Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Mở cửa thị trường tài chính Việt Nam: Những lợi ích và rủi ro khi tham gia thị trường tài chính quốc tế tự do hóa tài chính của Việt Nam minh họa tình huống hay sự kiện cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.97 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Khái quát chung về tự do hóa tài chính và thực trạng tự do hóa tài chính tại Việt Nam 2
1. Khái niệm và bản chất của tự do hóa tài chính 2
1.1. Khái niệm tự do hóa tài chính 2
1.2. Phân loại tự do tài chính 2
1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính 3
2. Thực trạng quá trình tự do hóa lãi suất tại Việt Nam 3
2.1. Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý
kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1998) 4
2.2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến
2006) 4
II. Lợi ích và rủi ro khi tham gia thị trường tài chính quốc tế của Việt Nam (tiến trình tự
do hóa tài chính) 7
1. Lợi ích của tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam 7
2. Rủi ro của tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam 8
2.1. Tiến trình tự do hóa tài chính làm giảm thiểu sự can thiệp nhà nước vào lĩnh vực
tài chính 8
2.2. Tự do hóa tài chính tạo điều kiện cho những hoạt động phi pháp diễn ra, như là
tình trạng lừa đảo, buôn lậu và đặc biệt là hoạt động rửa tiền 9
2.3. Tự do hóa có thể làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính 9
III. Ví dụ minh họa cụ thể - Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã có nhiều cố gắng chủ động hội nhập tài
chính và từng bước thực hiện tự do hóa tài chính. Tự do hóa tài chính không chỉ là
yêu cầu bắt buộc để có thể tham gia sân chơi thế giới mà còn là xu thế tất yếu của hội
nhập kinh tế bởi những lợi ích vô cùng to lớn mà nó mang lại cho các quốc gia. Quá
trình tự do hóa tài chính sẽ giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh hoạt và hiệu
quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh, mang


lại động lực phát triển, khả năng tiếp cận công nghệ mới cho các tổ chức tài chính
trong nước cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính đa dạng, chất lượng cao.
Tuy nhiên, là một nước đang phát triển, ngoài những lợi ích nhận được khi tự
do hóa tài chính, Việt Nam cũng phải đối mặt với các rủi ro và thách thức không nhỏ
do quá trình này mang lại.
1
Để tìm hiểu rõ hơn về các lợi ích và rủi ro Việt Nam có thể gặp phải trong tiến
trình tự do hóa tài chính, nhóm em xin nghiên cứu đề tài “Mở cửa thị trường tài
chính Việt Nam: Những lợi ích và rủi ro khi tham gia thị trường tài chính quốc tế
(tự do hóa tài chính) của Việt Nam - minh họa tình huống hay sự kiện cụ thể”.
I. Khái quát chung về tự do hóa tài chính và thực trạng tự do hóa tài chính tại
Việt Nam
1. Khái niệm và bản chất của tự do hóa tài chính
1.1. Khái niệm tự do hóa tài chính
Tài chính là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khác nhau được biểu
hiện bằng tiền.
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm
soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ
thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
1.2. Phân loại tự do tài chính
Theo chiều dọc, có thể phân loại tự do hóa tài chính thành tự do hóa thị trường
vốn và tự do hóa thị trường tiền tệ. Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao gồm:
Tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại
2
(NHTM), tự do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài
chính trên thị trường tài chính
Theo chiều ngang, tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa tài chính trong nước
và tự do hóa tài chính với nước ngoài. Tự do hóa tài chính trong nước là cho phép các
tổ chức tài chính trong nước tự do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị
trường, các thị trường tài chính trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ

chính sách tiền tệ được điều hành theo tín hiệu thị trường. Tự do hóa tài chính với
nước ngoài bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao dịch vốn.
1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn
có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường,
mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài
chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong
hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất và cần thiết phải kiểm
soát quá trình tự do hóa lãi suất. Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự
do hóa tài chính, thực chất của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất
hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng
trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều chỉnh theo định hướng mà thôi.
Hay nói cách khác: Tự do hóa lãi suất là việc trao cho thị trường vốn toàn bộ việc xác
định lãi suất cân bằng, ngân hàng trung ương chỉ sử dụng các công cụ can thiệp một
cách gián tiếp để điều chỉnh cho phù hợp chiến lược và mục tiêu đặt ra trong từng
thời kỳ phát triển của nền kinh tế
2. Thực trạng quá trình tự do hóa lãi suất tại Việt Nam
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm
1986, nền kinh tế Việt nam từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nhìn chung trong
thời gian vừa qua, Việt Nam đã có những việc làm thiết thực đánh dấu cho tiến trình
hội nhập trong giai đoạn đầu như thiết lập được các mối quan hệ tài chính với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế: Quỹ tiền tệ thế giới (IMF); Ngân hàng thế giới (WB) kể
3
từ năm 1992; gia nhập và trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995; tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế: diễn đàn
hợp tác Á - Âu tháng 3/1996 với tư cách là thành viên sáng lập, diễn đàn hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998; tham gia khu mậu dịch tự do

ASEAN (AFTA). Cùng với đó từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo
được hành lang pháp lý an toàn trong kinh doanh. Điều này được đánh dấu bởi việc
ban hành hàng loạt các luật, sửa đổi bổ sung một số điều khoản trong các bộ luật sao
cho phù hợp với tình hình hoạt động trong giai đoạn đổi mới của nền kinh tế và thông
lệ quốc tế trong trong tiến trình hội nhập.
Như đã nói ở phần trên hạt nhân của tự do hóa tài chính chính là tự do hóa lãi
suất. Quá trình tư do hóa lãi suất ở VN, chính là quá trình điều hành cơ chế lãi suất
qua các thời kỳ phát triển của nền kinh tế, quá trình đó được thể hiện như sau:
2.1. Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản
lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1998)
Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo
cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá
nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi
suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng
không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ
lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
2.2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ
năm 1988 đến 2006)
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế Việt Nam trong lĩnh
vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ
trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nghị định này chính là tiền đề cho hai pháp
lệnh về NHNN và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính
ngày 23/05/1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có nội dung chủ yếu:
Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù
hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong
đó NHNN Việt Nam thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh
4
tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh

trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh
ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật Ngân hàng Nhà nước và
Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp
lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, chúng ta thấy
những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế.
a. Cơ chế thức thi chính sách lãi suất cố định (1989-5.1992)
Trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là ngân hàng một cấp
chỉ có Ngân hàng Nhà nước từ trung ương đến địa phương, vì vậy lãi suất được đặc
trưng bởi các đặc điểm sau:
- Lãi suất thực âm và cố định, được quy định một cánh cứng nhắc bởi nhà nước nhằm
phục vụ cho các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp quốc doanh, phản ánh cơ chế
bao cấp qua tín dụng. Thời kỳ này các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, vay
ngân hàng không trả được nợ và cuối cùng các ngân hàng phải xoá nợ.
- Lãi suất cho vay ngân hàng nhỏ hơn lãi suất tiền gửi.
- Lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn.
Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo
nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở
các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh
theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi
suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992),
cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế
lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
b. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6/1992-1995)
Đặc trưng của cơ chế này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi
suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng
thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi
căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đây là cơ chế lãi suất khởi
đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.

c. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7/2000)
Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là NHNN đã thay đổi căn bản
cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy
5
động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay
(lãi suất đầu ra).
d. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000-5/2002)
Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ
chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường
hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại,
các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc
tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho
thấy NHNN Việt Nam đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa
và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
e. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6/2002 – 2006)
Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được NHNN chuyển đổi từng bước bắt đầu
từ tháng 5 năm 2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo tháng 5 năm
2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước.
Trong năm 2008, NHNN Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản 3 lần và tới thời điểm
tháng 6 năm 2008, mức lãi suất đang là 14%, mức cao nhất ở Châu Á, từ mức 12%
trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng này nhằm giải tỏa áp lực
đối với đồng tiền trong nước.
Ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết
định số 2449/QĐ –NHNN ngày 17/10/2007 về Chương trình hành động hội nhập
kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và Kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế ngành
ngân hàng, đặc biệt là Đề án phát triển ngành ngân hàng đến 2010 và định hướng đến
năm 2020. Trên cơ sở đó, khuôn khổ thể chế ngày một thông thoáng và minh bạch
hơn. Những phân biệt đối xử giữa loại hình tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức

tín dụng nước ngoài đã từng bước được loại bỏ, chức năng cho vay tín dụng chính
sách và tín dụng thương mại được tách bạch. Các NHTM, các tổ chức tín dụng hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ và tự chịu trách nhiệm, bình đẳng đối với mọi thành
phần kinh tế và mọi đối tượng dân cư. Một số cải cách cụ thể của NHNN trong 2 năm
như sau:
- NHNN tiếp tục thực hiện lộ trình tự do hoá lãi suất, ngày 06/02/2007, Thống đốc
NHNN ban hành quyết định số 07/2007/QĐ –NHNN về lãi suất bằng USD Mỹ của
pháp nhân tại TCTD theo đó bãi bỏ trần lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại
TCTD, TCTD ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thoả
thuận phù hợp với nhu cầu kinh doanh, cung cầu vốn ở thị trường trong nước và quốc
tế. Đây là một bước tiến dài trong quá trình hoàn thiện khung pháp lí trong điều hành
6
hoạt động ngân hàng, bãi bỏ những quy định mang tính hành chính, thay vào đó
NHNN điều hành một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường, tháo gỡ khó khăn cho
TCTD và doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp gửi tiền tại TCTD do lãi suất
tiền gửi được điều chỉnh phù hợp hơn với thị trường. Đặc biệt là từ tháng 05/2008,
đứng trước tình hình lạm phát và thâm hụt cán cân thương mại, NHNN chuyển sang
điều hành công cụ lãi suất cơ bản với nội hàm thay đổi từ lãi suất mang tính tham
khảo đối với các TCTD sang lãi suất phản ánh cung cầu thị trường làm cơ sở để các
TCTD xác định lãi suất huy động và cho vay đối với nền kinh tế.
Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên.
Mặc dù lãi suất tăng lên tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng,
nhưng việc lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng thêm, và điều
đó tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn
vay từ ngân hàng.
II. Lợi ích và rủi ro khi tham gia thị trường tài chính quốc tế của Việt Nam (tiến
trình tự do hóa tài chính)
1. Lợi ích của tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam
Quá trình tự do hóa tài chính sẽ giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh
hoạt và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh lành

mạnh, mang lại động lực phát triển, khả năng tiếp cận công nghệ mới cho các tổ chức
tài chính trong nước cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính đa dạng, chất
lượng cao cho người dân trong nước…
- Tự do hóa tài chính giúp cho vốn đầu tư có thể được đưa vào những dự án
mang tính sinh lợi và có hiệu quả cao.
- Tự do hóa tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được
cung cấp bởi lúc này sự độc quyền bị loại bỏ.
- Việc tự do hoá tài chính sẽ cắt giảm đáng kể các khoản chi phí giao dịch, chi
phí quản lý và đặc biệt là giảm sự khác biệt giữa lãi suất cho vay và lãi suất vay vốn.
Chính điều này làm tỷ trọng tiền tiết kiệm dành cho đầu tư ngày càng gia tăng, giúp
tăng thêm nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế.
7
- Tự do hóa tài chính làm cho các nguồn tài chính từ bên ngoài sẽ nhanh chóng
vận hành vào thị trường trong nước để thỏa mãn các nhu cầu mở rộng, phát triển kinh
tế.
- Tự do tài chính còn đ†y mạnh việc sử dụng vốn nhàn rỗi của tư nhân vào tiến
trình đầu tư, Từ đó nguồn vốn được đưa vào nền kinh tế một cách thuận lợi và hiệu
quả góp phần vào việc tạo ra hàng hóa, của cải vật chất cho xã hội
- Quá trình tự do tài chính sẽ giúp cho các cá nhân dễ dàng tiếp cận được các
nguồn tín dụng., tạo ra hiệu ứng lan tỏa về “vốn tri thức” sẽ làm cho mặt bằng kiến
thức của xã hội không ngừng nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực của xã hội được
cải thiện một cách đáng kể.
- Việc tự do hoá tài chính sẽ đảm bảo cho lãi suất thực được dương bởi vì sự
cân bằng giữa cung và cầu vốn trên thị trường tài chính, góp phần thúc đ†y chính phủ
các nước chủ nhà cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi cách
thức can thiệp vào thị trường, hoàn thiện hàng lang pháp lý và hệ thống kiểm tra,
giám sát của chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
- Tự do hóa tài chính giúp các tổ chức tài chính có thể hạ giá thành phục vụ,
loại bỏ yếu tố độc quyền, tăng cường sự cạnh tranh,nâng cao chất lượng dịch vụ, đa
dạng hoá các loại hình sản ph†m và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng.

Tóm lại, lợi ích to lớn nhất của tự do hoá tài chính là tạo ra một sự cạnh tranh
bình đẳng trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng bằng những yếu tố độc
quyền, tăng cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường có
thể xảy ra trên bình diện quốc tế.
2. Rủi ro của tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam
Những rủi ro trong tiến trình tự do hóa tài chính thường được nhắc đến như là
việc tiếp nhận những khoản đầu tư có rủi ro cao, nguy cơ rút vốn ào ạt ra nước ngoài
hay nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Từ những vấn đề
riêng lẻ, chúng ta có thể tổng kết được hai vấn đề lớn mà Việt Nam phải đối mặt
trong tiến trình hội nhập tài chính hiện nay.
2.1. Tiến trình tự do hóa tài chính làm giảm thiểu sự can thiệp nhà nước vào lĩnh
vực tài chính
8
Đây chính là vấn đề đầu tiên mà chúng ta phải đối mặt trong quá trình tự do
hóa, có thể làm hạn chế phần nào chức năng điều tiết vĩ mô của thị trường tài chính.
Đặc biệt hơn, nếu như chúng ta thực hiện việc mở cửa thị trường trong điều kiện hệ
thống tài chính nội địa chưa được chu†n bị tốt, khả năng cạnh tranh chưa cao, thì nền
tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài,
và khi đó quyền kiểm soát và điều tiết thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu
hẹp lại, và do đó có thể làm ảnh hường đến mục tiêu chiến lược của quốc gia.
2.2. Tự do hóa tài chính tạo điều kiện cho những hoạt động phi pháp diễn ra, như
là tình trạng lừa đảo, buôn lậu và đặc biệt là hoạt động rửa tiền
Những hoạt động nhằm mục đích hợp pháp hóa những tài sản có được từ các
hoạt động phi pháp. Một cách rửa tiền phổ biến là việc đầu tư vào những nước đang
phát triển thông qua các ngân hàng. Từ những ngân hàng này, lượng “tiền b†n” này sẽ
được đem đi đầu tư vào những công cụ tài chính nhằm là giảm “tính b†n” của đồng
tiền. Và cuối cùng là hội nhập trở lại lượng tiền này vào nền kinh tế như những dòng
tiền bình thường khác.

2.3. Tự do hóa có thể làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng tài chính

Khủng hoảng tài chính thường là điều mà các chính phủ lo ngại khi thực hiện
mở cửa thị trường. Việc mở cửa thị trường làm bộc lộ những yếu kém sẵn có của hệ
thống tài chính trong nước cũng như những thiếu sót trong chính sách tài chính vĩ
mô, từ đó làm tăng thêm những rủi ro dẫn đến khủng hoảng tài chính. Những rủi ro
mà Việt Nam có thể sẽ đối mặt trong tiến trình hội nhập, và bằng cách nào những rủi
ro này dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính.
- Tình trạng nợ xấu gia tăng có thể đẫn đến nguy cơ vỡ nợ ở các ngân
hàng. Một khi tình trạng nợ xấu này kéo dài, nguồn lực từ các ngân hàng bị bào mòn
thì khả năng vỡ nợ ở các ngân hàng là hết sức đáng ngại, khả năng cho vay tín dụng
của các ngân hàng bị giảm sút.
- Việt Nam sẽ phải đối mặt trong tiến trình tự do hóa là nguy cơ khủng
hoảng cán cân thanh toán. Như chúng ta đã biết tình trạng thâm hụt đã tồn tại trong
suốt những năm vừa qua trong cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam, và sự thâm
hụt này được bù đắp bằng những nguồn tài trợ đến từ sự thặng dư trong cán cân tài
khoản vốn.
9
- Những nguồn tài trợ có thể kể đến là FDI và FII. Đầu tư trực tiếp FDI từ
nhiều năm qua đã là nguồn vốn chủ đạo trong việc bù đắp thâm hụt cán cân tài khoản
vãng lai. Tuy nhiên theo dự báo thì xu hướng nhập siêu trong năm 2008 sẽ tăng mạnh
và với tốc độ giải ngân FDI hiện nay thì khó có thể bù đắp cho lượng thâm hụt này.
Dòng vốn FII chảy vào Việt Nam chủ yếu thông qua các quỹ đầu tư nước ngoài và
được đầu tư chủ yếu vào những công cụ tài chính và bất động sản trong thời gian qua.
Với tính chất nhạy cảm của nguồn vốn này, nếu như nhà đầu tư cảm nhận được
những sự suy giảm của thị trường thì khả năng đảo chiều của nguồn vốn này là rất
lớn. Và nếu hiện tượng rút vốn ào ạt này diễn ra, thì tình trạng khủng hoảng cán cân
thanh toán là điều tất yếu.
- Hiện tượng bong bóng tài sản và tình trạng tăng giảm bất thường của thị
trường chứng khoán và bất động sản.
- Khả năng bị tấn công tiền tệ từ các hoạt động đầu cơ, là tạo nên sức hút giả
với đồng tiền buộc chính phủ in thêm tiền ra, sau đó khi bong bóng tiền tệ lên cao thì

bán hết để buộc chính phủ phải mở kho dự trữ mà ổn định tỷ giá. Nếu như chính phủ
dự trữ không đủ thì nguy cơ đồng tiền bị đánh sập là rất lớn, và khi đó thì coi như là
giới đầu cơ tiền thu được khoản dự trữ quốc gia của nước đó. Điều kiện để các hoạt
động đầu cơ này diễn ra xuất phát từ những vấn đề rủi ro tiềm †n trong nền kinh tế và
khi những yếu kém này bộc lộ thì đó là lúc hoạt động tấn công tiền tệ bắt đầu.
- Một ví dụ về rủi ro tiềm †n ở Việt Nam là vấn đề thâm hụt cán cân tài khoản
vãng lai. Với tình trạng nhập siêu kéo dài, nhu cầu ngoại tệ vẫn cứ tiếp tục gia tăng thì
trước sau gì việc mất giá đồng nội tệ
cũng sẽ xảy ra. Nhưng lý do để rủi ro này vẫn
còn là tiềm †n đến từ việc
những nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn chảy vào Việt
Nam, bù đắp lượng cung ngoại tệ trong nước. Tuy nhiên, nếu nguồn vốn này đột ngột
đảo chiều, thì chúng ta sẽ mất lượng ngoại tệ bù đắp cho sự thâm hụt này, và một khi
đồng nội tệ mất giá chính là lúc hoạt động đầu cơ bắt đầu diễn ra.
III. Ví dụ minh họa cụ thể - Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng
3.1 Các cam kết mở cửa của Việt Nam trong lĩnh vực thị trường dịch vụ ngân
hàng.
Tháng 10/1993, Việt Nam đã nối lại quan hệ tín dụng với các tổ chức tài
chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Việt Nam đã ký Hiệp định tài chính đa
phương với Ngân hàng Đầu tư châu Âu, Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu, Quỹ OPEC, Quỹ
10
Kuwait. NHNN đã ký nhiều thỏa thuận hợp tác ngân hàng với nhiều NHTW lớn trên
thế giới như: NHTW Pháp, Nhật Bản, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN) là thành viên của diễn đàn NHTW ASEAN, diễn đàn
NHTW khối các nước sử dụng tiếng Pháp, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam là thành
viên của Hiệp hội các ngân hàng ASEAN…
Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006 ra đời quy địnhcác loại hình các
tổ chức tín dụng (TCTD) nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Ngay sau
đó, khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở cửa 10 dịch vụ:
• Dịch vụ nhận tiền gửi (nhận tiền gửi và các khoản phải trả khác từ công

chúng);
• Dịch vụ cho vay (cho vay dưới tất cả các hình thức, bao gồm tín dụng tiêu
dùng, tín dụng cầm cố thế chấp, bao thanh toán và tài trợ giao dịch thương
mại);
• Dịch vụ thuê mua tài chính;
• Dịch vụ thanh toán (tất cả các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm thẻ
tín dụng, thẻ thanh toán và thẻ nợ, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng);
• Bảo lãnh và cam kết;
• Kinh doanh trên tài khoản của mình hoặc của khách hàng, tại sở giao dịch, trên
thị trường giao dịch thoả thuận hoặc bằng cách khác, các loại:
 Công cụ thị trường tiền tệ (bao gồm séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền
gửi);
 Ngoại hối;
 Các công cụ tỷ giá và lãi suất, bao gồm các sản ph†m như hợp đồng
hoán đổi, hợp đồng kỳ hạn;
 Vàng khối.
• Môi giới tiền tệ;
• Quản lý tài sản (quản lý tiền mặt hoặc danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý
đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác);
• Các dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính (bao gồm chứng khoán, các
sản ph†m phái sinh và các công cụ chuyển nhượng khác);
• Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính cũng như các
phần mềm liên quan của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác
Ngân hàng con 100% vốn nước ngoài được phép thành lập không muộn hơn ngày
1/4/2007. Nhưng nếu muốn thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong
vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO, hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng
11
Việt Nam, không quá 30% và không được phép mở chi nhánh phụ. Đây là hạn chế
đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng.

Về tổng thể, các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng
đã cho phép các TCTD nước ngoài được hiện diện ở Việt Nam dưới nhiều hình thức
khác nhau, mở rộng phạm vi và loại hình cung cấp các dịch vụ ngân hàng.
Về phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ ngân hàng, các TCTD nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam được cung cấp hầu hết các loại hình dịch vụ ngân hàng như: cho
vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại tệ, các công cụ thi trường
tiền tệ, các công cụ tài chính phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, cung cấp dịch
vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính.
Về việc góp vốn, trên thực tế, đã có một số ngân hàng nước ngoài được mua cổ
phần của các ngân hàng trong nước và trở thành đối tác chiến lược của các ngân hàng
này. Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam ngay
từ thời điểm gia nhập WTO (11/1/2007) với điều kiện: Phía nước ngoài tham gia liên
doanh phải là ngân hàng thương mại có tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối
năm liền trước thời điểm nộp đơn xin thành lập liên doanh tại Việt Nam; và phần vốn
góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 50% vốn điều lệ.
Kết quả, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đang hội nhập sâu vào cộng đồng tài
chính, ngân hàng quốc tế và đã vượt qua những biến động bất thường từ bên ngoài,
điển hình là khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và suy thoái toàn cầu hiện nay.
NHNN đã nâng cao năng lực và điều hành chính sách tiền tệ một cách thành công.
Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, hai luật về ngân hàng đã được sửa đổi vào năm
2010 với nhiều nội dung mới. Luật các TCTD năm 2010 đã có nhiều qui định nhằm
nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động của TCTD và tiếp cận sát với thông lệ quốc
tế.
3.2 Những rủi ro và lợi ích
a. Những lợi ích
Đối với Ngân hàng nhà nước, hội nhập quốc tế sẽ tạo cơ hội nâng cao năng
lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ và đổi mới cơ chế kiểm soát tiền
tệ, lãi suất, tỉ giá theo nguyên tắc thị trường. Đây là cơ hội để Ngân hàng nhà nước
tăng cường phối hợp về chính sách tiền tệ, trao đổi thông tin và ngăn ngừa rủi ro.
12

Đối với các tổ chức tín dụng, mở cửa là động lực thúc đ†y tự cải cách, nâng
cao năng lực cạnh tranh về cả trình độ quản trị điều hành và phát triển dịch vụ ngân
hàng. Các ngân hàng thương mại trong nước có điều kiện tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật,
tư vấn, đào tạo thông qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ
chức tài chính quốc tế.
Đồng thời, các ngân hàng trong nước sẽ tiếp cận thị trường tài chính quốc tế
một cách dễ dàng hơn, hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn sẽ tăng lên, góp phần
nâng cao chất lượng và loại hình hoạt động
b. Những rủi ro
Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực, áp
lực cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các qui định đối với các tổ chức
tài chính nước ngoài.
Từ năm 2010, các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ mất dần lợi thế cạnh
tranh về qui mô, khách hàng và hệ thống kênh phân phối khi những hạn chế nêu trên
và sự phân biệt đối xử bị loại bỏ căn bản. Rủi ro đối với hệ thống ngân hàng Việt
Nam tăng lên do các ngân hàng nước ngoài nắm quyền kiểm soát một số tổ chức tài
chính trong nước thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, liên kết kinh doanh.
Mở cửa thị trường tài chính trong nước làm tăng rủi ro do những tác động từ
bên ngoài trong khi thị trường vốn chưa phát triển như các cơn sốc kinh tế, tài chính
quốc tế và nguy cơ khủng hoảng.
3.3 Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các ngân hàng trong nước trong
thời gian tới.
a. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về ngân hàng
Nâng cao vị thế và tính độc lập, tự chủ; năng lực thanh tra, giám sát của
NHNN. Đối xử bình đẳng hơn và phát triển các tổ chức tín dụng. Tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách tín dụng, hoàn thiện các qui định về các nghiệp vụ và dịch vụ ngân
hàng mới (quản lý tiền mặt, quản lý danh mục đầu tư, các dịch vụ uỷ thác, các sản
ph†m phái sinh…).
b. Tăng cường năng lực tài chính và chất lượng hoạt động của các TCTD
13

Tích cực đ†y nhanh tiến độ củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP và đề án cơ cấu
lại các NHTMNN. Phát triển các kênh phân phối nước ngoài dưới hình thức hiện diện
thương mại của các NHTM Việt Nam ở nước ngoài. Nâng cao năng lực quản trị rủi
ro và minh bạch hoá hoạt động ngân hàng. Thúc đ†y thị trường tài chính, phát triển
thị trường chứng khoán theo hướng xây dựng môi trường pháp lý thông thoáng hơn
về kinh doanh chứng khoán để kết nối thị trường chứng khoán Việt Nam với các thị
trường chứng khoán khu vực.
Trong quá trình hội nhập, các NHTM sẽ mở rộng hoạt động của mình ra khỏi
biên giới Việt Nam một cách rộng rãi hơn nữa, do đó cũng sẽ phải đối diện với nhiều
rủi ro hơn. Bởi lẽ, lúc này mọi rào cản cũng như sự bảo hộ của Nhà nước sẽ không
còn, mọi biến động bất lợi trên thị trườnh như lãi suất, tỷ giá hối đối, các cuộc khủng
hoảng quốc tế … sẽ tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến các NHTM. Vì vậy, công tác
quản trị rủi ro trong và sau khi hội nhập phải được xem là một trong những nhiệm vụ
hàng đầu của ngân hàng.
Khi hội nhập kinh tế quốc tế các ngân hàng còn bị đe dọa trực tiếp bởi bọn
“Tin tặc” quốc tế, những tổ chức chuyên tấn công vào hệ thống máy tính của ngân
hàng, làm giả thẻ tín dụng hoặc ăn cấp mật mã của khách hàng để rút tiền khỏi ngân
hàng. Vì vậy bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản ph†m dịch vụ, các NHTM cũng
cần chú trọng đến công tác đảm bảo an ninh hệ thống máy tính của mình.
c. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán.
Іy mạnh liên doanh, liên kết và hợp tác với các tổ chức trong nước và nước
ngoài về kinh doanh, nghiên cứu và phát triển dịch vụ ngân hàng. Tranh thủ sự hỗ trợ
về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế. Іy mạnh việc ứng dụng kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam
và tuân thủ các chu†n mực quốc tế, phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến và từng
bước mở rộng mô hình giao dịch một cửa. Hoàn thiện và chu†n hóa quy trình tác
nghiệp và quản lý nghiệp vụ ngân hàng. Phát triển hệ thống thanh toán điện tử và
hiện đại hóa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng trên phạm vi toàn quốc.
Từ đó, các ngân hàng tiến hành đa dạng hóa các sản ph†m, dịch vụ trên nền
tảng công nghệ hiện đại. Tiến hành đào tạo cán bộ ngân hàng những tư duy, kiến

thức, kỹ năng hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, thường xuyên cập nhật
14
các kiến thức tiên tiến nhất trên thế giới. Nhân viên ngân hàng càng có trình độ cao
thì ngân hàng càng có lợi thế cạnh tranh và chính điều đó tạo nên sự khác biệt giữa
các ngân hàng với nhau.
d. Nghiên cứu và đưa ra các yêu cầu bổ sung có thể có đối với tổ chức tài chính nước
ngoài (ngoài cam kết khi gia nhập WTO)
 Yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc;
 Yêu cầu về vốn đối với việc thành lập chi nhánh, ngân hàng liên doanh;
 Yêu cầu về điều kiện vật chất, kỹ thuật, nhân lực, v.v đối với các tổ
chức tín dụng.
Các yêu cầu này, nếu có, phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử
giữa các nhà đầu tư nước ngoài (các ngân hàng thương mại nước ngoài, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính).
15
KẾT LUẬN
Như vậy mở cửa thị trường tài chính là một xu thế tất yếu của bất kỳ quốc gia
nào trên con đường hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Mở cửa mang lại nhiều lợi ích cho
hệ thống ngân hàng quốc gia, các tổ chức tài chính, tín dụng… từ đó nâng cao chất
lượng sản ph†m và dịch vụ tới người tiêu dung. Tuy nhiên, kèm theo nó là những hệ
lụy, rủi ro, thử thách không hề nhỏ. Ví dụ điển hình là khi Việt Nam mở cửa các dịch
vụ của hệ thống ngân hàng, chúng ta phải đón nhận cả thách thức bên cạnh một loạt
cơ hội. Tuy nhiên, nhờ có mở cửa thị trường tài chính, mà chúng ta không ngừng học
hỏi, phát triển và hòa nhập được với sân chơi toàn cầu tất yếu hiện nay trong ngành
tài chính nói riêng, và hỗ trợ đắc lực cho các ngành khác nói chung.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- International Finance – Maurice D Levi – Routledge, Newyork 2006
- Tạp chí Chứng khoán Việt Nam
- Tạp chí kế toán

- Tài chính quốc tế - PGS, TS Nguyễn Văn Tiến
- www.wto.org
- />WTO.html
- www.vietcombank.com.vn
- www.mof.gov.vn
17

×