Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Luận văn thạc sỹ "Nghiên cứu hiện trạng tài nguyên cây gỗ bộ đậu và giải pháp bảo tồn, phát triển một số loài cây chủ yếu ở tỉnh Quảng trị"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.56 MB, 127 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi Lê Công Định, sinh ngày 6 tháng 2 năm 1982 tại Quảng Bình, xin cam
đoan luận văn thạc sỹ mang tên “Nghiên cứu hiện trạng tài nguyên cây gỗ bộ Đậu và
giải pháp bảo tồn, phát triển một số loài cây chủ yếu ở tỉnh Quảng Trị” là công trình
nghiên cứu của bản thân tôi.
Tôi xin cam đoan đề tài này là của tôi, các kết quả phân tích nêu trong đề tài là
khách quan, trung thực và chưa được công bố. Nếu có thừa kế kết quả nghiên cứu của
người khác thì đều được trích dẫn rõ nguồn gốc.
Huế, ngày 26 tháng 7 năm 2014
Người cam đoan
Lê Công Định
i
LỜI CẢM ƠN
Đề tài luận văn cao học “Nghiên cứu hiện trạng tài nguyên cây gỗ bộ Đậu
và giải pháp bảo tồn, phát triển một số loài cây chủ yếu ở tỉnh Quảng Trị” đến nay
đã hoàn thành.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Minh Đức - giáo
viên Khoa Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Huế đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo và các đồng nghiệp Trung tâm
Khoa học Lâm nghiệp Bắc Trung Bộ, cán bộ Trung tâm Điều tra Quy hoạch Thiết kế
Nông - Lâm tỉnh Quảng Trị, Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị, hạt Kiểm lâm các huyện
Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Vĩnh Linh, phòng Bảo tồn, phòng Quản lý Bảo vệ
rừng, các Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên Bắc Hướng Hóa, Đakrông, Khu Bảo vệ cảnh
quan đường Hồ Chí Minh, các Kiểm lâm địa bàn và các hộ dân đã nhiệt tình giúp đỡ
để tôi hoàn thành đề tài này.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo,
bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ nhiệt tình và động viên tôi trong quá trình
thực hiện đề tài.
Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, địa bàn nghiên cứu rộng, kinh
nghiệm còn thiếu nên chắc chắn đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong


được sự góp ý của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp để đề tài
hoàn thiện hơn.
Huế, ngày 26 tháng 7 năm 2014
Tác giả
Lê Công Định
ii
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Nghiên cứu thực vật trên thế giới 4
1.2. Nghiên cứu về thực vật ở Việt Nam 6
1.2.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam 6
1.2.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam 8
1.2.3. Văn bản chính sách về công tác bảo tồn đa dạng sinh học 11
1.3. Tài nguyên cây gỗ và một số tư liệu về tiêu chuẩn phân loại gỗ tại Việt Nam 13
1.3.1. Tài nguyên cây gỗ rừng Việt Nam 13
1.3.2. Phân loại gỗ tại Việt Nam 15
1.4. Những nghiên cứu về thực vật ở Quảng Trị 17
1.4.1. Thảm thực vật 17
1.4.2. Hệ thực vật 19
1.5. Tình trạng quản lý bảo vệ các thực vật quý hiếm và hoạt động khai thác, buôn bán
thực vật quý hiếm, nguy cấp 24
1.5.1. Tình trạng quản lý bảo vệ các thực vật quý hiếm 24
1.5.2. Hoạt động khai thác, buôn bán thực vật quý hiếm, nguy cấp 26

1.6. Những nghiên cứu về các loài cây thuộc bộ Đậu 27
1.7. Các loài thực vật quý hiếm thuộc đối tượng nghiên cứu 30
Chương 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
2.1. Mục tiêu cụ thể 34
2.2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 34
iii
2.3. Nội dung nghiên cứu 34
2.4. Phương pháp nghiên cứu 35
2.4.1. Thu thập số liệu nghiên cứu 35
2.4.2. Phương pháp điều tra chuyên ngành ở thực địa 36
2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 37
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 38
3.1. Điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị 38
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 38
3.1.2. Kinh tế - xã hội 44
3.1.3. Truyền thống văn hóa - tập quán sử dụng tài nguyên rừng 45
3.2. Thành phần loài thực vật thuộc bộ Đậu theo địa phương và tiểu vùng sinh thái 47
3.2.1. Thành phần loài thực vật thân gỗ bộ Đậu tỉnh Quảng Trị 47
3.2.2. Nguồn gốc và phân bố các loài theo vùng sinh thái 51
3.3. Giá trị và công dụng các loài cây gỗ bản địa bộ Đậu 52
3.3.1. Giá trị bảo tồn 52
3.3.2. Giá trị sử dụng 53
3.4. Phân bố, hiện trạng và tình hình gây trồng các loài thực vật quý, hiếm, có giá trị
thuộc bộ Đậu 58
3.4.1. Phân bố và hiện trạng các loài thực vật quý, hiếm, có giá trị thuộc bộ Đậu 58
3.4.2. Tình hình gây trồng các loại cây gỗ bộ Đậu 67
3.5. Hiện trạng quản lý bảo tồn và phát triển các loài trên địa bàn tỉnh Quảng Trị 71
3.5.1. Các văn bản chính sách 71
3.5.2. Công tác thừa hành pháp luật của lực lượng kiểm lâm tỉnh Quảng Trị 82
3.5.3. Những kết quả và tồn tại trong công tác bảo tồn và phát triển các loài 84

3.6. Tìm hiểu kỹ thuật nhân giống, gây trồng một số loại cây gỗ bộ Đậu có giá trị 85
3.6.1. Kỹ thuật nhân giống, gây trồng Giáng hương (Pterocarpus macrocarpus) 85
3.6.2. Kỹ thuật nhân giống, gây trồng Lim xanh (Erythrophloeum fordii) 86
3.6.3. Kỹ thuật nhân giống, gây trồng Sưa (Dalbergia tonkinensis) 88
iv
3.6.4. Kỹ thuật nhân giống, gây trồng Gụ lau (Sindora tonkinensis) 91
3.6.5. Kỹ thuật nhân giống Gõ đỏ (Afzelia xyclocarpa) 93
3.6.6. Kỹ thuật nhân giống Gụ mật (Sindora siamensis) 95
3.7. Đề xuất giải pháp bảo tồn các loài thực vật bộ Đậu có giá trị 96
3.7.1. Nhóm giải pháp chiến lược 97
3.7.2. Nhóm giải pháp về tổ chức quản lý và kỹ thuật 98
3.7.3. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách 100
3.7.4. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội 101
3.7.5. Giải pháp bảo tồn chuyển vị đối với một số loài 103
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 106
Kết luận 106
Kiến nghị 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHẦN PHỤ LỤC 114
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTTN Bảo tồn thiên nhiên
BQL Ban quản lý
BV&PTR Bảo vệ và phát triển rừng
BVR Bảo vệ rừng
CITES Convention of International Trade of Endangered species
CR Loài rất nguy cấp (Critically Endangered)
DD Loài thiếu dẫn liệu (Data Deficient)
ĐDSH Đa dạng sinh học
ĐTQH Điều tra quy hoạch

EN Loài nguy cấp (Endangered)
GMS Greater Mekong Subregion
IA Thực vật rừng của nhóm nghiêm cấm khai thác sử dụng
IIA Thực vật rừng của nhóm hạn chế khai thác và sử dụng
IUCN International Union for the Conservation of Nature
LR Loài ít nguy cấp (Lower risk)
NĐ32 Nghị định 32/2006NĐ-CP
NE Không đánh giá (Not evaluated)
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NXB Nhà xuất bản
PCCCR Phòng cháy, chữa cháy rừng
QPPL Quy phạm pháp luật
SĐVN Sách đỏ Việt Nam
UBND Ủy ban nhân dân
UNCED United Nations Conference on Environment and Development
UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
VQG Vườn quốc gia
VU Loài sẽ nguy cấp (Vulnerable)
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
vii
DANH MỤC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ
viii
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km
2
, Việt Nam là
một trong 16 nước có tính ĐDSH cao trên thế giới [4]. Đặc điểm về vị trí địa lý, địa

hình, đất đai và khí hậu của Việt Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái
và các loài sinh vật. Về mặt địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực
vật thuộc vùng Ấn Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo-Malaysia. Các đặc điểm
trên đã tạo cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính ĐDSH cao của thế
giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm 1% diện tích đất liền của thế
giới [20].
ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với việc duy trì các chu trình tự nhiên và
cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự sống còn và thịnh vượng của loài người và sự
bền vững của thiên nhiên trên Trái đất. Theo ước tính giá trị của tài nguyên ĐDSH
toàn cầu cung cấp cho con người là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al-1997).
Đối với Việt Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành Nông nghiệp, Lâm
nghiệp, Thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la [20].
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ĐDSH ở nước ta bị suy giảm mạnh.
Nhiều hệ sinh thái và môi trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều Taxon loài và dưới
loài đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng trong một tương lai gần. Nguyên nhân
chủ yếu là do cháy rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai dẫn tới làm thu hẹp nơi
cư trú của các giống loài; khai thác và đánh bắt quá mức, tình trạng buôn bán trái phép
động vật, thực vật quý hiếm; ô nhiễm môi trường.
Để khắc phục tình trạng trên Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều biện pháp,
cùng với các chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH của đất
nước. Tuy nhiên, công tác điều tra, đánh giá, kiểm kê tài nguyên ĐDSH thiếu hệ
thống, thiếu đồng bộ; việc thu thập, lưu trữ, xử lý thông tin và chia sẻ thông tin liên
quan đến bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH còn nhiều hạn chế; thông tin, dữ liệu
nằm phân tán ở nhiều ngành, nhiều địa phương, chưa được tập trung quản lý. Đến
nay, Việt Nam vẫn chưa có công trình nào thống kê chính thức hiện trạng ĐDSH trên
quy mô toàn quốc. Đây cũng là những thách thức trong công tác bảo tồn ĐDSH của
Việt Nam.
Bộ Đậu (Fabales) có 3 họ thực vật là họ Đậu (Fabaceae), họ Vang
(Caesalpiniaceae) và họ Trinh nữ (Mimosaceae). Các họ này có nhiều loài cây gỗ
quan trọng có giá trị kinh tế và bảo tồn cao, như Sưa (Dalbergia tonkinensis), Trắc (D.

cochinchinensis), Cẩm lai (D. oliveri), Giáng hương (Pterocarpus macrocarpus), Gụ
2
lau (Sindora tonkinensis), Gụ mật (Sindora siamensis), Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Lim
xanh (Erythrophloeum fordii)
Nhiều loài thuộc bộ Đậu có giá trị kinh tế cao được bán theo kilôgam như Sưa
(Delbergia tonkinensis), Trắc (Delbergia cochinchinesis), Cẩm lai (Dalbergia oliveri)
và Giáng hương (Pterocarpus macrocarpus). Ngoài ra, còn nhiều loài cho gỗ tốt được
sử dụng trong xây dựng và đồ mộc đang bị khai thác nghiêm trọng sẽ dẫn đến tuyệt
chủng trong tự nhiên như: Lim xanh (Erythrophleum fordii), Gõ đỏ (Afzelia
xylocarpa), Gụ mật (Sindora siamensis), Gụ lau (Sindora tonkinensis) [6].
Quảng Trị là một tỉnh thuộc phía Nam khu vực Bắc Trung Bộ, cũng là một
trong những nơi có sự giao lưu giữa hai khu hệ thực vật Bắc và Nam Trường Sơn. Do
vậy, ở đây có tính đa dạng cao về thực vật rừng, trong đó có các loài cây gỗ thuộc
nhiều bộ, họ khác nhau, đặc biệt là bộ Đậu (Fabales).
Qua khảo sát sơ bộ và các tài liệu nghiên cứu cho thấy tại Quảng Trị có nhiều
loài cây gỗ quý hiếm thuộc bộ Đậu như: Gụ lau (Sindora tonkinensis), Sưa (Delbergia
tonkinensis), Trắc (Delbergia cochinchinesis), Lim xanh (Erythrophleum fordii), Gõ
đỏ (Afzelia xylocarpa) mọc tự nhiên hoặc được gây trồng ở các quy mô và địa
phương khác nhau.
Hiện nay, tại Quảng Trị vẫn chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu chuyên
sâu nhằm đánh giá đầy đủ tiềm năng và hiện trạng các loài này cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến chúng để có kế hoạch quản lý bảo tồn và phát triển hợp lý. Đó là lý do
chúng tôi chọn và thực hiện đề tài “Nghiên cứu hiện trạng tài nguyên cây gỗ bộ Đậu
và giải pháp bảo tồn, phát triển một số loài cây chủ yếu ở tỉnh Quảng Trị”.
2. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp cơ sở dữ liệu về nhóm loài và loài chủ yếu phục vụ công tác bảo tồn
và phát triển tài nguyên cây gỗ rừng tại địa phương.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a) Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu bổ sung dữ liệu khoa học cho hệ thực vật tỉnh Quảng Trị.

- Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học để đề xuất những biện pháp tác động
phù hợp nhằm bảo tồn và phát triển những nguồn gen quý hiếm để sử dụng hiện tại và
tương lai.
- Đề tài là cơ sở luận chứng khoa học giúp cho các nhà quản lý, nhà lập chính
sách có căn cứ trong việc hoạch định chính sách, kế hoạch hành động, giải pháp quản
lý hữu hiệu tài nguyên rừng ở tỉnh Quảng Trị.
3
b) Ý nghĩa thực tiễn
- Đề xuất các giải pháp góp phần bảo tồn và phát triển các loài cây quý hiếm
đang có nguy cơ tuyệt chủng tại địa phương.
- Kết quả nghiên cứu và các tài liệu, số liệu trong đề tài có thể sử dụng lâu dài
cho các mục đích khác nhau trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất cơ chế quản lý tài nguyên theo hướng bền vững về môi trường và sinh
kế người dân vùng gần rừng.
4
Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu thực vật trên thế giới
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, do những nguyên nhân khác nhau,
nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc bị đe doạ tuyệt chủng, các nguồn tài nguyên
sinh học không ngừng bị suy giảm. Để nâng cao nhận thức trong xã hội và toàn cộng
đồng về tính cấp thiết của việc bảo tồn ĐDSH và tạo cứ liệu quan cho công tác bảo
tồn, từ năm 1964, hiệp hội BTTN Thế giới (IUCN) đã cho xuất bản các Bộ sách đỏ
nhằm cung cấp một cách khoa học và có hệ thống danh sách về tình trạng bảo tồn và
đa dạng của các loài động vật và thực vật đang có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới.
Năm 1994, IUCN đã đề xuất những thứ hạng và tiêu chuẩn mới cho việc phân
hạng tình trạng các loài động vật, thực vật bị đe doạ trên thế giới. Các thứ hạng và tiêu
chuẩn của IUCN được cụ thể hoá như sau: Loài tuyệt chủng (EX), loài tuyệt chủng
ngoài thiên nhiên (EW), loài rất nguy cấp (CR), loài nguy cấp (EN), loài sẽ nguy cấp
(VU), loài ít nguy cấp (LR), loài thiếu dẫn liệu (DD), không đánh giá (NE) [54].
Năm 1992, Tại Rio de Janeiro, Brasil là nơi đăng cai tổ chức Hội nghị thượng

đỉnh về Trái đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp
quốc (UNCED). Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những nguyên tắc cơ bản
và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có tên Chương
trình Nghị sự 21. Với sự tham gia của đại diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số
các tổ chức phi chính phủ, Hội nghị đã đưa ra bản Tuyên ngôn Rio về Môi trường và
Phát triển cũng như thông qua một số văn kiện như hiệp định về sự ĐDSH, bộ khung
hiệp định về sự biến đổi khí hậu, quản lý, bảo tồn rừng tự nhiên. Năm 2002, Hội nghị
thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững nhóm họp tại Johannesburg, Nam Phi là
dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm sau 10 năm theo phương hướng
mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp tục tiến hành với một
số mục tiêu được ưu tiên [61].
1.1.1. Nghiên cứu về hệ thực vật.
Từ thế kỷ XV-XVI với sự phát triển của các ngành khoa học kỹ thuật kéo theo
sự phát triển của thực vật học. Thời kỳ này diễn ra 3 sự kiện quan trọng đối với sự phát
triển của thực vật học đó là: Sự phát sinh tập Bách thảo (Herbier) thế kỷ XVI, thành
lập Vườn bách thảo (thế kỷ XV-XVI) và biên soạn cuốn “Bách khoa toàn thư về thực
vật”. Từ đây xuất hiện các công trình như của Andrea Caesalpino (1519-1603) ông
đưa ra bảng phân loại đầu tiên và đã được đánh giá cao; John Ray (1628-1705) mô tả
được gần 18.000 loài thực vật trong cuốn “Lịch sử thực vật”. Tiếp sau đó, Linnée
(1707-1778) với bảng phân loại được coi là đỉnh cao của hệ thống phân loại thực vật.
5
Ông đã đưa ra cách đặt tên bằng tiếng La tinh gồm 2 từ ghép lại mà ngày nay chúng ta
còn sử dụng và ông đưa ra hệ thống phân loại gồm 7 đơn vị: Giới, Ngành, Lớp, Bộ,
Họ, Chi, Loài [9].
Longchun và cộng sự (1993) nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh thái
nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã đưa ra kết luận: Khi
nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá được 19 năm thì có
60 họ, 134 chi và 167 loài [48].
Đến nay, theo số liệu của Trung tâm Giám sát Bảo tồn Thế giới (2000) trên thế
giới đã thống kê được 1.700.000 loài sinh vật, trong đó thực vật bậc cao có 250.000

loài (số loài ước tính khoảng 300.000 loài) [23].
1.1.2. Nghiên cứu về thảm thực vật
H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện đã
phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: Nhiệt đới, Á nhiệt đới, Ôn đới
và Núi cao [46].
J.Beard (1938) đã đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ và
loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ là: Loạt quần hệ rừng
xanh từng mùa, loạt quần hệ khô thường xanh, loạt quần hệ miền núi, loạt quần hệ
ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm [35].
Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thành 3
vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và vùng trung gian, đồng thời ông đã liệt
kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó [56].
Theo Schmitthusen (1959), ở châu Âu có 2 hệ thống phân loại thảm thực vật
chủ yếu, đó là hệ thống phân loại các quần xã thực vật của Braun - Blanquet (1928),
được thực hiện chủ yếu bởi các nhà thực vật học theo trường phái của Pháp và hệ
thống phân loại các quần thể thực vật được thực hiện bởi những nhà địa thực vật của
Đức [46].
Ở Phần Lan, A.K. Caiande chủ trương phân loại rừng dựa vào thực vật thảm
tươi. Ông cho rằng, trong lâm phần thành thục, tổ thành thảm tươi không chỉ phụ
thuộc vào hoàn cảnh sinh thái môi trường mà còn phụ thuộc vào cả tổ thành loài cây
gỗ của lâm phần. Theo đó, thảm tươi là chỉ tiêu tốt nhất để xem xét tính đồng nhất sinh
học của môi trường, kể cả tính đồng nhất về hiệu quả của thực vật rừng. Tuy thế, điều
này đã không hoàn toàn đúng vì thực tế thảm tươi có khả năng chỉ thị nhưng không có
khả năng chỉ thị cho tất cả các điều kiện lập địa. Ngoài ra, các yếu tố bên ngoài như:
Lửa rừng, khai thác cũng ảnh hưởng lên thảm tươi [46].
Gần đây các nhà sinh thái và địa thực vật Đức đã phân chia thảm thực vật ở cạn
thành 16 kiểu quần hệ: Rừng mưa nhiệt đới, Rừng mưa á nhiệt đới, Rừng mưa lạnh ôn
6
đới, Rừng xanh mưa mùa, Rừng lá rộng xanh mùa hè, Rừng lá kim rộng ôn đới, Kiểu
quần hệ cây gỗ có gai, Kiểu cây gỗ có lá rộng, Kiểu thảo nguyên rừng, Kiểu trảng cỏ

nhiệt đới, Kiểu thảo nguyên ôn đới, Kiểu đầm lầy, Kiểu hoang mạc nóng và Kiểu
hoang mạc khô lạnh [46].
1.2. Nghiên cứu về thực vật ở Việt Nam
1.2.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam
Một số công trình mang tính chất cơ bản và cổ điển của các tác giả là người
nước ngoài nhằm thống kê các loài thực vật Việt Nam như: J. Loureiro (1793), J.B.L.
Pierre (1880) và đến đầu thế kỷ XX có H. Lecomte và cộng sự (1907-1952). Đây là
những công trình được đánh giá là nền tảng cơ sở cho các nghiên cứu hệ thực vật Việt
Nam sau này. Để biên soạn bộ sách này, các tác giả đã thu mẫu, định tên, lập khoá mô
tả các loài thực vật có mạch trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương lúc bấy giờ [40].
Một số nghiên cứu về đa dạng thành phần loài: T. Pócs (1965) khi nghiên cứu
về hệ thực vật ở miền Bắc Việt Nam đã thống kê được ở miền Bắc có 5.196 loài. Phan
Kế Lộc (1969) đã thống kê lại và có bổ sung nâng số loài ở miền Bắc lên 5.609 loài,
1.660 chi và 140 họ xếp theo hệ thống của Engler [8], [40].
Thái Văn Trừng (1978) đã phân tích và cho rằng hệ thực vật Việt Nam, gồm
7.004 loài, 1850 chi, 289 họ trong đó, ngành thực vật Hạt kín chiếm ưu thế với 6.366
loài, 1.727 chi và 239 họ [46].
Theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1990), thực vật rừng Việt Nam có 2.084 loài đặc
hữu chiếm 27,5% tổng số loài. Ngoài ra, hệ thực vật Việt nam còn liên hệ chặt chẽ với
3 hệ thực vật xung quanh: Hệ thực vật Malaixia - Inđônêxia, Trung Hoa và Ấn Độ -
Miến Điện [33].
Trần Đình Lý (1993) cho rằng, thực vật rừng Việt Nam rất phong phú đa dạng,
chỉ riêng ngành Khuyết thực vật (Ptesydophyta), ngành Hạt trần (Gymnospermae) và
ngành Hạt kín (Angiospermae) đã có trên 11.000 loài của trên 2.500 chi [33].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã tổng hợp, chỉnh lý tên các loài thực vật theo hệ
thống Brummitt (1992) và đã chỉ ra hệ thực vật Việt Nam hiện biết 11.178 loài, 2.582
chi, 395 họ thực vật bậc cao [41].
Phan Kế Lộc (1998) đã tổng kết hệ thực vật Việt Nam có 9.628 loài cây hoang
dại có mạch, 2.010 chi, 291 họ, 733 loài cây trồng, như vậy tổng số lên tới 10.361
loài, 2.256 chi, 305 họ. Lê Trần Chấn (1999) khi nghiên cứu một số đặc điểm của

khu hệ thực vật Việt Nam đã ghi nhận 10.192 loài của 2.298 chi, 285 họ của 6 ngành
thực vật. Trên phạm vi cả nước, Nguyễn Tiến Bân (2005) đã thống kê và đi đến kết
luận hệ thực vật Việt Nam hiện biết 11.603 loài, trong đó ngành Ngọc lan với 10.775
loài [1], [8], [40].
7
Trong số các tài liệu về thực vật học được xuất bản trong thời gian gần đây, đáng
chú ý nhất phải kể đến bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” gồm 3 tập của Phạm Hoàng Hộ
(1999-2000). Đây là bộ sách được đánh giá là đầy đủ nhất, dễ sử dụng nhất và góp phần
quan trọng trong việc nghiên cứu thực vật ở Việt Nam. Trong bộ sách này, tác giả đã
thống kê có mô tả và kèm theo hình vẽ của hơn 11.600 loài thực vật Việt Nam [25].
Danh lục các loài thực vật Việt Nam (2003) đã thống kê được 368 loài Vi
khuẩn Lam (Sinh vật tiền nhân - sinh vật nhân sơ - Prycaryota); 2.176 loài Tảo
(Algae); 481 loài Rêu (Bryophyta); 1 loài Quyết lá thông (Psilotophyta); 53 loài Thông
đất (Lycopodiophyta); 2 loài Cỏ tháp bút (Equisetophyta); 691 loài Dương xỉ
(Polipodiophyta), 69 loài Hạt trần (Gymnospermae) và 13.000 loài thực vật Hạt kín
(Angiospermae) đưa tổng số loài thực vật Việt Nam lên đến hơn 20.000 loài [1].
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về hệ thực vật nói chung, còn có một số tài
liệu về các họ thực vật riêng biệt đã được công bố như Orchidaceae Việt Nam (L.
Averyanov, 1994, 2003), Euphorbiaceae (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1999, 2006),
Annonaceae (Nguyễn Tiến Bân, 2000), Lamiaceae (Vũ Xuân Phương, 2000),
Myrsinaceae (Trần Thị Kim Liên, 2002), Cyperaceae (Nguyễn Khắc Khôi, 2002),
Tuy chỉ đề cập đến một họ nhất định nhưng đây là các công trình nghiên cứu chuyên
sâu, trình bày đầy đủ các thông tin cần thiết về các loài trong họ. Là những tài liệu
quan trọng làm cơ sở cho việc đánh giá về đa dạng phân loại của các họ thực vật Việt
Nam [40].
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu về các loài, nhóm các loài thực vật
và ở các địa phương:
Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Hiệp, Averyanov và Phillip Cribb (2003), cho rằng
họ Lan (Orchidaceae) là họ thực vật lớn nhất Việt Nam với 753 loài và 153 chi. Chi
Lan hài (Paphiopedilum) là một trong 10 chi lớn nhất của họ Lan. Việt Nam có 18 loài

và 4 dạng lai giống tự nhiên của chi Lan hài, loài Lan hài (Paphiopedilum) và các
giống lai tự nhiên đã được biết đến một cách chắc chắn. Các tác giả đã mô tả rất chi
tiết về hình thái, sinh thái và phân bố các loài Lan hài ở Việt Nam. Mặc dù tình trạng
của các loài Lan hài hoang dại của Việt Nam là đang hay sắp bị tuyệt chủng nhưng chỉ
có 3 loài được đưa vào Sách đỏ Việt Nam (1996), đó là: P. appletonianum, P.
delenatii và P. hrsutissimum [53].
Nguyễn Tiến Hiệp, Phan Kế Lộc, Nguyễn Đức Tố Lưu, P.I. Thomas, A.
Farjion, L. Averyanov và J. Regalado Jr. (2005) đã nghiên cứu về hiện trạng bảo tồn
các loài Thông ở Việt Nam. Công trình đã xác định được 33 loài Thông bản địa thuộc
5 họ. Trong đó có 14 loài thuộc danh sách các loài bị đe dọa tuyệt chủng trên thế giới;
29 loài được đánh giá bị đe dọa tuyệt chủng ở cấp độ quốc gia, đồng thời xác định
được danh sách 10 loài Thông ưu tiên cho công tác bảo tồn. Những mối đe dọa đối với
8
Thông Việt Nam được xác định là: Mức sử dụng không bền vững của khai thác thương
mại và khai thác tại địa phương, khai thác sản phẩm ngoài gỗ, cháy rừng, chuyển đổi
thành đất nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, lai tạp với các loài ngoại lai được nhập
nội, cùng với những vấn đề về tái sinh và di truyền đối với những quần thể nhỏ, phân
tán của những loài cây gỗ đang chịu sức ép về sinh thái [24].
Lê Ngọc Công (2004) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống kê
được các taxon thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi, 654
loài chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý như: Lim, Dẻ,
Trai, Nghiến [14].
Nguyễn Thị Yến (2008) khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng
nguồn tài nguyên cây thuốc ở một số kiểu thảm thực vật tại xã Xuân Sơn, huyện Tân
Sơn, tỉnh Phú Thọ, đã thống kê được 20 loài thực vật quý hiếm, trong đó có 15 loài ở
mức sẽ nguy cấp (VU) và 5 loài ở mức nguy cấp dựa theo những thứ hạng và tiêu
chuẩn của Sách đỏ Việt Nam (2007) và IUCN (1994) [52].
Hoàng Văn Sâm và cộng sự (2009) đã công bố khu hệ thực vật ở Vườn quốc
gia Bến En với 1.389 loài của 65 chi, 173 họ. Họ đa dạng nhất là họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae) với 113 loài, bên cạnh đó có 47 họ chỉ có duy nhất một loài đại

diện [55].
Nguyễn Duy Chính và các cộng sự (2009) đã nghiên cứu ĐDSH thực vật rừng
Thông ba lá (Pinus kesiya) mọc tự nhiên ở Lâm Đồng và vùng lân cận và đưa ra kết
luận: Thành phần loài thực vật có mạch ở kiểu rừng Thông ba lá mọc tự nhiên gồm
244 loài thuộc 179 chi, 68 họ của 4 ngành: Lycopodiophyta, Polypodiophyta,
Pinophyta và Magnoliophyta [11].
1.2.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam
Trên quan điểm sinh thái phát sinh, Thái Văn Trừng (1978, 1998) đã xây dựng
bảng phân loại rừng Việt Nam. Trong hệ thống này, tác giả đã sắp xếp các kiểu thảm
thực vật hiện có ở Việt Nam vào một khung hợp lý, qui định được trật tự trước sau
giữa các nhân tố sinh thái, đồng thời lại theo một trật tự giảm dần từ kiểu tốt nhất đến
kiểu xấu nhất. Đây là một công trình tổng quát, đáp ứng được qui hoạch sinh thái. Tuy
nhiên, theo tác giả thì bảng phân loại này thuộc loại đặc biệt hay mang tính chất địa
phương của một vùng hay một khu vực. Bảng phân loại được chia làm hai nhóm:
Nhóm các kiểu thảm thực vật ở vùng thấp (có độ cao dưới 1000m ở miền Nam và dưới
700m ở miền Bắc) và nhóm các kiểu thảm thực vật ở vùng cao (có độ cao trên 1000m
ở miền Nam và trên 700m ở miền Bắc), cụ thể như sau [46], [47]:
9
- Nhóm các kiểu thảm ở độ cao dưới 1000m ở miền Nam, dưới 700m ở miền
Bắc có các kiểu sau:
+ Các kiểu rừng rú kín vùng thấp:
(1) Kiểu rừng kín thường xanh mưa hơi ẩm nhiệt đới: Là quần thụ nhiều tầng,
cao 25-30m, cây gỗ lớn thường xanh, các loài cây chủ yếu: Dầu, Sao, Kiền kiền, Chò
chỉ, Chò nâu, Dầu rái, Táu, Vên vên,
(2) Kiểu rừng kín nửa rụng lá khô nhiệt đới: Là quần thụ phải bao gồm có 25%-
75% cây rụng lá. Loài cây chủ yếu là các loài thuộc các họ: Dầu, Bàng, Tử vi, Dâu
tằm, Xoan, Bời lời, Đậu, Trôm, Mỡ, Bồ đề, Lim, Sau sau và Nứa.
(3) Kiểu rừng kín rụng lá, hơi ẩm nhiệt đới: Kiểu này có cấu trúc đơn giản, gồm
2 tầng, tầng cao gồm những cây rụng lá cao trung bình 25m, tầng dưới cao 15-20m.
Các loài cây chủ yếu: Tử vi, Thung, Dẻ, Sau sau, Gạo, Sổ, Bồ đề, Xoan, Thẩu tấu

lông, Thành ngạnh,
(4) Kiểu rú kín lá cứng, hơi khô nhiệt đới: Kiểu này ít gặp ở Việt Nam, thường
ở ven biển và Nam Trường Sơn.
+ Các kiểu rừng thưa:
(1) Kiểu rừng thưa cây lá rộng, rụng lá, khô nhiệt đới: Phân bố ở các vùng Đắc
Lắc, Thuận Hải, Buôn Ma Thuột, Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Tây, Hoà Bình.
(2) Kiểu rừng thưa cây lá kim hơi khô á nhiệt đới núi thấp: Phân bố ở Sơn La,
Đà Lạt.
Các kiểu rừng thưa trên chiếm một diện tích rộng ở miền Nam, có đặc điểm
chính là tầng cây gỗ thưa cây. Các loài cây chủ yếu là: Dầu, Bàng, Cẩm liên, Cà chắc,
Chiêu liêu, Sơn, Thẩu tấu lông, Me rừng
+ Các kiểu trảng, truông:
(1) Kiểu trảng cây to, cây bụi cỏ cao, khô nhiệt đới (gặp nhiều ở miền Nam, ở
miền Bắc gặp ở Hà Bắc, Lai Châu, Nghệ An, Hà Tĩnh). Đặc điểm của kiểu này là tầng
ưu thế sinh thái là tầng cỏ, trong tầng cây thì mật độ cây to, nhỏ cây bụi rất thưa thớt.
Thực vật chủ yếu là các cây thuộc các họ Lúa, họ Tuế, họ Thầu dầu, họ Trôm và họ Cỏ
lào.
(2) Kiểu truông bụi gai, hạn nhiệt đới (thường gặp ở vùng thấp và cao trung
bình) với nét đặc trưng là thành phần thực vật chủ yếu là cây bụi có gai, và thảm cỏ
thưa thớt.
10
- Nhóm các kiểu thảm vùng núi có độ cao trên 1000m (ở miền Nam) và trên
700m (ở miền Bắc) gồm:
+ Các kiểu rừng kín:
(1) Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp (thường gặp
miền Bắc);
(2) Kiểu rừng kín hỗn hợp lá rộng, lá kim, ẩm á nhiệt đới núi thấp (thường gặp
ở miền Bắc);
(3) Kiểu rừng lá kim ẩm ôn đới núi vừa (thường gặp ở vùng núi cao như dãy
Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Nam Trung Bộ).

(4) Đó là các kiểu rừng vùng cao, có các quần thụ cây gỗ kín rậm. Thực vật
gồm các loài: Dẻ, Re, Ngọc lan, Sau sau, Cáng lò, Tre gầy, Giang, Nghiến, Kim giao,
Hoàng đàn.
+ Các kiểu quần hệ khô lạnh vùng cao:
(1) Kiểu quần hệ khô vùng cao: Đó là rừng cây bụi nhỏ, trảng cỏ cao, cỏ thấp,
nhóm loài ưu thế, đặc trưng gồm: Dẻ, Óc chó, Cỏ lách, Cỏ lào, Ngải cứu.
(2) Kiểu quần hệ lạnh vùng cao (thường gặp ở đỉnh núi cao như Phan Si Phăng,
Tà Pình, Tây Côn Lĩnh ) nhóm loài ưu thế, đặc trưng gồm: Dẻ, Pơ mu, Đỗ quyên,
Thông
Phan Kế Lộc (1985) dựa trên bảng phân loại của UNESCO 1973, cũng đã xây
dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15 dưới lớp,
32 nhóm quần hệ và 77 quần hệ khác nhau [40]:
- Lớp quần hệ 1: Rừng rậm. Lớp quần hệ này gồm 3 phân lớp quần hệ chính là:
rừng thường xanh, rừng rụng lá và rừng khô.
+ Phân lớp quần hệ rừng thường xanh nhiệt đới, gồm: Nhóm quần hệ rừng mưa
thường xanh; Nhóm quần hệ rừng mưa mùa thường xanh; Nhóm quần hệ rừng nửa
rụng lá nhiệt đới;
+ Phân lớp quần hệ rừng rụng lá nhiệt đới;
+ Phân lớp quần hệ rừng khô nhiệt đới, gồm: Nhóm quần hệ rừng lá cứng khô;
Nhóm quần hệ rừng gai.
- Lớp quần hệ 2: Rừng thưa. Lớp quần hệ này có 3 phân lớp quần hệ:
+ Phân lớp quần hệ rừng thưa thường xanh, gồm: Nhóm quần hệ rừng thưa lá
rộng; Nhóm quần hệ rừng lá kim.
+ Phân lớp quần hệ lá rộng rụng lá vùng núi và vùng đất thấp
11
+ Phân lớp quần hệ rừng thưa khô, gồm: Nhóm quần hệ rừng thưa lá cứng khô;
Nhóm quần hệ rừng thưa có gai.
- Lớp quần hệ trảng cây bụi.
- Lớp quần hệ trảng cây bụi lùn.
- Lớp quần hệ trảng cỏ.

Vũ Tự Lập và cộng sự (1995) cho rằng, khí hậu ảnh hưởng đến sự hình thành
và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào mối quan hệ giữa
hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác nhau: Kiểu rừng rậm nhiệt đới
gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm thường xanh; kiểu rừng rậm nhiệt đới gió
mùa nửa rụng lá; kiểu rừng khô nhiệt đới gió mùa khô rụng lá; kiểu rừng thưa nhiệt
đới khô lá kim; kiểu sa van nhiệt đới khô; kiểu truông nhiệt đới khô; kiểu rừng nhiệt
đới trên đất đá vôi; kiểu rừng nhiệt đới trên đất mặn; kiểu rừng nhiệt đới trên đất phèn;
kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm hỗn
giao; kiểu rừng thưa á nhiệt đới hơi ẩm lá kín; kiểu rừng rêu á nhiệt đới mưa mùa; kiểu
rừng lùn đỉnh cao [29].
Lê Ngọc Công (2004) cũng dựa theo khung phân loại của UNESCO (1973) đã
phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành 4 lớp quần hệ: Rừng rậm; rừng
thưa; trảng cây bụi và trảng cỏ. Ở đây, những trạng thái thứ sinh (được hình thành do
tác động của con người như: khai thác gỗ, củi, chặt đốt rừng làm nương rẫy ) bao
gồm: trảng cỏ; trảng cây bụi và rừng thưa [14].
1.2.3. Văn bản chính sách về công tác bảo tồn đa dạng sinh học
Việt Nam đã có những cam kết và hành động cụ thể để quản lý, bảo tồn và phát
triển nguồn tài nguyên động, thực vật hoang dã. Điều này được thể hiện bằng một loạt
các văn bản, chính sách đã ra đời. Ba mốc quan trọng nhất trong lĩnh vực bảo tồn của
Việt Nam là sự ra đời của Nghị định 18/HĐBT (1992), Nghị định 48/2002/NĐ-CP
(2002) và Nghị Định 32/2006/NĐ-CP. Nghị định 18/HĐBT nhằm thực hiện Điều 19
của Luật bảo vệ rừng năm 1991. Nghị định này quy định danh mục các loài động thực
vật rừng quý hiếm cần được bảo vệ. Đây là nghị định đầu tiên có định nghĩa về các
loài quý, hiếm và các loài động vật hoang dã thông thường ở Việt Nam. Năm 2002,
Chính phủ ban hành Nghị định số 48/2002/NĐ- CP để sửa đổi, bổ sung danh mục thực
vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành theo Nghị định 18/HĐBT và chế độ quản lý
bảo vệ. Việc ban hành và thực hiện Nghị định này đã đem lại nhiều cơ hội tồn tại cho
nhiều loài động thực vật hoang dã. Ví dụ, trước năm 1992, nhiều loài cây lấy gỗ bị
khai thác kiệt, do không có chính sách và cơ chế quản lý, bảo vệ. Sau khi Nghị định
18/HĐBT được ban hành rất nhiều các vụ việc liên quan đến việc khai thác, buôn bán

và sử dụng các loài quí hiếm được quy định trong Nghị định đã bị xử phạt, truy tố theo
12
đúng quy định. Tuy nhiên, Nghị định này cũng còn một số vấn đề tồn tại. Ví dụ, việc
điều tra giám sát các loài quy định trong Nghị định (Điều 5; 6) cũng chỉ được thực
hiện một phần ở các khu rừng đặc dụng mà không được thực hiện ở các khu rừng
khác, nơi có các loài đó phân bố. Do thiếu các tư liệu và thông tin cần thiết, việc thực
thi Nghị định cũng gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, việc nhận dạng các loài thực vật quý
hiếm, đặc biệt các sản phẩm của chúng là rất khó khăn đối với hầu hết các cơ quan
thực thi như Kiểm lâm, Hải quan, Công an và quản lý thị trường. Hầu như chưa có tài
liệu nhận dạng hoặc hỗ trợ nhận dạng nào được xuất bản để trợ giúp cho việc thực thi
Nghị định. Việc xử phạt cũng gặp rất nhiều khó khăn. Ví dụ, vi phạm đối với các loài
động vật thường được quan tâm hơn là đối với các loài thực vật, mặc dù chúng đều có
tên trong cùng một nhóm của Nghị định. Để khắc phục hạn chế trên, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 32/2006/NĐ-CP. Đây là Nghị định mới nhất được ban hành nhằm thay
thế Nghị định 18/HĐBT và Nghị định 48/2002/NĐ-CP để phù hợp với Luật BV&PTR
(2004). Về cơ bản, Nghị định 32/2006/NĐ-CP đã được soạn thảo kỹ lưỡng hơn, các
quy định đã được nêu rõ ràng, đặc biệt các quy định để thực thi. Tuy nhiên, việc thực
thi Nghị định cũng gặp các vấn đề tương tự như Nghị định 18/HĐBT. Ví dụ, không có
hướng dẫn nhận dạng các loài được quy định trong Nghị định, đặc biệt là các sản
phẩm. Việc tiến hành xử phạt các vụ vi phạm theo Nghị định 32/2006/NĐ-CP cũng
gặp khó khăn vì khó định giá được các loài quý hiếm, do đó không áp dụng được mức
độ xử phạt hoặc truy cứu trách nhiệm thích hợp. Ngày 1 tháng 7 năm 2009 luật ĐDSH
của Việt Nam chính thức có hiệu lực. Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được luật
ĐDSH ưu tiên bảo vệ, lưu giữ và bảo quản lâu dài. Luật ĐDSH là một bước tiến quan
trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động bảo tồn và phát triển giá trị
ĐDSH của Việt Nam [6], [61].
Ở Việt Nam, tuyển tập “Sách đỏ Việt Nam (phần thực vật)” của tập thể tác giả
thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, nay là Viện Khoa học và
công nghệ Việt Nam là tài liệu duy nhất công bố một cách đầy đủ các loài thực vật quý
hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam. Cuốn sách được xuất bản vào các năm

1992, 1996 và mới nhất là năm 2007. Trong cuốn “sách đỏ Việt Nam (phần thực vật)”
năm 2007 đã công bố 847 loài (thuộc 201 họ) quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng cần
được bảo vệ [2].
Theo nghị định 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật, động vật rừng nguy
cấp, quý, hiếm đã chia thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm thành 2
nhóm [13]:
- Nhóm I: Nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những
loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị đặc biệt về khoa học, môi trường hoặc có
giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn rất ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt
chủng cao. Thực vật rừng, động vật rừng nhóm I được phân thành: nhóm IA gồm các
13
loài thực vật rừng thuộc 2 ngành là: ngành Thông với 7 loài và ngành Ngọc lan với 8
loài, nhóm IB gồm các loài động vật rừng.
- Nhóm II: Hạn chế khai thác sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài
thực vật rừng, động vật rừng có giá trị khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về
kinh tế, số lượng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Thực vật
rừng, động vật rừng nhóm II cũng được chia thành: nhóm IIA gồm các loài thực vật
rừng thuộc 2 ngành: ngành Thông với 10 loài và ngành Ngọc lan với 27 loài, nhóm IIB
gồm các loài động vật rừng có giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn rất ít trong
tự nhiên.
1.3. Tài nguyên cây gỗ và một số tư liệu về tiêu chuẩn phân loại gỗ tại Việt Nam
1.3.1. Tài nguyên cây gỗ rừng Việt Nam
Theo Trần Hợp, Nguyễn Bội Quỳnh (1993) dựa trên thống kê của các nhà khoa
học Pháp thì trong hệ thực vật Đông Dương nhóm cây thân gỗ chiếm khoảng 1.200
loài thuộc trên 100 họ thực vật có hạt. Trong số 1.200 loài thì chỉ có khoảng vài trăm
loài gỗ có giá trị kinh tế cao và chỉ có trên dưới 100 loài có tác dụng tạo nên các kiểu
rừng giàu với trữ lượng lớn, còn đa số mọc hỗn giao, rải rác trong các kiểu rừng khác
nhau. Các tác giả cũng đã giới thiệu một số họ thực vật có nhiều loài cây gỗ có giá trị
kinh tế cần được quan tâm quản lý và phát triển (bảng 1.1) [28].
Cũng trong cuốn sách “Cây gỗ kinh tế ở Việt Nam” các tác giả Trần Hợp và

Nguyễn Bội Quỳnh (1993) [28] đã giới thiệu được 780 loài cây gỗ và tre nứa khác
nhau thuộc 93 họ thực vật có hạt của 2 ngành Thông và Ngọc lan. Các loài cây gỗ
được giới thiệu bao gồm cây bản địa và cây nhập nội đã được trồng đại trà. Các thông
tin về loài được thể hiện qua các nội dung chính như: (i). Đặc điểm hình thái (dạng
sống, kích thước cây, hình thái tán, thân cây, cành, vỏ cây, lá và hoa quả…); (ii).
Nguồn gốc và vùng phân bố tự nhiên ; (iii). Đặc điểm sinh vật học và sinh thái học;
(iv). Mùa hoa quả ; (v). Đặc điểm của gỗ (màu sắc, kết cấu, tỷ trọng, tính chất cơ lý,
độ bền tự nhiên…) ; (vi). Giá trị sử dụng của gỗ và các giá trị ngoài gỗ đi kèm. Đây có
thể được xem là công trình toàn diện nhất về các loài cây gỗ kinh tế ở Việt Nam cho
đến nay.
14
Bảng 1.1. Phân bố số lượng loài cây gỗ theo các họ thực vật chủ yếu
Họ
Số chi
cây gỗ
Số loài
cây gỗ
Đặc trưng và khả năng cung cấp gỗ
1. Họ Đậu
(Fabaceae)
(gồm họ phụ Đậu,
Vang, Trinh nữ)
40 100
Phân bố rộng trên toàn quốc. Cho gỗ tốt, vân đẹp,
cứng và có nhiều loại gỗ quý hiếm (Lim xanh, Cẩm
lai, Giáng hương, Trắc, Sưa, Gụ, Gõ, Xoay, Muồng
đen…)
2.Họ Dâu tằm
(Moraceae)
10 >100

Cây ưa sáng mọc nhanh, rải rác trong rừng, trường
cho gỗ có chất lượng trung bình (Mít, Mít nài) hay
kém (Đa, Sung, Si, Sui…)
3.Họ Sồi dẻ
(Fagaceae)
5 >100
Cây gỗ lớn, mọc rải rác trên các loại hình rừng núi,
khí hậu thiên về á nhiệt đới miền Bắc VN. Cây cho gỗ
cứng, tủy tuyến rõ, vân không rõ và dễ bị nứt nẻ,
dùng để xây dựng, đóng đồ thông thường (Cà ổi,Sồi
phảng, Dẻ cau, )
4. Họ Long não
(Lauraceae)
15 78
Đóng vai trò rất lớn trong các quần xã sinh vật rừng ở
các tỉnh phía Bắc. Cây cho gỗ tuy mềm nhưng kết cấu
mịn, đặc biệt có hương thơm (Re hương, Re gừng,
Bời lời, Long não, Pháo lái)
5. Họ Thầu dầu
(Euphorbiaceae)
30 50
Cây thường mọc nhanh, tiên phong nơi đất rừng mới
phục hồi. Gỗ nhỏ dễ gia công để đóng đồ mộc thông
dụng (Sòi, Ba soi, Vạng…)
6. Họ Dầu
(Dipterocarpaceae
)
7 45
Số cá thể lớn, tập trung, chiếm ưu thế trong nhiều loại
rừng, đặc biệt là ở các tỉnh phía Nam (Kiền kiền, Sao

đen, Táu mật, Chò chỉ, Cẩm liên, Cà chắc, Vên vên,
Dầu rái,…)
7. Họ Bồ hòn
(Sapidaceae)
12 40
Số lượng cá thể khá phong phú và mọc rải rác trong
mọi kiểu rừng từ Bắc đến Nam. Cho gỗ tốt, cứng, vân
đẹp, màu sắc đậm - thường đỏ nâu (Trường mật,
Nhãn rừng, Vải thiều rừng)
8. Họ Xoan
(Meliacae)
12 30
Cây mọc rải rác trong rừng tự nhiên, đặc biệt ở miền
Bắc. Cây mọc nhanh, gỗ ván đẹp, dễ gia công, nhiều
loài quý (Lát hoa, Dạ hương, Chua khét).
9. Họ Ngọc lan
(Magnoliaceae)
5 25
Phân bố chủ yếu vùng núi ẩm ướt miền Bắc VN. Một
số loài được gây trồng rộng rãi vì mọc nhanh và gỗ
lớn. Cây cho gỗ tuy nhẹ nhưng mềm mại, vân gỗ óng
ánh, có hương thơm và ít bị mối mọt. (Giổi, Vàng
tâm, Mỡ…)
10. Họ Thông
(Pinacaea)
4 7
Cùng với các họ khác trong ngành Hạt trần (Kim
giao, Bụt mọc, Bách) đều cho gỗ quý, vân đẹp, mùi
thơm, dễ gia công chế biến. Nhiều loài mọc thành
quần thụ thuần loài vùng núi cao có khí hậu thiên về á

nhiệt đới; một số loài đã được gây trồng rộng rãi
(Thông nhựa, Thông ba lá, Thông mã vĩ).
(Nguồn: Trần Hợp, Nguyễn Bội Quỳnh, 1993)
15
1.3.2. Phân loại gỗ tại Việt Nam
Trong xã hội phong kiến khi nền kinh tế còn kém phát triển, việc phân loại gỗ
cũng mang tính chất tự phát không có những quy định mang tính pháp lý; khi đó các
sản phẩm gỗ chỉ là gỗ tròn hoặc gỗ đẽo vuông được chia thành 3 hạng là: Thiết mộc,
hồng sắc và tạp mộc [45].
- Thiết mộc với đặc tính là cứng chắc và bền lâu, hạng này còn được gọi là tứ
thiết vì dựa vào 4 loại gỗ cứng thường dùng là Đinh, Lim, Sến, Táu; các loại gỗ có
tính năng tương tự 4 loại này gồm: Trai, Nghiến, Kiền kiền, cũng được xếp vào hạng
thiết mộc;
- Hạng gỗ hồng sắc được xác định bằng một số tính chất không cụ thể, bao
gồm nhiều yếu tố khác nhau về màu sắc, độ cứng và độ bền tự nhiên ở mức độ trung
bình như các loại Dẻ, Gội, Re,
- Tạp mộc hay bạch tạp, thường là những loại gỗ có màu trắng sáng, mềm và
dễ bị sâu nấm phá hoại trong điều kiện sử dụng tự nhiên như Bồ đề, Trám, Vạng,
Trong thời kỳ Pháp thuộc, tháng 10/1921 ở Việt Nam đã có Nghị định (số
2957) quy định về phân hạng gỗ, theo đó các loại gỗ thương phẩm được xếp thành hai
hạng (nhóm): gỗ tròn và gỗ đẽo vuông, mỗi hạng gỗ lại được chia thành 5 hạng nhỏ:
Hạng gỗ quý, gồm 11 loại gỗ; Hạng nhất, gồm 17 loại gỗ; Hạng nhì, gồm 28 loại gỗ;
Hạng ba, gồm 37 loại gỗ; Hạng tư, gồm tất cả loại gỗ chưa được xếp vào các hạng trên.
Đối với mỗi hạng gỗ trên còn quy định đường kính tối thiểu của cây được chặt
và tiền bán lâm sản do người khai thác phải nộp cho nhà nước tính theo mét khối.
Sau Cách mạng tháng Tám (1945) và miền Bắc được giải phóng, ngày 1/3/1957
các Bộ Nông lâm - Tài chính đã ban hành Nghị định số 4ND/LB quy định phân chia
gỗ tròn thành 8 hạng [45]:
- Hạng 1: gồm những loại gỗ khan hiếm vì ít có trong rừng hoặc đã bị khai thác
quá nhiều. Đặc tính chủ yếu là màu gỗ đẹp, vân nhiều hoặc có hương vị đặc biệt, được

ưa chuộng trong công nghiệp đồ mộc đắt tiền;
- Hạng 2: gồm những loại gỗ có cường độ chịu lực cao nhất và sâu nấm khó phá
hại. Những loại gỗ trong hạng này chủ yếu dành cho xây dựng cơ bản, làm khung tàu
thuyền, cầu và những bộ phận chịu lực cao;
- Hạng 3: gồm những loại gỗ cường độ chịu lực cao, bền lâu thích hợp để làm
vỏ thuyền;
- Hạng 4: gồm những loại gỗ nhẹ, mềm dễ gia công chế biến, có màu sắc và vân
thớ đẹp, ít bị sâu nấm phá hại trong một thời gian dài. Những loại gỗ trong hạng này
chủ yếu dùng làm đồ mộc và những cấu kiện như trong kiến trúc;
16
- Hạng 5, 6, 7 và 8: gồm những loại gỗ mềm nhẹ, mau bị sâu nấm phá hại, tùy
theo tính chất bền lâu và cường độ chịu lực nhiều hay ít mà các loại gỗ được xếp vào
các hạng từ 5 đến 8. Các hạng này chiếm trên 80% sản lượng gỗ của rừng.
Sự phân hạng gỗ như trên chủ yếu dựa vào màu sắc, hương vị, mặt gỗ, cường
độ chịu lực, độ bền trong sử dụng tự nhiên và khả năng gia công chế biến. Trong đó độ
bền tự nhiên được xem là tiêu chuẩn chủ yếu để xếp hạng gỗ, là yếu tố quyết định giá
trị sử dụng của gỗ.
Bảng 1.2. Đặc trưng các loại gỗ phân theo các nhóm theo Quyết định số 2198,
ngày 26/11/1977 của Bộ Lâm nghiệp
Nhóm
gỗ
Đặc trưng nhóm gỗ
Số
loại
gỗ
Tên loại gỗ (đại diện)
Tên VN Tên khoa học
I
Gỗ quý nổi tiếng trong nước
và thị trường quốc tế vì có

màu sắc, vân đẹp, có hương
thơm, bền
41
Lát hoa
Gụ lau
Giáng hương
Chukrasia tabularis
Sindora tonkinensis
Pterocarpus macrocarpus
II
Gỗ nặng, cứng bao gồm các
loài cây cho tỷ trọng lớn,
cường độ chịu lực cao
26
Lim xanh
Kiền kiền
Nghiến
Erythrophleum fordii
Hopea pierrei
Parapentace tonkinensis
III
Gỗ nhẹ và mềm hơn nhưng
dẻo dai, bền, chịu lực cao
thường dùng trong xây dựng,
đóng tàu thuyền
24
Chò chỉ
Cà ổi
Huỷnh
Parashorea chinensis

Castanopsis indica
Tarrietia cochinchinensis
IV
Gỗ có màu, thớ mịn, dễ chế
biến, tương đối bền, thích hợp
với việc gia công đóng đồ
mộc, làm gỗ lạng
34
Bời lời vàng
Dầu mít
Mít
Litsea vang
Dipterocarpus artocarpifolius
Artocarpus integrifolia
V
Nhóm gỗ thường, chất lượng
kém hơn, có tỷ trọng trung
bình
65
Chò xanh
Dầu rái
Nang
Terminalia myriocarpa
Dipterocarpus altus
Alangium ridley
VI
Nhóm gỗ nhẹ, có sức chịu lực
kém
70
Chò nâu

Ràng ràng mít
Xoan đào
Dipterocarpus tonkinensis
Ormosia balansea
Pygeum arborium
VII
Nhóm gỗ nhẹ, có sức chịu lực
kém, sức chống mối mọt thấp
46
Cao su
Trám trắng
Ươi
Hevea brasiliensis
Canarium album
Scaphyum macropodum
VIII
Nhóm gỗ nhẹ, có sức chịu lực
và khả năng chịu mối mọt rất
kém
48
Ba bét
Bồ đề
Hu đay
Mallotus cochinchinensis
Styrax tonkinensis
Trema orientalis
(Nguồn: Lê Xuân Tình, Nguyễn Đình Hưng, Nguyễn Xuân Khu, 1992)
Tháng 4/1960, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 10-CP vạch ra
phương châm và nguyên tắc cơ bản cho nhiệm vụ quản lý sản xuất và tiêu thụ nguyên
liệu gỗ, đồng thời quy định hệ thống đầu tiên về phân loại và tiêu chuẩn hóa các sản

17
phẩm gỗ. Dựa trên các tiêu chuẩn của Nghị định 4ND/LB (1957) đã ban hành một
bảng phân loại gỗ gồm 8 nhóm theo tiêu chuẩn Nhà nước. Trong đó, nhóm I gồm 18
loại gỗ, nhóm II - 16 loại, III - 11 loại, IV - 15 loại, V - 43 loại, VI - 52 loại, VII - 33
loại, VIII - 22 loại gỗ [45].
Sau khi thống nhất đất nước (1975), trên cơ sở Nghị định 10-CP/1960, bổ sung
các loại gỗ đang sử dụng ở các tỉnh phía Nam vào bảng phân loại 8 nhóm gỗ để tổng
hợp thành "Bảng phân loại tạm thời các loại gỗ sử dụng thống nhất trong cả nước" ban
hành theo Quyết định số 2198 ngày 26/11/1977 của Bộ Lâm nghiệp, có hiệu lực từ
ngày 1/1/1978, đến nay vẫn chưa thay đổi [45].
1.4. Những nghiên cứu về thực vật ở Quảng Trị
Quảng Trị nằm trong vùng Bắc Trung Bộ với địa hình phức tạp, đã tạo nên các
hệ sinh thái phong phú từ vùng đồng bằng, ven biển đến các vùng gò đồi - núi đá. Các
hệ sinh thái phong phú là cơ sở hình thành tính ĐDSH cao. Mặc dù chưa có công trình
nghiên cứu nào tiến hành đầy đủ, thống kê và để đánh giá hết tiềm năng ĐDSH của
tỉnh Quảng Tri tuy nhiên tiềm năng ĐDSH của tỉnh phần nào thể hiện qua kết quả của
một vài công trình nghiên cứu.
1.4.1. Thảm thực vật
Quảng Trị bao gồm các kiểu thảm thực vật trên đất địa đới, phi địa đới và nội
địa đới [67].
- Các kiểu thảm thực vật trên đất địa đới
+ Kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi: Phân bố chủ
yếu ở Tây Bắc Hướng Hoá, thường gặp ở độ cao 500-600m và che phủ phần lớn diện
tích đất rừng trong khu vực. Kiểu rừng này thường có cấu trúc 3 tầng: tầng ưu thế sinh
thái chiều cao trên 20m với tổ thành các loài Sao Hải Nam (Hopea hainanensis), Kiền
kiền (H. pierrei), Sâng (Pometia pinnata), Đa (Ficus callosa), Sấu (Dracomelum
duperreanum), Hoàng đàn giả (Dacrydium pierrei), Trai (Garcinia fagraeoides), Nhội
(Bischofia javanica) …
+ Kiểu rừng kín thường xanh cây lá rộng á nhiệt đới núi trung bình: Phân bố
chủ yếu ở độ cao 700-1.500m như ở dãy núi trung bình Động Voi Mẹp, trên khối núi

thuộc động A Pông ở khu BTTN Đakrông. Kiểu rừng này ít bị tác động, còn giữ được
nhiều tính chất nguyên sinh, tán rừng chia 4 tầng. Độ tàn che dao động trong khoảng
0,7-0,8; có những chỗ đạt tới 0,9. Tổ thành thực vật chủ yếu là các loài cây lá rộng
thuộc các họ Dẻ (Fagaceae), Long não (Lauraceae), Thầu dầu (Euphorbiaceae), Đậu
(Fabacea), Ngọc lan (Magnoliaceae), Sến (Sapotaceae)…

×