Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận môn quản lý đô thị và khu dân cư nông thôn quản lý và phát triển đô thị có sự tham gia của cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA MÔI TRƯỜNG & TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
BỘ MÔN TÀI NGUYÊN ĐẤT ĐAI
-oOo-
O
TIỂU LUẬN
QUẢN LÝ ĐÔ THỊ VÀ KHU DÂN CƯ NÔNG THÔN
ĐỀ TÀI: QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ CÓ SỰ THAM GIA
CỦA CỘNG ĐỒNG
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN HỌC VIÊN THỰC HIỆN:
TS. LÊ NGỌC THẠCH NHÓM 3

1
Cần Thơ -
2012
DANH SÁCH NHÓM
1 .Hà Vũ Đức M000540
2. Nguyễn Như Ngọc M000554
3. Lê Thị Nương M000559
4. Mã Phụng M000561
5. Nguyễn Nhựt Sáng M000564 Nhóm trưởng
6. Lê Thị Thanh Tâm M000566
7. Đặng Thị Thoa M000570
8. Nguyễn Thị Cẩm Tú M000574
9. Lê Văn Vũ M000576
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
I. CÁC KHÁI NIỆM CHUNG 2
1.1 Khái niệm đô thị 2
1.2 Khái niệm cộng đồng 2


1.3 Khái niệm về sự tham gia của cộng đồng 2
1.4 Khái niệm về quản lý đô thị 3
1.5 Các lĩnh vực của quản lý đô thị 4
II. VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ 5
2.1 Công tác quản lý đô thị Việt Nam 5
2.2 Vai trò cộng đồng dân cư đô thị trong quá trình phát triển đô thị 5
2.3 Những trở ngại trong quá trình tham gia của cộng đồng 9
2.4 Những khó khăn trong công tác quản lý đô thị hiện nay 11
III. KẾT LUẬN 12
1
MỞ ĐẦU
Đô thị hóa với tốc độ ngày càng cao là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và ồ ạt đã
mang đến nhiều khó khăn và thách thức cho các quốc gia. Tuy đô thị Việt Nam
còn nhỏ bé so với đô thị các nước trên thế giới nhưng có rất nhiều vấn đề phức tạp
như các nước phát triển khác. Yêu cầu trước mắt đặt ra cho phát triển đô thị Việt
Nam là phải có chiến lược quản lý đô thị tốt. Nước ta đang trong thời kỳ hiện đại
hoá và công nghiệp hoá nhanh chóng. Các đô thị trong cả nước đang phát triển với
tốc độ cao và cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực quy hoạch và quản lý đô thị. Trong
sự đổi mới này, sự tham gia của cộng đồng trong quản lý đô thị là vấn đề khá mới
mẻ nhưng rất cần được triển khai nghiên cứu và vận dụng trong điều kiện cụ thể
của nước ta, do vậy đề tài “Quản lý và phát triển đô thị có sự tham của cộng
đồng” được thực hiện với mục tiêu:
− Tìm hiểu vai trò của cộng đồng khi tham gia công tác quản lý và phát triển
đô thị; và
− Nhận định những khó khăn của cộng đồng trong công tác quản lý và phát
triển đô thị.
1
I. CÁC KHÁI NIỆM CHUNG

1.1 Khái niệm đô thị
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông
nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên
ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của một miền
lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong
huyện(Nguyễn Đình Hương và Nguyễn Hữu Đoàn, 2003).
Theo Nguyễn Ngọc Châu (2001), đô thị là nơi dân cư tập trung đông đúc, chủ yếu
bằng lao động phi nông nghiệp, họ sống và làm việc theo phong cách và lối sống
thành thị. Lối sống này mang những đặc trưng như: nhu cầu về tinh thần cao, có khả
năng tiếp thu nhanh chóng nền văn minh của nhân loại, có hệ thống cơ sở kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đầy đủ và rất thuận tiện.
1.2 Khái niệm cộng đồng
Cộng đồng là một thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức (chặt chẽ hoặc không chặt
chẽ), là một nhóm người cùng chia sẻ và chịu sự ràng buộc bởi các đặc điểm và lợi
ích chung được thiết lập thông qua tương tác và trao đổi giữa các thành
viên(Trương Văn Tuyển, 2007).
Theo Tô Duy Hợp và ctv (2000), Cộng đồng là một khái niệm cơ bản của các khoa
học xã hội và nhân văn, với nhiều tuyến nghĩa khác nhau. Có hai cách hiểu về cộng
đồng: một là cộng đồng tính và hai là cộng đồng thể. Cộng đồng tính là thuộc tính
hay là quan hệ xã hội có những đặc trưng như tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng
đồng, ý thức cộng đồng… Cộng đồng thể tức là những nhóm người, nhóm xã hội có
tính cộng đồng với rất nhiều thể có quy mô khác nhau, đó là các thể nhỏ, thể vừa,
thể lớn và thể cực lớn, kể từ gia đình đến quốc gia và nhân loại.
1.3 Khái niệm về sự tham gia của cộng đồng
Trong xã hội hiện đại, tầm ảnh hưởng của nhà nước trong xã hội đã được mở rộng
một cách to lớn. Nhà nước ngày nay là người cung cấp chính yếu các dịch vụ phát
triển xã hội. Với tư cách là cơ quan hoạch định chính sách, Nhà nước xác định một
cách rộng rãi chương trình phát triển xã hội sẽ được điều khiển như thế nào. Nhà
nước cũng có quyền lực hình thành và xác định bản chất của các hoạt động tham gia
cộng đồng. Nhà nước là người hợp tác, một lực lượng quan trọng trong phát triển

cộng đồng. Vai trò của Nhà nước trong tham gia cộng đồng gồm: là cơ quan có
thẩm quyền cho phép các hoạt động phát triển tại cộng đồng và là một trong các
lực lượng có tiềm lực tham gia vào quá trình này (Tô Duy Hợp và ctv, 2000).
Tuy nhiên theo Trương Văn Tuyển (2007), Sự tham gia có nghĩa là cùng thực hiện
2
một hoạt động nào đó. Hàng ngày con người tham gia vào sự phát triển ở địa
phương thông qua hoạt động sống của cá nhân và gia đình, các hoạt động sinh kế và
trách nhiệm đối với cộng đồng. Theo nghĩa chung nhất, sự tham gia là sự gắn kết
một cách lâu dài, chủ động và có vai trò ngày càng cao vào quá trình phát triển, từ
việc xác định vấn đề đến việc lập kế hoạch, thực hiện, giám sát, đánh giá các hoạt
động nhằm nâng cao đời sống cộng đồng và bảo đảm sự phân chia công bằng lợi
ích của sự phát triển. Gia tăng sự tham gia của cộng đồng là để đảm bảo cho hoạt
động phát triển thực tế hơn và không bị thụ động do áp đặt từ bên ngoài.
Như vậy, sự tham gia là một quá trình cho phép người dân tự tổ chức để xác định
nhu cầu và cùng nhau thiết kế, tổ chức thực hiện, đánh giá hoạt động và cùng nhau
hưởng lợi từ các hoạt động đó. Các hoạt động được triển khai từ các nguồn lực mà
người dân tiếp cận được thông qua sự hỗ trợ của Chính phủ hoặc các cơ quan khác
nhau. Không có năng lực và sức mạnh thực sự, người dân không thể ra các quyết
định có ý nghĩa thiết thực với đời sống của họ. Ý nghĩa thực tiễn của sự tham gia
không chỉ ẩn chứa ở mức độ ra quyết định của người dân mà còn ở việc thực hiện
các quyết định đó. Vì vậy, trao quyền hay tạo quyền lực là yếu tố quan trọng đối với
sự tham gia (Trương Văn Tuyển, 2007).
1.4 Khái niệm về quản lý đô thị
Theo Nguyễn Đình Hương và Nguyễn Hữu Đoàn (2003), quản lý đô thị là quá
trình tác động bằng các cơ chế, chính sách của chủ thể quản lý đô thị (các cấp chính
quyền, các tổ chức xã hội, các sở, ban ngành chức năng) vào các hoạt động đô thị
nhằm thay đổi hoặc duy trì hoạt động đó.
Theo Nguyễn Ngọc Châu (2001), Quản lý đô thị là một hệ thống bao gồm nhiều tổ
chức công, các tổ chức này không tồn tại, hoạt động riêng lẻ mà có mối quan hệ
tương tác với nhau, tập trung vào một khu đô thị nhất định do kết quả của việc thực

hiện các chức năng quan trọng.
Một quan điểm khác thì quản lý đô thị là một khoa học tổng hợp được xây dựng
trên cơ sở của nhiều khoa học chuyên ngành, bao gồm hệ thống các chính sách, cơ
chế, biện pháp và phương tiện được chính quyền Nhà nước các cấp sử dụng để tạo
điều kiện và kiểm soát quá trình tăng trưởng, phát triển đô thị, nhằm thực hiện một
cách có hiệu quả các mục tiêu dự kiến (Nguyễn Thế Bá, 2004).
Nói tóm lại mục tiêu chung của quản lý đô thị là nâng cao hiệu quả và tính hợp lý
trong quá trình sử dụng các nguồn lực của đô thị (con người, kỹ thuật, vật liệu,
thông tin, dịch vụ cơ sở hạ tầng và hệ thống kinh tế của sản xuất). Cụ thể là:
− Nâng cao chất lượng và sự hoạt động một cách tổng thể của đô thị;
− Đảm bảo sự phát triển và tái tạo bền vững của các khu vực đô thị;
− Cung cấp các dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng cơ bản để đáp ứng các nhu cầu
chức năng của đô thị và các cư dân sống và làm việc trong đô thị đó, nhằm cải thiện
chất lượng sống khỏe của cư dân đô thị.
Như vậy quản lý đô thị là quản lý về điều kiện sống và phát triển của dân cư đô thị.
3
Điều này liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ cộng đồng dân cư đô thị.
Nghĩa vụ là phải thực hiện theo đúng cơ chế và chính sách của chủ thể quản lý đô
thị. Quyền lợi của họ là được hưởng cuộc sống chất lượng tốt đẹp hơn.
1.5 Các lĩnh vực của quản lý đô thị
Theo Nguyễn Đình Hương và Nguyễn Hữu Đoàn (2003), trong công tác quản lý đô
thị có rất nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng người ta thường nghiên cứu quản lý
theo các lĩnh vực hoạt động đô thị:
− Quản lý đất đai đô thị: quản lý thông tin đất đai; sở hữu đất đai; đăng ký đất đai;
chính sách phát triển đất đai; quy hoạch không gian đô thị; luật sử dụng đất đai; các
hoạt động mang tính tổ chức và pháp lý của phát triển đất đai; phân tích thị trường
nhà đất.
−Quản lý kinh tế đô thị: hoạt động kinh tế là cơ sở đời sống của đô thị, là nguồn
gốc của mọi vấn đề đô thị. Kinh tế phát triển, xã hội văn minh, khả năng cạnh tranh
cao của đô thị là mục tiêu chung của các đô thị. Quản lý kinh tế đô thị là công tác

xây dựng kế hoạch và các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế khai thác tiềm
năng về lao động, lợi thế về kinh tế-chính trị của các đô thị
−Quản lý dân số, lao động và việc làm: đô thị muốn có nguồn lao động dồi dào,
chất lượng cao nhưng không muốn quá tải về dân số, chính vì thế người ta cố gắng
tìm kiếm một quy mô dân số tối ưu cho mỗi đô thị. Lao động, việc làm ở đô thị liên
quan chặt chẽ đến phát triển kinh tế đô thị và các vấn đề xã hội.
−Quản lý hệ thống cơ sở hạ tầng: xác định những thiếu hụt của hệ thống cơ sở hạ
tầng; quy hoạch cơ sở hạ tầng; chiến lược vận hành và bảo dưỡng; kỹ thuật, công
nghệ, chọn công nghệ; tiêu chuẩn thiết kế và lưu trữ các hồ sơ.
−Quản lý giao thông và thông tin đô thị: hệ thống giao thông và thông tin là huyết
quản và mạch máu của các đô thị. Không có hệ thống giao thông và thông tin hiệu
quả các đô thị sẽ mất dần tính cạnh tranh và sự thu hút đầu tư. Các yếu tố trong
quản lý vấn đề này bao gồm: hệ thống giao thông; dịch vụ giao thông; cơ sở hạ tầng
của hệ thống thông tin liên lạc; quản lý môi trường đô thị.
−Quản lý môi trường xây dựng: thiết kế đô thị; quản lý các công trình di sản văn
hóa; chất lượng và số lượng nhà ở; vật liệu xây dựng.
−Quản lý tài chính Nhà nước: Nhà Nước có hàng loạt cách thu khác nhau cho ngân
sách thông qua thuế và lệ phí, khoản cho vay và chuyển dịch tiền tệ trong các tổ
chức Nhà Nước. Những khoảng ngân sách này được dùng vào việc hỗ trợ cho các
chi phí lặp lại của việc vận hành và bảo dưỡng các công trình dịch vụ đô thị, phát
triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cần thiết khác. Vấn đề cần xem xét cẩn thận trong
quản lý tài chính: thu thuế; cung cấp tài chính cho cơ sở hạ tầng; tài chính giữa các
tổ chức Nhà Nước; quản lý nguồn lực đô thị.
4
II. VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ
THỊ
2.1 Công tác quản lý đô thị Việt Nam
Quản lý đô thị trước hết là sự thực thi quyền lực công, nhân danh Nhà nước trên địa
bàn đô thị. Giai đoạn hiện đại, ngoài cơ quan Nhà nước, quản lý đô thị đã có sự
tham gia của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và cộng

đồng. Tuy nhiên, quản lý đô thị vẫn thể hiện bản chất và vai trò chủ đạo của Nhà
nước đối với khu vực lãnh thổ đặc biệt quan trọng là đô thị (Nguyễn Ngọc Châu,
2001).
Để công tác quản lý đô thị ngày được nâng cao hiệu quả, xây dựng một đô thị văn
minh hiện đại cũng như mang đậm tính nhân văn, bên cạnh tính chuyên nghiệp, đòi
hỏi người làm công tác quản lý cần phải có cái tâm. Về lâu dài, cần đẩy mạnh công
tác nghiên cứu xây dựng khoa học tâm lý quản lý, nghiên cứu tâm lý thị dân, nghiên
cứu tâm lý cán bộ quản lý, thu hút quần chúng tham gia quản lý đô thị và xây dựng
cơ chế, lắng nghe trong dư luận quần chúng để biết tâm tư nguyện vọng của họ. Bên
cạnh đó, cần đào tạo tâm lý quản lý cho cán bộ quản lý đô thị các cấp, nhất là cán
bộ trẻ, kế cận, từ đó tạo nên văn hóa quản lý đô thị theo chiều sâu (Nguyễn Ngọc
Châu, 2001).
Theo trung tâm nghiên cứu đô thị và phát triển (2012), bên cạnh những thành
tựu đạt được, thực tế phát triển đô thị ở Việt Nam vẫn còn một số vấn đề tồn tại làm
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển các đô thị nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung.
Nguyên nhân chủ yếu là do bộ máy quản lý đô thị còn nhiều hạn chế, hoạt động
kém hiệu quả. Hiện, số cán bộ quản lý đô thị không có chuyên môn khá lớn. Hầu
hết được thuyên chuyển hoặc tuyển dụng từ cán bộ chuyên môn kỹ thuật và không
được trang bị kỹ năng quản lý nói chung và kỹ năng trong quản lý đô thị nói riêng,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý đô thị cấp phường, thị trấn, thị xã.
2.2 Vai trò cộng đồng dân cư đô thị trong quá trình phát triển đô thị
Theo Trần Hùng (2010), nước ta đang trong thời kỳ hiện đại hoá và công nghiệp
hoá nhanh chóng. Các đô thị trong cả nước đang phát triển với tốc độ cao và cùng
với việc chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường có sự đổi mới
mạnh mẽ trong lĩnh vực quy hoạch và quản lý đô thị. Trong sự đổi mới này, sự
tham gia của cộng đồng trong quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị là vấn đề khá
mới mẻ nhưng rất cần được triển khai nghiên cứu và vận dụng trong điều kiện cụ
thể của nước ta. Sự tham gia của cộng đồng vào quá trình phát triển đô thị có thể
diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Vai trò của cộng đồng được thể
hiện xuyên suốt trong toàn bộ quá trình quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, bao

5
gồm 4 giai đoạn chính sau:
− Định hướng vĩ mô về các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phát triển
không gian đô thị;
− Khảo sát, lập quy hoạch, thiết kế, đầu tư và xây dựng;
− Chuyển giao sử dụng và duy trì bảo dưỡng;
− Quá trình quản lý và tiếp tục phát triển đô thị.
Như vậy cộng đồng có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển đô thị, ở mỗi
lĩnh vực hoạt động đô thị đều cần vai trò của cộng đồng như :
− Lĩnh vực đất đô thị: Toàn bộ quá trình quy hoạch và quản lý phát triển đô thị cần
được coi là một diễn đàn mở để người dân thảo luận các vấn đề sử dụng và quản
lý nguồn tài nguyên đất trong cộng đồng một cách hiệu quả và bền vững. Người
dân phải được biết, được tham gia, thảo luận và thực hiện các hoạt động của quy
hoạch và giao đất, họ cần được tuyên truyền giải thích về những lợi ích chính
đáng theo quy định của pháp luật mà quá trình phát triển đô thị và quy hoạch sử
dụng đất mang lại. Đặc biệt là căn cứ pháp lý để giao đất, thu hồi đất, cho thuê
đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thay đổi cơ cấu. (Tạ Thị Thu Hương, 2012)
− Dân số và lao động: Không thể phủ nhận quá trình đô thị hóa đã tập trung dân số
cao, điều đó đã góp phần cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng (cán bộ được
đào tạo về khoa học kỹ thuật, quản lý…) cho các ngành kinh tế - xã hội; góp phần
thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ, cung cấp các dịch vụ thuận tiện cho
dân cư đô thị; góp phần hình thành thị trường lao động phù hợp đối với
một số ngành nghề đặc thù (vệ sinh, xây dựng ); góp phần thúc đẩy sự trao
đổi về kinh tế, văn hoá, kỹ thuật giữa vùng đô thị (nơi đến) và nông thôn (nơi đi);
góp phần thúc đẩy việc hình thành các khu đô thị mới. (Nguyễn Thị Kim Nhã,
2007)
− Lĩnh vực môi trường đô thị: Hiện nay, công tác bảo vệ môi trường đang đứng
trước thách thức to lớn, khi mà nhu cầu về một môi trường sống trong lành và an
toàn luôn mâu thuẫn với nhu cầu hưởng thụ một đời sống vật chất sung túc. Nói
cách khác, công tác bảo vệ môi trường đang phải đối mặt với các mẫu thuẫn trong

suy nghĩ, thái độ, hành vi về môi trường giữa các nhóm người khác nhau trong xã
hội, giữa người này với người khác và ngay cả trong bản thân một con người. Để
quản lý môi trường có hiệu quả, trước hết cần dựa vào các cộng đồng. Các mục
tiêu kinh tế, xã hội và môi trường phải là thể thống nhất, hài hoà và có sự tham
gia của tất cả các cá nhân cũng như các tổ chức trong việc chăm sóc môi trường ở
cơ sở để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Bảo vệ môi trường ở cơ sở xã, phường,
thị trấn là một vấn đề còn mới mẻ, nhưng rất bức bách và gắn liền với lợi ích của
cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ môi trường là một trong những
giải pháp quan trọng của công tác quản lý, bảo vệ môi trường ở địa phương, vì
qua các cấp quản lý hành chính (từ Trung ương đến cơ sở) thì càng xuống cấp
thấp hơn vai trò của người dân càng trở nên quan trọng. Sự tham gia của cộng
đồng vào bảo vệ môi trường không chỉ tạo thêm nguồn lực tại chỗ cho sự nghiệp
6
bảo vệ môi trường, mà còn là lực lượng giám sát môi trường nhanh và hiệu quả,
giúp cho các cơ quan quản lý môi trường giải quyết kịp thời sự ô nhiễm môi
trường ngay từ khi mới xuất hiện. Tóm lại vai trò của cộng đồng trong quá trình
giám sát và cưỡng chế tuân thủ Luật bảo vệ môi trường gồm: ngăn ngừa các hành
vi vi phạm, phát hiện sự cố môi trường và các vi phạm, đấu tranh với các hành vi
vi phạm (Sở Tài nguyên và môi trường Bến Tre, 2009).
− Lĩnh vực xã hội: Mỗi người đều có những khả năng, năng lực sống. Chúng được
hình thành, củng cố, phát triển do tác động của nhiều yếu tố: những tiềm năng
vốn có như tài sản, trình độ, các quan hệ xã hội; các đặc trưng cá nhân như sức
khoẻ, giới tính; những cơ hội về mặt xã hội. Các khả năng, năng lực hạn chế hoặc
bị phá vỡ gây khó khăn cho việc cải thiện cuộc sống và tái đầu tư để củng cố, phát
triển năng lực cá nhân, gia đình, cộng đồng. Chất lượng nguồn nhân lực thấp lại
cản trở sự phát triển bền vững của xã hội. Vậy, để phát triển xã hội bền vững,
trước hết cần phát triển con người một cách bền vững, hay làm tăng năng lực và
phạm vi lựa chọn của con người để họ có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc
(Phạm Thị Oanh, 2011). Để phát triển con người một cách bền vững theo
Nguyễn Hữu Nhân (2004), cần tiến hành theo nguyên tắc:

+ Phát triển cộng đồng phải đồng bộ dựa trên mọi khía cạnh của đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội… chúng phải cùng được nâng lên, vì nếu chỉ chú ý vào một
khía cạnh thì không thể nào phá vỡ được đói nghèo, dốt nát và bệnh tật.
+ Phát triển cộng đồng phải chú ý về tạo sự chuyển biến, đó là sự thay đổi nhận
thức, hành vi của người dân nhằm mục đích phát triển; tạo được sự chuyển biến
trong cơ cấu tổ chức và các mối tương quan lực lượng trong chính cộng đồng
+ Việc tạo công bằng là rất quan trọng và phải thể hiện bằng những hành động cụ
thể như sự tái phân phối tài nguyên bao gồm tiền của, đất đai, tiện nghi, quyền
lực…ở các cấp. Nếu không sẽ tạo thêm sự tách biệt giàu nghèo.
+ Dân chủ là một nguyên tắc mà mọi chương trình phát triển cộng đồng cần đề
cao và hướng tới để đảm bảo rằng lợi ích chung sẽ được tôn trọng, tuy nhiên
việc áp dụng sự dân chủ phải có quá trình vì không phải người dân đã quen
ngay, đồng thời dân chủ phải được đặt trong tính kỷ luật cao
+ Cần có sự thức tỉnh cộng đồng bởi vì thường những người dân trong cộng đồng
không am hiểu ngay chính họ và cuộc sống của họ nên việc thức tỉnh cộng đồng
giúp người dân trong cộng đồng hiểu về chính mình thông qua các hoạt động
trao đổi, thảo luận, điều tra những vấn đề khó khăn và các nhu cầu của họ, từ đó
xác định những nhu cầu ưu tiên, xây dựng các dự án để giải quyết…là việc làm
cần thiết.
+ Tăng cường năng lực cho cộng đồng: cần tăng cường năng lực cho họ về việc
nhận biết các nguồn lực vốn có, những khả năng tiềm tàng của họ, nâng cao
năng lực trong khai thác và sử dụng nguồn lực này và hỗ trợ thêm nguồn lực
bên ngoài
7
− Lĩnh vực văn hóa: Vai trò của cộng đồng trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa. Hiện nay, một số di sản văn hóa đang đứng trước thực trạng bị xuống
cấp, cần phải tu bổ, sửa chữa. Việc trùng tu di tích chưa đúng quy trình ở một số
nơi trên cả nước gặp nhiều khó khăn trong việc khôi phục nét đẹp nguyên bản, cổ
kính và ý nghĩa lịch sử của di sản. Điều này cho thấy, bên cạnh trách nhiệm quản
lý của Nhà nước đối với các di sản văn hóa thì cộng đồng dân cư cũng đóng vai

trò rất quan trọng trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của các di sản.
Nếu Nhà nước quản lý di sản tốt, mà nhân dân không phát huy hết vai trò của
mình thì việc bảo vệ giá trị di sản sẽ đạt hiệu quả không cao. Như vậy vai trò của
cộng đồng chỉ có thể phát huy tối ưu nếu cộng đồng tạo dựng và duy trì được sự
đồng thuận cao nhất (Phạm Thị Oanh, 2011).
− Lĩnh vực kinh tế: Theo Lương Tiến Dũng (2008), đất nước ta đang trên đà phát
triển với tốc độ cao của sự chuyển đổi kinh tế. Sự gia tăng mạnh mẽ của đô thị
hoá và sự phát triển lan tràn của đô thị đã và đang là mối quan tâm lớn của các cơ
quan chức năng khi đồ án quy hoạch xây dựng chưa đáp ứng phù hợp, kịp thời.
Góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế thì hơn ai hết cộng đồng có vị trí rất
quan trọng:
+ Người dân có quyền tham gia vào việc ra quyết định vì kết quả của các quyết
định trong cộng đồng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
+ Sự tham gia của cộng đồng làm tăng sức mạnh người dân bởi vì khi làm việc
cùng nhau sẽ tăng tính tự tin và khả năng để giải quyết các vấn đề khó khăn
trong cộng đồng.
+ Sự tham gia của cộng đồng đảm bảo thu được những kết quả của dự án tốt hơn
vì chính người dân biết rõ nhất là họ cần gì, những khả năng của họ và có thể
dùng các nguồn lực riêng cho các hoạt động của cộng đồng.
+ Sự tham gia của cộng đồng trong công tác quy hoạch là chức năng cao nhất, thể
hiện cam kết của người dân và tăng tính hiệu quả của dự án như:
+ Sự tham gia của nhiều người được hưởng lợi giúp đảm bảo cho dự án sẽ đạt
được các mục tiêu của nó.
+ Tăng tính hiệu quả của dự án thông qua việc trao đổi ý kiến với những người
được hưởng lợi trong suốt quá trình lập kế hoạch cũng như sự tham gia của họ
trong công tác quản lý, thực hiện và điều hành dự án.
+ Ðảm bảo cho những người tham gia chủ động dành hết tâm trí vào việc quy
hoạch và thực hiện dự án.
+ Cộng đồng là nơi cung cấp thông tin
+ Đóng góp và quá trình quản lý và phát triển đô thị bằng nguồn lực: nhân lực,

vật lực, tài chính, công tác tổ chức…
+ Tham gia và kiểm tra đánh giá các chiến lược phát triển đô thị bởi nó có tác
động trực tiếp đến cuộc sống của cộng đồng.
8
+ Sự tham gia của cộng đồng là đầu vào cần thiết nhằm tạo cơ hội thành công cho
những sáng kiến và phát triển. Sự tham gia và tiến trình tham gia là một mục
tiêu và là một phương tiện để đạt được mục tiêu phát triển.
+ Sự tham gia của cộng đồng là yếu tố chính của sự phát triển về mặt kinh tế -
chính trị - văn hóa - xã hội - môi trường, là phương tiện hữu hiệu để huy động
tài nguyên địa phương, giúp cho dự án hay hoạt động được thừa nhận, khuyến
khích người dân đóng góp nguồn lực thực hiện và đảm bảo khả năng bền vững.
− Cộng đồng sẽ tham gia vào việc lựa chọn những người lãnh đạo đại diện cho họ.
Những người lãnh đạo của cộng đồng có thể thu hút quá trình tham gia của cộng
đồng bằng cách nói lên những gì mà người dân mong muốn, tổ chức các hoạt
động, huy động mọi người cho các dự án cụ thể… Đối với vấn đề này cần phải
đảm bảo chắc chắn rằng lợi ích của những người lãnh đạo cộng đồng cũng thống
nhất với lợi ích của cộng đồng, bởi vì nếu không như vậy thì những người lãnh
đạo có thể áp đặt lợi ích vị kỷ của họ và sẽ không có hiệu quả. Để đảm bảo sự
tham gia của cộng đồng có hiệu quả, người lãnh đạo cộng đồng phải được đào tạo
về các kỹ năng: tổ chức, nghe và giao tiếp, giải quyết mâu thuẫn, quản lý tài chính
và huy động các nguồn lực (Trần Hùng, 2010).
− Bên cạnh sự tham gia của cộng đồng dân cư có thể mang lại, nhà nước cũng cần
phải xây dựng khung chính sách yêu cầu các nhà phát triển đô thị, các chủ đầu tư
phải quan tâm xây dựng những chương trình hành động nhằm nâng cao trình độ
và nhận thức của cộng đồng dân cư trong khu vực phát triển đô thị về sự cần thiết
và tầm quan trọng của dự án, giúp người dân hiểu được lợi ích từ các hoạt động
phát triển đô thị. Từ đó, người dân cũng có thể góp phần nâng cao việc giám sát
các hoạt động và hiệu quả của các chính sách, chương trình, dự án phát triển đô
thị của từng địa phương và khu vực (Tạ Thị Thu Hương, 2012).
2.3 Những trở ngại trong quá trình tham gia của cộng đồng

Theo Đỗ Hậu (2001), sự tham gia của cộng đồng trong công tác quy hoạch mang lại
nhiều lợi ích, song mang lại nhiều khó khăn để thực hiện nó. Theo kinh nghiệm của
Korten về quá trình tham gia của cộng đồng ở Châu Á và một số nơi khác, thì có ba
trở ngại đối với quá trình tham gia đó là:
− Những trở ngại trong cơ quan:
+ Cơ cấu tập trung của các cơ quan trước đây hoạt động đối lập với những mối
quan hệ của các cộng đồng ở tuyến thấp nhất. Đó là sự tách biệt giữa những
người ra quyết định với các quá trình thực hiện. Trong nhiều trường hợp xu
hướng này có thể nghiêm trọng hơn là thái độ của các nhà chuyên môn đối với
cộng đồng dân cư. Điều này được thể hiện ở suy nghĩ cho rằng “kiến thức chỉ
nằm trong các cơ quan chuyên môn”. Các nhà chuyên môn hoặc các nhà quy
hoạch thường cho rằng cộng đồng dân cư khó có thể tham gia vào đồ án quy
hoạch. Vì vậy sẽ dẫn đến sự cản trở giao tiếp giữa cơ quan chuyên môn và cộng
9
đồng. những điều này đã làm giảm khả năng thông tin hai chiều giữa nhà
chuyên môn với những người dân, làm hạn chế kết quả các mục tiêu của đồ án
và làm giảm tính khả thi của đồ án.
+ Sự thay đổi thường xuyên về nhân lực cũng làm cản trở hoặc hạn chế sự tham
gia của cộng đồng. Những cán bộ mới được đề bạt hoặc nhận chức thường cần
có thời gian để hiểu biết sâu sắc về các điều kiện ở địa phương. Điều này, có thể
làm giảm đi hoặc làm chậm lại khả năng học hỏi “kiến thức địa phương” của
một số cơ quan chuyên môn và cản trở mối quan hệ cá nhân giữa cán bộ lãnh
đạo mới với những người lãnh đạo cộng đồng.
− Những trở ngại trong cộng đồng
+ Một trở ngại lớn thường xảy ra trong cộng đồng chính là sự yếu kém về tổ
chức, thiếu kỹ năng về tổ chức trong cộng đồng.
+ Ở một số cộng đồng, chũ nghĩa bè phái xuất hiện do sức mạnh của các cá nhân
có quyền lực. vì vậy, việc hiểu cơ cấu lãnh đạo “gồm cả chính thức và không
chính thức” trong cộng đồng và tránh những căng thẳng có thể xảy ra do áp
dụng các phương thức tham gia là rất quan trọng. Mặt khác, người ta có thể

thấy sự thiếu hợp tác từ các cơ quan quản lý (quận, phường…) bởi việc áp dụng
phương thức tham gia có thể làm xáo trộn các mối quan hệ trong cộng đồng.
Biện pháp để tránh vấn đề này là phải trình bày các cơ cấu rõ rang và cụ thể cho
việc tham gia. Để giúp cho cách tiếp cận có sự tham gia của cộng đồng được
thành công thì cần phải “rõ ràng”với các thông tin công khai và mở rộng cho tất
cả tổ chức có liên quan.
− Những trở ngại trong xã hội
+ Việc hiểu biết về những hạn chế đang nảy sinh trong cơ cấu tổ chức cơ bản của
xã hội có thể có ích trong việc phát triển một chiến lược mới để thúc đẩy quá
trình tham gia của cộng đồng.
+ Hệ thống pháp luật là một thiết chế xã hội thiết yếu có ảnh hưởng mạnh tới sự
tham gia của cộng đồng trong quản lý đô thị và quy hoạch. Ví dụ khi cộng đồng
dân cư cảm thấy họ không có quyền đòi hỏi lâu dài về đất đai mà họ chiếm
dụng thì họ sẽ không đầu tư sức lực và tiền của vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng
cho cộng đồng. động cơ khởi xướng dựa vào cộng đồng thực sự bị giảm sút
trong khung cảnh pháp lý.
+ Bộ máy quan liêu là một thiết chế xã hội có ảnh hưởng tới sự tham gia của cộng
đồng. Cách tiếp cận có sự tham gia của cộng đồng đặt nhiều trách nhiệm cho
cộng đồng có thể được coi là đang đẩy lùi quyền lực của bộ máy quan liêu.
Theo Trần Thị Thu Hà (2009), khó khăn khi cộng đồng tham gia như:
+ Người dân chưa thực sự quen với cách làm mới nên cảm thấy e ngại.
+ Đòi hỏi nhiều thời gian của các bên liên quan để tham gia và xây dựng năng lực
cho các nhóm tham gia vào các hoạt động.
+ Tăng thêm chi phí trong lập kế hoạch, điều phối thực hiện hoạt động.
10
+ Khuôn mẫu, tôn ti, trật tự trong quan hệ xã hội bị thay đổi.
2.4 Những khó khăn trong công tác quản lý đô thị hiện nay
Quản lý đô thị ở nước ta tuy có những tiến bộ và thành công nhất định nhưng vẫn
còn những mặt yếu kém. Đây là hậu quả của những năm chến tranh cùng với trình
độ phát triển lực lượng sản xuất ở mức thấp. Trong quá trình quản lý cũng còn một

số quyết định chưa phù hợp quá trình phát triển đô thị. (Phạm Trọng Mạnh, 2005)
Do pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ cho nên việc quản lý đô thị được tiến hành
theo những văn bản đơn hành. Để quản lý đô thị, mỗi địa phương lại ban hành bổ
sung những văn bản pháp quy và đề ra những quy dịnh quản lý của địa phương
mình; những văn bản này đôi khi chưa phù hợp với quy định chung nên thiếu sự
thống nhất trên toàn quốc. Bộ máy quản lý hành chính chưa xây dựng hoàn chỉnh
một quy chế quản lý công chức nhà nước đảm bảo tính pháp lý và khoa học. Đây là
một yếu điểm cần phải tập trung khắc phục (Phạm Trọng Mạnh, 2005).
Quản lý đô thị nước ta có hiện tượng bị chia cát từng mảnh, vừa bị giới hạn theo địa
giới hành chính và thường tập trung quản lý theo ngành.các ngành lại thiếu sự phối
hợp mang tính tổng thể để quản lý đô thị có hiệu quả hơn mà chủ yếu ngành nào lo
cho ngành đó dẫn đến nhiều sựu chồng chéo cũng như đùn đẩy trách nhiệm (Phạm
Trọng Mạnh, 2005).
Cơ cấu của hệ thống quản lý còn chưa hợp lý và phân công trách nhiệm cho các
cấp, các ngành chưa rõ ràng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình
trạng trên là do các nhà quản lý còn thiếu kiến thức cơ bản và thếu kinh nghiệm về
quản lý đô thị. Đội ngũ cán bộ, công chức quản lý đô thị lại thiếu kiến thức đô thị,
chưa được đào tạo và đào tạo lại môt cách hệ thống. Họ làm việc theo kinh nghiệm
chủ quan, khả năng tiếp thu những yêu cầu mới của xã hội còn hạn chế (Phạm
Trọng Mạnh, 2005).
Trong những năm qua Nhà nước còn thiếu sự quan tâm chỉ đạo một cách có hệ
thống các vấn đề quản lý đô thị. Các địa phương tùy tiện đưa ra các quy định quản
lý, từ đó gây ra nhiều tiêu cực, ách tắc tong việc cung cấp các dịch vụ công cộng ở
đô thị như điện, nước, vệ sinh môi trường. (Phạm Trọng Mạnh, 2005)
Nhìn chung, quản lý đô thị ở nước ta hiện nay còn mộtn số tồn tại như: nhận thức
về quản lý đô thị chưa được đổi mới, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đô thị;
tình trạng phát triển đô thị lộn xộn, không theo quy hoạch còn khá phổ biến chất
lượng quy hoạch chi tiết còn yếu; kiến trúc đô thị phát triển chưa theo định hướng;
nhiều di sản kiến trúc, văn hóa đang bị vi phạm và biến dạng; thiếu cơ chế tạo
nguồn lực từ cộng động vào việc xây dựng đo thị; các thủ tục capas giấy phép xây

dựng còn chậm và phiền hà; năng lực của chính quyền đô thị còn yếu; việc phân cấp
11
trong quản lý xây dựng còn chồng chéo; nhiều tồn tại về vấn đề nhà ở chưa được
giải quyết (Phạm Trọng Mạnh, 2005)
III. KẾT LUẬN
Nhìn chung để quản lý và phát triển đô thị trong xu thế công nghiệp hóa hiện đại
hóa hiện nay cần đẩy mạnh hơn nữa về công tác nâng cao trình độ quản lý của đội
ngũ cán bộ và kết hợp chặt chẽ nguồn lực của cộng đồng. Trong đó vai trò cộng
đồng trong phát triển đô thị ở Việt Nam cần phát huy hơn nữa vì cộng đồng là nơi
cung cấp thông tin góp phần vào quá trình quản lý và phát triển đô thị bằng nguồn
lực: nhân lực, vật lực, tài chính, công tác tổ chức…
Công tác quản lý cần hoàn thiện hơn do công tác quản lý đô thị còn nhiều tồn tại.
Những ngổn ngang của nhiều sự bất cập, mất trật tự tự phát trong lĩnh vực quản lý
đất và sử dụng đất đô thị đang khiến cho nhiều tỉnh, thành phố ở Việt Nam phải đối
mặt với những vấn đề nan giải và những cảnh báo nghiêm khắc về sự phát triển bền
vững.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Hậu, 2001, Xã hội học đô thị. Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Lương Tiến Dũng, 2008, Về phương pháp quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng.
Hội quy hoạch phát triển Việt Nam/ vupda, truy cập ngày 02/11/2012 tại
website:
/>hoach-co-su-tham-gia-cua-cong-dong.html
Nguyễn Đình Hương và Nguyễn Hữu Đoàn, 2003, Giáo trình quản lý đô thị. Nxb
Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Nhân, 2004, Phát triển cộng đồng. Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Châu, 2001, Quản lý đô thị. Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Nguyễn Thế Bá, 2004, Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị. Nxb Xây Dựng, Hà
Nội, 214.
Nguyễn Thị Kim Nhã, 2007, Nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế ở thành phố Hà

Nội. Tạp chí Thương mại, 34.
Phạm Thị Oanh, 2011, Vai trò của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội theo
hướng bền vững. Trường Chính trị Tô Hiệu Hải Phòng, truy cập ngày
28/20/2012 tại website:
/>option=com_content&view=article&id=15736:vai-tro-cua-con-nguoi-trong-
su-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-theo-huong-ben-vung&catid=341:s-
42011&Itemid=148).
Phạm Trọng Mạnh, 2005, Quản lý đô thị. Nxb Xây Dựng, Hà Nội.
Tạ Thị Thu Hương, 2012, Vai trò của cộng đồng trong phát triển đô thị, Báo Xây
dựng, truy cập ngày 09/10/2012 tại website:
/>cong-dong-trong-phat-trien-do-thi.html
Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang, 2000, Phát triển cộng đồng: lý thuyết và vận
dụng. Nxb Văn hóa thông tin.
Trần Hùng, 2010, Phát huy vai trò của cộng đồng trong quy hoạch đô thị và quản lý
phát triển đô thị Hà Nội. Hội thảo khoa học Quốc tế kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long Hà Nội, Viện Kiến trúc,166-169.
Trần Thị Thu Hà, 2009, Phát triển cộng đồng cho sự phát triển kinh tế-xã hội nông
thôn. Tài nguyên số, truy cập ngày 1/11/2012 tại website:
/>Trung tâm nghiên cứu đô thị và phát triển, 2012, Đào tạo cán bộ quản lý đô thị -
một yêu cầu cấp thiết. Trung tâm nghiên cứu đô thị và phát triển, truy cập
ngày 28/10/2012 tại website:
/>option=com_content&view=article&id=96%3Adao-tao-can-bo-quan-ly-do-
13
thi-mot-yeu-cau-buc-xuc&catid=58%3Akhoa-qldt&Itemid=182&lang=vi
Trương Văn Tuyển, 2007, Giáo trình phát triển cộng đồng. Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, 18.
Sở Tài nguyên và môi trường Bến Tre, 2009, Vai trò của cộng đồng trong bảo vệ
môi trường. Sở Tài nguyên và môi trường Bến Tre, truy cập vào ngày
2/11/2012 tại website: />cires=News&in=viewst&sid=197%29
14

×