Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

tiểu luận tình hình lạm phát việt nam giai đoạn 2007-2009 nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 45 trang )

Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

1




Nhận xét của giáo viên
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2007-2009: NGUYÊN
NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

[Type the document sub title]

TP.HChíMinh,tháng06năm2011
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA KINH TẾ


TP.HCM, tháng 06 năm 2011
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

2


MỤC LỤC
Phần 1 : MỞ ĐẦU
Phần 2 : NỘI DUNG
Chương 1 : Cơ sở lý luận về lạm phát
1.1 Các quan niệm về lạm phát…………………………………………… 6
1.1.1 Trường phái lưu thông tiền tệ……………………………… 6
1.1.2 Trường phái cầu kéo………………………………………… 6
1.1.3 Trường phái lạm phát và giá cả …………………………… 7
1.1.4 Trường phái K.Marx………………………………………….7
1.2 Phân loại lạm phát……………………………………………………….8
1.2.1 Căn cứ vào định lượng ……………………………………… 8
1.2.2 C
ăn cứ vào định tính………………………………………… 9
1.3 Nguyên nhân lạm phát…………………………………………… … 10
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo…………………………………… … 10
1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy ………………………………… 10
1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục …………….13
1.3.4 Các nguyên nhân khác………………………………………14
1.4 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế………………14

Chương 2: Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009
2.1 Lạm Phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009……………………… 15
2.1.1 Diễn biến…………………………………………………………… 17
2.2.2 Nguyên nhân………………………………………………………….20
2.2.2.1 Lạm phát tiền tệ……………………………………………… 21
2.2.2.2 Lạm phát cầ
u kéo………………………………………………22
2.2.2.3 Lạm phát chi phí đẩy………………………………………… 22
2.2.2.4 Nguyên nhân khác………………………………………………25
2.2.3. Tác động của lạm phát

2.2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế……………………………….25
2.2.3.2 Tác động đến tình hình xã hội………………………………….26
2.2.4 Giải pháp
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

3

2.2.4.1 Năm 2007 ………………………………………………………………… 27
2.2.4.2 Năm 2008………………………………………………………………… 29
2.2.4.3 Năm 2009 ………………………………………………………………… 35
2.2.5 Đánh giá các giải pháp
2.2.5.1 Năm 2007 ……………………………………………………….39
2.2.5.2 Năm 2008 ……………………………………………………… 41
2.2.5.3 Năm 2009 ……………………………………………………… 44

Phần 3 : Kết luận…………………………………………………………… 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………48

Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

4

LỜI MỞ ĐẦU

Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới và ở Việt
Nam, lạm phát nổi lên là một vấn đề đáng quan tâm về tác động của nó đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế. Lạm phát là một trong những chỉ tiêu đánh giá trình
độ phát triển kinh tế của một quốc gia như
ng cũng là một trong những trở ngại
lớn nhất trong công cuộc phát triển đất nước. Lạm phát được coi như là một căn

bệnh thế kỷ của nền kinh tế thị trường. Đối với nước ta, trong sự nghiệp phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước,
cơ chế mới sẽ là môi tr
ường thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế theo xu hướng
hiện đại, chắc lọc thừa kế những thành tựu và khắc phục những tồn tại đã qua.
Trong đó, lạm pháp nổi lên như là một vấn đề hết sức nghiêm trọng. Vì vậy, việc
nguyên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp chống lạm phát
là hết sức cần thiết và có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệ
p phát triển của đất
nước.
Từ năm 1976 đến nay, Việt Nam trải qua hai giai đoạn phát triển chính được
đánh dấu bằng mốc khởi đầu đổi mới năm 1986 : nền kinh tế chuyển từ kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cả
hai giai đoạn này, lạm phát luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các
chính sách và chế
n lược phát triển, nhất là trong những thời điểm lạm phát dâng
cao như nửa cuối thập niên 1970 – nửa đầu thập niên 1980 và lại nổi lên từ năm
2007 cho đến nay.
Lạm phát ở nước ta giai đoạn 2007 cho đến nay có tác động sâu rộng đến các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Với sự điều hành quản lý của nhà nước đã phần nào
ngăn chặn, khắc phụ
c nhưng tác động của lạm phát, tình hình ngày càng được ổn
định. Tuy nhiên, lạm phát vẫn chưa thật sự được đẩy lùi mà còn có nguy cơ quay
trở lại, diễn biến một cách phức tạp. Vì thế, việc tìm hiểu lạm phát trong thời gian
qua về nguyên nhân, diễn biến, tác động, giải pháp… sẽ giúp ta có một cái nhìn
tổn quan hơn, đúc kết được kinh ngiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất
nước trong thời gian s
ắp tới.

Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp


5

PHẦN 2 – NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Các quan niệm về lạm phát
Đối với vấn đề lạm phát có rất nhiều trường phái với nhiều cách tiếp cận khác
nhau và mỗi trường phái đều có những lý luận khác nhau :
1.1.1. Trường phái lưu thông tiền tệ
Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ
cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả
hàng hoá tăng lên. Chúng ta đề
u biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào
tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát,
nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong
đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. K.Mazx đã chỉ ra rằng ý nghĩ về lạm
phát của học thuyết này là quá đơn giản. Những người theo họ
c thuyết này đã
dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền
với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
1.1.2. Trường phái cầu kéo
Trường phái lạm phát do cầu kéo mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là
"cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn
dụng dẫn đến mức giá chung t
ăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là
"cầu dư thừa tổng quát" là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở
thời kỳ CNTB phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm
phát. Còn ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có
lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm

phát lưu thông tiền tệ là không lấy hiệ
n tượng bề ngoài, không coi điều kiện của
lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logíc là đem
kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn
chưa nên được đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát.

1.1.3. Trường phái lạm phát và giá cả
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

6

Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm
phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà
không có lạm phát như: thời kỳ "cách mạng giá cả" ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời
kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa t
ăng giá chỉ là hệ
quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành
nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều cái chứ không phải
chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa
hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
1.1.4. Trường phái K.Marx
K.Marx đ
ã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông
những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại
sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản. Ở đây
Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới người ta có thể
hiểu lạm phát là do nhà nước do giai cấp tư bản, để bóc l
ột một lần nữa giai cấp
vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm phát "lưu thông tiền tệ"
song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cấp tới bản chất kinh tế - xã hội của

lạm phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh
tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng c
ủa lạm phát
trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các
quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc
tính cơ bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để định nghĩa được nó
đòi hỏi phải có sự đầu tư sâu và kỹ càng.
Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan
điểm của trường phái giá cả, (ở nước ta và
nhiều nước quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là
thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự
tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm phát.
Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là "lạ
m phát là sự tăng giá kéo dài, là sự thừa
các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp
bội chi ngân sách". Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh chóng và tối đa
nhất trong các hình thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội mà giai cấp cầm
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

7

quyền sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Nhưng nói chung lạm phát là một
hiện tượng của các nền kinh tế thị trường.
1.2. Phân loại lạm phát
1.2.1 Căn cứ vào định lượng
* Lạm phát vừa phải :Còn gọi là lạm phát một con số ,có tỷ lệ lạm phát dưới
10% một năm .Lạm phát vừa phải làm cho giá c
ả biến động tương đối. Trong
thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường ,đời sống của người lao

động ổn định .Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi
không cao ,không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn

Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được ,nhữ
ng tác động
của nó là không đáng kể .
• Lạm phát phi mã: lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ
2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp:11,12% thì nói chung các tác động
tiêu cực không đáng kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được.
Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên
nhanh chóng ,gây biến động lớn về kinh tế ,các hợ
p đồng được chỉ số hoá. Lúc
này người dân tích trữ hàng hoá ,vàng bạc ,bất động sản và không bao giờ cho
vay tiền ở mức lãi xuất bình thường .Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến
sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ .Bên cạnh đó
lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế
• Siêu lạ
m phát: 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với
tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa
lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ
tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền luơng thực tế
của người lao động bị giảm m
ạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin
không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản
xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại,
siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh
chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra .
1.2.2 Căn cứ vào định tính
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp


8

• Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng .
- Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động,
tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền
kinh tế nói chung.
- Lạm phát không cân bằng: T
ăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
• Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
- Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự
đoán trước
được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân
đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây
ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế.
- Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại
lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích
nghi. T
ừ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm
tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút.
Đối với các nước đang phát triển lạm phát thường kéo dài, do đó các nhà kinh tế
đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau: lạm phát kinh niên kéo dài trên
3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm, lạm phát nghiêm trọng thường kéo
dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạ
m phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm
với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm .



1.3 Nguyên nhân lạm phát
1.3.1 Lạm phát do cầu kéo
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do
tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp,
hay nói cách khác là nền kinh tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó.
Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm
cho chúng tăng giá. Trong n
ền kinh tế thị trường thì lao động cũng là một dịch
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

9

vụ, trong thời gian đó thị trường lao động trở nên khan hiếm nên tăng lương cũng
là một phần của quá trình lạm phát.
Khi nền kinh tế đạt tới hoặc vượt qua mức sản lượng tiềm năng, việc tăng mức
cầu dẫn tới lạm phát do cầu kéo. Vì tổng mức chi đối với C + I + G tăng, chi tiêu
tăng lên trong khi có mộ
t mức cung hạn chế về sản lượng thực tế, phần lớn tổng
mức chi cao hơn dẫn đến giá cả cao hơn. Do đó chính mức cầu cao hơn kéo giá
lên cao hơn, đó là lạm phát do cầu kéo
1.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy :
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất
cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai
đoạn t
ăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng hoặc
khả năng khả thác hạn chế.
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa
cũng là một yếu tố gây lên lạm phát. Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng nội
tệ yếu

đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác.
1.3.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng
lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy
ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Khi nền kinh tế
chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều, chưa khai thác nhiều.
Có nhiều nhà máy xí nghiệp b
ị đóng cửa chưa đi vào hoạt động. Do đó nhân viên
nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong trường hợp này, khi tăng cung tiền
thì dẫn đến lãi suất giảm đến một mức độ nào đó, các nhà đầu tư thấy rằng có thể
có lãi và đầu tư tăng nhiều. Từ đó các nhà máy ,xí nghiệp mở cửa để sản xuất,
kinh doanh. Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu đượ
c khai thác, người lao
động có việc làm và sản lượng tăng lên .
Ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết công suất,
nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động
được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên
tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn khi các
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

10

nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu
lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm …Vai trò của chính phủ và các nhà
quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi
thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả
tăng nhiều thì lạm phát tấ
t yếu sẽ xảy ra .
Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách :
Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện kinh

doanh tốt ) hoặc các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng. Trong cả hai
trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung và
dài hạn, điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tă
ng. Nếu cung không tăng
tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên
giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp
cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng.
Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng
,nghĩa là (i) và (Y) ổn định. Mứ
c cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không
đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ
tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây cũng chính là lý do tại
sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này.
1.3.4 Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên, một số các nguyên nhân khác
cũng gây ra lạm phát. Thứ nhất có thể kể
đến là tâm lý của dân cư. Khi người dân
không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào
lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh
doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân
bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên
cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có th
ể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ
như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể là
một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng
cách phát hành trái phiếu chính phủ để vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần
thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do v
ậy mà làm
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp


11

tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt
trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành
tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên
cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển,
việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị
trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất. Vì thế mà khi
thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ
gây lạm phát càng lớn.
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái
phiếu có lợi hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tă
ng và
lãi xuất tăng cao hơn .Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung
ương lại phải mua vào các trái phiếu đó .Như thế mức cung tiền lại tăng lên và dễ
gây lạm phát.
Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm
tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng
đồ
ng bản tệ sẽ bị mất giá. Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn
đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khác khi tỷ giá hối
đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó
giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao.Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy.
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách
thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợ
p lý ,mất cân đối cũng xảy ra lạm phát.
1.4 Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Trong thời gian gần đây một số nhà kinh tế cho rằng tỷ lệ lạm phát của Việt Nam

bằng tốc độ tăng trưởng là tốt cho sự phát triển kinh tế. Phải chăng đó là lạm phát
tối ưu cho tăng trưởng kinh tế?
Giữa lạm phát và tăng trưởng thường có mố
i quan hệ nhất định. Tuy nhiên mức
độ gắn kết như thế nào vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Đó là hai mặt của xã hội, là
hai vấn đề trong nền kinh tế. Có thể coi lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế
nhưng nó là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau. Cố định lạm phát ở mức
thấp là môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi để khuyến khích tiết kiệm, mở
rộng
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

12

đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Một số nghiên cứu cho thấy, lạm phát tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt qua một ngưỡng nhất định. Và
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ phi tuyến tính.
Nghiên cứu gần đây nhất của M.Khan và A.Senchadji (năm 2005), các tác giả đã
sử dụ
ng kỹ thuật phân tích hiện đại nhất để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát
và tăng trưởng. Một lần nữa kết quả cho thấy giữa chúng có mối tương quan
dương và trên mức đó lạm phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.
Một phát hiện rất có hiệu quả của các tác giả là mức ngưỡng đó khác nhau ở các
nước khác nhau. Ở các nước công nghiệp, m
ức ngưỡng này rất thấp khoảng 1-
3%; còn ở các nước đang phát triển mức đó vào khoảng 7 – 11%. Dựa trên cơ sở
lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, diễn biến lạm phát và tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam trong thời gian qua, nhiều nhà kinh tế cho rằng mức lạm phát tối ưu
của nền kinh tế Việt Nam là ở mức 5 – 7%.
Thực tế trên cả lý thuyết và cả thực tiễn
đều cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát

và tăng trưởng kinh tế đều biểu diễn bằng hình chữ “U” ngược. Điều đó hàm ý
rằng tồn tại một phạm vi lạm phát an toàn khi mà lạm phát và tăng trưởng quan
hệ cùng chiều. Trong trường hợp đó lạm phát là cái giá phải trả của tăng trưởng
kinh tế.
Nới lỏng chính sách tài khóa và tiền tệ có xu hướng tăng lạm phát, mặt khác sẽ có
tác dụng khuyến khích đầu tư, mở rộng tổng cầu và do vậy cho phép sử dụng
hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước
dã sử dụng chính sách này để tăng trưởng kinh tế. Đây là giải pháp thúc đẩy
nhanh nhưng kém bền vững, nó còn được gọi là giải pháp tăng trưởng “ bong
bóng” . Lạm phát quá cao chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tăng tr
ưởng kinh tế.
Các nước phát triển chọn giải pháp tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên
cơ sở lạm phát ở mức thấp. Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì
hiệu quả của việc dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây
dựng các phương án đầu tư hiệu quả, còn đối với người tiêu dùng thì yên tâm chi
tiêu, không phải cân nh
ắc các mặt hàng khác thay thế do giá tăng. Tất cả các điều
đó góp phần vào tăng trưởng thực chất.
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

13

Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng lạm phát ổn định chỉ là điều kiện đủ cho tăng
trưởng kinh tế còn điều kiện cần phải là vấn đề của chính phủ trong việc phát
triển nguồn lực, vốn, công nghệ kỹ thuật…













CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2007-2009

2.1. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009
Trong những năm gần đây, Việt Nam gây ấn tượng bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao liên tục. Tuy nhiên theo lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế thì Việt Nam đang phải chịu tác động từ chính thành công quá lớn
và quá nhanh chóng của mình. Cái giá phải trả cho tốc độ tăng trưởng cao là mất
ổn định kinh tế vĩ
mô ít nhất là trong trung hạn. Điều này được thấy rõ nhất thông
qua lạm phát và tình hình kinh tế nước ta năm 2008.
Năm 2008 đã đi vào lịch sử kinh tế Việt Nam như một năm đầy biến động và
sóng gió trên tất cả các thị trường. Từ thị trường trong nước đến thị trường nước
ngoài, từ thị trường hàng hóa dịch vụ thông thường, cao cấp đến thị trường tài
chính và thị trườ
ng bất động sản. Nhìn lại chặng đường một năm giông bão giúp
ta rút ra nhiều bài học quí giá cho những chặng đường phát triển tiếp theo.
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

14

Diễn biến
9 Giai đoạn lạm phát tăng nhanh ( 3 quí đầu năm)

Dấu hiệu lạm phát đã xuất hiện từ tháng 6 năm 2007 khi CPI tháng 6 tăng vọt lên
1%, trái hẳn với thông lệ giá cả hơn một thập kỉ qua. Tín hiệu này đã được ghi
nhận và xử lý kịp thời. Tuy nhiên do không phân tích đúng nguyên nhân của lạm
phát, thêm vào đó việc triển khai th
ực hiện không nghiêm túc nên mặc dù tăng
trưởng kinh tế cả năm 2007 ở mức cao trên 8.5%, song lạm phát cũng ở mức kỷ
lục 12.63%.
Nửa đầu năm 2008, lạm phát liên tục leo thang và vượt qua mọi qui luật đã hình
thành hàng chục năm nay, buộc Việt Nam phải điều chỉnh chính sách từ ưu tiên
tăng trưởng kinh tế sang kiềm chế lạm phát. Trong bối cảnh lạm phát quá cao, kết
quả tăng trưở
ng đã mất đi khá nhiều ý nghĩa. Nhất là đối với các tầng lớp nghèo
dễ bị tổn thương, thu nhập chủ yếu trông chờ vào đồng lương. Khi vật giá leo
thang số tiền mỗi người có được dường như là nhiều hơn do doanh thu bán hàng,
thu nhập hoặc tiền lương khá hơn trước. Nhưng thực chất họ lại mua ít hàng hóa
và dịch vụ hơn vì sức mua của đồng tiền
đã giảm. Nếu không nhận diện đúng và
có những biện pháp thích hợp thì nguy cơ phải đối mặt với lạm phát phi mã gây
bất ổn kinh tế xã hội là điều khó tránh khỏi.
Chỉ sau 6 tháng, Tổng cục thống kê công bố công bố chỉ số CPI đã lên tới 26.8%
so với tháng 6 năm 2007 và 18.44% so với cuối năm 2007. Riêng nhóm hàng
lương thực thực phẩm tăng tương ứng tới 74.3% và gần 60%. Điều này
đã phá vỡ
mọi dự tính của chúng ta về kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Càng
nghiêm trọng hơn khi Việt Nam là một nước nông nghiệp với hơn 60% dân số và
lực lượng lao động là nông dân. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nói chung và của
giá cả thị trường nói riêng vào những biến động trong khu vực sản xuất lương
thực thực phẩm của nước ta còn rất lớn, m
ặc dù tỷ trọng của nông nghiệp trong
GDP giảm xuống chỉ còn 20%.

Thông thường những tháng gần tết giá cả tăng nhanh. Nhưng năm 2008 đặc biệt
hơn vì qua tết Mậu tý mà giá cả vẫn ở mức cao trái ngược với qui luật vận động
của giá cả trong thời gian gần đây.
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

15

Sau hơn 1 thập kỉ từ năm 1992, “bóng ma” lạm phát dường như đang quay trở
lại và đe dọa những thành quả kinh tế xã hội mà nước ta đạt được.
Trong những tháng đầu năm vật giá leo thang từng tháng. Giá cả tăng liên tục đã
đẩy mức lạm phát tháng sau cao hơn tháng trước. So với tháng 12 (2007), CPI
tháng 1 (2008) tăng 2.4%, sang tháng 2 tăng vọt lên 6%, tháng 3 là 9.2%. Đến
tháng 4 chỉ số
CPI đã lên tới 2 con số (11.6%) và tháng 5 lại tăng đột ngột tới
16%. Đỉnh điểm lạm phát đã đến mức 3.91% vào tháng 5 (2008), trùng với thời
điểm giá gạo trên thị trường quốc tế ở mức 1000 USD/ tấn, khủng hoảng lương
thực đã trở thành mối đe dọa toàn cầu. Ngay cả ở một cường quốc xuất khẩu gạo
như Việt Nam mà tin đồn thiế
u gạo đã làm rất nhiều người dân hoang mang, lo
lắng sẽ quay về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Còn các cơ quan chức năng nhà
nước do dự báo sai lệch nên yêu cầu các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu mặc dù
giá lúa gạo đang rất cao.
Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng kinh tế bắt đầu suy giảm trong khi tỷ lệ đầu tư
vẫn ở mức cao. GDP nửa đầu nă
m chỉ tăng 6.5% so với cùng kỳ năm trước, thấp
hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ một số năm gấn đây. Xuất hiện những cơn
“sốt ảo” USD, vàng, gạo, thép, vật liệu xây dựng,…Thâm hụt thương mại tăng
vọt (gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu). Thị trường chứng khoán thiết lập đáy
mới chỉ bằng khoảng ¼
đỉnh cao nhất là 1173 điểm, đánh mất toàn bộ điểm tích

lũy được 3 năm qua. Giá vàng có thời điểm lên đến xấp xỉ 20 triệu VND/ lượng,
tỷ giá hối đoái trên thị trường đã từng vượt mốc 19000 VND/ USD….
Nền kinh tế Việt Nam cuối tháng 5 đầu tháng 6 mấp mé bờ vực khủng hoảng với
những “bong bóng” khổng lồ chực chờ nổ tung trên thị trường tài chính tiề
n tệ,
thị trường tín dụng ngân hàng, thị trường bất động sản. Các tháng 6,7,8 chỉ số
CPI đã lên cao chóng mặt lần lượt là 18.4%, 19.8% và 21.7%.
Chỉ sau 3 quý đầu năm, CPI đã vượt mức 20%, đạt được mức kỷ lục từ 17 năm
qua. Điều đó cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ mất giá của đồng tiền: sau 3 năm
(tính đến tháng 9/ 2008) đồng tiền đã mất giá 48.5% so với kỳ
gốc 2005.
9 Giai đoạn giảm lạm phát (3 tháng cuối năm)
Sang tháng 10,11,12 liên tiếp 3 tháng giá nhiều loại hàng hóa đã chững lại và
giảm xuống. CPI cũng giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế tháng âm: -0.19 (tháng
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

16

10), -0.76 (tháng 11), -0.66 (tháng 12). Tỷ lệ lạm phát từ 21.9% vào thời điểm
tháng 9 chỉ còn 19.89% so với tháng 12 (2007), làm dịu bớt cơn lạm phát của
Việt Nam. Nguyên nhân là do những tháng đầu năm giá mặt hàng lương thực,
thực phẩm tăng nhanh; hàng phi lương thực thực phẩm mặc dù chậm nhưng vẫn
tăng giá. Đến cuối năm hàng lương thực thực phẩ
m dường như không tăng nữa
và đồ thị là một đường nằm ngang. Trong khi đó giá hàng hóa phi lương thực
thực phẩm giảm nhanh nên tốc độ tăng giá chung giảm xuống. Bên cạnh đó là
nhờ những biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng
chẳng hạn như Nghị quyết số 10/2008/ NQ- CP ngày 17/4/2008 về các biện pháp
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bả
o đảm an sinh xã hội và tăng trưởng

bền vững với 8 nhóm giải pháp…
Chúng ta đã chủ trương đúng khi giảm tốc độ tăng trưởng và tập trung vào chống
lạm phát. Thành công nhờ hệ thống chống lạm phát bảo đảm tính trọn gói, sát với
nguyên nhân. Đặc biệt chúng ta có sức mạnh khi tập hợp, huy động cả hệ thống
chính trị, cả dân tộc và các doanh nghiệp tham gia chống lạm phát.
Đầu năm 2008, để
kiềm chế lạm phát Chính phủ sử dụng biện pháp kiềm chế lạm
phát. Bước sang những tháng cuối năm cùng với những biến động của thị trường
trong nước khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ vào cuối quí III – 2008, ngày
11-12-2008 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30 về những biện pháp cấp bách
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã
hội
Sang n
ăm 2009, nước ta phải đối diện với một vấn đề vô cùng phức tạp. Đó là lần
đầu tiên trong 10 năm, tất cả nguồn cung ngoại tệ cùng lúc đều giảm, xuất khẩu
giảm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, du lịch giảm và kiều hối cũng giảm
Cùng một lúc tất cả nguồn cung đều giảm gây áp lực cho nền kinh tế.
Với mục tiêu hàng
đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng
hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô… Chính phủ đã triển khai quyết liệt các
biện pháp kích thích kinh tế trị giá lên đến 10% GDP. Hàng loạt các chính sách
cụ thể đã được Chính phủ ban hành bao gồm hỗ trợ lãi suất tín dụng, miễn giảm
thuế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, tạo việc làm, giảm nghèo… Nhờ đó năm 2009
v
ẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá so với các nước trong khu vực. Kinh tế
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

17

vĩ mô ổn định hơn năm 2008 và có điều kiện phục hồi thoát khỏi khủng hoảng

kinh tế toàn cầu.
Trong 3 tháng đầu năm, mặc dù kinh tế gặp nhiều khó khăn cộng hưởng thêm tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới,
nhưng nền kinh tế Việt Nam đã được nhiều kế
t quả tích cực. Tiêu biểu là tăng
trưởng kinh tế dương ( trong khi hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đều bị suy
giảm), lạm phát tiếp tục được kiềm chế ở mức thấp. Tháng 1 tăng thấp, tháng 2
tăng cao hơn với 1.17%, tháng 3 tăng ít 0.33% nên tính chung cho 3 tháng tăng
chậm hơn cùng kỳ năm trước.

Tháng 2 3 4 5 6 7 8 9
CPI tháng
sau so với
tháng trước
1.17% 0.33% 0.35% 0.44% 0.55% 1.13% 1.56% 0.62%

Bảng 1: CPI tháng sau so với tháng trước trong năm 2009

Các nhóm giải pháp tích cực của Chính phủ đã đem lại kết quả tích cực ở những
tháng quí II. Một số doanh nghiêp nhỏ lẻ đã tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất
tương đối thấp nên hồi sinh trở lại. Chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 4,5,6 bắt đầu
tăng nhẹ. Theo Tổng cục thống kê so với tháng 5, CPI tháng 6 tính chung cả
nước tă
ng 0.55% , cao hơn mức tăng 0.44% của tháng 5, 0.35% của tháng 4 và
0.33% hồi tháng 3. Nếu so với tháng 12/2008 chỉ số giá tháng 6/2009 tăng
2.68%. Chỉ số giá bình quân 6 tháng đầu năm 2009 so với thời kỳ tương ứng của
năm 2008 đã tăng 10.27%. Tuy chỉ tăng nhẹ nhưng tốc độ tăng tháng sau luôn
cao hơn tháng trước cho thấy chặng đường tăng lên liên tục trong quí 2. CPI
tháng 6 tăng là do giá cả một số mặt hàng thiết yếu như thực phẩ
m, xăng dầu,

chất đốt… tăng khá mạnh, kéo theo sự tăng giá của nhiều loại hàng hóa và dịch
vụ khác.
Với sự phát huy của các chính sách nới lỏng tiền tệ và các gói kích thích kinh tế
của Chính phủ, tình hình kinh tế đã chuyển biến tích cực trong những tháng cuối
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

18

năm 2009. Tốc độ tăng trưởng 9 tháng đầu năm đạt 4.56% ( quý I đạt 3.14%, quí
II 4.46%, quý III đạt 5.76%), dự kiến quí 6.8% trong quí IV. Chỉ số giá tiêu dùng
trong 9 tháng đầu năm dao động mức thấp nhưng có xu hướng đang tăng lên.
Vượt xa dự đoán của Tổ điều tra thị trường ( chỉ tăng 0.3%), CPI tháng 9 tăng
0.62% so với tháng trước., so với tháng 12/2008 tăng 4.11% và 2.42% so với
cùng k
ỳ năm trước. Như vậy CPI tháng 9 đã đột ngột tăng lên sau nhiều tháng
tăng chậm, đưa CPI 9 tháng qua tăng 7.64% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhìn chung ở những tháng đầu năm 2009 do phải chịu những hậu quả còn lại của
năm 2008 nên nền kinh tế tăng trưởng chậm, CPI tăng chậm. Giữa năm khi
những biến pháp của Chính phủ chống suy giảm kinh tế phát huy tác dụng của nó
làm hiệu qu
ả kinh tế tăng, CPI cũng tăng lên nhanh và đột ngột. Thậm chí sau đợt
tăng giá đột ngột ở tháng 9 nhiều người rất lo sợ về khả năng tái lạm phát trở lại.
Sang quí IV thì tốc độ tăng giá giảm nhẹ nên nhìn chung khả năng năm nay lạm
phát ở Việt Nam chỉ dừng lại ở dưới mức 2 con số.
2.2. Nguyên nhân
Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2009 là sự tác
động của tổ hợp ba dạng
lạm phát: lạm phát tiền tệ , lạm phát cầu kéo và lạm phát chi phí đẩy.
2.2.1 Lạm phát tiền tệ
Tăng trưởng tín dụng trong nước được mở rộng quá mức từ 2005 đến năm 2007

và kéo dài sang nhiều tháng đầu năm 2008 làm cho việc cấp tín dụng cho các
hoạt động đầu cơ chứng khoán, đầu cơ bất động sản còn dễ dàng hơn cấp tín
dụng cho các dự
án đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ trong 3 năm từ
năm 2005 đến năm 2007, cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%, tốc độ
tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với
năm 2006. Tính đến 31/12/2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với
31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với

m 2006. Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng là do tổng lượng
ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế tăng mạnh. Các nguồn vốn ngoại ( đầu tư trực
tiếp và gián tiếp nước ngoài , ODA, kiều hối ) tràn vào khá lớn từ năm 2007 và
tăng đột biến ngay từ đầu năm 2008. Để duy trì tỷ giá USD, ngân hàng nhà nước
đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỷ USD (năm 2006 ) lên 21,6 tỷ
USD (năm 2007)
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

19

và đẩy một lượng tiền lớn ra thị trường. Trong khi đó, một mặt khả năng tiêu hóa
nội địa còn thấp kém, năng lực sản xuất trong nước không theo kịp làm xảy ra
tình trạng dư thừa tiền trong lưu thông. Mặt khác, công tác điều hành của nhà
nước không theo kịp nhịp độ, không thu hồi kịp thời lượng thiền tung ra mua
ngoạ
i tệ dự trữ khi các dòng ngoại tệ tràn vào đã làm cho các nghiệp vụ thị
trường mở không đủ khả năng trung hòa các “ phản ứng phụ” của dòng ngoại tệ.
Trong lưu thông, cung tiền qua mức cần thiết trong khi cung đứng yên thì tất yếu
dẫn đến lạm phát. Nếu phản ứng không kịp, để kéo dài sẽ sinh ra lạm phát cao,
điều đó không thể tránh khỏi.
2.2.2 Lạm phát cầu kéo

Do lượng tiền cung ứ
ng vào lưu thông quá nhiều, quan hệ-tiền- hàng mất cân dối
nghiêm trọng. Điều đáng chú ý là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ được
nới lỏng từ nhiều năm trước và tiếp tục được nới lỏng trong quý đầu năm 2008.
Tổng đầu tư của xã hội năm 2007 là 493,6 nghìn tỷ đồng, cao hơn 77% so với
năm 2006, tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỷ đồng, vượt khoảng
11,7% so với dự toán. Bội chi ngân sách nhà nướ
c 56,5 nghìn tỷ đồng, bắng
4,95% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỷ USD, bằng 29% tổng kim
ngạch xuất khẩu, tăng 2,5 lần so với năm 2006. Điều đó dẫn đến cả chi tiêu công
và tư đều tăng làm tăng nhu cầu trong khi nền cung không tiến kịp dẫn đến cầu
lớn hơn cung kéo giá cả tăng, gây ra lạm phát cầu kéo.Không chỉ thế, nền kinh tế
vẫn còn tồn tại nhiều vấ
n đề bất cập liên quan đến hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp
luật đã làm gia tăng áp lực lạm phát. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc
gia tăng đầu tư của nhà nước vào các lĩnh vực đã góp phần chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, tạo đà phát triển bền vững trong dài hạn.
2.2.3 Lạm phát chi phí đẩy
Trước hết, việc tăng lương, tăng giá xăng dầ
u, điện nước, vận tải… đều xuất
phát từ phía người bán ( do chiếm vị tri độc quyền, do liên kết, thao túng giá, do
thiếu trách nhiệm với chính phủ và xã hội… ) và nhiều khi còn được cộng hưởng
với việc điều hành, quản lý giá chưa hiệu quả của nhà nước. Sự hợp lực của hai
yếu tố này đã tạo lực đẩy chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao làm tăng giá bán
hàng hóa, dị
ch vụ. Nền kinh tế nước ta phải đối mặt với tình trạng nhập siêu hơn
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

20


20 năm nay do hiệu quả cũng như năng suất lao động thấp, khả năng tiêu hóa các
luồng vốn lớn từ bên ngoài còn kém…. Tình trạng nhập siêu còn nghiêm trọng
hơn vào đầu năm 2008, từ đó tạo điều kiện cho lạm phát chi phí đẩy bùng phát.
Nền kinh tế bị phụ thuộc vào bên ngoài, nhập siêu quá lớn sẽ làm loạn giá cả
trong nước, nhấ
t là khi gía cả trên thị trường thể giới biến động mạnh. Điều này
đặt biệt rõ khi giá dầu thô và nhiều nguyên vật liệu chính, sắt thép, phân bón,
xăng dầu… trên thị trường thế giới tăng đột biến đầu năm 2008 và sau đó giảm
mạnh từ quý IV-2008 đã làm cho giá cả trong nước biến động theo một cách thất
thường. Gía dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 1/2007 lên 89,4 USD/
thùng tháng 12/2007 và đạt đỉnh mớ
i 125,96 USD /thùng vào ngày 9/5/2008.
2.2.4 Nguyên nhân khác
Ngoài ra, lạm phát ở nước ta còn xuất phát từ một số nguyên nhân sau
Tâm lý dám đông bị kích động bởi các tin đồn thất thiệt và tình trạng đầu cơ trục
lợi. Thêm vào đó, thiên tai, dịch bệnh lây lan đã đẩy giá lương thực, thực phẩm
tăng cao, gây náo loạn thị trường. Thậm chí có cả nguyên nhân đã tích tụ từ lâu
do đầu tư kém hiệu quả ( hệ số ICOR tăng ), cuối cùng thể hiệ
n ở chênh lệch tăng
trưởng GDP và tăng cung tiền đã ngày một giãn rộng trong vòng 3 năm qua.
Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến tháng 6/2006,
GDP tăng 25% trong khi mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng
đã tăng đến 110 %.
2.3. Tác động của lạm phát
2.3.1 Tác động đến tình hình kinh tế
* Lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Đối với các Ngân hàng kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ, l
ạm phát tăng cao, sức mua đồng tiền giảm xuống, đã ảnh hưởng xấu đến
hoạt động huy động vốn, cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng.
- Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của

các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn
vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy
độ
ng sát với diễn biến của thị trường vốn. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động
ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc
tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

21

lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín
dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn
cho cả hệ thống ngân hàng thương mại.
- Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để
giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầ
u vay vốn của các doanh
nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho
một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có
hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao,
thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của
ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ
xuất hiện.
- Tính thanh khoản của các ngân hàng bị ảnh hưởng, rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá
xảy ra do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc
huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân
hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn,
vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạ
n trong thời gian qua tại
mỗi ngân hàng là không nhỏ.
- Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp, người dân thực hiện giao dịch hàng

hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, nhưng lại khan hiếm tiền mặt.
Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng
tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong
đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông
ngoài ngân hàng lớn, Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát
chu chuyển của luồ
ng tiền này, các Ngân hàng thương mại cũng khó khăn trong
việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng. Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn,
ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá cả, bao
gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân chúng, gây
khó khăn cho sự lựa ch
ọn các quyết định của khách hàng cũng như các thể chế tài
chính – tín dụng.
* Lĩnh vực sản xuất: Lạm phát tăng cao đã làm giá đầu vào và đầu ra của các
nguyên vật liệu, sản phẩm biến động không ngừng tạo nên sự mất ổn định trong
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

22

thị trường, gây khó khăn không nhỏ đối với các Doanh nghiệp Việt Nam. Hơn
nữa giá cả tăng cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp của Việt
Nam hiện nay, khoảng 95% là Doanh nghiệ
p nhỏ và vừa.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 20% doanh nghiệp khó có thể
tiếp tục hoạt động. Ngoài nhóm này, 60% thành viên hiệp hội đang chịu tác động
của khó khăn kinh tế, nên sản xuất sút kém. Lạm phát đang làm các công ty
không kiểm soát được chi phí, mất thị trường và không đủ vốn để duy trì sản

xuất. 20% còn lại là các công ty chịu ít ảnh hưởng và vẫn trụ vững do trước nay ít
phải nhờ đến ngu
ồn vốn vay và được các lãnh đạo có kinh nghiệm dẫn dắt.
Số liệu điều tra của Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy, ngay cả trong điều kiện lạm phát, trên
90% doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh vẫn có nhu cầu vay vốn. Tuy
nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo nhu cầu. Như vậy 80% doanh nghiệp
nhỏ và vừa đang đứng trước nguy cơ phá sản. Vốn ti
ền thiếu, nhiều doanh nghiệp
thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhìn chung thấp hơn so với năm 2007, tốc độ tăng
trưởng của các thành phần GDP cũng giảm so với năm trước. Đặc biệt, tốc độ
tăng tích lũy tài sản cố định đã giảm mạnh từ 24% xuống chỉ còn 4%. Trong khi
đó, tỉ
trọng hàng tồn kho đã tăng lên 5% so với tổng GDP, cao hơn mức thông
thường của các năm trước khoảng 2%.
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008
Toàn nền kinh tế 7,8% 8,4% 8,2% 8.5% 6,3%
Nông nghiệp 4,4% 4,0% 3,4% 3,4% 4,1%
Công nghiệp 10,6% 10,6% 10,2% 10,2% 8,2%
Xây dựng 9,0% 10,8% 11,1% 12,0% 0,0%
Dịch vụ 1,3% 8,5% 8,3% 8,7% 7,2%
Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm (%)
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

23

* Lĩnh vực lưu thông: Lạm phát tăng cao đến 23% làm giảm giá trị đồng tiền
trong nước. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ
trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu

ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân
hàng mà tìm cách đầu c
ơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao ). Chính
những hoạt động đầu cơ này lại càng làm cho thị trường trở nên khan hiếm hàng
hóa, dẫn đến mất cân bằng cung-cầu.
Năm 2007, giá lương thực-thực phẩm trên thị trường Việt Nam tăng cao đạt mức
18,9%, cao hơn nhiều so với mức lạm phát 12,63%, trong đó nhóm lương thực
tăng 15,5% và thực phẩm tăng 21,16%. Những mặt hàng nh
ư thiết bị và đồ dùng
gia đình tăng giá 8,36% so với năm 2007, giá mặt hàng may mặc tăng 9,81%, đặc
biệt trong lĩnh vực nhà ở và vật liệu xây dựng, giá tăng lên đến 22,39% so với
năm 2007. Tình hình này làm cho sức tiêu thụ hàng hóa trong nước có dấu hiệu
yếu dần.
Đối với những mặt hàng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố tâm lý như chứng khoán
và bất động sản thì giá cả của chúng l
ại giảm xuống rõ rệt. Xét thị trường chứng
khoán năm 2008: Liên tục những phiên giảm giá của thị trường trong những
tháng đầu năm 2008. Trong quý II năm 2008 thị trường chứng khoán vừa khép
lại một tuần giảm mạnh cả về điểm số, giá chứng khoán và khối lượng giao dịch.
Tại sàn Tp.HCM, chỉ còn 3,5 triệu đơn vị, bằng phân nửa khối lượng những
phiên gần đây và có giá tr
ị 148 tỷ đồng. Chỉ số VN-Index qua phiên này chính
thức về mốc 500 điểm, giảm 7,61 điểm, còn 500,33 điểm. HASTC-Index chỉ còn
154,23 điểm, giảm 3,19 điểm. Đúng như dự đoán, thị trường chứng khoán đã
xuống mức “đáy” 366 điểm vào ngày 20/6.
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

24



Biểu đồ: Chỉ số VN - Index từ tháng 3 đến tháng 9/2008
2.3.2 Tác động đến tình hình xã hội:
Lạm phát tăng cao không chỉ khiến cho người nông thôn gặp khó khăn mà ngay
cả những hộ gia đình ở thành thị với mức lương eo hẹp cũng phải điêu đứng.
Thống kê của quốc tế thì trên cả nước ta, tỉ lệ nghèo hóa hay tái nghèo hóa vào
khoảng 50%. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy:
• Người giàu thường có kiế
n thức và điều kiện tiếp cận với các công cụ tài
chính để có thể tự bảo vệ họ trước tác động của lạm phát.
• Người nghèo thường có tỷ lệ tiền mặt trong tổng tài sản cao (do không có
điều kiện chuyển đổi thu nhập thành các khoản đầu tư có thể bù đắp chi
phí gây ra do trượt giá) nên phải chịu tác động của lạm phát lớn hơn; phụ
thuộc nhi
ều hơn vào những nguồn thu nhập định trước như tiền lương,
phúc lợi và trợ cấp xã hội… những nguồn thu nhập thường không được
tính trượt giá một cách đầy đủ và kịp thời, hay thậm chí không được tính
trượt giá
Do đó, lạm phát làm giảm thu nhập và tiền công thực tế của người nghèo và góp
phần làm tăng tỷ lệ thất nghiệp , khi lạm phát cao lại làm xói mòn lợi nhuận của
Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2007-2009: Nguyên nhân và giải pháp

25

doanh nghiệp và giảm động cơ đầu tư. Một khi đầu tư giảm thì tỷ lệ thất nghiệp
tăng lên và điều đó làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân.
Ba nhóm người bị tác động mạnh bởi lạm phát:
• Những người về hưu: Do đồng lương hưu tương đối
ổn định và chỉ được
điều chỉnh tăng lên đôi chút sau khi giá cả hàng hóa tăng gấp nhiều lần
nên với những đồng lương thực tế ít ỏi những người về hưu thường gặp rất

nhiều khó khăn khi lạm phát tăng cao.
• Những người gửi tiết kiệm bằng tiền: Khi lạm phát tăng cao, giá trị của
đồng tiền ngày càng giảm, mọi người c
ố gắng tiêu thụ càng nhanh số tiền
mình có càng tốt, hoặc đổi nó sang ngoại tệ hay vàng, … những thứ có giá
trị cất giữ lâu hơn. Còn đối với những người gửi tiết kiệm bằng tiền, nhất
là gửi dài hạn thì đồng tiền mất giá là một thiệt hại lớn đối với tài sản tiền
của họ.
• Người nghèo: Đây chính là đối tượng bị ảnh h
ưởng nặng nề nhất trong cuộc
lạm phát tăng cao do giá tăng, lương thực tế giảm xuống, tỉ lệ thất nghiệp tăng
cao… Trong khi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ thì chưa sâu rộng để có
thể hỗ trợ giúp đỡ người nghèo tự thoát khỏi khó khăn.
2.3. Giải pháp
2.4.1 Năm 2007
Trong bối cảnh lạm phát đặc biệt tăng nhanh vào tháng 6 năm 2007 ( chỉ số giá CPI vọt
lên mức x
ấp xỉ 1% , trái với thông lệ giá cả hơn một thập kỷ qua ) . Tín hiệu về lạm phát
này đã được chính phủ thu nhận kịp thời và xử lý thông qua các chỉ thị :
* Ngày 01/8/2008 Thủ tướng chính phủ ban hành chỉ thị số 18/2007/CT-TTg về một số
biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng hị trường.
Thủ tướng yêu cầu: rà soát các chính sách điều hành tiền tệ để có biệ
n pháp thích hợp
kiểm soát được mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và mức huy động tín
dụng; thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng tiền trong lưu
thông ở mức hợp lý; giữ bình ổn tỷ giá hối đoái, các lãi suất chủ đạo của đồng tiền Việt
Nam, không để xảy ra những đột biến trên thị tr
ường tiền tệ… Rà soát, tập trung vốn
đầu tư cho các dự án quan trọng; kiên quyết thực hiện việc điều chỉnh vốn của các

×