Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

bien phap phat huy tinh tich cuc trong gio HV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.97 KB, 15 trang )

Phòng GD&ĐT Long Phú CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Trường TH TT Long Phú A Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DỰ THI GIÁO VIÊN GIỎI CẤP TRƯỜNG
NĂM 2013 – 2014
* ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM HOẶC ÁP DỤNG CÔNG NGHỆ MỚI:
a) Tên đề tài sáng kiến kinh nghiệm cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới hoặc
giải pháp công tác hiệu quả cao;
“Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ
Học vần lớp Một"
• Lí do chọn đề tài:
Bước vào thế kỷ XXI, thế kỉ mở đầu một thiên nhiên kỉ mới, đất nước chúng
ta bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những thay đổi quan trọng
trong kinh tế, xã hội, giáo dục đòi hỏi nhất thiết phải nâng cao chất lượng giảng
dạy trong
nhà trường nói chung và bậc tiểu học nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng của sự đổi mới phương pháp dạy học ở
bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà còn là
người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động vốn hiểu
biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh kiến thức mới.
Như chúng ta đã biết Tiếng Việt vừa là môn học tiếng mẹ đẻ vừa là công cụ
giúp học sinh giao tiếp và tiếp thu các môn học khác tốt hơn (Các em có đọc thông,
viết thạo, hiểu được nội dung văn bản thì mới nắm được thông tin và giải quyết
được vấn đề mà văn bản nêu ra).
Môn Tiếng Việt lớp một là môn học khởi đầu giúp các em chiếm lĩnh công cụ
mới dể sử dụng trong học tập và giao tiếp, đó là chữ viết. Môn tiếng việt lớp một
còn giúp học sinh hình thành nếp học như: cách cầm sách đọc đúng tư thế, cách
ngắt, nghỉ (hơi) đúng chỗ, cách trả lời câu hỏi, cách nhận xét bạn đọc, cách cầm
bút; giúp học sinh có kĩ năng nghe nói một số câu đơn giản; bước đầu có những
hiểu biết về cuộc sống; giúp các em yêu quý việc học tập Đây chính là nền móng
cho các em học tốt môn Tiếng Việt ở các lớp trên. Chính vì vậy dạy tốt môn Tiếng


Việt ở lớp một (phân môn Học vần - Tập đọc) là điều cực kì quan trọng.
Với những lí do nêu trên, tôi đã suy nghĩ, nghiên cứu và mạnh dạn áp dụng
kinh nghiệm: "Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong giờ Học vần lớp Một".
b) Thời gian thực hiện Sáng kiến kinh nghiệm cải tiến kĩ thuật, áp dụng công
nghệ mới hoặc giải pháp công tác hiệu quả cao : từ tháng 9/2013 đến tháng
5/2014.
c) Quá trình hoạt động để áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm cải tiến kĩ thuật, áp
dụng công nghệ mới hoặc giải pháp công tác hiệu quả cao;
• Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng về việc dạy học Tiếng Việt lớp một phần Học vần. Phân
tích những thuận lợi và khó khăn khi dạy và học Tiếng Việt ở lớp 1 phần Học vần.
- Tìm ra một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động cho học sinh
trong tiết Học vần lớp Một.
• Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Để làm rõ được mục đích tôi đã nói rõ ở trên, tôi đã lấy đối tượng nghiên cứu là
học sinh lớp 1A5 Trường Tiểu học Thị Trấn Long Phú A, trong năm học 2013 -
2014.
Do thời gian và năng lực có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu trong các tiết dạy hàng
ngày, nhất là các tiết học vần.
• Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát tình hình học của học sinh lớp 1A5.
- Tiếp cận với học sinh, các thầy cô trong khối, các bậc phụ huynh học sinh để tìm
ra biện pháp có hiệu quả nhất.
- Rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết một số khó khăn nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục.
• Cơ sở lí luận:
1. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học và việc giúp học sinh phát huy tính
tích cực, chủ động trong giờ học Tiếng Việt:
Học sinh Tiểu học ở lứa tuổi từ 6 - 11 tuổi đang ở giai đoạn phát triển rất

mạnh
mẽ về thể chất và tư duy. Các em đọc sách, học bài, nghe giảng rất dễ hiểu nhưng
cũng sẽ quên ngay khi chúng không tập trung cao độ. Chính vì vậy phải tạo ra
hứng thú trong học tập và phải được tập luyện, ôn tập thường xuyên.
Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và rất thích tiếp xúc với các sự vật hiện
tượng. Trẻ rất hiếu động , ham hiểu biết cái mới nên rất dễ hình thành cảm xúc
mới. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, để học
sinh đi
tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành, thực nghiệm, tổ chức các trò chơi
xen kẽ.
Trẻ dễ xúc động nhưng hình ảnh lại chẵn bền vững dễ mất đi vì tính mục đích
chẵn cao. Trẻ rất hiếu động nên chóng chán, do vậy trong giờ dạy giáo viên phải
gây
chú ý cho học sinh nhiều xúc cảm động lại thông qua bài học và các hoạt động
khác để củng cố, khắc sâu kiến thức.
Học sinh trường Tiểu học Thị trấn Long Phú A rất hiếu động, thích khám phá
điều mới lạ, nhưng cũng chóng chán. Khả năng tập trung, chú ý của các em chẵn
cao. Nhiều em còn phát âm sai các tiếng có phụ âm n, l, b, v, t, th Một số em còn
đọc ngọng dấu hỏi và dấu ngã.
2. Mục tiêu dạy Tiếng Việt ở Tiểu học
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Viêt (Đọc, viết,
nghe, nói) Để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
- Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt; Về tự nhiên, xã
hội và con người; Về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của
Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con ngời Việt Nam xã hội chủ nghĩa
cho học sinh.
Mục tiêu dạy Tiếng Việt ở Tiểu học rất chú trọng đến việc hình thành kĩ năng
sử dụng Tiếng Việt, do vậy việc hướng dẫn học sinh lớp 1 các kĩ năng thực hành

Tiếng Việt (Đọc, viết, nghe, nói) là điều rất quan trọng.
3. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt lớp 1:
Ở lớp Một, mục tiêu dạy học tiếng Việt được cụ thể hoá thành những yêu cầu
cơ bản về kiến thức và kĩ năng đối với học sinh lớp 1 như sau:
- Đọc đúng và rõ ràng bài văn đơn giản (Khoảng 30 tiếng / phút). Hiểu nghĩa của
các từ ngữ thông thường và nội dung thông báo của câu văn, đoạn văn.
- Viết đúng chữ viết thường, chép đúng chỉnh tả đoạn văn (khoảng 30 chữ /15
phút).
- Nghe hiểu lời giảng và lời hướng dẫn của giáo viên.
- Nói rõ ràng, trả lời được câu hỏi đơn giản.
4. Nội dung chương trình và sách giáo khoa phần Học Vần lớp 1:
4.1.Nội dung chương trình:
Phần này gồm 103 bài (83 bài thuộc tập một và 20 bài thuộc tập hai), với 3
dạng cơ bản sau:
- Làm quen với cấu tạo đơn giản của tiếng qua âm và chữ (thể hiện qua âm e, b
cùng các dấu thanh)
- Học âm và chữ thể hiện âm mới.
- Ôn tập nhóm âm hoặc nhóm vần.
Từ bài 1 đến bài 27, học sinh đã đợc học toàn bộ âm và các chữ cái ghi âm của
Tiếng Việt, được làm quen với âm tiết mở.
Từ bài 29 đến bài 90, học sinh được học các âm và các chữ thể hiện vần mới ia,
ua, a theo trình tự vần kết thúc bằng bán âm (i ,y ,o , u); vần kết thúc bằng phụ
âm vang (m, n, ng, nh); vần kết thúc bằng phụ âm không vang (p, t, c, ch); Học
cũng đồng thời được làm quen với các kiểu âm tiết mới là âm tiết nửa mở, nửa
khép và khép.
Từ bài 90 đến bài 103, học sinh đợc ôn lại một lần nữa các âm và các chữ thể
hiện
các âm của Tiếng Việt qua việc học một loại vần mới. Vần có âm đầu vần là u
hoặc o.
4.2. Cấu trúc sách giáo khoa:

* Dạng bài dạy âm (vần) mới:
Trang chẵn: Đầu tiên làv âm (vần) mới; tiếng chứa âm (vần) mới; tiếp đến
trang minh hoạ từ mới; từ mới; từ ứng dụng;cuối cùng là nội dung phần luyện
viết.
Trang lẻ: Đầu tiên là tranh minh hoạ và nội dung câu ứng dụng rồi đến tên chủ
đề và tranh minh hoạ chủ đề luyện nói.
*Dạng bài ôn tập:
Trang chẵn: Đầu tiên là bảng âm (Vần) cần ôn -> từ ứng dụng -> nội dung phần
tập viết.
Trang lẻ: Đầu tiên là tranh minh hoạ nội dung câu ứng dụng -> câu ứng dụng,
tiếp theo là tên truyện và tranh minh hoạ nội dung câu chuyện.
Các chữ ghi âm, tiếng từ và tranh minh hoạ đều được in màu sắc đẹp, hợp với
tâm lí của học sinh lớp Một giúp các em hứng thú học tập và nắm nội dung bài
học một cách chủ động. Ngoài ra, từng phần của bài học còn có kí hiệu sử dụng
sách (bằng các hình cụ thể: em bé đọc, viết, nói, kể chuyện) giúp học dễ dàng phân
biệt phần nào để đọc, viết, luyện nói và kể chuyện.
Tiết một thường học hết trang chẵn, tiết hai học trang lẻ và luyện viết ở vở tập
viết.
5. Phương pháp dạy học tích cực:
Chúng ta đều biết rằng quá trình dạy học gồm hoạt động có quan hệ hữu cơ:
Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Cả hai hoạt động này
đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo dục.
Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này
chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực chủ động, tự giác với một
động cơ nhận thức đúng đắn. Luôn luôn phát huy tích cực, chủ động trong hoạt
động học tập của học sinh ở mỗi tiết học, đó chính là dạy học tích cực.
5.1. .Những dấu hiệu cơ bản của dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh:
- Coi trọng việc tổ chức các hoạt động của học sinh.
- Tạo điều kiện để học sinh tìm tòi, tiếp nhận tri thức.

- Tạo điều kiện để học sinh chủ động.
- Chú ý hình thành khả năng tự học của học sinh.
5.2. Tác dụng của dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:
- Hợp với quy luật hoạt động học tập; Phát huy tính độc lập sáng tạo, hình thàn
thói quen tự học.
- Năng cao hiệu quả và chất lượng dạy học, đảm bảo tính toàn diện, cụ thể là
làm cho học sinh:
+ Nắm vững, hiểu sâu và bền vững hơn về kiến thức.
+ Luôn củng cố và phát triển cách học của mình.
+ Giúp học sinh có tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể.
+ Có tinh thần hợp tác với bạn bè.
• Thực trạng của vấn đề:
1. Thuận lợi:
- Chương trình sách giáo khoa được biên soạn trên cơ sở của việc đổi mới
phương pháp dạy học (Các bài học được sắp xếp theo nguyên tắc: mạch kiến thức
và kĩ năng được thực hiện từ đơn giản đến phức tạp; có lặp lại nhưng đáp ứng yêu
cầu phát triển, nâng cao ).Viêc tăng cường kênh hình của sách; cách trình bày hấp
dẫn, sinh động, nhiều hình ảnh, hình vẽ phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 1 tạo điều
kiện cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên hơn.
- Đồ dùng dạy học được trang trí tương đối đầy đủ đến từng giáo viên và học
sinh. (Tranh ảnh minh hoạ tù ứng dụng, tranh luyện nói, tranh kể chuyện và bộ
thực hành TiếngViệt, của giáo viên và học sinh)
- Được sự quan tâm của Bộ - Sở - Phòng Giáo dục và đặc biệt là trực tiếp Ban
giám hiệu của nhà trường qua tâm đến việc đổi mới phương pháp (Tổ chức các
tiết dạy thực hành, chốt lại quy trình tiết dạy, các băng đĩa hình minh hoạ, cách
dạy từng dạng bài cụ thể )
- Việc học tập của học sinh hiện nay cũng được các bậc phụ huynh rất quan tâm.
- Việc học tập là điều mới lạ với học sinh lớp 1 nên các em rất tò mò, hào hứng
được học, được tìm hiểu.
2. Khó khăn:

- Số lượng kiến thức dạy trong một bài học vần còn nhiều, thời gian một tiết học
35 phút.
- Từ Tiếng Việt có nhiều nghĩa, quy tắc chính tả còn phức tạp, một số từ đọc gần
giống nhau lại có cách viết khác nhau.
- Học sinh lớp Một còn bỡ ngỡ.
- Sức ép của các bậc cha mẹ HS đối với giáo viên và nhà trường.
- Trường Tiểu học Thị Trấn Long Phú A nằm ở trung tâm huyện nhưng mặt bằng
dân trí chưa đồng đều. Sự quan tâm của cha mẹ không nhiều, nên học sinh còn
chưa mạnh dạn, một số em còn nhút nhát khi tham gia các hoạt động học tập
3. Đánh giá thực trạng về tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học
vần.
3.1. Đánh giá thực trạng:
Qua một số tiết dạy đầu năm học, nhất là giờ học vần của lớp 1A5 Trường
Tiểu học Thị Trấn Long Phú A, tôi nhận thấy tính tích cực, chủ động của học sinh
còn kém, thể hiện qua một số dấu hiệu sau đây:
- Học sinh tìm từ còn chậm và số lượng ít, hay tìm từ giống nhau hoặc giống sách
giáo khoa (chỉ có khoảng 35% số học sinh tìm được từ mới).
- Học sinh chưa có ý thức lắng nghe và làm theo sự hướng dân của giáo viên (chỉ
có khoảng 50% các em chăm chú lắng nghe và làm theo sự hướng dẫn của giáo
viên)
* Ví dụ dạy bài 7: ê - v: Sau khi học chủ đề luyện nói " bế bé '', tôi hỏi: Mẹ rất vất vả
chăm sóc chúng ta. Chúng ta phải làm gì cho cha mẹ vui lòng? Thì chỉ có khoảng 7 -
9 em giơ tay.
- Học sinh đọc còn kém, viết kém (chiếm 25%) Đó là các em: Trần Minh Trung,
Thạch Thị Quanh, Lâm Văn Phong, Thạch Thị Kiều Loan, Tăng Tuấn Kiệt, Trần
Quốc Hào, Trần Văn Khoa,… học sinh lớp 1A5, trường Tiểu học Thị Trấn Long Phú
A.
3.2. Nguyên nhân của thực trạng:
* Về phía giáo viên:
- Còn nặng nề về cung cấp các kiến thức, chưa chú ý đến việc tạo điều kiện giúp

cho học sinh tự tìm tòi tiếp thu kiến thức.
- Chưa chú ý động viên học sinh mạnh dạn, tích cực học tập.
* Về phía học sinh:
- Các em đang quen với nếp vui chơi tương đối tự do, thoải mái tuỳ theo hứng thú
của mình. Nhưng khi đi học, các em phải làm việc trong một tập thể có nội quy, kỉ
luật, có hướng dẫn học tập có trách nhiệm, nghĩa vụ rõ ràng.
- Các em còn hay đãng trí, khó tập trung chú ý lâu, nhất là khi phải chú ý các đối
tượng trừu tượng, ít hấp dẫn.
- Từ thực trạng trên, tôi thấy cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong tiết Học Vần lớp 1.

• Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ
học vần lớp Một.
Dạy học tích cực tạo cho các em phương pháp học tập tích cực. Chinh vì vậy tôi
đã đề ra cá biện pháp thực hiện như sau:
* Biện pháp 1: Sử dụng đồ dùng dạy học.
Đồ dùng dạy học là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình dạy học. Trong
quá trình dạy học, học sinh nhận thức bài học với sự tổ chức, dẫn dắt của giáo viên
có sự hỗ trợ của các đồ dùng dạy học. đồ dùng dạy học đảm bảo cho học sinh lĩnh
họi tốt nhất các biểu tượng, quy tắc, hình thành kĩ năng, kĩ xảo.
Đối với học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng đồ dùng dạy học đặc
biệt quan trọng vì nó giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan
cụ thể, giúp học sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kĩ năng, kĩ
xảo.
1. Các loại đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt lớp Một:
- Tranh ảnh (Tranh vẽ, tranh su tầm, tranh động, tranh trong sách giáo khoa )
- Mô hình.
- Vật thật.
- Chữ mẫu.
- Bộ thực hành Tiếng Việt.

- Băng đĩa.
- Sách giáo khoa
2. Tác dụng của việc sử dụng đồ dùng dạy học:
- Đảm bảo được các thông tin chủ yếu về các hiện tượng, sự vật liên quan đến nội
dung bài học.
- Làm tăng hứng thú nhận thức của học sinh.
- Đảm bảo tính trực quan, tạo cho học sinh tiếp cận nội dung bài học.
- Tạo điều kiện mở rộng nội dung SGK cho học sinh.
- Tạo điều kiện cho học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kĩ năng,kĩ
xảo.
3. Một số lưu ý khi sử dụng đồ dùng dạy học: Việc sử dụng đồ dùng dạy
học cần:
- Gắn với nội dung của bài học.
- Phù hợp với hình thức dạy học bộ môn.
- Phù hợp với kế hoạch bài học: + Đúng mục đích.
+ Đúng lúc, đúng chỗ
- Khi sử dụng: + Cần định hướng cho HS quan sát.
+ Khai thác triệt để đồ dùng dạy học.
4. Cách sử dụng:
Đồ dùng dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy học. Sử dụng đồ dùng dạy học hợp lí, có hiệu quả sẽ góp phần
nâng cao chất lượng dạy học. Sau đây là một vài cách sử dụng đồ dùng dạy học
trong giờ học vần lớp 1.
4.1. Cách sử dụng tranh ảnh, mô hình, vật thật.
a. Sử dụng tranh ảnh, mô hình, vật thật để giải nghĩa từ.
* Ví dụ dạy bài 10: ô - ơ
Sau khi hướng dẫn học âm - tiếng - từ mới ô – cô - cô. Giáo viên giới thiệu vật
thật “cô” để học sinh tái hiện về hình ảnh người cô các em nhìn thấy hằng ngày
(nếu chưa biết).
* Ví dụ dạy bài 36: ay - ây

Để giảng từ ''máy bay'', giáo viên lấy máy bay ra và hỏi: máy bay là phương tiện
giao thông đường gì?
Sử dụng tranh, mô hình, vật thật khi giải nghĩa từ giúp học sinh tưởng tượng ra
sự vật hay hoạt động được nói đến trong từ khoá, từ ứng dụng, hiểu đúng hơn về
sự vật, hoạt động.
b. Sử dụng tranh ảnh để minh hoạ câu ứng dụng.
* Ví dụ dạy bài 40: iu - êu
Khi học câu ứng dụng: Cây bởi cây táo nhà bà đều sai trĩu quả. Giáo viên treo
tranh: ''vuờn cây nhà bà'' và nói: Đây là bức tranh vẽ cảnh vườn cây nhà bà. Các
em hãy quan sát bức tranh và cho cô biết: Quả của các cây trong vườn nhà bà như
thế nào? - Học sinh trả lời: Quả của các cây trong vườn nhà bà đều rất nhiều quả.
Giáo viên chỉ tranh nói: "Các cây trong vườn nhà bà đều sai trĩu quả'' và giảng
thêm: Sai trĩu quả cây rất nhiều quả, đến nỗi trĩu cả cành xuống.
Sử dụng tranh ảnh khi dạy câu ứng dụng, giúp học sinh hiểu thêm về nội dung
câu ứng dụng.
c. Sử dụng tranh ảnh để giúp học sinh tái hiện nội dung ở phần luyện nói.
* Ví dụ dạy bài 32: oi - ai: Khi dạy chủ đề luyện nói “Sẻ, ri, bói cá, le le'' giáo viên có
thể tiến hành theo các bước:
- GV yêu cầu học sinh đọc chủ đề luyện nói trong SGK (Sẻ, ri, bói cá, le le); Tìm tiếng
chứa vần oi ( tiếng bói).
- Gợi mở bằng câu hỏi để học sinh luyện nói theo chủ đề.
- Nhận xét kết quả luyện nói của học sinh (chú ý biểu dương học sinh nói được các
ý mở rộng so với tranh minh hoạ trong SGK nhưng vẫn hướng vào chủ đề Sẻ, ri, bói
cá, le le.
Sử dụng tranh ảnh giúp học sinh mở rộng thêm hiểu biết về chủ đề cần luyện
nói, góp phần kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Khi sử dụng tranh ảnh hướng dẫn học sinh luyện nói trong giờ dạy học vần, cần
lưu ý:
+ Nắm vững nội dung, yêu cầu luyện nói trong giờ học vần.
+ Lựa chọn và sử dụng ảnh minh hoạ đúng mục đích, đúng yêu cầu, nêu bật nội

dung chủ đề luyện nói.
d. Sử dụng tranh ảnh trong phần kể chuyện (Tiết ôn tập)
* Ví dụ dạy kể chuyện ''Thỏ và Sư Tử''
- HS mở SGK, đọc tên nhân vật trong câu chuyện: Thỏ và Sư Tử
- GV gợi mở: Câu chuyện hôm nay nói về hai nhân vật Thỏ và Sư Tử. Nội dung câu
chuyện cho ta thấy Thỏ là con vật như thế nào, các em hãy chú ý lắng nghe.
- GV kể chuyện 2 lần có kết hợp minh hoạ tranh.
- GV gợi ý học sinh quan sát từng tranh, giúp câu chuyện thêm hấp dẫn; kích
thích được trí tưởng tượng của các em. Dựa theo tranh, các em hình dung ra
không gian, thời gian xảy ra câu chuyện, sắp xếp các ý của câu chuyện, tự nhớ lại
nội dung để kể.
4.2. Sử dụng các đồ dùng dạy học khác.
a. Sử dụng mẫu chữ trong dạy tập viết:
* Ví dụ dạy viết chữ: b
- Giáo viên đa mẫu chữ b
- Yêu cầu học sinh nhận xét độ cao của chữ b; phân tích chữ b gồm mấy nét? Là
những nét nào?
Sử dụng mẫu chữ trong tập viết, giúp cho các em ghi nhớ được cách viét chữ
bằng nhiều giác quan (mắt nhìn, tai nghe), giúp các em ghi nhớ lâu.
b. Sử dụng bộ đồ dùng dạy học Tiếng Việt.
* Ví dụ dạy bài 46: ôn - ơn
- Giáo viên ra lệnh yêu cầu học sinh:
+ Ghép vần ôn - ơn
+ Ghép tiếng khoá chồn, sơn
Cuối tiết 1, giáo viên cho học sinh tự tìm và ghép tiếng, (có nghĩa) mang vần đã
học nhưng không xuất hiện trong SGK. Việc làm này giúp các em luyện tập thực
hành để vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học một cách tích cực và sáng tạo.
+ vần ôn: thôn, ngôn,…
+ vần ơn: lợn, hơn, trơn,…
Sử dụng bộ thực hành Tiếng Việt không những giúp học sinh nắm được cấu tạo

của từ, viết được từ mà còn phát triển tư duy, các em được sử dụng tất cả các giác
quan như mắt nhìn, tay cầm do đó các em sẽ ghi nhớ lâu; không những thế việc sử
dụng bộ thực hành Tiếng Việt còn làm giảm bớt sự khô khan của việc tìm từ mà
còn làm lớp học thêm sinh động.
c. Sử dụng sách giáo khoa:
Ngoài việc cho học sinh quan sát tranh ảnh, mẫu chữ trên bảng, thì việc khai thác
các kênh hình, kênh chữ trong SGK là việc làm rất cần thiết. Sách giáo khoa là một
đồ dùng học tập không thể thiếu được trong mỗi tiết học.
Việc hướng dẫn các em biết cách sử dụng SGK, giúp các em phát huy được tính
tích cực chủ động trong học tập; phát triển năng lực tự học - tạo nền móng cho
việc học ở các lớp trên. Việc dùng SGK còn giúp các em tiếp cận trực tiếp với văn
bản, hiểu đúng văn bản.
Sách giáo khoa còn giúp giáo viên tiện lợi hơn trong việc thiết kế các hoạt động
dạy học theo hướng đổi mới phơng pháp dạy học.
* Ví dụ: Khi dạy đọc từ (câu) ứng dụng, giáo viên có thể cho học sinh đọc theo
nhóm đôi các từ, câu trong sách giáo khoa, để nhiều em được luyện đọc hơn. Hay
khi luyện nói, học sinh có thể dựa vào tranh ảnh trong sách giáo khoa để nói theo
định hướng của tranh trong sách giáo khoa.
* Biện pháp 2: Sử dụng hệ thống câu hỏi.
1. Tầm quan trọng của việc sử dụng câu hỏi:
Việc sử dụng câu hỏi trong dạy học giúp phát huy trí lực của học sinh; là cơ hội
để giáo viên hiểu học sinh của mình.
- Làm giờ học đỡ đơn điệu, tạo mối quan hệ tương tác giữa thầy và trò.
- Giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh nội dung phù hợp với các đối tượng học sinh;
đề ra những câu hỏi gợi ý tuỳ theo câu trả lời của học sinh mà không thoát ly khỏi
mục tiêu bài học.
- Trẻ em ham hiểu biết, hiếu động, việc đa câu hỏi sẽ giúp các em suy nghĩ và hứng
thú khi được trả lời ý kiến của mình.
2. Khi thiết kế câu hỏi, cần chú ý những điểm sau:
- Xuất phát từ mục đích yêu cầu của nội dung bài, giáo viên xây dựng hệ thống

câu hỏi chính và câu hỏi phụ kèm theo.
- Câu hỏi phải có nội dung rõ ràng, dễ hiểu, chính xác phù hợp với trình độ của học
sinh.
- Câu hỏi phải thể hiện phân hoá đối tượng học sinh, tạo điều kiện cho học sinh
yếu kém được trả lời, phát huy tính tích cực của tất cả học sinh trong lớp.
- Sắp xếp câu hỏi từ dễ đến khó.
3. Các loại câu hỏi thường sử dụng.
3.1. Câu hỏi yêu cầu tái hiện:
* Ví dụ dạy bài 58: inh - ênh
Sau khi học xong bài, giáo viên hỏi: Hôm nay các em học hai vần mới nào?
- HS trả lời: Hôm nay con học hai vần là vần inh và vần ênh.
3.2. Câu hỏi yêu cầu so sánh.
* Ví dụ dạy bài 26: y - tr
+ Khi dạy chủ đề luyện nói ''Nhà trẻ '', giáo viên đặt câu hỏi để học sinh so sánh
việc học ở nhà trẻ và học ở lớp 1 có gì giống và khác nhau.
+ Nhà trẻ khác lớp Một ở chỗ nào? (Đi nhà trẻ khác với đi học lớp Một là ở nhà trẻ
giờ chơi nhiều hơn, có nhiều đồ chơi hơn, các con vừa học lại vừa chơi )
* Ví dụ dạy bài : ong - ông
Sau khi học xong vần ông, giáo viên yêu cầu học sinh so sánh vần ong và vần ông.
3.3. Câu hỏi yêu cầu suy luận.
* Ví dụ dạy bài 37: Ôn tập, phần kể chuyện ''Cây kế''.
Sau khi học xong câu chuyện, giáo viên hỏi: ''Vì sao người em trở nên giàu có?''
- HS phải suy luận từ các sự việc để trả lời: Người em hiền lành, chăm chỉ nên trở
nên giàu có.
* Ví dụ dạy bài 27: Ôn tập
Sau khi hình thành xong bảng ôn vần, để học sinh phân biệt khi nào viết ngh, khi
nào viết ng. Giáo viên hỏi: Nhìn vào bảng ôn tập, ta thấy ngh đứng trước âm nào?
Còn ng đứng trước âm nào?
Học sinh phải quan sát bảng ôn để nêu đợc ngh đứng trước âm (i, e, ê), còn ng
đứng trước các âm còn lại.

Câu hỏi suy luận dùng để yêu cầu học sinh tìm hiểu nguyên nhân sự việc vận dụng
kiến thức vào bài học, khái quát hoá kiến thức.
3.4. Câu hỏi yêu cầu liên hệ.
* Ví dụ bài 13: n - m: khi học chủ đề luyện nói 'ba má, bố mẹ'' giáo viên hỏi:
+ Cha mẹ em làm nghề gì?
+ Hằng ngày cha mẹ làm gì để giúp đỡ, chăm sóc em trong học tập ?
+ Em đã làm gì để cha mẹ vui lòng ?
4. Khi nêu câu hỏi cho học sinh giáo viên cần chú ý:
- Thu hút sự chú ý của học sinh.
- Sau khi nêu câu hỏi, giành thời gian cho học sinh suy nghĩ.
- Chú ý phân bố hợp lý số học sinh được chỉ định trả lời.
- Chú ý khuyến khích những học sinh rụt rè, chậm chạp.
* Biện pháp 3: Tổ chức ''Trò chơi học tập''
Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. Hình thức này rất phù
hợp với lứa tuổi học sinh lớp Một, giúp các em tránh được những căng thẳng thần
kinh do phải đột ngột thay đổi cách học ở mẫu giáo (chơi là hoạt động chủ đạo).
''Học mà chơi, chơi mà học'' tạo cho các em hứng thú và niềm tin trong học tập,
duy trì được khả năng chú ý của các em trong tiết học.
1. Tác dụng của trò chơi học tập.
- Trò chơi học tập không chỉ nhằm giải trí mà còn góp phần củng cố tri thức, kĩ
năng học tập cho học sinh.
- Việc sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học nhằm làm cho việc tiếp thu
tri thức, rèn kĩ năng bớt đi khó khăn, có thêm sự sinh động, hấp dẫn, phát huy tính
tự giác, tích cực của học sinh, rèn cho học sinh tính mạnh dạn,tính thi đua, tính kỉ
luật do đó hiệu quả học tập cuả học sinh cao hơn.
2. Điều kiện đảm bảo cho sự thành công của việc sử dụng trò chơi
trong học tập.
- Nội dung trò chơi phải gắn với mục tiêu của bài học.
- Luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện.
- Điều kiện và phương tiện tổ chức trò chơi phong phú, hấp dẫn.

- Sử dụng trò chơi đúng lúc, đúng chỗ.
- Kích thích sự thi đua giành phần thắng cho các em bên tham gia.
3. Cách tổ chức trò chơi học tập.
- Giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và phổ biến luật chơi
(Có thể tiến hành nhiều cách khác nhau nhưng yêu cầu giáo viên nói ngắn gọn rõ
ràng, dễ hiểu, sao cho tất cả học sinh nắm được cách chơi).
- Cho học sinh chơi thử (nếu cần).
- Tiến hành chơi (giáo viên điều khiển trò chơi phải nắm vững tiến trình và theo
dõi chặt chẽ).
- Đánh giá kết quả chơi (động viên là chủ yếu). Nhận xét thái độ của người tham
dự và rút kinh nghiệm.
4. Các hình thức trò chơi thờng sử dụng trong giờ học vần.
4.1. Loại 1: Trò chơi tô chữ trên tranh
+ Mục đích: Nhận được dạng chữ ghi âm, ghi vần mới, đọc tiếng có âm (vần) mới.
+ Cách chơi: Một hoặc một nhóm hai em dùng bút chì màu tô vào chữ có âm hoặc
vần mới học; sau khi tô, học sinh phải nói rõ ô chữ ở hình vẽ nào (gọi tên con vật,
đồ vật, người trong hình vẽ) có chữ ghi âm (vần) mới. 5 học sinh tô đúng và xong
sớm sẽ chỉ định nói kết quả và nhận thưởng.
+ Chuẩn bị và tổ chức: Giáo viên sao chép hình ảnh một số con vật, đồ vật,
người có tên gọi là từ chứa âm (vần) mới. Nên sao cả một vài hình ảnh của người,
vật mà tên gọi không có âm, vần mới để học sinh lựa chọn. Ghi tên gọi dưới mỗi
hình, kẻ khung cho từng chữ ghi mỗi tên gọi. Chụp các hình này vào một trang giấy
rồi nhân bản cho mỗi học sinh hoặc một nhóm một bản để chơi.
Minh hoạ bài 12: i - a
Hình con ong, Hình cái lá, Hình ngã ba đường
Hình ngôi nhà ngói, ong, lá, con cá
* Nên dùng trò chơi này ở những bài đầu của phần học âm và chữ cái.
4.2. Loại 2: Trò chơi thi ghép vần, tiếng, từ.
+ Mục đích: Nhớ mặt chữ ghi vần mới, ghép vần mới với phụ âm đầu và thanh để
tạo tiếng mới; đọc trơn; nêu ý nghĩa của tiếng hoặc từ tìm được.

+ Cách chơi: Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi ghép vần, tiếng từ, theo nội dung
bài học, có chú ý dẫn dắt, mở rộng vốn từ và vốn hiểu biết của học sinh.
* Ví dụ bài 45: ăn - ân, sau khi học xong bài GV cho học sinh ghép tiếng ngoài bài
có chứa vần ăn, vần ân theo hai dãy (dãy 1 ghép tiéng chứa vần ăn, dãy 2 ghép
tiếng chứa vần ân) vào bảng gài. HS ghép xong, GV yêu cầu học sinh từng tổ gắn từ
lên bảng hỏi thêm để từng em nêu rõ tiếng tìm được có trong từ (hoặc cụm từ) nào
như: chăn (chăn gối), ăn (ăn dạ), cằn (cằn cõi), Tổ nào ghép đợc nhiều từ đúng và
hay sẽ là tổ chiến thắng.
* Nên tổ chức cho cả lớp cùng chơi, trò chơi này nên dùng cho các bài học âm, vần
mới ở cuối tiết 2.
4.3. Loại 3: Trò chơi hái hoa
+ Mục đích: Luyện nhẩm đánh vần nhanh để đọc trơn cả tiếng, cả từ. dùng từ đã
học để tạo từ ngữ hoặc câu ngắn.
+ Cách chơi: HS tự chọn cho mình một bông hoa giấy gắn trên cành rồi tự giơ
bông hoa ra đọc từ ghi ở mặt giấy phía trong. Đọc xong học sinh phải nói một cụm
từ hoặc một câu trong đó có các từ đã học.
+ Chuẩn bị và tổ chức: Cắt khoảng 10 đến 20 bông hoa giấy gắn vào một cành cây,
trên mỗi bông hoa ghi một từ có âm hoặc vần mới học. Sau khi học sinh hái một
bông hoa thì cần đổi vị trí gắn bông hoa đó.
* Biện pháp 4: Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học.
Các hình thức tổ chức luyện đọc, luyện viết, luyện nói trong tiết học vần:
- Luyện đọc: Đọc thành tiếng (Trên bảng lớp, trong sách giáo khoa, ở bìa ghép chữ
hay ''bảng quay âm - vần tiếng'' ), đọc nhẩm - đọc thầm (qua sử dụng vở bài tập
Tiếng Việt 1, trong SGK ), với các hình thức: đọc theo cá nhân - theo tổ - theo
nhóm - cả lớp.
- Luyện viết: Viết vào bảng con, viết trên bảng lớp, viết trong vở tập viết.
- Luyện nói: Nói câu, nói theo chủ đề với các hình thức: Nói trong nhóm, nói cá
nhân trước lớp .
Việc vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học, tạo môi trường thuận
lợi cho việc giao tiếp, cho việc rèn luyện 4 kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết,

nghe, nói); Tạo điều kiện cho mọi học sinh đều luyện đọc, luyện viết, luyện nói; Tạo
điều kiện cho các em cách làm việc tập thể theo nhóm, học cách phối hợp với bạn
bè trong học tập; Chống học vẹt; Ghi nhớ bằng nhiều giác quan cách đọc, cách viết
giúp học sinh không nhàm chán và ghi nhớ hơn bài học.
Ngoài các biện pháp trên, tôi còn sử dụng hình thức động viên, khen thưởng.
Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng rất thích được khen. Hình
thức khen thưởng tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở. Kích thích sự hứng thú,
ham học hơn ở các em. Giúp học sinh tự tin hơn trong học tập
Để động viên học sinh tích cực hơn trong học tập, tôi đã : Kiên trì, kiên nhẫn
trước những vướng mắc của học sinh, thể hiện sự gần gũi với học sinh. Luôn có
thái độ ghi nhận những tiến bộ của học sinh.
Đối với các em kém, tôi luôn lắng nghe và động viên các em trình bày, không
nôn nóng. Khi các em có tiến bộ về một mặt nào đó, tôi khen ngay. Có thể thưởng
bằng hình thức: Tặng cho bạn một tràng pháo tay để khích lệ các em.
d) Hiệu quả Sáng kiến kinh nghiệm, những đề tài nghiên cứu khoa học và ứng
dụng khoa học kĩ thuật xuất sắc, đem lại hiệu quả kinh tế và ý nghĩa chính trị, xã
hội nhất định đối với đơn vị, địa phương;
Qua một thời gian thử nghiệm, tôi nhận thấy tính tích cực chủ động của học
sinh lớp tôi thực sự có tiến bộ rõ rệt. Các em hăng hái học tập, lớp học lúc nào cũng
sôi nổi, những em còn rụt rè, học chậm trước đây đã tự tin hơn trong giờ học. Từ
đó tôi nhận thấy rằng các biện pháp tôi thực hiện thực sự có hiệu quả, được phụ
huynh đồng tình và ủng hộ. Chính vì thế, tôi đã đưa những biện pháp phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh ra tổ chuyên môn học hỏi, rút kinh nghiệm và phổ
biến cho mọi giáo viên trong tổ. Biện pháp này đã được nhiều ý kiến giáo viên đồng
tình ủng hộ và vận dụng vào thực tế giảng dạy cho học sinh lớp mình.
Với việc áp dụng thường xuyên các biện pháp trên, việc học môn Tiếng Việt
của học sinh lớp 1A5 đã đạt được một số tiến bộ, tiết học đạt hiệu quả hơn thể hiện
như sau:
TS
HS

HS chưa chú
ý
vào bài
HS phát
âm
sai
HS không
tìm được từ
mới
Đọc, viết
kém
HS tích cực,
chủ động học
tập
TS % TS % TS % TS % TS %
32 5 15,6 3 9,4 3 9,4 5 15,6 16 50
Như các đồng chí đã thấy chính nhờ việc vận dụng sáng kiến “Một số biện
pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ Học vần lớp
Một" mà học sinh lớp tôi giờ đây học tập ngày càng hăng hái và sinh động hơn
không còn rụt rè so với trước đây nữa.

• Khả năng vận dụng vào thực tiễn:
Bắt đầu vào năm học 2013 - 2014, khi tổ chuyên môn của trường tiểu học Thị
Trấn Long Phú A triển khai kế hoạch năm học, trong đó có mục “Mỗi tổ khối thực
hiện một chuyên đề/ 1 học kỳ”. Thế là tôi mạnh dạn chọn sáng kiến mà tôi đã và
đang thực hiện làm chuyên đề, tôi bắt đầu triển khai chuyên đề này đến tất cả giáo
viên trong khối nói riêng cũng như toàn thể giáo viên trong trường nói chung cùng
thực hiện. Tôi hy vọng rằng đây cũng là một phần không thể thiếu, góp phần giúp
tôi cùng đồng nghiệp hoàn thành trong quá trình dạy học và “Một số biện pháp
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ Học vần lớp Một"

• Bài học kinh nghiệm
Sau khi nghiên cứu, thử nghiệm thành công tôi rút ra được một số bài học kinh
nghiệm sau:
- Tính tích cực của con người được biểu hiện trong hoạt động, đặt biệt trong hoạt
động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Tính tích
cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái, chủ động, tự giác tham gia các
hoạt động học tập, thích tìm tòi khám phá những điều chưa biết dựa trên những cái đã
biết, sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống…
- Khi giảng dạy cần cuốn hút học sinh vào hoạt động học tập do giáo viên tổ chức
và chỉ đạo, thông qua đó học sinh chủ động khám phá, tìm tòi kiến thức không thụ
động trông chờ vào việc truyền thụ của giáo viên. Học sinh được hoạt động, được
trực tiếp quan sát, thảo luận, vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống theo khả năng
nhận thức, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
- Để nâng cao chất lượng dạy học vần cho học sinh lớp 1 thì giáo viên phải có sự
nhạy bén, tìm hiểu kĩ mục tiêu mà bài học hướng tới, từ đó có phương pháp dạy phù
hợp kết hợp với việc sử dụng đồ dùng dạy học hiệu quả. Kiến thức đưa ra cho các em
nâng dần từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp, có hệ thống câu
hỏi phù hợp để học sinh nắm được nội dung bài học.
- Tổ chức tốt các hoạt động dạy học tạo không khí sôi nổi, để học sinh có hứng thú
học tập từ đó các em sẽ tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức một cách tự nhiên
không gò ép.
- Phải thật sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo không khí vui để học giúp các
em học yếu yêu thích môn học. Tích cực sưu tầm tài liệu và học hỏi để đúc kết kinh
nghiệm từ đồng nghiệp về phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh.
• Kết luận:
Một số kinh nghiệm bản thân nêu ra ở đây với hy vọng rằng: Đây sẽ là một tài
liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình
huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách
nhiệm của người cô, người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người

giáo viên và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình. Trên đây là những biện pháp mà
bản thân tôi đã vận dụng trong quá trình công tác và nó đã góp phần đem lại cho
tôi một số kết quả khả quan.
Nhưng vì khả năng có hạn nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong được sự hỗ trợ góp ý chân thành của Ban giám khảo, bạn bè đồng
nghiệp nhằm giúp tôi hoàn thiện hơn trong công tác.

• Ý kiến đề xuất:
- Đối với giáo viên:
+ Phải thường xuyên tự học và học hỏi nâng cao trình độ về chuyên môn cũng như
tay nghề.
+ Thường xuyên nghiên cứu để tìm ra những cách làm hay, đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực.
+ Trước khi lên lớp phải chuẩn bị bài thật kỹ càng, có sự đầu tư cho bài dạy.
+ Liên hệ với cha mẹ học sinh để có biện pháp hỗ trợ cho các em ở nhà.
- Đối với tổ chuyên môn: Thường xuyên tổ chức các chuyên đề “Những sáng kiến
hay phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh”.
- Đối với nhà trường: Cần phát động phong trào thi đua viết sáng kiến kinh nghiệm
và phải thực hiện việc: “Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.” hàng năm.
- Đối với học sinh:
+ Phải thực hiện kĩ năng mà giáo viên giao về nhà.
+ Có ý thức rèn kĩ năng đọc, viết.
+ Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập trước khi đến lớp.
Trên đây là một số kiến nghị của tôi, rất mong các cấp lãnh đạo quan tâm
giúp đỡ tạo điều kiện học sinh yếu học tốt hơn.
Long Phú, ngày 10 tháng 11 năm 2013
Người viết thành tích

Lâm Thị Bích
Ý kiến của hội đồng khoa học














×