Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI đoạn 2004 – 2011, bài học KIỂM SOÁT lạm PHÁT từ mỹ TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.11 KB, 20 trang )

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI:
LẠM PHÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2004 – 2011, BÀI HỌC KIỂM SOÁT
LẠM PHÁT TỪ MỸ - TRUNG QUỐC
A. Cơ sở lý luận về lạm phát
1- Khái niệm và phân loại

a- Khái niệm:
Theo kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền
kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của
đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại
tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm
phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, cịn theo nghĩa thứ hai thì
người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu
b- Phân loại
 Xét về mặt định lượng: Dựa vào độ lớn của tỉ lệ lạm phát:
- Lạm phát vừa phải: giá cả tăng chậm và tỉ lệ lạm phát thấp hơn 10%/ năm, đây là mức độ
lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được
- Lạm phát cao: Lạm phát ở mức 2 con số một năm. Khi đó đã gây ra những tác động tiêu
cực, đe dọa sự ổn định của nền kinh tế
- Siêu lạm phát: Lạm phát trên 3 chữ số, đây là tình trạng đã mất kiểm sốt về lạm phát, giá
cả tăng chóng mặt và nội tệ mất giá nghiêm trọng. VD siêu lạm phát ở Đức thời kì 1922-1923.
VN năm 1989 cũng xảy ra siêu LP khi tỉ lệ LP lên tới 774 %
 Xét về mặt định tính
- Lạm phát cân bằng (lạm phát tăng tương ứng với tăng thu nhập) và lạm phát không cân
bằng (lạm phát tăng không tương ứng với tăng thu nhập)
- Lạm phát dự đoán trước (lạm phát ổn định trong một thời gian dài) và lạm phát bất thường
(tăng đột biến trong một thời gian ngắn)

2- Các chỉ tiêu đo lường lạm phát: thông qua sự gia tăng các chỉ số giá của nền kinh tế: Ba
chỉ số giá thường được sử dụng:


 Chỉ số giá tiêu dùng: CPI
- Đo lường mức giá chung của giỏ hàng hóa điển hình của người tiêu dùng cuối cùng
- Công thức:
CPI t =


Chi phí mua giỏ hàng ở thời kì t
Chi phí mua giỏ hàng ở kì gốc

Chỉ số giá sản xuất: PPI

-

Đo lường mức biến động giá của các yếu tố đầu vào sản xuất

-

Cơng thức:

IP= ip . d
Trong đó: ip: chỉ số giá của từng nhóm hàng


d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng nhóm hàng
 Chỉ số điều chỉnh GDP: D.GDP
-

Đo lường mức biến động giá của hàng sản xuất trong nước

-


Công thức:
D. GDP t =

GDP danh nghĩa thời kì t
GDP thực tế thời kì t

3- Các nguyên nhân gây ra lạm phát
- Lạm phát do cầu kéo:
Khi tổng cầu AD gia tăng (VD: chính sách kích cầu, giảm lãi suất khuyến khích đầu tư, tăng
chi tiêu CP và giảm thuế) trong mơ hình AD-AS: đường tổng cầu AD dịch phải làm sản lượng
tăng và mức giá tăng.
- Lạm phát do chi phí đẩy:
Do các cú sốc cung (VD: giá dầu thế giới gia tăng), làm chi phí đầu vào sản xuất của DN tăng
cao, các DN khó khăn phải thu hẹp quy mơ sản xuất, làm giảm lượng cung hàng hóa, đường
tổng cung AS dịch trái, làm mức giá tăng và sản lượng giảm.
- Lạm phát do cung tiền:
Khi NHTW đưa quá nhiều tiền vào lưu thông so với nhu cầu về tiền thực tế của nền kinh tế sẽ
đẩy mặt bằng giá chung lên cao.
4- Các tác động của lạm phát:
a- Hiệu ứng tích cực:
- Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát (tỷ lệ tăng giá
mang giá trị dương) vừa phải sẽ có lợi cho nền kinh tế. Ơng dùng từ "dầu bơi trơn" để miêu tả
tác động tích cực của lạm phát.
- Sự tồn tại của lạm phát có những tác động tích cực:
+ Tạo nên sự chênh lêch giá hàng hóa dịch vụ giữa các vùng  thương mại năng động
hơn
+ Mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải chịu để mua
đầu vào lao động giảm đi.  mở rộng sản xuất, giảm thất nghiệp, tăng việc làm
+ Lạm phát trong ngắn hạn đánh đổi bởi thất nghiệp  Buộc lao động nâng cao trình

độ để tìm phù hợp với công việc, gia tăng chất lượng lao động
+ làm đồng nội tệ mất giá tương đối  có lợi cho xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, thúc
đẩy SX trong nước
b- Hiệu ứng tiêu cực:
Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền kinh
tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
Chi phí mịn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất
danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta giữ ít
tiền hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút tiền



hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mịn giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do
sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có
lạm phát.
Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ mất
thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.


Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm phát
doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) cịn doanh nghiệp
khác lại khơng tăng giá do khơng muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của doanh nghiệp
giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường
phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả
xét trên góc độ vi mơ.


Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của người
làm luật do một số luật thuế khơng tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong trường hợp

thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng do lạm phát thì
cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập
thực tế.


Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong tính
tốn các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá nhân khó
khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.


Đối với lạm phát khơng dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá nhân
một cách độc đốn. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất danh nghĩa
khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay bị thiệt hại, khi
lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi cịn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm
phát khơng dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Trên thực tế: Lạm phát có những tác động tiêu cực như sau:
+ Đối với dân cư: Lạm phát ảnh hưởng lớn nhất tới đời sống của các cá nhân có thu nhập
thấp, khi mức giá tăng nhanh trong khi đồng lương eo hẹp, chi tiêu phải giảm thiểu đáng kể.
Lạm phát gây ra thiệt hại cho những người cho vay hay người tiết kiệm ( vì lãi suất danh
nghĩa là cố định trong các hợp đồng vay, trong khi lạm phát cao làm cho lãi suất thực tế được
hưởng giảm sút, thậm chí âm )
+ Đối với các doanh nghiệp: Hiệu quả sản xuất bị suy giảm: Chi phí đầu vào gia tăng và nhu
cầu từ phía thị trường thu hẹp dẫn tới nguy cơ phá sản, có thể gây ra những cộng hưởng xấu
đối với nền kinh tế đang trong thời kì suy thối
+ Đối với Chính phủ: CP sẽ đối mặt với áp lực phải đưa ra các biện pháp kìm chế lạm phát, và
các hệ lụy của nó như căng thẳng tỉ giá, hoạt động đầu tư nước ngồi có thể đình trệ khi kinh
tế trong nước bất ổn, thất nghiệp gia tăng kéo theo tệ nạn xã hội và bất ổn định trong hệ thống
chính trị, an ninh xã hội….
B. Thực tiễn lạm phát Việt Nam giai đoạn 2004 – 2011

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về "lạm phát", chúng tôi xin đưa ra một số nhận định về tình
hình kinh tế vĩ mơ việt nam thời gian qua.


Không thể phủ nhận rằng, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến nhanh chóng,
với mức tăng trưởng GDP trung bình năm đạt ... trong vịng 10 năm qua. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển, kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ nhiều yếu kém, "lạm phát" là một vấn đề luôn
được quan tâm trong những năm gần đây sau một thời gian dài được duy trì ở ngưỡng cho
phép của QH.
Nhìn trên biểu đồ có thể thấy, lạm phát bắt đầu tăng mạnh trở lại vào năm 2004 (9%), đỉnh
điểm vào năm 2008 (22,95%), trong vài năm gần đây, tuy đã được khắc phục nhưng vẫn luôn
ở mức cao so với tăng trưởng GDP và so với các nước trong khu vực.
Theo dõi chuỗi số liệu kinh tế VN từ 2004 trở lại đây, có thể chia thành 3 giai đoạn với những
nguyên nhân và giải pháp chính phủ đã thực hiện để kiềm chế lạm phát khác nhau.
- gđ1: 2004 – 2006: lạm phát bùng phát bắt đầu trở lại
- gđ2: 2007 – 2008: lạm phát đạt đỉnh
- gđ3: 2009 – 2011: giải quyết hậu quả của lạm phát kèm suy thoái
1. Giai đoạn 2004 – 2006:
a. Nguyên nhân
Với vấn đề Cung tiền:
- Sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Châu Á 1997, Chính phủ VN đã tiến hành chính sách
kích cầu đi liền gia tăng tín dụng và đồng thời in tiền cung cấp cho nền kinh tế khiến lạm phát
xảy ra với con số 9,5%
Số liệu:
Cụ thể là tỷ lệ đầu tư so với GDP tăng từ 27,6% năm 1999 lên 32,1% cuối 2003.
Tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007
là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ tăng 25.09%
dẫn tới hệ số nhân tiền tệ trở nên cao hơn.
Rồi để mở rộng hệ thống, các NHTM chấp nhận cho người dân có thể vay tiền với điều kiện
dễ dàng hơn.

- Ngoài cung tiền từ Ngân Hàng Trung Ương đưa ra, còn phải kể đến lượng kiều hối và đầu tư
nước ngoài chảy vào Việt Nam : năm 2006, ODA của nước ta đạt được là 4.45 tỷ USD và giải
ngân 2 tỷ USD. Kiều hối tăng cao, trên 3 triệu người Việt đang sinh sống và làm việc ở 94
quốc gia đã gửi về 4 tỷ USD trong năm 2006.
Trong các hình vẽ ở dưới, ta có thể thấy rằng hệ số nhân tiền có xu hướng tăng dần từ năm
1996 tới này và lượng cung tiền M2 đưa ra cho thị trường tiếp tục tăng từ năm 2003 tới 2008


Vấn đề Cầu kéo:
Sản xuất kinh doanh trong nước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường nội địa,
nhập siêu và vay nợ nước ngoài lượng tiền khá lớn cũng khiến cho tỷ lệ lạm phát tăng cao.
Thống kê cho biết 10% là con số thiếu hụt lượng hàng hóa dịch vụ mà thị trường đang thiếu
so với nhu cầu thực tế của Việt Nam.
Vấn đề Chi Phí Đẩy:
- Thứ nhất là nguyên nhân từ hoạt động đầu tư nhà nước kém hiệu quả và năng suất lao động
thấp đã khiến cho lượng lớn vốn nhà nước bị thất thốt mà khơng đáp ứng được nhu cầu thị
trường, khiến cho chi phí thực tế của các doanh nghiệp đội lên.
- Nguyên nhân thứ hai đến từ việc giá các yếu tố đầu vào sản xuất nhập khẩu bị đẩy giá từ
hiện tượng lạm phát từ các nền kinh tế khác. Kim ngạch nhập khẩu hàng năm trong giai đoạn
này lên tới 88%.
Giá dầu thô thế giới tăng từ 40USD/thùng năm 2004 lên 60USD/ thùng cuối năm 2006.
Tiếp theo đó là giá sắt thép tăng 32,5%, phơi thép tăng 30,4%, phân bón 22,3%, chât dẻo
tăng 15,4%, bơng tăng 17%, lúa mì tăng 27%, lương thực (lúa gạo) cũng tăng 12% (nhất là
khi trọng số của lương thực trong giỏ hàng thời kỳ này chiếm 42,97%) cùng một số nguyên


liệu khác… nhưng dầu thô và thép được coi là nhân tố tác động mạnh nhất tới chi phí đầu
vào cho các Doanh nghiệp thời kì này.
- Một nguyên nhân khác làm tăng chi phí sinh hoạt của người dân là sự xuất hiện của dịch
cúm gia cầm SARS. Thiếu cung gia cầm thịt, giá tăng.

- Nguyên nhân thứ tư có thể kể tới là kế hoạch cải cách tiền lương của Chính phủ giai đoạn
này chưa đạt được hiệu quả.
- Ngồi ra cịn một số ngun nhân khác như việc đánh mất lòng tin của dân chúng với khả
năng kiềm chế lạm phát của Chính Phủ, việc tăng thuế nhập khẩu thời kì này khiến giá một số
mặt hàng, cơ chế quản lý thiếu tính đồng bộ giữa các bộ, ban, ngành …
b. Giải pháp Chính Phủ áp dụng trong giai đoạn 2004-2006
- Giảm thuế nhập khẩu một số mặt hàng, bù lỗ cho kinh doanh xăng dầu, điều chỉnh có mức
độ giá đầu vào đối với một số mặt hàng nhập khẩu đều thuộc hệ thống các biện pháp giảm chi
phí đầu vào, các lần tăng lương cơ bản trong 3 năm, tuy nhiên đây vẫn chỉ là những giải pháp
tình thế.
- CSTK thắt chặt: Triệt để tiết kiệm chi ngân sách kiên quyết loại bỏ những khoản chi không
cần thiết. Giảm đầu tư của nhà nước.
- Bước đầu điều hành giá xăng dầu, giá mặt hàng sắt thép, phân bón nhập khẩu,... để tăng thu,
giảm chi cho ngân sách.
- CSTT thắt chặt: thơng qua việc kiểm sốt chặt chẽ tốc độ gia tăng tín dụng, tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, thu hút ngoại tệ vào và kiểm soát chặt chẽ lượng tiền cung ứng qua các kênh tái cấp
vốn, tái chiết khấu, chỉ đạo các ngân hàng thương mại siết chặt kỷ cương cho vay, xử lý nợ
xấu.
- Từ tháng 7-2004 đến 2006, NHNN đã quyết định tăng các mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp
hai lần : cơng ty tài chính tăng từ 2% lên 5%; riêng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam tăng từ 1,5% lên 4% trên tổng số tiền gửi phải dự trữ bắt buộc của loại khơng
kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng; tăng từ 1% lên 2% đối với tiền gửi từ 12 tháng đến 24
tháng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng từ 4% tăng lên 8%, từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%.
- Bên cạnh đó, ngay từ đầu năm về định hướng chung toàn ngành ngân hàng, tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng năm 2005 thấp hơn năm 2004. Tháng 1-2005, lãi suất tái cấp vốn tăng
từ 5,0%/năm lên 5,5%/năm và lãi suất chiết khấu từ 3,0% lên 3,5%/năm. Từ tháng 2-2005 lãi
suất cơ bản tăng từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm. Từ tháng 4-2005, lãi suất tái cấp vốn tăng từ
5,0%/năm lên 6,0%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 3,5% lên 4,0%/năm. Từ tháng 12-2005,
lãi suất tái cấp vốn tăng lên 6,5%, lãi suất chiết khấu tăng lên 4,5%/năm, lãi suất cơ bản tăng

lên 8,25%/năm. Lãi suất trúng thầu tín phiếu KBNN tăng từ 5,9%/năm lên 6,30%/năm. Lãi
suất nghiệp vụ TT mở cũng tăng lên 6,1%/ năm.
- Lãi suất ngoại tệ - USD ở nước ta được tự do hoá từ tháng 6-2001, do đó nó bám sát diễn
biến lãi suất trên TT tiền tệ quốc tế.
2. Giai đoạn 2007 – 2008
a. Thực trạng:


Năm 2007 là năm hội tụ của những “cơn bão” tệ hại cho nền kinh tế nước ta: thiên tai
bão lụt, dịch bệnh và đặc biệt là cơn bão tăng giá kéo dài, lạm phát của nước ta tăng cao và rơi
vào tình trạng khó kiểm sốt, tỉ lệ lạm phát cao ở mức 12,63%, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt
từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước
trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái
Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần
cao hơn.
Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức
3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70% so với mức tăng của cả năm 2007, mức lạm
phát của Việt Nam đã tăng đến 25,2% trong tháng 5, cao nhất kể từ năm 1992, tạo ra thách
thức cho chính phủ khi họ cố gắng kìm chế nền kinh tế đang phát triển quá nóng. Đến tháng
7/2011, tỷ lệ lạm phát đã tăng lên tới 27% và chỉ giảm nhẹ vào tháng 6 (26,8%). Hết tháng 12
năm 2008, lạm phát của Việt Nam tăng mức kỷ lục trong vòng 12 năm trở lại đây (đạt mức
bình quân năm là 22,97%).
b. Nguyên nhân gây ra lạm phát :
+ Do chi phí đẩy: Trong năm 2007, giá hàng thực phẩm (chiếm gần 43% trọng số
trong chỉ số CPI) tăng là nhân tố chính làm tăng CPI. Nguyên nhân là do trong năm 2007
nguồn cung cấp gạo của thế giới đang khan hiếm: lúa mỳ bị mất mùa, nhiều khu vực chuyển
sang tiêu thụ gạo, nhiều quốc gia xuất khẩu gạo như Ấn Độ, Pakistan đang thực hiện các biện
pháp giảm cung hoặc ngừng xuất khẩu do lo ngại thiếu lương thực. Bên cạnh đó, nhiều quốc
gia như Trung Quốc, Indonexia, Phillipin tăng lượng nhập khẩu để bù vào phần thiếu hụt ngô,
lúa mỳ.

Bên cạnh đó, nửa cuối năm 2007 đầu năm 2008, giá dầu thô, nguyên liệu cơ bản,
lương thực thực phẩm thiết yếu tăng cao (4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007, giá
xăng dầu thế giới đã tăng 51,24%, phơi thép tăng 43%, phân bón tăng 67%, giá ngơ tăng 31%,
đậu tương tương 87%, lúa mì tăng 130%...), trong khi đó 70% nhập khẩu của Việt Nam là các
mặt hàng nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất trong nước; nhiều mặt
hàng có tỷ trọng nhập khẩu cao như: xăng dầu (100%), phôi thép (65%- 70%), nguyên liệu
sẩn xuất thuốc (60%)..., phụ thuộc hoàn toàn vào giá thế giới. Sự nhập khẩu lạm phát từ kênh
nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế là khá rõ trong 2 năm qua đã làm cho chi phí sản
xuất tăng cao.


+ Do cầu kéo: Nhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giới tăng, làm giá
xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng lên 15% so với năm
2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Trong khi đó, nguồn cung
trong nước do tác động của thiên tai, dịch bệnh không thể tăng kịp (Chỉ trong tháng 10/2007,
miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn ni, trồng
trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm,
rét hại khiến cho nguồn cung lương thực – thực phẩm bị sụt giảm). Mặt khác, do đầu tư (đầu
tư công và đầu tư của các DN) tăng làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công
nghệ tăng; thu nhập dân cư tăng làm xuất hiện trong những bộ phận dân cư những nhu cầu
mới cao hơn.
Tất cả các yếu tố trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hóa và dịch vụ,
nhất là lương thực thực phẩm tăng theo.
+ Do tiền tệ: Bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và
môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng
mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức
10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng
trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái
phiếu đặc biệt là đổ vào IPO các doanh nghiệp nhà nước lớn trong khi khả năng hấp thụ vốn

của nền kinh tế chưa tốt đã gây sức ép tăng tổng phương tiện thanh toán và làm biến động tỷ
giá hối đoái. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn
tiền VND (chỉ trong 10 tháng đầu năm NHNN đã “bơm” ra lưu thông 144.000 tỷ đồng sau khi
mua vào 9 tỷ USD) để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ
trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán
tăng cao. Mặt khác, việc gia tăng dư nợ của các tổ chức tín dụng cũng là nguyên nhân làm


tăng lượng tiền cung ứng trong khi các NHTM lại giảm lãi suất huy động nên việc thu hút
lượng tiền từ lưu thông về rất chậm đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên
30%, hạn mức tín dụng cũng tăng trên 38%.
Tuy nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 con số (12,6%)
và đặc biệt là năm 2008 (22,97%) thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan
là 2,9%. Khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam với các quốc gia có lạm phát thấp hơn như TQ
và Tlan là ở tốc độ tăng cung tiền. Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao địi hỏi lượng
tiền đưa vào lưu thơng cũng phải tăng lên tương ứng, do chênh lệch giữa mức tăng cung tiền
và tăng GDP trở nên quá lớn đã gây ra lạm phát.
Biểu đồ sau ta thấy có một mối quan hệ khá chặt chẽ giữa tăng trưởng tín dụng, cung
tiền và lạm phát trong năm 2007 và 2008. Tăng trưởng cung tiền M2 lên đỉnh điểm tháng
10/2007 đến tháng 1/2008 với mức xấp xỉ 50%. Tăng trưởng tín dụng lên mức đỉnh trên 55%
vào tháng 1 đến tháng 4 năm 2008 (so với cùng kỳ năm 2007, thời đoạn 12 tháng). Hậu quả
CPI cũng lên mức cao nhất từ tháng 6 đến tháng 10 năm 2008 (quanh mức 28%). Như vậy,
thường lạm phát có độ trễ từ 5-7 tháng so với tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2.

Lý giải cho lạm phát cao trong năm 2008 cịn có một nguyên nhân quan trọng khác là
do sự tăng mạnh của giá cả nhiều hàng hóa đặc biệt là lương thực, thực phẩm và năng lượng.
CPI của lương thực, thực phẩm đã tăng lên rất mạnh trong năm 2008, đỉnh điểm là chỉ số CPI
lương thực, thực phẩm tăng 45,5% (YoY) vào tháng 6/08. Kết thúc năm 2008 chỉ số CPI
lương thực tăng 31,86%. Trong rổ hàng hóa tính CPI của Việt Nam, mặt hàng lương thực
chiếm tỷ trọng 43% nên CPI lương thực ảnh hưởng mạnh đến CPI chung. CPI cơ bản (không

bao gồm lương thực, thực phẩm) năm 2008 chỉ tăng 10,92%.


c. Một số giải pháp, chính sách Chính Phủ đã áp dụng
- Thứ nhất, thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, giữ
vững các cân đối kinh tế vĩ mô, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hố dịch vụ: Chính phủ đã
quyết định về hỗ trợ, khôi phục nhanh sản xuất nông nghiệp ở những vùng bị thiên tai dịch
bệnh. Chỉ đạo sản xuất, nhập khẩu bảo đảm đủ nguồn cung, không để xảy ra thiếu hàng hoá
dịch vụ so với nhu cầu. Thực hiện đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện các chủ trương,
chính sách đảm bảo an sinh xã hội cho các đối tượng để sửa đổi, bổ sung các quy định cho
phù hợp.
- Thứ hai, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt, bảo đảm tính thanh
khoản của nền kinh tế. Kiểm soát chặt chẽ các luồng vốn vào- ra để có những phản ứng chính
sách kịp thời ứng phó hợp lý với tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ. Sử dụng linh
hoạt các công cụ lãi suất nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát chặt chẽ việc tăng trưởng
phương tiện thanh tốn, tổng dư nợ tín dụng. Triển khai các giải pháp thích hợp để các DN
tiếp cận được nguồn vốn với lãi suất hợp lý, góp phần giảm chi phí cho DN. Thực hiện các
giải pháp nhằm hướng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao; nhất
là sản xuất nông nghiệp, cho vay xuất khẩu; kiểm soát chặt việc đầu tư vào những lĩnh vực
phi sản xuất, hiệu quả thấp, nhiều rủi ro. Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, phản ánh cung cầu
ngoại tệ trên thị trường góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
- Thứ ba, thực hiện chính sách tài khố chặt chẽ theo hướng kiểm sốt chặt chẽ nguồn
thu, phấn đấu tăng thu cao hơn so với dự toán quốc hội quyết định; thực hiện tiết kiệm chi,
nhất là chi thường xuyên và kiểm soát chặt chẽ đầu tư cơng, đầu tư của các Tập đồn kinh tế,
Tổng Cơng ty, DNNN ra ngồi nhiệm vụ chính. Phấn đấu giảm bội chi ngân sách ở mức thấp
hơn 5% GDP.
Thực hiện quyết liệt hơn chủ trương cắt giảm đầu tư cơng từ nguồn ngân sách, nguồn
trái phiếu Chính phủ, tập trung cho các dự án có tiến độ triển khai nhanh, sắp hoàn thành, các
dự án cần thiết, cấp bách, có hiệu quả. Rà sốt các dự án do các DN Nhà nước triển khai đầu
tư. áp dụng các biện pháp yêu cầu các DN chủ động rà sốt, cắt giảm hoặc đình hỗn các dự

án, cơng trình chưa thật cần thiết, chưa hiệu quả; cắt giảm hoặc dừng việc mua, xây dựng trụ
sở mới, đất đai, bất động sản, phương tiện thiết bị phục vụ gián tiếp cho hoạt động sản xuất
kinh doanh… Sử dụng tối đa nguồn lực tài chính của mình để đầu tư vào hoạt động sản xuất


kinh doanh chính của mình và phụ trợ có liên quan trực tiếp đến sản xuất kinh doanh; khơng
góp vốn hoặc mua cổ phần tại các quỹ đầu tư mạo hiểm.
- Thứ tư, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống
nhân dân. Bên cạnh việc giảm cầu hợp lý thông qua việc cắt giảm đầu tư công, cắt giảm chi
tiêu thường xuyên… Thực hiện kiểm soát và cơ cấu lại hàng hoá nhập khẩu, giảm nhập khẩu
nhóm hàng tiêu dùng xa xỉ và các nhóm hàng chưa thực sự cần thiết. Điều chỉnh linh hoạt
thuế xuất nhập khẩu khi thị trường thế giới và trong nước cho phép
- Thứ năm, Tổ chức thực hiện tốt các giải pháp đồng bộ khác như: Hoàn thiện thể chế,
tăng cường quản lý và áp dụng các biện pháp thích hợp để phát triển lành mạnh thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản. Sắp xếp hợp lý mạng lưới kinh doanh hàng hoá dịch
vụ, tránh chồng chéo, vịng vèo đẩy chi phí lưu thơng tăng cao. Các Bộ, các Hiệp hội ngành
hàng hỗ trợ các DN áp dụng các biện pháp tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất
kinh doanh thơng qua việc tăng cường quản lý, sử dụng đúng định mức kinh tế – kỹ thuật. Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực tiếp chỉ đạo việc kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống
gian lận thương mại, chống đầu cơ nâng giá.
3. Giai đoạn 2009 – 2011
Giai đoạn này có nhiều biến động kinh tế xã hội trong và ngoài nước tác động đến nền
kinh tế khiến cho lạm phát chưa thể trở về con số được mong đợi. Cùng với cơn bão khủng
hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2008, nhiều định chế tài chính lâu đời như Lehman
brothers cũng sụp đổ, kinh tế thế giới phải đối mặt với suy thối. Tiếp theo đó là vấn đề khủng
hoảng nợ cơng ở hàng loạt quốc gia châu Âu, điển hình là Hy Lạp, Italia, Tây Ba Nha. Ở Việt
Nam, chính phủ đã có nhiều biện pháp đối phó với tình hình và đảm bảo ổn định kinh tế, tuy
nhiên chỉ số lạm phát trong gđ này luôn ở mức cao với 2 chữ số và mục tiêu kiềm chế lạm
phát ở mức 18% của năm 2011 dường như rất khó để thực hiện khi kết thúc tháng 10, CPI

tăng 21,59% so với cùng kì 2010 và tăng 17,05% so với tháng 12/2010.
a. Nguyên nhân
Về cơ bản, lạm phát xuất phát từ 3 nguyên nhân chính: cầu kéo – chi phí đẩy – cung
tiền quá mức. Đối với Việt Nam, lạm phát cao trong thời gian qua còn hệ quả của nhiều yếu
tố khác với tính chất đặc thù của nền kinh tế.
Các Biều đồ đi kèm
% tăng trưởng M2

%

% tăng trưởng M2

Nguồn: Bloomberg

01/05/2011

01/01/2011

01/09/2010

01/05/2010

01/01/2010

01/09/2009

01/05/2009

01/01/2009


01/09/2008

01/05/2008

01/01/2008

01/09/2007

01/05/2007

01/01/2007

01/09/2006

01/05/2006

01/01/2006

01/09/2005

01/05/2005

01/01/2005

01/09/2004

01/05/2004

01/01/2004


60.00
50.00
40.00
30.00
20.00
10.00
-


Nguyên nhân do cầu kéo có thể kể đến các yếu tố chính sau
 Tổ chức nhiều lễ hội lớn trong năm 2010 (tổng đầu tư xã hội tăng 80% so với mức
trung bình từ 2001 – 2010, trong đó, đầu tư từ NSNN tăng 54% và đầu tư từ vốn vay tăng
187%)
 Đẩy mạnh chi cho ANQP (là vđ bí mật quốc gia tuy nhiên những hoạt động gây hấn
của TQ trên Biển Đơng sẽ có tác động khơng nhỏ đến chiến lược đầu tư cho ANQP)
 Chi khắc phục thiên tai, dịch bệnh (dịch lợn tai xanh – khuẩn liên cầu… từ 2009 đến
nay; nguy cơ tái bùng phát dịch cúm gia cầm…; thiên tai ở các vùng miền gây thiệt hại lớn,
năm 2011 là năm thiên tai đặc biệt nghiêm trọng ở nhiều vùng miền)
 Gói hỗ trợ năm 2009 dành khoảng 28.000 tỷ đồng cho việc miến giảm thuế. Sang
2011, tiếp tục việc miễn giảm thuế với Nghị quyết số 08/2011/QH13.
Riêng đối với 2011, chính sách không chỉ miễn giảm thuế cho doanh nghiệp sản xuất mà
còn giảm thuế TNCN cho các đối tượng đầu tư chứng khoán, trúng sổ số…
 Xuất khẩu tăng đối với các mặt hàng Dệt may (kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt
trên 11 tỷ USD, tăng 22% so với 2009, cao nhất từ trước đến nay) và Nông sản (cũng đạt
mức tăng trên 22% so với 2009, đạt 19,16 tỷ USD)
Ngun nhân Chi phí đẩy
 Giá xăng, dầu, điện, phơi thép… các loại nguyên nhiên liệu sản xuất đều tăng
 Vỡ nợ của Vinashin  gánh nặng nợ trên 80.000 tỷ đồng đè nặng lên toàn nền kinh tế,
nhiều DN – NH điêu đứng theo.
 Nghị định 71 (năm 2010) giới hạn tỷ lệ góp vốn cho BĐS  tác động đến nguồn vốn

của một nhóm ngành xây dựng – là nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn (trong khoảng 600 DN
niêm yết có đến 200 DN thuộc nhóm ngành xây dựng và BĐS với tỷ lệ vốn hóa lớn)
 Năm 2010, NHNN ra Thông tư 13 về đảm bảo an toàn vốn trong ngân hàng, yêu cầu
vốn điều lệ của NHTM trong nước phải từ 3.000 tỷ đã tạo ra cuộc chạy đua tăng vốn ở các
NH nhỏ, dẫn đến tình trạng khan hiếm vốn càng trở nên khó khăn hơn.
 Tăng lương hàng năm (lương cơ bản qua năm 2009 – 2010 – 2011 lần lượt là 650.000
– 730.000 – 830.000)
 Chính sách tiền tệ chuyển sang thắt chặt nhằm giảm lạm phát tác động đến mặt bằng
lãi suất, lãi suất cao khiến nhiều doanh nghiệp khó khăn.
 Hầu hết các trang thiết bị, các loại nguyên liệu chính cho các ngành sản xuất đều được
nhập khẩu dẫn đến chi phí sản xuất tăng mạnh khi lãi suất, tỷ giá tăng cao.
Cung tiền


 Một tác động khơng mong muốn từ “Gói hỗ trợ kinh tế 2009” với giá trị 8 tỷ USD đưa
vào nền kinh tế qua các hình thức hỗ trợ lãi suất, giảm thuế.
Hỗ trợ vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ
Tạm thu hồi VĐT XDCB ứng trước khoảng 3.400 tỷ
Ứng trc NSNN đẻ thực hiện các dự án cấp bách khoảng 37.200 tỷ
Chuyển nguồn vốn đầu tư KH năm 2008 sang 2009 khoảng 30.200 tỷ
Phát hành Trái phiếu CP khoảng 20.000 tỷ
Giảm thuế khoảng 28.000 tỷ
Tăng thêm dư nợ bảo lãnh TD cho DN khoảng 17.000 tỷ
Chi kích cầu khác cho an sinh xã hội khoảng 7.200 tỷ
 Mức cung tiền trong gđ này có giảm nhưng tốc độ tăng M2 vẫn lớn hơn nhiều tỷ lệ
tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng M2 trong giai đoạn này luôn ở vào khoảng 20 – 40%
trong khi tăng trưởng GDP chỉ ở mức dưới 10%.
 Cơ cấu kinh tế bất hợp lý
 Đầu tư khơng hiệu quả, mất lịng tin: hàng loạt vụ “vỡ nợ” xảy ra đối với các TCTD và
các nhóm dân cư

Đầu tư khơng hiệu quả và thất thốt trong đầu tư cơng có thể coi là vấn nạn lớn của nền
kinh tế khi mà chỉ số ICOR ngày càng tăng, hiện đang ở mức 8 – cao hơn hầu hết các quốc
gia trong khu vực. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính cịn thấp, quản lý
lỏng lẻo dẫn đến tình trạng “tín dụng đen” phát triển tràn lan và gây hậu quả nghiêm trọng đến
kinh tế - xã hội
 Giá vàng thế giới và trong nước tăng đột biến trong khi bối cảnh vàng hóa, đơ la hóa
cao ở VN
b. Giải pháp
CSTT thắt chặt
 Tăng lãi suất cb, LS chiết khấu, tái chiết khấu (nhìn biểu đồ)
 Giới hạn tốc độ tăng trưởng các phương tiện thanh toán (gđ này, tỷ lệ tăng M2 đã giảm
<30% nhưng vẫn còn cao), năm 2011 mục tiêu ở mức <20%
 Đặt trần hạn mức tín dụng phi sản xuất năm 2011 ở mức < 20%
 Yêu cầu tăng vốn ở NHTM, áp dụng basel 3 trong việc xác định tỷ lệ an toàn vốn
 Tái cơ cấu ngành NH: mở đường bằng Thông tư số 34/2011/TT-NHNN ngày
28/10/2011 Hướng dẫn về trình tự, thủ tục thu hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi; trình tự, thủ tục thu hồi Giấy phép văn phòng đại
diện của tổ chức tín dụng nước ngồi, tổ chức nước ngồi khác có hoạt động ngân hàng.
CSTK thắt chặt
 Thắt chặt đầu tư cơng, rà sốt lại các dự án: hàng loạt dự án được đánh giá lại về
tiến độ thực hiện. Ví dụ ngành thép đã thu hồi nhiều dự án sản xuất: khu liên hợp thép Cà Ná
và dự án thép tấm Cửu Long Vinashin – dự án thép lớn nhất cả nước
 Giảm chi phí ở các khu vực hành chính cơng, thực hành chính sách tiết kiệm: thực
hiện khốn nhiều loại chi phí


Căn cứ Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ
yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm anh sinh xã hội năm 2011;
Kiểm soát các loại chi phí
 Chính phủ đã có nhiều biện pháp quyết liệt nhằm kiểm soát lạm phát, việc cho tiến

hành kiểm toán nhiều tập đồn – tổng cơng ty nhà nước nhằm minh bạch hóa nền kinh tế,
kiểm sốt các loại giá cả
 Đối với những mặt hàng thiết yếu như điện: tối đa tăng 4 lần/năm, phải trình Bộ cơng
thương các phương án tăng giá, ko tự ý tăng giá (hạn chế sự tăng đột biến)
 Kiểm soát sự biến động tỷ giá, tăng cường quản lý đv thị trường chợ đen (tuy nhiên,
biện pháp này chưa có nhiều tác dụng khi thâm hụt thương mại lớn, tỷ lệ đô la hóa cao, nhu
cầu của người dân lớn)
 Áp trần lãi suất một cách nghiêm ngặt (thông tư 14 về ls huy động ngoại tệ, thông tư
17 về việc cho vay có ts bảo đảm là các giấy tờ có giá…)
Kiểm sốt các khâu trao đổi hàng hóa
 Xây dựng quỹ bình ổn giá (tuy nhiên, chưa có kết quả kiểm tốn đối với những quỹ
này, chưa có đánh giá về tỷ lệ thất thốt, hiệu quả thực tế)
 Bình ổn giá vàng: hướng đến hình thành thị trường giao dịch vàng
 Tăng cường hoạt động của các cơ quan kiểm soát thị trường nhằm đảm bảo trật tự thị
trường
C. Bài học Kinh Nghiệm từ Mỹ và Trung Quốc
1.

Mỹ

Tình hình kinh tế Mỹ trong vòng 5 năm trở lại đây được thể hiện qua các biểu đồ sau:

Tỷ lệ lạm phát cao đi kèm với đó là mức tăng cung tiền lớn ở giai đoạn trước khủng
hoảng 2008, sagn đầu năm 2010 có giảm nhưng sau đó lại tăng nhanh trở lại

Trong khi đó Ngân sách và Cán cân thương mại luôn ở trạng thái thâm hụt. Đặc biệt
thâm hụt NS so với GDP giai đoạn từ 2008 – nay luôn tăng và ở mức cao.


Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp cho thấy, nước Mỹ đang ở tình trạng khó khăn nhất trong

vịng 10 năm qua khi tỷ lệ thất nghiệp ở mức kỉ lục và chưa có dấu hiệu được khác phục.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và thực trạng nền kinh tế Mỹ, lạm phát ở Mỹ xuất
hiện do những nguyên nhân sau:
a. Ngun nhân
Chi phí đẩy: do tình hình giá dầu, giá gạo tăng cao trong giai đoạn vừa qua
Cung tiền
 Hậu quả của khủng hoảng kinh tế 2008  CP chi tiền mua lại các khoản nợ NH
Từ trước khi bắt đầu cuộc khủng hoảng: FED đã hỗ trợ nền kinh tế khoảng 700 – 800
tỷ USD
Cuối 2008(tháng 11), chi mua tài sản thế chấp ở các NH (các loại CK phái sinh)
khoảng 600 tỷ USD
Đầu 2009(tháng 3), tiếp tục mua các TS thế chấp, giấy tờ có giá, trái phiếu với giá trị
khoảng 1.750 tỷ USD
Đỉnh điểm của giải pháp hỗ trợ: đến t6/2010: quyết định chi 2.100 tỷ USD, đến tháng
8/2010, FED thay đổi phương thức hỗ trợ NKT, khi đã có dấu hiệu phục hồi. Các khoản nợ,
giấy tờ có giá đã mua dự tính sẽ đáo hạn vào 2012 với gtri 1.700 tỷ USD
FED sẽ duy trì các khoản cho vay này ở mức 2.054 tỷ USD bằng việc mua khoảng 30
triệu USD trái phiếu (giấy tờ có giá)/tháng trong khoảng 2 -10 năm
11/2010 (bđ năm tài khóa 2011): tung ra gói cứu trợ QE2 – mua 600 tỷ USD giấy tờ
có giá (thời gian mua kéo dài đến hết Q2’11)
 Tỷ lệ bội chi NS lớn, chưa được cải thiện trong nhiều năm (biểu đồ)
Cầu kéo
 Mỹ tham chiến ở nhiều nơi ở Trung Đông
 Đầu tư cho các chính sách an sinh xã hội: nhà ở, trợ cấp thất nghiệp…
 Chính sách đồng đơ la yếu để tăng xk, giảm thâm hụt thương mại
b.

Giải pháp đã thực hiện

Xét về mục tiêu: mục tiêu thúc đẩy kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hơn đối với nước

Mỹ ở hiện tại. Tuy nhiên, chính phủ Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm kiềm chế lạm
phát đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
- Giảm chi tiêu cơng: bằng việc rút dần qn ở nước ngồi về
- Trong ngắn hạn, tăng tỷ lệ trả lãi của NHTW cho NHTM có dự trữ vượt bắt buộc
- Tỷ lệ lãi suất giữ ở mức thấp: khoảng 0 – 0,25%
- Giảm cung tiền bằng cách: yêu cầu các bên tham gia thực hiện thỏa thuận mua lại
các loại tài sản phái sinh (Reverse Repurchase Agreements – RRPs): quan hệ 3 bên FED –
người mua lần đầu các tài sản phái sinh – người phát hành các loại ts phái sinh
- FED duy trì ổn định TS bằng việc mua – bán các giấy tờ có giá


Tuy nhiên, hiệu quả chính sách chưa cao khi lạm phát ở Mỹ vẫn ở mức cao so với
trung bình nhiều năm, tỷ lệ thất nghiệp cao chưa từng có, chỉ số ck giảm (ý kiến của tớ)
c. Bài học rút ra
 ĐẶC ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA NỀN KINH TẾ MỸ
- Đầu tư ít nhạy cảm với ls  đưa mức lãi suất cơ sở về mức rất thấp ~ 0% cũng ko
tạo thêm áp lực lạm phát cho NKT
- USD là đồng tiền dự trữ thế giới  dễ kiểm soát chế độ tỷ giá hơn VN
- USD mất giá  lạm phát của Mỹ ko tăng mạnh nhưng làm cho các QG dự trữ USD
phải đối mặt với lạm phát
- Chính sách tiền tệ độc lập đã hạn chế nhiều tác động của chi tiêu chính phủ
 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
- Chính sách tiền tệ độc lập  hạn chế việc cung tiền để đạt đc các mục tiêu tăng
trưởng
- Có lộ trình cho từng quyết sách kinh tế: Việc cung ứng tiền tệ phải song hành với
phương án thu hồi lượng tiền cung ứng
2. Trung Quốc
Theo các chuyên gia kinh tế, trong 5 năm vừa qua, Trung Quốc liên tục phải đối mặt
với áp lực lạm phát rất lớn, có khả năng đe dọa sự ổn định kinh tế, chính trị – xã hội. Lạm
phát Trung Quốc lên tới đỉnh điểm vào năm 2008 và có xu hướng tăng trở lại từ cuối năm

2009 đến nay.
Biểu đồ tỷ lệ lạm phát Trung Quốc từ 2008-2011

a. Nguyên nhân
Nhìn chung, tình trạng lạm phát ở Trung Quốc xuất phát từ 3 nguyên nhân chủ yếu
sau:
 Thứ nhất, Chính sách tiền tệ và tài khố nới lỏng quá mức nhằm theo đuổi mục tiêu
tăng trường và việc làm.
Trong khi nền kinh tế toàn cầu bị tàn phá và hầu hết các nước bị lao đao vì cuộc khủng
hoảng tài chính khởi đầu từ Mỹ năm 2008, Trung Quốc vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao.
Để đạt được tham vọng về mục tiêu tăng trưởng của mình, Trung Quốc tăng cường đầu tư
một cách ồ ạt vào công nghiệp nặng và cơ sở hạ tầng, đồng thời thực thi chính sách tiền tệ nới


lỏng như phát hành tiền tệ, khuyến khích mở rộng cho vay khơng có tiền lệ nhằm tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp nhà nước, tiến hành tràn lan các
dự án đầu tư, bất chấp hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc thực hiện chính sách neo giữ tỷ giá đồng NDT
yếu hơn so với đồng USD chứ không để đồng tiền này dao động trôi nổi theo yếu tố cung cầu
trên thị trường. Hàng xuất khẩu của Trung Quốc nhờ vậy luôn giữ được ở mức giá thấp và lao
động trong ngành sản xuất Trung Quốc có việc làm. Thế nhưng cách Trung Quốc neo tỷ giá
đã gây ra lạm phát, chế độ neo tỷ giá giúp các công ty xuất khẩu được nhiều hơn, Trung Quốc
thu về nhiều ngoại tệ và như vậy lại phải cần in thêm nhân dân tệ ra để giữ đồng nhân dân tệ ở
mức giá thấp. Nói cách khác, chế độ neo tỷ giá được duy trì bởi việc chính phủ Trung Quốc
khơng ngừng in tiền.
Theo số liệu của Cục điều tra và Thống kê quốc gia Trung Quốc, khối lượng tiền tệ,
trong lưu thơng của Trung Quốc tính đến tháng 10.2010 là 69.980 tỷ NDT (~10.294 tỷ USD),
cao hơn mức 8.800 tỷ USD của Mỹ, mà chỉ tạo ra GDP bằng 1/3 GDP của Mỹ. Trong khi tỷ
trọng lượng tiền phát hành/GDP của Mỹ duy trì ở mức 60% trong năm qua, tại Nhật Bản và
Hàn Quốc trong giai đoạn tăng trưởng cao là khoảng 100%, thì ở Trung Quốc là 200% năm

2010, gấp 5 lần so với 10 năm trước. Theo công bố chính thức, trong 2 năm 2009 -2010,
ngồi triển khai gói kích thích kinh tế trị giá 4.000 tỷ NDT (586 tỷ USD), các ngân hàng
thương mại Trung Quốc đã cho vay tới 9.600 tỷ NDT và 7.950 tỷ NDT (1,1 ngàn tỷ USD).
Chính tình trạng dư thừa nguồn vốn, đầu cơ đã khiến lạm phát tại Trung Quốc gia tăng.
 Thứ hai, Lạm phát do mất cân đối cung – cầu và tăng giá lương thực, thực phẩm,
nhất là nông sản gắn với thiên tai và hiện tượng đầu cơ trong lưu thơng:
Nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm hiện chiếm khoảng 2/3 trong rổ hàng hóa làm
căn cứ để tính chỉ số CPI của nước này. Là nước đông dân nhất thế giới, sản xuất lương thực
nhiều nhất thế giới và gần như là nước tự cung, tự cấp phần lớn lượng lương thực, thực phẩm
tiêu thụ, nên thời tiết có ảnh hưởng lớn đến nền nơng nghiệp còn lạc hậu và sản lượng, cũng
như giá lương thực, thực phẩm do TQ sản xuất ra và từ đó có ảnh hưởng đáng kể đến chỉ số
CPI của TQ. Tuy nhiên, do quá chú trọng phát triển công nghiệp mà không quan tâm đến bảo
vệ môi trường, khiến thảm họa thiên nhiên ngày càng nhiều, dẫn đến mất mùa, thiếu hụt
lương thực, thực phẩm khiến giá cả các mặt hàng này tăng cao. Theo thống kê, trong số 30
mặt hàng thực phẩm chủ yếu tại 50 thành phố lớn và vừa của Trung Quốc, có tới hơn 90%
tăng giá.
Trong tháng 3-2011, giá thực phẩm ở TQ lại tăng khoảng 11%… Thực phẩm tăng giá
mạnh phản ánh nhu cầu tiêu dùng lớn hơn trong khi nguồn cung còn hạn chế. Nguyên nhân
do các hộ gia đình ở TQ đã trở nên giàu hơn, thịt gia súc, gia cầm, sữa chiếm một phần lớn
trong chi tiêu của họ. Giá lương thực tăng cao đã trở thành nguyên nhân lớn thứ hai gây ra
lạm phát ở TQ.
 Ngoài ra, lạm phát ở TQ tăng gần đây còn do một số nhân tố khách quan khác, như
bất ổn kinh tế, chính trị tại một số nước trên thế giá khiến giá cả hàng hố thế giới tăng cao
gây áp lực lạm phát khơng nhỏ với các nền kinh tế mới nổi trong đó có Trung Quốc. Bên cạnh
đó, việc Mỹ mới đây quyết định “bơm” 600 tỉ USD để hỗ trợ tăng trưởng cho nền kinh tế lớn
nhất thế giới, việc bơm tiền của Mỹ sẽ dẫn tới những dịng vốn nóng dồn dập đổ vào các nền
kinh tế mới nổi như TQ và đẩy lạm phát tăng cao.


Tóm lại, lạm phát ở TQ là hệ quả tổng hịa của các nhân tố tiền tệ, chi phí đẩy, ngoại

nhập, cầu kéo và thiên tai, cùng các nhân tố khác, như đầu cơ, tâm lý và những hạn chế trong
cơ cấu kinh tế của bản thân mô thức phát triển của TQ…
b. Giải pháp đã thực hiện
TQ đối phó với lạm phát bằng tất cả những giải pháp truyền thống, tương ứng với các
nguyên nhân gây ra lạm phát, trong đó nổi bật là các nhóm giải pháp sau: Thực hiện việc thắt
chặt cung ứng tiền tệ, nâng lãi suất và tăng dự trữ bắt buộc, tái cơ cấu kinh tế, tăng cường cân
đối cung – cầu và ổn định giá lương thực, thực phẩm.
Thực hiện chính sách tiền tệ từ “nới lỏng” sang “thận trọng”, kết hợp với các chính
sách tài khố “linh hoạt”:
Nhằm ổn định hệ thống tài chính và kiểm sốt lạm phát, Trung Quốc đã sử dụng
những biện pháp khá mạnh tay. Tháng 3/2010, rút lượng tiền 31,2 tỷ USD trong 1 ngày khỏi
hệ thống tài chính bằng cách bán trái phiếu ngắn hạn cho các ngân hàng. Đây là khoản tiền rút
khỏi hệ thống tài chính hàng tuần lớn nhất trong vịng 2 năm qua nhằm hạn chế việc các ngân
hàng cho vay ồ ạt khiến lo ngại lạm phát và tăng giá.
Về chính sách lãi suất, từ năm 2010 đến nay, Trung quốc đã 8 lần tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc cho các ngân hành thương mại đưa tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng lớn và
vừa đã lên tới mức 21% và việc này sẽ đóng băng gần như tức thì đối với số tiền trị giá hơn
370 tỷ NDT lưu thông trong hệ thống Ngân hàng. Ngồi ra, Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc cịn thực hiện điều chỉnh lãi suất, cụ thể ngày 6/4, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn một năm
tăng thêm 0,25% lên 3,25%, còn lãi suất cho vay một năm tăng 0,25% lên 6,31%, đây là lần
thứ hai PBOC tăng lãi suất kể từ đầu năm 2011 và lần thứ tư kể từ năm 2010 đến nay.
Về chính sách tỷ giá, nhằm đối phó với tình trạng lạm phát tăng cao trong nước và
sức ép từ cộng đồng Quốc tế, Chính phủ Trung Quốc đã từng bước điều chỉnh tỷ giá NDT
theo hướng nâng lên. Tháng 5/2011, Trung Quốc đã cho phép đồng NDT tăng giá so với đồng
USD lên mức 6,5 NDT/USD, mức cao nhất kể từ năm 1993. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố
chính sách này nhằm làm cho đồng NDT có tỷ giá linh hoạt hơn, kết thúc tỷ giá cố định đã
được neo vào đồng USD. Tuy nhiên, có thể thấy việc nâng giá đồng NDT vẫn chỉ giới hạn ở
mức có lợi cho xuất khẩu, trụ cột của nền kinh tế nước này.
Thực hiện tái cơ cấu kinh tế, tăng cường cân đối cung cấp, bình ổn giá lương thực,
thực phẩm và nâng cao hiệu quả đầu tư:

Lạm phát tại Trung Quốc có nguyên nhân sâu xa từ sự mất cân đối nền kinh tế, nên
các biện pháp quản lý giá của Chính phủ chỉ có thể kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn, vấn đề
cơ bản là phải nâng cao hiệu quả đầu tư, tái cơ cấu nền kinh tế. Do đó, Trung Quốc đã tích
cực đầu tư đổi mới cơng nghệ, hiện đại hóa các ngành công nghiệp chủ chốt như sắt thép, ôtô,
xi măng, viễn thông… để tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; hạn chế đầu tư vào các ngành phi
sản xuất; tăng thuế bất động sản; hỗ trợ phát triển nơng nghiệp, nơng thơn.
Ngồi ra, Chính phủ có một loạt biện pháp nhằm cân đối cung- cầu nhằm bình ổn giá
lương thực- thực phẩm như : Kiểm sốt chặt chẽ ngành cơng nghiệp sử dụng nguyên liệu là
lương thực - thực phẩm, Đẩy mạnh và kiện toàn hệ thống dự trữ, điều tiết xuất nhập khẩu,
bình ổn giá thị trường trong nước, Hỗ trợ thúc đẩy phát triển sản xuất, nhất là sản xuất các
mặt hàng thiết yếu như: lương thực, thực phẩm, dầu thực vật, thịt,...


c. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Trong bối cảnh nền kinh tế hai nước Việt – Trung có nhiều nét tương đồng, lại cùng
trong nhóm các nước mới nổi. Vì thế, những giải pháp chống lạm phát của Trung quốc là
những bài học kinh nghiệm rất bổ ích cho Việt Nam.
Thứ nhất, biện pháp thắt chặt tiền tệ phải được tiến hành có liều lượng, có lộ trình với
mức thay đổi khơng lớn để khơng gây sốc cho thị trường tiền tệ cũng như khơng gây khó
khăn cho hoạt động của các ngân hàng và các doanh nghiệp. Trung Quốc có khuynh hướng ưa
dùng cơng cụ dự trữ bắt buộc hơn lãi suất. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc thường thận
trọng trong nâng giá trị NDT và lãi suất cơ bản, vì sợ dịng vốn nóng đổ vào nhanh và ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ hai, Trung Quốc ln coi trọng tính đồng bộ trong kiềm chế lạm phát, kết hợp cả
hành chính và kinh tế; thực hiện đồng thời các biện pháp quản lý thị trường, quản lý giá cả,
thúc đẩy sản xuất nơng nghiệp phát triển và hỗ trợ người dân có thu nhập thấp nhằm đảm bảo
tính hiệu quả tránh gây phản ứng phụ cho nền kinh tế.
Thứ ba, Chính phủ Trung Quốc cho đến nay vẫn đưa ra nhiều biện pháp để kiềm chế
lạm phát, nhưng nhiều trong số đó thực chất được đưa ra để che giấu lạm phát. Nói cách khác,
Chính phủ Trung Quốc đang ở trong một tình thế “tiến thối lưỡng nan”: Bắc Kinh muốn

kiểm sốt lạm phát, nhưng lại lo ngại những biện pháp quyết liệt có thể cản trở việc làm và sự
gia tăng thu nhập của người dân ở khu vực nông thôn. Trong khi đó, Chính phủ Trung Quốc
lại đang muốn giảm sự phụ thuộc của tăng trưởng kinh tế vào nhu cầu của các thị trường bên
ngồi, và thay vào đó, dựa nhiều hơn vào chi tiêu nội địa.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh rằng, sự thống nhất nhận thức và phối hợp đồng bộ về lạm
phát có ý nghĩa quan trong trong đối phó với lạm phát, song khơng dễ đạt được trên thực tế,
và điều này ảnh hưởng nhất định đến kết quả chống lạm phát của chính phủ.
Những kinh nghiệm thành công và không thành công của Trung Quốc có thể là những
bài học cho Việt Nam trong việc lựa chọn cơ chế và chính sách phát triển, đặc biệt phải có
những biện pháp đồng bộ để đảm bảo tính hiệu quả, loại trừ nguy cơ kinh tế phát triển “quá
nóng” như đang diễn ra tại Trung Quốc

DANH SÁCH NHÓM 1
STT

Họ và tên

Ngày sinh

Số điện thoại

Email


1
2
3
4
5
6

7
8
9
10

Bùi Thị Tú Anh
Nguyễn Thị Phương Anh
Dương Thị Quỳnh Anh
Hà Thị Tú Anh
Trần Thị Nguyệt Anh
Ngô Thị Mỹ Chi
Nguyễn Quang Chung
Phạm Thị Đào
Dương Thị Anh Đào
Đinh Ngọc Diệp

4/14/1989
12/9/1988
8/22/1989
22/07/1988
12/7/1988
10/5/1988
7/7/1986
11/12/1988
11/10/1988
15/10/1988

0914.577.112
0914.662.912
0906.026.246

0984.866.082
0919.119.988
0169.695.1088
0987.623.627
0987.779.698
0916.305.355
0977.704.996














×