểu những vấn đề chung nhất của quy
luật tự nhiên. Từ đó Triết học ra đời, và trải qua hàng ngàn năm con người thâm nhập
vào lĩnh vực triết học, tìm hiểu những vấn đề được gọi là Triết học, triết lý học.
Cùng với quá hình hình thành và phát triển của lịch sử triết học có nhiều rất
nhiều cách định nghĩa, cách hiểu triết học khác nhau. Trong đó triết học đã có khi được
định nghĩa "triết học là khoa học của các khoa học". Mối quan hệ giữa triết học và
khoa học đã trở thành một đề tài muôn thủa và không ngừng được các nhà nghiên cứu
phân tích và xây dựng lên các trường phái khác nhau.
Từ đầu thế kỷ XX, tại các nước phương Tây – trung tâm khoa học của thế giới,
sự ra đời và phát triển của trào lưu Triết học khoa học đi kèm với một thời kỳ bùng nổ
về khoa học kỹ thuật. Góp phần tạo nên một diện mạo mới hoàn toàn cho phương Tây
thời hiện đại.
Đề tài này xin được nghiên cứu và phân tích về trào lưu triết học khoa học và sự
ảnh hưởng của trào lưu này tới xã hội phương Tây hiện đại.
Trong quá trình tìm hiểu và phân tích cịn gặp nhìu hạn chế về thời gian, sự hạn
chế về thông tin và trình độ nên đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự đóng góp của người thầy hướng dẫn và giảng dạy Ts. Bùi Văn Mưa.
Chân thành cám ơn thầy và tỏ sự tri ân với sự giảng dạy nhiệt tình và tâm huyết
của thầy tới chúng em!
Học viên: Trần Thuận Ánh
3
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
1.
Khái niệm Triết học
Triết học là hình thức ý thức xã hơi ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy
thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những học thuyết triết học đầu tiên trong lịch
sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII-VI (Trước Công nguyên) ở Ấn Độ cổ đại, Trung
Quốc cổ đại, Hy lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.
Triết học được định nghĩa: là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về
những nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ của con người đối với
thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.
Trào lưu triết học khoa học
2.1.
Hoàn cảnh ra đời
Triết học phương Tây hiện đại đã hình thành ở các nước phương Tây từ giữa
thế kỷ XIX và phát triển rất mạnh mẽ cho đến ngày nay. Nó phản ánh hiện thực cuộc
sống đầy sôi động và vô cùng phức tạp của xã hội phương Tây tư bản chủ nghĩa trong
quá trình chuyển mình từ giai đoạn tiền đế quốc chủ nghĩa sang đế quốc chủ nghĩa, mà
trước hết là phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng ngày càng quyết liệt giữa giai cấp vô sản
- giai cấp ngày càng nhận thức rõ vai trò, sứ mạng lịch sử của mình, với giai cấp tư sản
— giai cấp ngày càng trở nên lỗi thời và thâm hiểm, phản động
Triết học phương Tây hiện đại bao gồm hai dòng triết học xung đột mãnh liệt
với nhau. Đó là: Triết học mácxít - cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, ý thức hệ
của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động tiến bộ đang đấu tranh đòi cải tạo
xã hội tư bản chủ nghĩa nhằm xây dựng chủ nghĩa cộng sản và triết học phương Tây
ngoài mácxít hiện đại bao gồm nhiều trào lưu, khuynh hướng, trường phái, quan điểm
lý luận...rất đa dạng, tuy nhiên chúng ít nhiều đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp tư
sản, từ truyền thống của các dân tộc phương Tây tư bản chủ nghĩa.
Triết học phương Tây ngoài macxit hiện đại rất đa dạng: Từ đầu thế kỷ XX trở
đi, triết học phương Tây hiện đại tiếp tục phân hóa thành nhiều trào lưu, trường phái,
chi nhánh khác nhau mỗi trào lưu, trường phái đào sâu một khía cạnh, một mặt, một
yếu tố nào đó trong cuộc sống đa dạng của con người để xây dựng triết lý riêng. Tuy
nhiên, trong tính đa dạng đó, chúng ta nhận thấy có ba trào lưu chủ yếu là chủ nghĩa
duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý và triết học tôn giáo.
Học viên: Trần Thuận Ánh
4
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
2.2.
Các trào lưu triết học khoa học
Theo các triết gia thuộc trào lưu chủ nghĩa duy khoa học không nên nghiên cứu
những vấn đề như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới,... mà đi tìm
phương pháp khoa học có hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu
của việc nghiên cứu triết học.
Triết học khoa học bao gồm hai trào lưu nối tiếp nhau: Trào lưu thực chứng và
Trào lưu hậu (phản) thực chứng.
2.2.1.
Trào lưu thực chứng
Trào lưu thực chứng: Chủ nghĩa thực chứng ra đời vào những năm 30-40 của
thế kỷ XIX ở Pháp, sau đó ở Anh với khẩu hiệu Bản thân khoa học đã là triết học; Tri
thức
về
thế
giới
là
đặc
quyền
của
khoa
học
thực
chứng...
Chủ nghĩa thực chứng đã phát triển qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn thực chứng cổ điển xuất hiện vào thập niên 30 của thế kỷ 19 với
những đại biểu là Comte (Pháp), Spencer, Mill (Anh).
- Giai đoạn kinh nghiệm phê phán xuất hiện vào thập niên 70-90 thế kỷ 19. Đại
biểu của giai đoạn này là Match và Avenarius. Như vậy, chủ nghĩa thực chứng đã
chuyển từ chủ nghĩa hiện tượng mang tính chất bản thể luận sang chủ nghĩa hiện tượng
mang bản chất nhận thức luận.
- Giai đoạn thực chứng mới ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ 1 và phát triển
cao vào những năm 50 thế kỷ 20. Giai đoạn này có nhiều chi phái:
+ Chủ nghĩa nguyên tử logic xuất hiện từ năm 1920, đại biểu là Russell và
Wittgenstein. Họ cho rằng, yếu tố cấu tạo nên tự nhiên không phải là vật chất mà là
những phán đoán trên cơ sở tri giác, và họ gọi chúng là những đơn vị lơgích.
+ Chủ nghĩa thực chứng logic và triết học phân tích: Đây là những mơn phái
đưa chủ nghĩa thực chứng mới vào thời kỳ hưng thịnh nhất để rồi sau đó rơi vào thời
kỳ tan rã khơng tránh khỏi. Đại biểu chính là Carnap và Shelich. Trong số các nhà
sáng lập triết học phân tích vào đầu thế kỷ 20 thì Russell là người có ảnh hưởng tương
đối lớn. Chủ nghĩa thực chứng lơgích dựa trên hai ngun tắc: ngun tắc kiểm chứng
và nguyên tắc quy ước.
2.2.2.
Học viên: Trần Thuận Ánh
Trào lưu hậu thực chứng
5
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, triết học khoa học phương Tây chuyển từ
trào lưu thực chứng sang trào lưu phản (hậu) thực chứng. Các vấn đề tăng trưởng tri
thức, thay đổi lý luận, phát triển khoa học... được nghiên cứu gắn liền với thực trạng
khoa học lúc bấy giờ theo tinh thần phủ chứng và quan điểm lịch sử.
Các đại điện tiêu biểu của trào lưu hậu thực chứng gồm:
- Karl Popper (28/6/1902 – 17/9/1994) là một nhà triết học người Áo. Để duy trì
sức sống cho trào lưu triết học khoa học, Popper đã kế thừa có phê phán chủ nghĩa
thực chứng lơgích đang suy tàn và tìm kiếm một hình thức mới - chủ nghĩa phủ chứng.
Popper cho rằng, một lý luận được gọi là khả phủ chứng nếu từ nó rút ra ít nhất một
trần thuật có thể xung đột với một vài sự kiện nào đó. Nếu sự xung đột đã xảy ra thì lý
luận này là lý luận bị phủ chứng, còn nếu sự xung đột chưa xảy ra thì lý luận này là lý
luận vị phủ chứng. Lý luận bị phủ chứng bị đào thải, lý luận vị phủ chứng tạm thời
được giữ lại tạo thành nội dung của khoa học. Do cho rằng con người không bao giờ
đạt tới chân lý, mọi tri thức đều không đầy đủ, mọi lý luận khoa học đều là những suy
đoán giả thuyết khả phủ chứng, mà Pốppơ coi khoa học khơng truy tìm tính chân lý để
xác chứng mà là truy tìm tính sai lầm để phủ chứng lý luận
- Triết gia tiêu biểu tiếp theo của trào lưu phản thực chứng là Lakatos. Khi vạch ra
sai lầm cơ bản của chủ nghĩa phủ chứng thô sơ Pốppơ là quá đề cao tính phủ chứng
của kinh nghiệm, Lacatốt (Lakatos) đã khắc phục nó bằng chủ nghĩa phủ chứng tinh tế.
Ơng cho rằng, tính chất cơ bản của lý luận khoa học khơng phải là tính khả phủ
chứng mà là tính mềm dẻo chịu đựng và tính phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, các lý luận
khoa học hợp lại tạo thành tri thức bối cảnh của khoa học thống nhất.
Lacatốt coi sự tăng trưởng liên tục của tri thức khoa học là do sự sản sinh và cạnh
tranh của các hệ lý luận khoa học chứ không phải do sự phản bác dẫn đường hay sự bất
thường xảy ra trong khoa học. Ngồi ra, ơng cịn dùng lịch sử khoa học để đánh giá
các phương pháp luận cạnh tranh nhau trong trào lưu triết học khoa học bấy giờ.
- Thomas Samuel Kuhn (1922-1996) được từ điển triết học của Đại học Stanford
đánh giá là “một trong số các triết gia khoa học nhiều ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 20,
mà có lẽ là người ảnh hưởng nhiều nhất.
Học viên: Trần Thuận Ánh
6
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
Cun (Kuhn) cho rằng, trong sự nghiệp khoa học luôn tồn tại các khối cộng đồng
khoa học độc lập nhau, bị chi phối bởi các kiểu mẫu mực khác nhau. Cun không chỉ
liên kết kiểu mẫu mực với cộng đồng khoa học mà còn cố gắng kết hợp lịch sử bên
trong với lịch sử bên ngoài của khoa học, cố gắng kết hợp lịch sử khoa học với xã hội
học và tâm lý học khoa học... nhằm vạch ra và khảo sát các yếu tố chi phối sự phát
triển khoa học.
Cun coi khoa học là kết quả hoạt động của các khối cộng đồng khác nhau, có sử
dụng các kiểu mẫu mực khơng giống nhau nhưng ln thay đổi để hồn thiện chính
mình; coi lịch sử khoa học không chỉ là lịch sử trừu tượng của tư tưởng mà còn là lịch
sử của khối cộng đồng khoa học, luôn bị chi phối bởi các quy luật nội tại và những áp
lưc lớn từ bên ngoài khoa học như các tư tưởng triết học, các yếu tố lịch sử - xã hội,
các yếu tố tâm lý cá nhân...
Ông đã đưa ra lý luận “Động thái phát triển khoa học”, trong đó khẳng định mỗi
chu trình phát triển của khoa học phải trai qua bốn thời kỳ là:
+ Tiền khoa học
+ Khoa học bình thường
+ Khủng hoảng khoa học
+ Cách mạng khoa học
Ông kết luận, thế giới mà các nhà khoa học nhận thức không phải là thế giới tồn tại
khách quan bên ngoài mà là thế giới ước định tồn tại chủ quan bên trong đời sống tâm
lý của một cá nhân hay một cộng đồng các nhà khoa học. Cun coi chân lý chỉ là
phương tiện chủ quan được dùng để loại bỏ những vấn đề nan giải trong nghiên cứu
khoa học.
Sự phủ nhận tính kế thừa của các kiểu mẫu mực đã buộc Cun phải coi khoa học
tiến triển không theo hướng tiến bộ mà là theo hướng tuỳ cơ mà diễn biến. Còn nếu
buộc phải thừa nhận có sự tiến bộ trong tiến trình phát triển khoa học thì ơng hiểu tiến
bộ theo tinh thần của thuyết tiến hóa sinh học, nghĩa là lý luận tiến bộ hơn là lý luận
đối phó tốt hơn với sự thay đổi của hoàn cảnh, hay giải quyết các vấn đề nan giải hiệu
quả hơn.
Học viên: Trần Thuận Ánh
7
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
- Paul Feyarabend (13/1/1924 – 11/2/1994) là một nhà Triết học, khoa học sinh
ra tại Áo đã tiếp tục phát triển chủ nghĩa lịch sử trong “Phương pháp luận đa nguyên”.
Phương pháp luận đa nguyên là định hướng để ông xây dựng lý luận về khoa học
tự do trong một xã hội tự do. Trong xã hội tự do, khơng có một tiêu chuẩn tuyệt đối
nào để phân giới khoa học và các hình thái ý thức phi khoa học, mà chúng đan xen
thâm nhập vào nhau, vì vậy, khơng nên dành cho khoa học một quyền uy trước các
hình phải là mục tiêu quan trọng nhất, và khoa học không chi phối mọi sinh hoạt của
con người, mà mỗi con người đều có một điều kiện để sống, một niềm tin để theo đuổi,
một cơ hội để sáng tạo
Học viên: Trần Thuận Ánh
8
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
3.
Ảnh hưởng của triết học khoa học đến xã hội phương Tây thời hiện
đại:
3.1.
Ảnh hưởng tới sự phát triển khoa học phương Tây thời hiện đại
Theo như lịch sử hình thành trong hàng ngàn năm thì triết học được khoa học
cung cấp cho những tài liệu nhận thức về khoa học, tự nhiên, xã hội,… và mỗi lần có
một phát minh lớn của thời đại trong lĩnh vực khoa học, thì chủ nghĩa duy vật khơng
tránh khỏi thay đổi hình thức của nó. Và ngược lại triết học đã đi trước khoa học trên
nhiều lĩnh vực, và bằng những tư tưởng đúng đắn, bằng những dự kiến thiên tài, triết
học đã không những vạch đường cho khoa học tiến lên và giúp khoa học định ra
phương hướng và những công cụ nhận thức để khắc phục những khó khăn trở ngại vấp
phải trên đường đi của mình.
Sự ra đời và phát triển của hai trào lưu triết học nối tiếp nhau: Chủ nghĩa thực
chứng và hậu thực chứng có quan hệ chặt chẽ với sự phát triển như vũ bão của khoa
học phương Tây thế kỷ XX. Chủ nghĩa thực chứng mới có ảnh hưởng sâu sắc tới: sự
phát triển của toán học, phương pháp toán học và nhận thức khoa học.
Cho đến thế kỷ XIX, vật lý học Newton là một chủ nghĩa quyết định bất di bất
dịch: vạn vật đều gắn bó với nhau, những nguyên nhân như nhau bao giờ cũng sinh ra
kết quả như nhau. Đó là những quy luật "thép" chi phối sự tiến hố khơng sao cưỡng
lại được. Nhưng bên cạnh những quy luật ấy, những cái tất yếu ấy, như một dịng nước
xốy cái ngẫu nhiên cứ ùa vào tư tưởng khoa học. Những quy luật chồng chéo lên
nhau trong tự nhiên nhưng vẫn chừa nơi vùng vẫy cho cái ngẫu nhiên. Sự tiến hoá của
sinh quyển của chúng ta phải chăng là kết quả của một dự án phức tạp diễn ra theo một
kịch bản đã được thiết kế chặt chẽ từ trước, cho nên ta chỉ còn nhiệm vụ mơ tả và phân
tích nó. Hoặc khơng phải thế, mà đó là kết quả của một chuỗi sự kiện ngẫu nhiên, giờ
đây vật lý học cổ điển không còn khả năng cho ta một lời giải đáp.
Cùng với phát minh về lý thuyết tương đối của A.Einstein là sự mở đầu cho
khoa học hiện đại, bởi từ đây con người khám phá ra một thế giới mới và gắn liền với
nó là một phương pháp khoa học hồn toàn khác về chất so với khoa học cổ điển gắn
liền với các lý luận thực chứng trước đó và thuyết vạn vận hấp dẫn của Newton là một
minh chứng rõ nét. Einstein làm một cuộc “cách mạng khoa học", đưa đến một hệ
Học viên: Trần Thuận Ánh
9
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
thống giá trị mới chi phối cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Sự khám phá một quy
mô lượng tử không thể nhận biết được bằng giác quan với những định luật hoàn toàn
khác với những định luật có thể nhận biết được trong đời sống hàng ngày. Đó là đóng
góp quan trọng nhất của khoa học hiện đại vào tri thức nhân loại. Tư tưởng này đã đặt
nền móng cho một cách nhìn mới về thế giới. Các tư tưởng triết học hậu thực chứng
cũng kế thừa tương tự như thế, tạo nên một thế giới quan mới về khoa học trong quan
hệ con người – tự nhiên khơng chỉ mang tính thực nghiệm mà cịn có sự tương hợp
giữa tư duy, tức lý trí – tự nhiên, và nhân tố thứ ba - Einstein gọi đó là trực giác - với
chức năng là hình thức nhận thức tức thời của con người trong sự hình thành những
phát minh khoa học lớn.
Đầu thế kỷ XX, khoa học đi chậm lại vì đường đi trước mắt khơng cịn tỏ
tường. Triết học đã làm cho con đường đó sáng lên. Khoa học đã nhìn thấy gốc của
mình ở siêu hình học và từ đó nó vươn vai đứng lên mạnh mẽ như ngày hôm nay. Và
đến lượt nó, nó lại chứng minh cho triết học theo nguyên lý của lý thuyết phức hợp
rằng tư duy lý trí và tư duy khơng lý trí, hoạt động của tư duy khoa học và của tư duy
siêu hình học vừa có sự phân biệt, vừa có sự liên kết khơng tách rời.
Nếu Popper cho chỉ có siêu hình học mới đóng được vai trị phác thảo đầu tiên
của lý thuyết khoa học, thì Lakatos coi siêu hình học là "hạt nhân rắn", tức những
nguyên lý bất biến không thể bị bác bỏ trong khoa học. T.Kuhn đã đưa siêu hình học
vào hệ chuẩn và đã lý giải mối quan hệ "hệ chuẩn - xã hội khoa học" (paradiglne
socxiété scientifique) theo chủ nghĩa phi duy lý và chủ nghĩa chống trí tuệ. ông cho
rằng niềm tin của "xã hội khoa học" là nhân tố quyết định sự chuyến hóa từ hệ chuẩn
này sang hệ chuẩn kia. Feyerabend là người đẩy chủ nghĩa phi duy lý đến đỉnh cao.
Ông cho rằng trong khoa học khơng thể chỉ có cái lý tính mà cịn có cái “lỏng lẻo”,
"cái hỗn độn" của cái phi lý tính theo nguyên tắc "thế nào cũng được", tức chủ nghĩa
đa nguyên trong khoa học.
Khoa học hiện đại, nói như Jaspers, nhờ “sự làm việc" của triết học mà gốc là
siêu hình học, đã vượt lên những bế tắc để phát triển mạnh mẽ như ngày nay. Không
chỉ khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội cũng đã nhờ cái lực đẩy đó mà trở thành
khoa học nhân văn, khoa học con người. Khoa học nhân văn chỉ có thể xuất hiện cùng
Học viên: Trần Thuận Ánh
10
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
lúc khi triết học về con người đã phát triển tới đỉnh cao. Đó là một cuộc cách mạng
trong nền văn hố của lồi người khi bước vào thế giới hiện đại.
Nửa sau của thế kỷ 20 là giai đoạn phát triển của chủ nghĩa hậu thực chứng trên
cơ sở kế thừa phát triển các lý luận của chủ nghĩa thực chứng trước đó với các thành
tựu về khoa học:
- Thời đại tin học và toàn cầu hoá đã làm tăng trưởng thương mại và trao đổi
văn hoá tăng lên ở mức đáng kinh ngạc.
- Thám hiểm vũ trụ đã mở rộng ra toàn bộ hệ mặt trời.
- DNA, mức độ bản nguyên nhất của sự sống, đã được khám phá, và bộ gene
của con người cũng đã được nối kết đầy đủ, hứa hẹn cuối cùng sẽ mang lại một thay
đổi về tình trạng bệnh tật của loài người.
- Số lượng những bài báo khoa học hàng năm hiện nay vượt quá tổng số lượng
của chúng trước năm 1900, và cứ 15 năm lại tăng gấp đôi.
- Tỷ lệ biết chữ tiếp tục tăng lên, và phần trăm nhân lực cần thiết để sản xuất ra
đủ lượng lương thực cho thế giới ngày càng giảm bớt khi chúng ta đạt tới “thời đại của
những máy móc trí tuệ”.
3.2.
Ảnh hưởng tới xã hội phương Tây thời hiện đại
Khi nghiên cứu trào lưu triết học khoa học và sự ảnh hưởng của các hệ tư tưởng
triết học này lên hoạt động nghiên cứu khoa học bùng nổ trên nhiều lĩnh vực của các
nước phương Tây thời hiện đại thì có thể thấy đó là triết học một động lực đáng kể
trong sự phát triển khoa học – cơng nghệ tại các nước phương Tây và từ đó tạo nên
một thế thượng phong của phương Tây trên bản đồ kinh tế - xã hội thế giới. Cụ thể:
3.2.1. Về kinh tế
Năm 1928 sản lượng sản phẩm chế tạo của các nước phương Tây chiếm 84,2%
tổng sản phẩm hàng công nghiệp chế tạo thế giới. Năm 1950, chiếm 64% tổng sản
phẩm thế giới. Năm 1980 tỷ lệ ấy còn 57,8% (tương đương sản lượng 120 năm trước
đó). Năm 1991, trong số 7 nền kinh tế lớn nhất thế giới có 4 nền kinh tế là phương
Tây: Anh, Pháp, Đức, Ý. Năm 1992, trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới, có 5 nền
kinh tế thuộc các nước phương Tây… (Theo tờ Economist của Anh và một số tài liệu
khác (Foreign Affairs)).
Học viên: Trần Thuận Ánh
11
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
3.2.2. Về quyền lực trong điều hành công việc thế giới
Trong khi châu Âu chỉ là một châu lục nhỏ thứ hai trên thế giới, chỉ lớn hơn
châu Úc. Và nền văn hóa phương Tây cũng khơng phải là một nền văn hóa hùng hậu
và lớn mạnh nếu so sánh với Ấn Độ cổ đại, Trung Quốc cổ đại… Nhưng những năm
của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, phương Tây đóng vai trị một vị trí quyền lực lớn
trên thế giới.
Năm 1919, ba vị lãnh đạo: Wilson (tổng thống Mỹ), Loyd George (Thủ tướng
Anh) và Clemenceau (Thủ tướng Pháp) ngồi ở Versaille mà có thể định đoạt số phận
của thế giới: nước nào được phép tồn tại, nước nào không, nước nào phải bị chia cắt và
nước nào phải sát nhập vào nước khác. Họ đã chỉ định ai được quyền thống trị vùng
đất nào của thế giới, cịn ai thì phải nhả thuộc địa ra. Họ cũng đã quyết định cả việc
cùng tập thể can thiệp vào nước Nga Xô Viết và bắt Trung Quốc phải chấp nhận các
yêu sách của họ.
3.3.
Ảnh hưởng về chính trị phương Tây thời hiện đại
Tại châu Âu, cùng thời kỳ với trào lưu triết học khoa học là trường phái triết
học Mác-xít. Trào lưu triết học khoa học bắt đầu khi chủ nghĩa tư bản bước vào giai
đoạn tư bản độc quyền, mang hệ tư tưởng là thế giới quan của giai cấp tư sản, nó ra đời
và tồn tại gắn liền với chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản.
Tính chất phản Mác-xít cũng được thể hiện trong triết học lịch sử của chủ nghĩa
phản thực chứng. Trong các lý luận của mình, Popper đã tấn công vào nguyên lý của
chủ nghĩa Mác, phủ nhận sự tồn tại của các quy luật phát triển khách quan của lịch sử:
- Các lý thuyết khoa học không dự đoán được bước tiến của lịch sử, trên cơ sở
đó bác bỏ chủ nghĩa Mác, khi khẳng định chủ nghĩa tư bản sẽ diệt vong và thay vào đó
là chủ nghĩa cộng sản.
- Bác bỏ tính khoa học của chủ nghĩa Mác, ơng cho rằng nó khơng phù hợp với
các chuẩn mực về tư duy khoa học mà ông đưa ra trong cuốn “Loogic nghiên cứu khoa
học” của mình.
- Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản và sự tồn tại của
chủ nghĩa xã hội hiện thực khơng thốt khỏi giới hạn của chủ nghĩa tư bản.
Học viên: Trần Thuận Ánh
12
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
- Khẳng định tính giai cấp của Đảng cộng sản dựa trên tính nhất nguyên của chủ
nghĩa Mác không thể đạt được sự thống nhất trong tư tưởng và hành động.
Tóm lại, chủ nghĩa duy lý phê phán của Popper khơng có sự phê phán với chủ
nghĩa tư bản mà ơng cịn coi đó như là một khuân mẫu tuyệt đối của việc tổ chức lại
cuộc sống xã hội.
Học viên: Trần Thuận Ánh
13
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Triết học khoa học kế thừa triết học Tây thời Phục hưng – cận đại, trào lưu triết
học khai sáng, triết học cổ điển Đức… nêu cao vai trò và tầm quan trọng của khoa học
trong thực tiễn, đã đánh dấu một kỷ nguyên phát triển vượt bậc về khoa học – công
nghệ của các nước phương Tây, hình thành một phương Tây lớn mạnh và bùng nổ.
Các lý luận của hệ tư tưởng triết học khoa học có giá trị thực tiễn cao và vẫn còn ảnh
hưởng đến nền khoa học cho tới ngày hơm nay.
Triết học khoa học đã thực sự có những đóng góp rất lớn vào sự phát triển của
xã hội phương Tây.
Mặt khác, nó đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đặc biệt là
chống lại thế giới quan duy vật – hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản và chủ nghĩa xã hội,
đã tìm mọi cách phân tích, lý giải các hiện tượng xã hội thông qua những phương pháp
như: lôgic, tâm lý học, sinh vật học, ngôn ngữ học… nhưng bị hạn chế bởi tư tưởng
của mình, nó chỉ có thể hiểu một cách lệch lạc về các vấn đề này và đưa ra các cách
giải quyết ảo tưởng.
Học viên: Trần Thuận Ánh
14
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
PHỤ CHƯƠNG
Phụ chương 1: Albert Einstein & Thuyết tương đối
Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879 – 18 tháng 4 năm 1955) là nhà vật lý lý
thuyết người Mỹ gốc Đức – Do Thái. Ông được coi là một trong những nhà khoa học
có ảnh hưởng nhất của mọi thời đại. Và người ta gọi ông là cha đẻ của vật lý hiện đại.
Ông nhận giải Nobel về vật lý năm 1921 "vì những đóng góp cho vật lý lý thuyết, và
đặc biệt cho sự khám phá của ơng về định luật quang điện”. Ơng được tạp chí Times
phong là "Con người của thế kỷ". Ơng là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX và
một trí thức lỗi lạc nhất trong lịch sử.
Lý thuyết tương đối của Albert Einstein bao gồm 2 lý thuyết vật lý: thuyết
tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng. Các lý thuyết này được hình thành khi người
ta quan sát thấy bức xạ điện từ chuyển động với vận tốc không đổi trong chân không
(vận tốc ánh sáng) trong mọi hệ quy chiếu, không tuân theo các quy luật trong cơ học
cổ điển của Isaac Newton. Ý tưởng cơ bản trong hai lý thuyết để giải thích hiện tượng
trên là: khi hai người chuyển động tương đối với nhau, họ sẽ đo được những khoảng
thời gian và khoảng cách khác nhau giữa cùng những sự kiện, tuy nhiên các định luật
vật lý vẫn hiện ra giống nhau đối với cả hai người.
Thuyết tương đối hẹp
Bài báo của Einstein vào năm 1905, Zur Elektrodynamik bewegter Körper ("Về
điện động lực học của các vật thể chuyển động") tập 17, xêri 4, đã giới thiệu thuyết
tương đối hẹp. Thuyết tương đối hẹp dựa trên một tiên đề duy nhất: "mọi định luật vật
lý là giống nhau trong mọi hệ quy chiếu quán tính (tức là những hệ quy chiếu chuyển
động với vận tốc không đổi so với nhau)". Do các định luật vật lý giống nhau, mọi
người nằm trong một hệ quy chiếu qn tính khơng thể làm bất cứ thí nghiệm vật lý
nào để xác định trạng thái chuyển động của mình. Với Thuyết tương đối hẹp, khơng
gian và thời gian không phải là bất di bất dịch như trong quan điểm của Isaac Newton Học viên: Trần Thuận Ánh
15
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
cha đẻ của vật lý học cổ điển, mà trái lại, nó có thể "co" lại tùy tình hình.. Einstein đã
thay khơng gian, thời gian tuyệt đối bằng không gian, thời gian tương đối.
Phát biểu ban đầu, Einstein còn đề cập "tiên đề thứ hai" được phát biểu là: "ánh
sáng luôn chuyển động trong chân không với vận tốc không đổi". Tuy nhiên, đây chỉ là
hệ quả của tiên đề phát biểu ở trên khi công nhận lý thuyết điện từ. Theo tiên đề trên,
lý thuyết điện từ, một lý thuyết đưa ra cơng thức tính vận tốc ánh sáng từ các hằng số
(xem bài vận tốc ánh sáng), là không thay đổi theo hệ quy chiếu quán tính. Vậy hiển
nhiên vận tốc ánh sáng, kết quả của lý thuyết điện từ, cũng không thay đổi theo hệ quy
chiếu quán tính.
Thuyết tương đối rộng
Thuyết tương đối rộng được Einstein cơng bố vào năm 1916 (trước đó đã nằm
trong loạt bài giảng tại Viện Khoa học Phổ 25 tháng 11 năm 1915). Tuy nhiên, nhà
toán học người Đức David Hilbert đã viết và công bố các phương trình hiệp biến trước
Einstein. Có nhiều lý do cả Einstein và Hilbert được xem như đồng phát minh ra
thuyết tương đối rộng. Lý thuyết này giới thiệu các phương trình thay cho định luật
vạn vật hấp dẫn của Newton. Nó sử dụng hình học vi phân và tenxo để mơ tả trọng
trường.
Lý thuyết này cũng dựa trên một tiên đề duy nhất: "mọi định luật vật lý là giống
nhau trong mọi hệ quy chiếu (gồm cả những hệ quy chiếu chuyển động với vận tốc
thay đổi so với nhau)". Trong lý thuyết này, trọng lực không tồn tại như lực riêng (như
theo quan niệm của Newton), mà chẳng qua là lực quán tính, hay khái quát hơn là hệ
quả của độ cong trong không-thời gian. Về mặt trực quan, cảm giác về lực hấp dẫn khi
ngồi trên mặt đất giống cảm giác lúc trong thang máy đi lên (hoặc tương tự trong xe
khi đang tăng tốc/giảm tốc). Lý thuyết tương đối rộng đã dẫn đến một kết quả là mọi
vật chất (hay khối lượng hay năng lượng) đều làm cong không-thời gian, và độ cong
này tác động đến đường rơi tự do của các vật chất khác (kể cả đường đi của ánh sáng).
Học viên: Trần Thuận Ánh
16
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
Hiện tượng vật chất bẻ cong đường đi ánh sáng đã được kiểm chứng lần đầu
tiên đối với Mặt Trời (nơi tập trung nhiều vật chất nhất trong Hệ Mặt Trời). Trong vũ
trụ, đã quan sát thấy có nơi (ví dụ ở gần trung tâm các thiên hà) tập trung nhiều vật
chất đến mức ánh sáng đến gần bị hút vào và không ra được nữa, gọi là các lỗ đen vì
chúng khơng phát ra ánh sáng (hay khơng cho phép ánh sáng thốt ra).
Học viên: Trần Thuận Ánh
17
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
Phụ chương 2: Isaac Newton & Thuyết vạn vật hấp dẫn
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học,
nhà thần học và nhà giả kim người Anh. Theo lịch Julius, ông sinh ngày 25 tháng 12
năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727. Newton sáng tạo ra một phương pháp
khoa học rất tổng qt. Ơng trình bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của
lý luận khoa học. Các quy tắc này được phát biểu trong quyển Philosophiae Naturalis
Principia Mathematica như sau:
- Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật
đúng, vừa đủ và chặt chẽ.
- Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.
- Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.
- Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có
một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.
Isaac Newton một trong những nhà vật lý vĩ đại nhất, là người đầu tiên khám
phá ra định luật này, theo đó vật có khối lượng m sẽ bị kéo về gần vật có khối lượng M
với gia tốc:
g = G.M / r2
với G là hằng số hấp dẫn và r là khoảng cách giữa hai vật.
Theo định luật 2 Newton, vật có khối lượng m chịu lực hấp dẫn có độ lớn:
F=mxg
F = G.M.m / r2
Cơng thức trên được gọi là định luật vạn vật hấp dẫn Newton, trong đó lực hấp dẫn tỷ
lệ thuận với tích của hai khối lượng và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách hai
vật.
Học viên: Trần Thuận Ánh
18
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
Trong cơng thức này, kích thước các vật được coi là rất nhỏ so với khoảng cách giữa
chúng.
Hằng số hấp dẫn
Hằng số hấp dẫn G phụ thuộc vào hệ đơn vị đo lường, được xác định lần đầu tiên bởi
thí nghiệm Cavendish năm 1797.
Nếu dùng hệ đơn vị SI: G = 6.67 x 10-11 N.m2/kg2
G = 6.67 x 10-11 N.m²/kg²
Học viên: Trần Thuận Ánh
19
GVHD: Ts. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ts. Nguyễn Ngọc Thu – Ts. Bùi Văn Mưa: Giáo trình Đại cương lịch sử triết
học, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003.
2. Ts. Hà Thiên Sơn: Lịch sử triết học, NXB Trẻ, 1998.
3. Ts. Bùi Văn Mưa: Triết học & bức tranh vật lý học về thế giới, NXB ĐH Quốc
Gia Tp. HCM, 2008.
4. Các trang Web:
…
Học viên: Trần Thuận Ánh
20