Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

tiểu luận phát triển bền vững - lý thyết và thực tiễn phát triển kinh tế bền vững ở thái lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.93 KB, 46 trang )

ĐỀ TÀI:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG - LÝ THYẾT VÀ THỰC TIỄN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG Ở THÁI LAN

TP.Hố Chí Minh, ngày 13 tháng 03 năm 2012


I/ Lí do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đơi khi vì mục tiêu phát triển kinh tế một cách nhanh
chóng mà chúng ta quên đi bảo vệ mơi trường,đảm bảo cơng bằng,ổn định giữ gìn bản sắc văn
hóa .Nhận thấy rõ điều đó,càng ngày chúng ta càng quan tâm làm thế nào để vừa phát triển
kinh tế mà vừa đảm bảo được môi trường bền vững, xã hội bền vững.Và mục tiêu phát triển
bền vững được nêu ra bàn luận.
Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì một cách liên
tục mà hơn thế phát triển ở đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền vững trên
mọi lĩnh vực,là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học của địi hỏi của con người với tính
cơng bằng, sự phồn vinh, chất lượng cuộc sống và tính bền vững của mơi trường tự nhiên.
Phát Triển Bền Vững ngày càng trở thành trung tâm của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi
xã hôi bước vào thế kỉ 21.
Trong hai thập kỷ qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề phát triển bền vững ngày càng được đặc
biệt quan tâm, trở thành yêu cầu phát triển của tồn cầu. Đã có khơng ít hội nghị thượng đỉnh
thảo luận về chủ đề này và đưa ra nhiều văn kiện, quyết sách quan trọng. nhiều nước đã bắt đầu
vào việc phát triển bền vững.Trong số đó là mơ hình “phát triển nền kinh tế vừa đủ” của Thái
Lan do Hoàng thân Bhumibol Adulyadej đề ra và Thái Lan đã áp dụng trong nhiều năm qua có
những nét đặc sắc và thành cơng bước đầu.
Nhận thấy được tầm quan trọng của phát triển bền vững đối với sự phát triển của một
đất nước,và những gì Thái Lan đã làm để chúng ta có thể học hỏi thêm nên nhóm chúng em
quyết định thực hiện đề tài “Phát triển bền vững - Lý thuyết và thực tiễn phát triển kinh tế
bền vững ở Thái Lan”

II.Đối tượng nghiên cứu: - Lý thuyết phát triển bền vững


- Phát triển bền vững ở Thái Lan.


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Những thách thức về môi trường, kinh tế - xã hội và phát triển
1.2. Quá trình nhận thức và lý thuyết về phát triển bền vững
1.2.1 Khái niệm phát triển
1.2.2.Quá trình phát triển bền vững
1.2.3 Lý thuyết về phát triển bền vững.
1.2.3.1 Các thành phần cơ bản
1.2.3.2 Thước đo về phát triển bền vững
1.3 Phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay
1.3.1 Xã hội cacbon thấp( Kỷ nguyên năng lượng – khí hậu)
1.3.2 Xã hội tái tạo tài nguyên
1.3.3 Xã hội hài hòa với tự nhiên
CHƯƠNG 2: PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG Ở THÁI LAN.
2.1 Tổng quan đất nước Thái lan
2.1.1 Khái quát
2.1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
2.1.3 Lịch sử
2.1.4 Thể chế chính trị
2.1.5 Kinh tế
2.1.6 Đối ngoại
2.2 Phát triển kinh tế bền vững ở Thái Lan
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC CHO VIỆT NAM


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1 Những thách thức về môi trường,kinh tế - xã hội và phát triển

Ngay nay vấn đề phát triển kinh tế luôn là tâm điểm được các Tổ chức quốc tế (IMF,
WB, UNDP, WEF…) và các quốc gia, trơng đó nổi trội lên là mục tiêu phát triển kinh tế bền
vững .Nhưng con đường tiến đến phát triển kinh tế bền vững lại khơng dễ dàng, vì điều này yêu
cầu quốc gia phải có được một chiến lược phát triển đúng đắn dựa trên các nguồn lực có thể sử
dụng, đồng thời một cơ chế quản trị vận hành, phản hồi và giám sát hiệu quả sự thực thi chiến
lược, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng đều trong dài hạn, tránh được các cú “sốc” của mơi
trường tồn cầu, bảo vệ được mơi trường tài ngun thiên nhiên phát triển ổn định, cũng như
chi phí nguồn lực bỏ ra cho phát triển ở mức cho phép, điều này đòi hỏi năng suất chung của
nền kinh tế ngày càng cao (hệ số ICOR hợp lý, yếu tố năng suất tổng hợp cao (TFP)), đồng thời
thành quả của sự phát triển đất nước được phân phối càng công bằng càng tốt cho mọi phân
vùng của đất nước, tầng lớp nhân dân (hiệu quả phân phối, sự phát triển công bằng thể hiện bởi
chỉ số GINI…), đồng thời sự tăng trưởng kinh tế phải đem lại mức sống tinh thần, vật chất,
phúc lợi ngày càng cao cho nhân dân (chỉ số phát triển con người HDI…). Hiện nay với cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ (KHCN)hiện đại của thế giới (đặc biệt là 4 cuộc cách mạng:
Công nghệ sinh học, Tự động hóa,Cơng nghệ thơng tin và Cơng nghệ nano) đang tiếp tục phát
triển với nhịp điệu ngày một nhanh, tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, làm thay đổi
nhanh chóng, sâu sắc và quyết định đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội và bản thân con
người, thì lồi người cũng đang đối mặt với những thách thức to lớn về chính trị, văn hóa, xã
hội và đặc biệt là mơi trường


Bảng 1.1. Các thách thức về mơi trường, văn hóa-xã hội cho sự phát triển
Các thách thức về môi trường

Các thách thức trong các lĩnh vực khác

+ Biến đổi khí hậu tồn cầu

+ Tăng dân số


+ Suy giảm tầng ơzơn

+ Bất bình đẳng về thu nhập

+ Suy thối ĐDSH

+ Nghèo đói

+ Suy thối tài ngun đất và hoang

+ Thất học

mạc hóa

+ Dịch bệnh

+ Suy thái tài ngun nước ngọt

+ Đơ thị hóa và sự hình thành các siêu

+ Ơ nhiễm bởi các chất thải nguy hại

đơ thị

+ Suy thối mơi trường và tài nguyên

+ Nạn tham nhũng…

biển…
1.2 Quá trình nhận thức phát triển bền vững và lý thuyết về phát triển bền vững

1.2.1 Khái niệm phát triển
Phát triển được định nghĩa khái quát trong Từ điển Oxford là: “Sự gia tăng dần của một
sự vật theo hướng tiến bộ hơn, mạnh hơn...” (The gradual grow of sth. so that it becomes more
advanced, stronger...). Trong Từ điển Bách khoa của Việt Nam, phát triển được định nghĩa là:
“Phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới”. Con người
và mọi sự vật đều thay đổi theo thời gian, nhưng sự phát triển được bao hàm cả khía cạnh thay
đổi theo hướng đi lên, hướng tốt hơn tương đối. (Sự phát triển theo hướng đi lên như vậy, trong
Sinh học được gọi đó là phát triển tiến bộ hay tiến hóa, và ngược lại là phát triển thối bộ thối hóa).Phát triển học hay Khoa học phát triển là một khoa học mới, ra đời khoảng những
năm40-50 và phát triển mạnh trong thập kỷ 60. Trong q trình phát triển, Phát triển học có
những thay đổi về nội hàm.
Ở giai đoạn đầu, nội dung chủ yếu là Kinh tế học phát triển và sau đó càng ngày càng phát
triển theo hướng liên ngành. Ở mức cao hơn, môn Xã hội học phát triển và Quản trị học phát
triển ra đời, nhấn mạnh sự hài hịa giữa sự tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội có phần can
thiệp của thể chế, chính trị.
Ở giai đoạn cao hơn nữa hiện nay, với sự bùng nổ của dân số và sự phát triển mạnh mẽ của
các nền kinh tế, con người đã khai thác tài nguyên và hủy hoại môi trường một cách tàn bạo, đe


dọa sự tồn tại của Trái đất, của nhân loại. Hàng loạt các vấn đề môi trường bức xúc như biến
đổi khí hậu, suy thối đa dạng sinh học (ĐDSH), suy thối tài ngun nước ngọt, suy thối tầng
ơzơn, suy thối đất và hoang mạc hóa và ơ nhiễm các chất hữu cơ độc hại khó phân hủy, v.v...
đang thách thức sự phát triển trên phạm vi toàn thế giới. Chiến lược Phát triển bền vững ra đời
(1992) và trở thành Chiến lượcphát triển của toàn cầu trong thế kỷ XXI.

Bảng 1.2. Từ phát triển đến phát triển bền vững
Tiêu chí

Từ phát triển

Đến phát triển bền vững


Trụ cột

Kinh tế (xã hội)

Hài hịa kinh tế-xã hội-mơi
trường

Trung tâm

Của cải vật chất

Con người

Điều kiện cơ bản

Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên môi trường

Chủ thể quản lý

Một chủ thể (nhà nước)

Nhiều chủ thể

Quan hệ với tự nhiên

Khai thác/cải tạo tự nhiên


Bảo tồn/sử dụng hợp lý tự
nhiên

Tính chất

Kinh tế truyền thống

Kinh tế tri thức

Cách tiếp cận

Đơn ngành/liên ngành thấp

Liên ngành cao

1.2.2. Quá trình nhận thức phát triển bền vững
Đã có một lịch sử phát triển tương đối dài để hình thành khái niệm phát triển bền vững
Năm 1963: Phát hành cuốn sách Mùa xuân câm lặng (Silent Spring): Cuốn sách“Mùa xuân
câm lặng” của nữ văn sĩ Rachel Carson, được xuất bản năm 1962, với những tiết lộ về những
hiểm họa của thuốc trừ sâu DDT, đã hoài nghi một cách biện chứng niềm tin của nhân loại vào


tiến bộ khoa học kỹ thuật này và giúp tạo ra một sân khấu cho các phong trào môi trường.
DDT, thuốc trừ sâu mạnh nhất từng được biết đến trên thế giới, đã làm tổn thương tới các hệ tự
nhiên. Chỉ một lần phun DDT để diệt một loài sâu hại cây trồng, nó khơng chỉ diệt được lồi
sâu bệnh trong nhiều tuần hoặcnhiều tháng, mà đồng thời cũng tiêu diệt ln nhiều lồi cơn
trùng có lợi khác và tồn lưu như một độc chất trong môi trường. "Mùa xuân câm lặng" đã làm
thay đổi nhận thức của người dân Mỹ về mơi trường, góp phần thúc đẩy các chính sách về môi
trường của đất nước này.
Tháng 4 năm 1968: Câu lạc bộ Rome được thành lập: Đây là một tổ chức phi chính phủ, hỗ

trợ cho việc nghiên cứu “Những vấn đề của thế giới” – một cụm từ được đặt ra nhằm diễn tả
những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, mơi trường và cơng nghệ trêntồn cầu với tầm nhìn lâu
dài. Tổ chức này đã tập hợp những nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà kinh doanh cũng như
các nhà lãnh đão của các quốc gia trên thế giới (baogồm cả Tổng thống Liên xô Mikhail
Sergeyevich Gorbachyov và Rigoberta MenchusTum). Trong nhiều năm, Câu lạc bộ Rome đã
công bố một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả bản báo cáo Giới hạn của sự tăng trưởng –
được xuất bản năm 1972 – đề cập tới hậu quả của việc tăng dân số quá nhanh, sự hữu hạn của
các nguồn tài nguyên...
Năm 1970: Thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển: Năm 1970, UNESCO thành lập
Chương trình Con người và Sinh quyển, với mục tiêu là phát triển cơ sở khoa học cho việc sử
dụng hợp lý và bảo tồn các tài nguyên của sinh quyển và cải thiện quan hệ toàn cầu giữa lồi
người và mơi trường.
Tháng 6 năm 1972: Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường: Hội nghị của
Liên Hợp Quốc về Con người và Môi trường được tổ chức tại Stockhom,Thụy Điển được đánh
giá là là hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực chung của toàn thể nhân loại, nhằm giải quyết
các vấn đề về mơi trường. Hội nghị có 113 quốc gia tham dự và đã đạt được những kết quả
chính sau: (i) Khởi động các cuộc đối thoại Bắc– Nam; (ii) Khởi động chương trình “Viễn cảnh
tồn cầu”; (iii) Khởi động sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong giám sát và bảo vệ
môi trường; (iv) Thành lập Chương trình Mơi trường của LHQ (UNEP); (v) Đề nghị Đại hội
đồng LHQ lấy ngày tháng 6 làm Ngày Môi trường Thế giới và quyết định rằng vào ngày này


hàng năm các tổ chức thuộc LHQ và tất cả chính phủ các nước tiến hành các hoạt động trên
phạm vi toàn thế giới để tái khẳng định mối quan tâm của cả thế giới đối với việc gìn giữ và cải
thiện môi trường sống cho nhân loại. Hội nghị đã có một tun bố về mơi trường con người,
thỏa thuận về một chương trình hành động quốc tế rộng lớn, thành lập Chương trình Mơi
trường của LHQ (UNEP), Ban thư ký thường trực về môi trường đặt tại Kenya và thành lập
Quỹ Môi trường. Hội nghị này đã đánh dấu sự ra đời của nhận thức về phát triển bền vững
(PTBV)
Năm 1980: Chiến lược bảo tồn thế giới: Tiếp theo Hội nghị Stockholm, các tổ chức bảo tồn

như Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc
(UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Thế giới (WWF) đã đưa ra “Chiến lược bảo tồn thế giới”.
Chiến lược này thúc giục các nước soạn thảo các chiến lược bảo tồn quốc gia của mình. Ba
mục tiêu chính về bảo tồn tài nguyên sinh vật được nhấn mạnh trong Chiến lược như sau: (i)
Duy trì những hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống (như cải tạo đất, tái sinh các
nguồn dinh dưỡng, bảo về an toàn nguồn nước); (ii) Bảo tồn tính đa dạng di truyền; và (iii) Bảo
đảm sử dụng một cách bền vững các loài và các hệ sinh thái. Từ khi Chiến lược bảo tồn thế
giới được cơng bố tới nay, đã có trên 60 chiến lược bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong
chiến lược này, thuật ngữ Phát triển bền vững lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ
nhấn mạnh ở góc độ bền vững sinh thái.
Tiếp theo Chiến lược này, một công trình khoa học có tiêu đề “Cứu lấy Trái đất- Chiến
lược cho cuộc sống bền vững” đã được IUCN, UNEP và WWF soạn thảo và công bố (1991)
(cuốn sách này đã được Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường dịch ra tiếng Việt
vào năm 1993). Trong cuốn sách, nhiều khuyến nghị về cải cách luật pháp, thể chế và quản trị
đã được đề xuất.
Năm 1984: Thành lập Ủy ban Brundtland: Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã ủy nhiệm cho bà
Gro Harlem Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm Chủ tịch Ủy ban
Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED), nay còn được biết đến với tên Ủy ban
Brundtland. Tới nay, Ủy ban này đã được ghi nhận có những cống hiến rất giá trị cho việc đẩy
mạnh sự phát triển bền vững.


Năm 1987: Xuất bản Báo cáo Brundtland: Hoạt động của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế
giới trở nên nóng bỏng khi xuất bản báo cáo có tựa đề “Tương lai của chúng ta” (tựa tiếng Anh:
Our Common Futur và tiếng Pháp là Notre avenir à tous,ngồi ra cịn thường được gọi là Báo
cáo Brundtland). Bản báo cáo này lần đầu tiên cơng bố chính thức thuật ngữ “phát triển bền
vững”, là "sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả
năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai",sự định nghĩa cũng như một cái nhìn mới
về cách hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài,Năm 1987 được coi là thời điểm hình
thành khái niệm phát triển bền vững.

Năm 1989: Sự phát hành và tầm quan trọng của bản báo cáo “Tương lai của chúng ta” đã được
đưa ra bàn bạc tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và đã dẫn đến sự ra đời của Nghị quyết 44/228
– tiền đề cho việc tổ chức Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc.
Năm 1992: Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc: Rio deJaneiro, Brazil là
nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất, tên chính thức là Hội nghị về Mơi
trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống
nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền
vững có tên Chương trình Nghị sự 21 (Agenda21). Chương trình này bao gồm sự tổng hợp các
yếu tố xã hội, kinh tế và môi trường. Hội nghị này đánh dấu sự cam kết tồn cầu vì sự
PTBV.Với sự tham gia của đại diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ
chức phi chính phủ, hội nghị đã thơng qua các văn bản quan trọng:
– Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển với 27 nguyên tắc chung, xác định quyền và
trách nhiệm của các quốc gia nhằm làm cho thế giới PTBV;
– Chương trình Nghị sự 21 về PTBV;
– Tuyên bố các nguyên tắc quản lý, bảo vệ và PTBV rừng;
– Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu nhằm ổn định các khí gây
hiệu ứng nhà kính ở mức độ khơng gây đảo lộn nguy hiểm cho hệ thống khíhậu tồn cầu;
Cơng ước về Đa dạng sinh học.Đây là các văn kiện quốc tế quan trọng có mối liên quan với
nhau, được quán triệt trong suốt thế kỷ XXI.Từ đó, Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển bền


vững đã trở thành chiến lược phát triển của toàn cầu trong thế kỷ XXI, và “Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ”, với 8 nội dung: xóa đói, giảm nghèo; phổ cập giáo dục tiểu học; thúc đẩy bình
đẳng giới tính,đồng thời nâng cao quyền lợi của nữ giới; giảm tỷ lệ trẻ em tử vong; cải thiện và
đảm bảo sức khỏe sản phụ; đấu tranh với các loại bệnh như HIV, sốt xuất huyết; bảo vệ môi
trường; thúc đẩy phát triển hợp tác toàn cầu đã được tập trung thực hiện.
Tháng 05/2000: Tại Diễn đàn toàn cầu cấp Bộ trưởng Môi trường đầu tiên tổ chức tại Malmo
đã ra Tuyên bố Malmo kêu gọi biến các cam kết vì sự PTBV thành hành động. Tại Hội nghị
thượng đỉnh Thiên niên kỷ vào tháng 9/2000, Tổng thư ký LHQ đã nêu ra những thách thức và
những khó khăn, lúng túng trong việc thực hiện các cam kết vì PTBV. Diễn đàn Malmo -2000

được coi là lời kêu gọi hành động vì PTBV.
Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững: được tổ chức tại
Johannesburg, Nam Phi, đánh dấu một mốc quan trọng của loài người trong nỗ lực tiến tới
PTBV toàn cầu. Hội nghị đã khẳng định trách nhiệm chung xây dựng 3 trụ cột của phát triển
bên vững là : Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường ở cấp độ địa phương,
quốc gia, khu vực và toàn cầu.Hội nghị là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm
10 năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngơn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra,
tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu này bao gồm xóa nghèo
đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản
phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập
tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại diện
của các quốc gia tham gia hội nghị cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững
tại mỗi quốc gia trước năm 2005.
1.2.3 Lý thuyết về phát triển bền vững
1.2.3.1 Các định nghĩa
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển bền vững tuỳ theo cách tiếp cận, mục đích
nghiên cứu sử dụng khác nhau mà khái niệm này được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Thuật ngữ Phát triển bền vững (PTBV – Sustainable Development) lần đầu tiên đượcsử dụng


trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN đề xuất năm 1980. Mục tiêu tổng thể của
Chiến lược là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ
PTBV ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển
về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo
“Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế vềMôi trường và Phát triển (WCED) của
Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được định nghĩa là “Sự phát triển đáp ứng được
nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của
các thế hệ tương lai ”.
Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên và đảm bảo mơi trường sống cho con người trong q trình phát triển.

Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và
phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội
nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam
Phi) năm 2002: "Phát triển bền vững" là q trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và
hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế),
phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội; xố đói giảm nghèo và giải
quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện
chất lượng mơi trường; phịng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Phát triển bền vững (Sustainable Development - viết tắt là SD) hay nói một cách khoa
học hơn là lý thuyết SD hiện nay, chính là sự phát triển một cách bền vững của trái đất này.
Hiện nay trái đất đang phải đối mặt với rất nhiều khủng hoảng: khủng hoảng năng lượng,
khủng hoảng dân số, khủng hoảng đói nghèo… Vì vậy, SD là việc mà chúng ta phải làm, vì sự
tồn tại của tất cả mọi người. SD khơng cịn là việc của một quốc gia.

Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Mơi trường Liên Hợp Quốc


đã đề ra 9 nguyên tắc:
1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
2. Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
4. Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
5. Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
6. Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
7. Ðể cho các cộng đồng tự quản lý mơi trường của mình.
8. Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ.
9. Xây dựng một khối liên minh tồn cầu, khơng một quốc gia nào được lợi hay thiệt
riêng mình khi tồn cầu có một mơi trường trong lành hay ô nhiễm.


1.2.3.2 Các thành phần cơ bản
Theo UNESCO, phát triển bền vững bao gồm ba thành phần( khía cạnh) cơ bản :

Trong mối tương tác, thỏa hiệp giữa ba thành phần chủ yếu nêu trên, mỗi thành phần lại
xuất hiện các nội dung( hệ thống cấp hai) đòi hỏi phải đáp ứng được những yêu cầu phát
triển riêng cho mỗi thành phần để cùng đạt được mục tiêu PTBV.




Mơi trường: phát triển bền vững địi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ mơi

trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người
nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định
cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên
trái đất.
Khía cạnh này gồm một số nội dung sau:
- Sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo.
- Phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái.
− Bảo vệ đa dạng sinh học.
− Bảo vệ tầng ôzôn.
− Kiểm sốt và giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
− Bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm.
− Giảm thiểu xả thải, khắc phục ơ nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải
thiện và khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm....


Xã hội: xã hội của phát triển bền vững cần được chú trọng vào sự phát triển sự công

bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố

gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp
nhận được.
Khía cạnh này gồm một số nội dung sau:
− Ổn định dân số.
− Phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị.
− Giảm thiểu tác động xấu của mơi trường đến đơ thị hóa.
− Nâng cao học vấn, xóa mù chữ.
− Bảo vệ đa dạng văn hóa.
− Bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới.
− Tăng cường sự tham gia của cơng chúng vào các q trình ra quyết định.
….


Kinh tế: đây là lĩnh vực không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó địi hỏi sự phát

triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo


điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt
động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển
của bất cứ ngành kinh doanh , sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý
cơ bản. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người,
không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới hạn cho phép của hệ
sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
Khía cạnh này gồm một số nội dung sau:
-

Giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết

kiệm vàthay đổi lối sống.

− Thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường.
− Bình đẳng cùng thế hệ trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế
và giáo dục.
− Xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối.
− Cơng nghệ sạch và sinh thái hóa cơng nghiệp (tái chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo
nănglượng đã sử dụng).
….
Ngồi ba khía cạnh chủ yếu nêu trên, có nhiều
người cịn đề cập tới những khía cạnh khác của phát triển
bền vững như chính trị, hành chính, dân tộc, tinh thần,
cơng nghệ, quốc tế, sản xuất,... và địi hỏi phải tính tốn
và cân đối chúng trong hoạch định các chiến lược và
chính sách phát triển kinh tế-xã hội cho từng quốc gia,
từng địa phương cụ thể.
WCED, 1987
1.2.3.3 Thước đo về phát triển bền vững
Làm thế nào để đánh giá sự phát triển bền vững? Có thể định lượng được khơng? Mức
độ chấp nhận sự định lượng đó ra sao?
Đây là vần đề rất phức tạp mà con người phải vượt qua rất nhiều khó khăn để chấp nhận và


thực hiện. Xã hội loài người gồm nhiều dân tộc khác nhau về văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng,
chính trị, giáo dục và truyền thống, họ cũng rất khác nhau về mức độ phồn vinh, về chất lượng
cuộc sống và điều kiện môi trường mà sự nhận thức về sự khác biệt đó cũng rất khác nhau.
Hơn nữa, sự cách biệt đó lại thường xuyên vận động, khi tăng khi giảm. Bởi vậy, đánh giá thế
nào là phát triển bền vững mang tính tùy thuộc khá lớn. Tuy nhiên, chúng ta có thể đề cập đến
tiêu chí để đánh giá tổng quát gồm sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công
bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao
được chất lượng môi trường sống.
Tính đến năm 2010, đã có mười hai tổ chức và phương án đánh giá định tính và định

lượng phát triển bền vững. Đó là:
1. Bộ 58 tiêu chí của Uỷ ban phát triển bền vững (CSD) của Liên hợp quốc
2. Bộ 46 tiêu chí của Nhóm tư vấn về tiêu chí phát triển bền vững (CGSDI)
3. Phương án chỉ số thịnh vượng gồm 88 tiêu chí của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới
(IUCN)
4. Phương án Chỉ số Bền vững Môi trường của Diễn đàn Kinh tế thế giới gồm 68 tiêu chí
5. 65 tiêu chí của Nhóm Bối cảnh tồn cầu
6. Dấu chân sinh thái
7. Nhóm Tiêu chí Tiến bộ đích thực (GPI)
8. Nhóm hành động liên cơ quan Hoa Kì về các tiêu chí phát triển bền vững (I WGSDI)
9. Hệ thống tiêu chí của Costa Rica về PTBV
10. Dự án các tiêu chí Boston
11. Nhóm Đánh giá các thất bại
12. Sáng kiến thơng báo tồn cầu.

Ngoài các bộ chỉ tiêu nêu trên, đất nước Bhutan( một quốc gia nằm kín trong lục địa tại
Nam Á, nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc) còn đề nghị một chỉ số gọi là “Tổng hạnh phúc quốc
gia”(GNS) với ý nghĩa lấy người dân làm trọng tâm, luôn chú trọng giữ vững sự ổn định chính
trị, bảo đảm mơi trường hoạt động tốt, dân chúng sống hạnh phúc. Trước khi Chính phủ phê
duyệt bất cứ dự án nào thì câu hỏi luôn đặt ra là tăng trưởng kinh tế làm sao giữ ổn định môi
trường, bảo tồn di sản văn hóa, bảo đảm đa dạng sinh học. Bảo đảm mỗi cá nhân phát triển bền


vững, chính là duy trì phát triển bền vững.
Chỉ số GNS được xây dựng từ 72 tiêu chí, trong đó có nhiều tiêu chí cơ bản gồm: bảo vệ
mơi trường; duy trì văn hóa; kinh tế xã hội phát triển ổn định; quản trị nhà nước tốt; tập trung
phát triển hài hịa văn hóa- xã hội-kinh tế; bảo đảm sức khỏe; hội nhập sinh thái, bảo vệ mơi
trường…. Ở khía cạnh DN, đảm bảo cuộc sống ổn định vật chất, tinh thần cho người lao động
cũng là yếu tố cơ bản xây dựng chỉ số GNS. Chỉ số này được tổng hợp từ các nguồn xây dựng
tổng hợp từ các cơ quan trên khắp đất nước song hành cùng các chỉ tiêu đánh giá như GDP.


1.3

Phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay

Thực tiễn cho thấy, số đông các nước vẫn dừng ở mức những nước đang phát triển với mức
thu nhập thấp; tình trạng nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, năng suất thấp, ô nhiễm môi trường,
nguồn tài nguyên quốc gia khai thác cạn kiệt; chất lượng tăng trưởng, chất lượng sống của
người dân thấp, lạc hậu. Một số quốc gia do điều kiện lịch sử, có điểm xuất phát cao và đã trải
qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, những mâu thuẫn và bất ổn xã hội vẫn
thường xuyên diễn ra.
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia vẫn đang loay hoay lựa chọn mơ hình phát triển, chỉ có số ít
nước phát triển đạt được một số tiêu chí cơ bản về chất lượng cuộc sống, chất lượng tăng
trưởng, nhưng cũng phải trả giá khơng nhỏ trong q trình phát triển. Bởi vậy, phát triển nhanh
gắn với PTBV sẽ là mơ hình mà nhiều quốc gia lựa chọn trong bối cảnh thế giới ngày nay, nhất
là những nước đang phát triển.
Trong bối cảnh như vậy, chiến lược dài hạn của thế giới cũng như của các nước cần tập trung
theo 3 hướng phát triển: (1) Xã hội cacbon thấp/tăng trưởng xanh; (2) Xã hội
tái tạo tài nguyên; và (3) Xã hội hài hòa với thiên nhiên.
1.3.1 Xã hội cacbon thấp( Kỷ nguyên năng lượng – khí hậu)
Như trên đã phân tích, thế giới hiện nay đang đứng trước những thách thức lớn lao về
mơi trường và chúng ta phải nhanh chóng giải quyết vấn đề, nếu khơng, sẽ q muộn. Biến đổi
khí hậu là một thảm họa đối với nhân loại và chúng ta đang bế tắc chưa tìm được cách giải
quyết, nhất là sau “Hội nghị Copenhagen COP15” về biến đổi khí hậu do Liên Hiệp Quốc tổ
chức tại Đan Mạch. Tuy nhiên, một số người lại cho rằng, có “một loạt cơ hội ẩn sau những


vấn đề tưởng như không giải quyết nổi” này và dự đoán rằng Kỷ nguyên mới trước mắt sẽ là
một trong những kỷ nguyên thay đổi lớn nhất về xã hội, chính trị và kinh tế. Kỷ ngun, trong
đó có những đột phá lớn trong các lĩnh vực năng lượng sạch và thái độ trân trọng đối với tự

nhiên,với tài nguyên rừng, biển, những điểm nóng về đa dạng sinh học, sẽ hướng tới một xã hội
cacbon thấp và hài hịa với tự nhiên. Phải nhìn nhận rằng đây là một cơ hội lớn cho những ai có
tầm nhìn xa. Rất đơn giản,vì con người khơng thể tiếp tục cung cấp năng lượng cho sự phát
triển bằng hệ thống dựa trên nhiên liệu hóa thạch tồn tại suốt thời Cách mạnh Công nghiệp đến
nay và bắt buộc chúng ta phải chuyển sang một Kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên năng lượng – khí
hậu. Xã hội cacbon thấp gồm 3 nội dung: (i) duy trì hoạt động kinh tế hiệu quả trong khi tối
thiểu hóa sử dụng năng lượng và tài nguyên; (ii) tối thiểu hóa áp lực về mơi trường vớiviệc sử
dụng mỗi nguồn năng lượng và tài nguyên; và (iii) đầu tư vào môi trường, một công cụ để phát
triển kinh tế.
1.3.2

Xã hội tái tạo tài nguyên
Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật v.v...) là tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự

bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu sử dụng không
hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thối khơng thể tái tạo được. Ví dụ: tài ngun nước có
thể bị ơ nhiễm, tài ngun đất có thể bị mặn hố, bạc màu, xói mòn v.v...
Xã hội tái tạo tài nguyên nhằm tiết kiệm và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất.
1.3.3 Xã hội hài hòa với tự nhiên
Nội dung này đã được khẳng định trong Hội nghị các bên tham gia Công ước Đa dạng
sinh học( ĐDSH) lần thứ 10 (COP10) tại Nagoya, Nhật Bản năm 2010. Theo đó, Liên Hợp
Quốc phát động “Năm quốc tế về rừng” (2011) và “Thập kỷ Đa dạng sinh học” (2011-2020),
nhằm nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học, đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn ĐDSH và sống
thân thiện, hài hòa với thiên nhiên trên phạm vi toàn cầu.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN
VỮNG CỦA THÁI LAN.


2.1 Tổng quan đất nước Thái lan
2.1.1 Khái quát:

- Tên nước đầy đủ: Vương quốc Thái Lan
- Thủ đô: Băng-cốc (từ năm 1782)
- Diện tích: 513.115 km2 (lớn thứ 49 thế giới), đứng thứ hai khu vực Đông Nam Á( sau
Indonexia), gồm 76 tỉnh.
- Dân số: 65,4 triệu người(2011), đứng thứ tư Đông Nam Á, sau Indonesia (khoảng 240 triệu
dân), Philippines (92 triệu) và Việt Nam (88 triệu).
- Tôn giáo: Đạo Phật được coi là quốc đạo, chiếm khoảng 95% dân số, ngồi ra có Đạo Hồi
(4%), Thiên chúa giáo và các đạo khác (1%).
- Ngơn ngữ: Ngơn ngữ chính là tiếng Thái, bên cạnh đó Tiếng Anh được dùng phổ biến.
- Ngày quốc khánh: ngày 5 tháng 12 hằng năm. Đây cũng là ngày sinh nhật Vua Bhumibol
Adulyadej.
- Tiền tệ: Đồng Baht (THB), tỷ giá hiện nay là khoảng 32-33 baht/USD


- Lãnh đạo nhà nước hiện nay:
+ Nhà Vua: Bu-mi-bôn A-đun-da-đệt (Bhumibol Adulyadej), lên ngôi ngày 9/6/1946 đến nay.
+ Thủ tướng: Yingluck Shinawatra (nhậm chức ngày 08/8/2011).
- Quốc kỳ: 5 sọc ngang 3 màu; màu đỏ tượng trưng dân tộc, màu trắng tượng trưng cho tơn
giáo, màu xanh tím than tượng trưng cho Hồng gia.
2.1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên:
- Vị trí địa lý: Nằm ở khu vực Đơng Nam Á, trong vùng nhiệt đới gió mùa. Về tiếp giáp: phía
bắc giáp Lào và Myanma; phía Đơng giáp Cam-pu-chia và Vịnh Thái Lan; phía Nam giáp
Malaysia; phía Tây giáp biển Andaman và Mianma.
- Địa hình: thấp dần từ bắc xuống nam, từ tây sang đông. Những dãy núi kéo dài liên tục phí
tây và phía tây bắc tạo thành xương sống cho Thái Lan. Độ cao trung bình cho các quả núi này
là 1600m so với mực nước biển. Đỉnh cao nhất là Đoi -In -Tha- Ron
cao 2600m.
- Sơng ngịi: đa dạng nhưng chủ yếu là các sông nhỏ, trừ hai sông lớn là Chai- po- ray-a và
sơng Mê Kong.
- Khí hậu: Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thời tiết khá điều hịa với hai mùa rõ rệt. Mùa

nóng bắt đầu cuối tháng 3 và kéo dài đến thàng 9, mùa lạnh kéo dài từ tháng 10 đến hết tháng
3.
-Khoáng sản: chủ yếu là thiếc, ngồi ra cịn có một số khống sản khác như: Fluôri,
Angtimoan, vônfram, kẽm,...
2.1.3 Lịch sử:
Theo sử sách Thái Lan, người Thái xuất xứ từ vùng núi An-Tai, Đông Bắc tỉnh Tứ
Xuyên, Trung Quốc từ 4500 năm trước, sau đó di cư dần xuống vùng đất hiện nay là Thái
Lan. Vào năm 1238, người Thái thành lập Vương quốc tại Sukhothai (miền Bắc Thái Lan
ngày nay) gọi là Vương quốc Phật giáo Sukhothai, sau đó người Thái mở rộng lãnh thổ
xuống phía Nam, và năm 1350 chuyển kinh đơ xuống Ayuthaya (phía Bắc Băng-cốc 70 km)
gọi là Vương quốc Ayuthaya. Hơn 400 năm người Thái tiến hành chiến tranh liên miên với


Miến Điện và kinh đô Ayuthaya bị huỷ diệt. Năm 1767, một tướng người Thái gốc HoaTaksin, đứng lên chống quân Miến Điện giành lại độc lập và rời đô về Thonburi, bên bờ
sông Chao Phaya, đối diện với Bangkok. Vua Rama I (1782) lên ngôi và lấy Băng-cốc
(Thành phố của các thiên thần) làm Thủ đô. Thời đại này gọi là Rattanakosin.

2.1.4. Thể chế chính trị:
Thể chế nhà nước: quân chủ lập hiến. Trước năm 1932, Thái Lan theo chế độ Quân
chủ chuyên chế. Sau cuộc cách mạng tư sản năm 1932 do một nhóm sĩ quan trẻ lãnh
đạo, Thái Lan chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ Quân chủ lập hiến.
Cơ cấu các cơ quan quyền lực:
- Nguyên thủ quốc gia là Nhà Vua: Được coi là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Nhà
Vua là người đứng đầu nhà nước, Tổng Tư lệnh quân đội và là người bảo trợ quốc đạo Phật
giáo.Trong số các vị vua Thái Lan phải nhắc đến vua Bu-mi-bôn A-đun-da-đệt (Bhumibol
Adulyadej). Đây là người hiện đang giữ cương vị nhà vuacủa Thái

Lan. Lên ngôi vào ngày

9/6/1946, nhưng Bhumibol Adulyadej trở lại Thụy sĩ để hồn tất chương trình học vấn của

mình. Mãi đến năm 1950 ơng trở về Thái Lan

và bắt đầu với cương vị là quốc vương của

nhân dân Thái Lan. Đây là vị vua giữ cương vị nhà vua lâu nhất trong lịch sử.
- Quốc hội: Theo Hiến pháp ngày 24/8/2007, Quốc hội Thái Lan là Quốc hội lưỡng viện
gồm: Hạ viện và Thượng viện.


- Chính phủ: bao gồm 36 thành viên gồm 3 Phó Thủ tướng, 21 Bộ trưởng và 11 Thứ
trưởng. Ngồi ra cịn có một số Ủy ban của Chính phủ được lập ra để phối hợp thực hiện các
chính sách chung.
2.1.5 Kinh tế
Thái Lan vốn là nước công nghiệp truyền thống. Hiện nay đã trở thành một nước công
nghiệp mới, có cơng nghiệp và dịch vụ rất phát triển.
Nền kinh tế của Thái Lan phụ thuộc vào xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu chiếm
60% GDP. Thái Lan xuất khẩu nhiều hơn 105 tỷ đô la hàng năm.Các sản phẩm xuất khẩu chính
bao gồm gạo, hàng ệt may, giày dép, cao su, nữ trang, ô tô,... Lúa là cây lương thực chính được
trồng tại Thái Lan, với 55% đất đai trồng trọt được được sử dụng để trồng lúa. Đất có thể canh
tác được của Thái Lan cũng chiếm tỷ lệ lớn, 27,25% của tồn bộ khu vựcsơng Mê Kong.
Các ngành cơng nghiệp chủ yếu gồm có điện dân dụng, linh kiện điện tử, linh kiện máy tính và
ơ tơ. Ngồi ra, cũng có đóng góp đáng kể từ du lịch( ngành cơng nghiệp” khơng khói”).
2.1.6 Đối ngoại:
Chính sách ngoại giao của Thái là "ngoại giao cây sậy", sẵn sàng "cúi đầu, thần phục"
trước kẻ khác đề đem lợi về cho mình,một chính sách đối ngoại mềm dẻo, khơn khéo trong lịch
sử
Chủ trương tăng cường quan hệ với tất cả các nước, tích cực phát huy vai trị của Thái Lan
trong khu vực và quốc tế. Thủ tướng các kỳ đều đi thăm Trung Quốc, Việt Nam, Lào,
Campuchia, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Singapore, Anh ; tích cực tham gia các hợp tác khu
vực và tiểu vùng (GMS, ACMECS, EWEC,…). Với cương vị Chủ tịch ASEAN nhiệm kỳ 2008

- 2009, Thái Lan đã tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN 14 (27/02-10/3/2009), Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN (16-23/7/2009) và Hội nghị Cấp cao ASEAN và các nước đối tác
(tháng 10/2009). Tuy nhiên hiện nay, quan hệ Thái Lan - Campuchia còn là vấn đề nan giải,
gây quan ngại cho nhiều nước.
Ngoài việc coi trọng quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, quan hệ hợp tác với các
nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật, EC... ĐồngThái Lan cũng rất chú trọng chính sách ngoại


giao phục vụ kinh tế, đẩy mạnh thu hút đầu tư, đẩy mạnh tìm kiếm các đối tác thương mại
nhằm mở rộng thị trường, tăng giá trị hàng hóa của Thái Lan, tạo cơ hội về thương mại cho khu
vực tư nhân Thái Lan.
Về tự do hóa thương mại, Thái Lan chú trọng đàm phán thành lập khu vực tự do thương
mại (FTA) với các nước, trong đó đã ký với Nhật, đang đàm phán với Mỹ, đồng thời tăng
cường quan hệ thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO.
2.2 Thái Lan phát triển kinh tế bền vững
2.2.1 Những quan điểm và hành động nhằm phát triển kinh tế bền vững:
2.2.2.1 Quan điểm
Từ năm 2002-2006, vua Bhumibol Adulyadej đã đưa ra triết lý về “nền kinh tế vừa - đủ”.
Thái Lan xem triết lý trên như là một định hướng cho phát triển đất nước vượt qua khủng
hoảng kinh tế, lấy lại sự cân bằng. Đây là yếu tố quan trọng để một quốc gia tiến đến sự phát
triển bền vững. Phát triển vừa - đủ, có nghĩa là chúng ta tạo ra sản phẩm sử dụng vừa - đủ,
không sản xuất thừa mứa, dẫn tới sự lãng phí. Bởi lẽ một sản phẩm được sản xuất ra, đồng
nghĩa lấy đi một phần tài nguyên, làm cạn kiệt tài nguyên.

Phát triển bền vững là một trong các chính sách trọng tâm nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia:
Phát triển bền vững là định hướng phát triển quan trọng trên toàn cầu, được xác định trên
mức độ cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Chính phủ Thái Lan xác định
phát triển bền vững là một trong các chính sách trọng tâm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia thông qua việc xây dựng nền kinh tế vững mạnh và môi trường sống tốt. Khu vực

kinh tế tư nhân đóng vai trị quan trọng trong quá trình thực hiện chủ trương phát triển bền
vững. Hiện tại, khơng như các tập đồn kinh tế hàng đầu thế giới vốn đã ý thức được tầm quan
trọng của phát triển bền vững và thực hiện phát triển bền vững từ khá lâu, các doanh nghiệp
Thái Lan vẫn cịn đang trong giai đoạn sơ khai của q trình phát triển bền vững.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, cần chọn lọc các dự án đầu tư một
cách thông minh:


Với Thái Lan, bài học từ ô nhiễm của BP tại Bắc Mỹ với thiệt hại môi trường lên đến đơn
vị tỉ USD vẫn cịn nóng hổi. Mặt khác, xu hướng mở cửa thị trường, cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong quy mơ tồn cầu ngày càng khốc liệt. Bên cạnh đó, làn sóng đầu tư ngày càng
rộng mở tại nhiều địa chỉ khác nhau trên thế giới. Do vậy, yêu cầu đặt ra là chọn lọc các dự án
đầu tư nào có lợi cho đất nước, duy trì ổn định xã hội và bảo vệ mơi trường chính là thực hiện
phát triển bền vững.
Chú trọng xây dựng niềm tin xã hội:
Trong thế giới hiện nay, các đơn vị tư nhân, nhà nước và các bộ phận nhà nước không thể
đạt được ích lợi một mình. Chúng ta đồng thời cần phải nhìn vào hạnh phúc của xã hội và sự
bền vững của các nguồn tài nguyên. Thiếu tầm nhìn để kết nối các hoạt động, các tổ chức
không thể tiếp tục bền vững. Hình ảnh và thanh danh của bất cứ tổ chức nào cũng phụ thuộc
vào niềm tin của xã hội”…
Phải xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hiệu quả: đẩy mạnh phát triển
công nghiệp và dịch vụ nhưng không bỏ quên việc thúc đẩy phát triển bền
vững tiềm năng nông nghiệp.
Thái Lan vốn là một nuớc nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn chiếm
khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong hàng thập kỷ qua có vai trị quan
trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân

2.2.2.2 Hành động



●Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược
như:
- Tăng cường vai trò các cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp;
- Đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở
các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn;
-

Tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông

nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo đảm rủi ro cho nông dân.
- Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh tranh với hình thức
như: Tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy mạnh cơng tác tiếp thị…
- Tính tốn phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và hợp lý, từ đó góp
phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời phục hồi những khu vực mà
tài nguyên đã bị suy thoái;
- Giải quyết tốt những mâu thuẫn về tư tưởng trong nông dân có liên quan đến việc sử dụng
tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh học, phân bổ đất canh tác.
● Về xây dựng kết cấu hạ tầng:Nhà nước đã có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý
các cơng trình thủy lợi lớn phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho
hầu hết đất canh tác trên tồn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác
trong sản xuất nơng nghiệp. Chương trình điện khí hóa nơng thơn với việc xây dựng các trạm
thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước,...


● Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp: Chính phủ Thái Lan đã tập trung vào các
nội dung sau: Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn, đồng thời cũng
xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng truyền thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh
vực sản xuất và tiếp thị song song với việc cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
- Thái lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng nông, thủy hải sản
phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước

và xuất khẩu, nhất là các nước công nghiệp phát triển. Ngành Công nghiệp chế biến thực phẩm
ở Thái Lan phát triển rất mạnh nhờ một số chính sách như: Chính sách phát triển nơng nghiệp,
chính sách đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, mở cửa thị trường khi thích hợp,...
● Đổi mới cơng nghệ: Một trong những hướng đi hiệu quả thực hiện phát triển bền vững chính
là đổi mới công nghệ. Thái Lan đã áp dụng khoa học và công nghệ cho sự phát triển bền vững.
Một minh chứng rõ ràng nhất là Chính phủ đã khuyến khích các cơng ty tư nhân phát triển các
sản phẩm thân thiện với môi trường như nhiên liệu sinh học, nhiên liệu thay thế và hồn tồn
khơng chất thải, phát triển bển vững đòi hỏi sự quán triệt và thực thi của toàn bộ người dân cho
đến mọi tầng lớp trong xã hội. Chìa khóa của sự thành cơng chính là sự hợp tác của tất cả các
bên liên quan thông qua một thỏa thuận chung giữa các doanh nghiệp, chính quyền địa phương
và cộng đồng để đặt ra những quy định chặt chẽ thích hợp cho mỗi bên. Trong trường hợp này,
các tổ chức phi chính phủ sẽ hoạt động như một trung gian giữa các cơ quan Chính phủ với
doanh nghiệp tư nhân bằng các tạo diễn đàn thảo luận và thiết lập một mạng lưới chia sẻ ý kiến
với các cộng đồng khác tạo cơ quan giám sát một cách hữu hiệu các tiêu chuẩn thực thi về môi
trường.
●“tạo nên một nền kinh tế cân bằng, “miễn dịch”: trước các vấn đề của kinh tế thế giới, bằng

cách đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, cải thiện lòng tin với các nhà đầu tư Thái Lan và
nước ngồi”, chính phủ đã chú trọng đầu tư mạnh cho cơ sở hạ tầng; khơi phục các chương
trình hỗ trợ khu vực nông thôn; tiếp tục triển khai các dự án vĩ mô; sửa đổi luật và các quy định
gây trở ngại cho đầu tư tư nhân; đẩy nhanh tiến độ giải ngân; bảo đảm giá cả sinh hoạt khơng
q cao, kích thích chi tiêu của người dân ở nông thôn; đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường
mới; khôi phục du lịch; quản lý sử dụng năng lượng hiệu quả; cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ,...


×