Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

QUẢN LÝ HỆ SINH THÁI ĐẤT NGẬP NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.82 KB, 17 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có 3260km bờ biển, 2630 con sông có chiều dài từ 10km trở lên và 26 phân
lưu của các sông lớn, lớn nhất là vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, hàng ngàn hồ
chứa nước tự nhiên và nhân tạo, với hơn 4 triệu ha đất trồng lúa… đã tạo nên các hệ sinh thái
đất ngập nước phong phú và đa dạng trong cả nước.
Đất ngập nước (ĐNN) gồm nhiều loại hình từ ao hồ, sông ngòi, đầm lầy, đồng lúa…
đến rừng ngập mặn phát triển trên đất lầy mặn ven biển, rừng tràm phát triển trên đất chua
phèn, các đầm ao nuôi trồng thủy sản, các bãi cá, rạn san hô đã tạo nên các sinh cảnh đẹp, trù
phú, đem lại nguồn lợi to lớn cho đất nước. Chúng cung cấp cho xã hội nhiều loại sản phẩm
nông – lâm nghiệp, thủy sản có giá trị kinh tế cao, cung cấp lương thực, thực phẩm, nước dùng
trong sinh hoạt, cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Đồng thời đây cũng là nơi sống, nơi
cung cấp thức ăn cho nhiều loài động vật hoang dã. ĐNN là nơi có đa dạng sinh học cao, đặc
biệt là các loài chim nước, trong đó có nhiều loài chim quý hiếm.
Mặc dù có vai trò to lớn về nhiều mặt, nhưng đất ngập nước thường rất nhạy cảm với
các hoạt động của con người và các tác động của thiên nhiên. Do đó việc quản lý ĐNN một
cách khôn ngoan, sao cho vừa khai thác hợp lý các tài nguyên ĐNN để phục vụ cho cuộc sống
của con người nhưng vẫn duy trì được các chức năng và thuộc tính của chúng đang trở thành
mối quan tâm của các nhà quản lý, những nhà ra quyết định đối với ĐNN.
1. Khái quát về đất ngập nước
1.1. Định nghĩa
Trên thế giới hiện đã có trên 50 định nghĩa về đất ngập nước (Mitsch and Gosselink,
1986 & 1993; Dugan, 1990) theo nhiều mức độ và mục đích khác nhau.
Theo Công ước RAMSAR thì "Đất ngập nước bao gồm: những vùng đầm lầy, đầm lầy
than bùn, những vực nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, những vùng ngập nước tạm thời hay
thường xuyên, những vực nước đứng hay chảy, là nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, kể cả
những vực nước biển có độ sâu không quá 6m khi triều thấp”
Bản đồ đất ngập nước toàn cầu
Liên đoàn bảo vệ thiên nhiên thế giới IUCN năm 1971 định nghĩa “Đất ngập nước là
những vùng đất bão hòa nước hoặc thường xuyên bị ngập nước, dù là tự nhiên, nhân tạo, ngập
nước thường xuyên hoặc định kỳ, dù là nước tĩnh hoặc nước chảy, nước ngọt nước lợ hoặc
nước mặn. Những vùng ngập nước như những đầm lầy, vũng lầy, đầm rừng, than bùn, cửa


sông, vịnh biển, eo biển, ao hồ, đầm phá, sông, hồ chứa”.
Những định nghĩa theo nghĩa hẹp, nhìn chung đều xem đất ngập nước như đới chuyển
tiếp sinh thái (ecotones), những diện tích chuyển tiếp giữa những môi trường trên cạn và thủy
sinh, những nơi mà sự ngập nước của đất gây ra sự phát triển của một hệ thực vật đặc trưng
(Cowardin et al., 1979; Enny, 1985).
Ở Việt Nam có rất nhiều khu vực đất ngập nước. Vùng đất ngập nước lớn nhất của Việt
Nam là châu thổ sông Cửu Long bao gồm hệ thống sông, ngòi, kênh, rạch chằng chịt, những
cánh đồng bát ngát, rừng ngập mặn, rừng chàm, các bãi triều, ao nuôi tôm, cá.
Ở miền Trung, các vùng đất ngập nước là các đầm phá ven biển, các hồ chứa nước nhân
tạo.
Ở miền Bắc, đất ngập nước là các hồ trong hệ thống lưu vực sông Hồng, những bãi triều
rộng lớn, những cánh rừng ngập mặn của châu thổ.
Tổng diện tích đất ngập nước của Việt Nam ước tính khoảng 7 triệu đến 10 triệu ha.
1.2. Các đặc điểm tự nhiên hình thành đất ngập nước ở Việt Nam:
1.2.1. Đặc điểm địa mạo: 2/3 diện tích tự nhiên Việt Nam là đồi núi, có hướng nghiêng
chung từ Tây sang Đông. Đồng bằng Bắc bộ và Nam Bộ là những vùng trũng, tạo nên 2 vùng
ĐNN tiêu biểu cho địa mạo vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long.
1.2.2. Đặc điểm khí hậu: thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng
năm khá cao, độ ẩm tương đối lớn, lượng mưa dồi dào. Sự khác nhau về chế độ khí hậu giữa
các vùng, đặc biệt là chế độ nhiệt-ẩm có ảnh hưởng đến chế độ thủy văn của từng vùng như
thời gian ngập nước, độ sâu ngập nước, chế độ nhiệt của nước dẫn đến sự khác nhau giữa các
loại hình đất ngập nước.
1.2.3. Thổ nhưỡng: có 15 nhóm đất trong đó có 7 nhóm đất liên quan đến các đặc trưng
của các vùng đất ngập nước, đó là đất ngập mặn, đất phèn, đất phù sa, đất than bùn, đất xám và
đất cát. Do các đặc điểm khác nhau trên đã hình thành các đặc trưng về thực vật của các vùng
ĐNN với hai dạng điển hình là thực vật vùng ĐNN mặn và thực vật vùng ĐNN ngọt.
1.2.4. Đặc điểm thủy văn: chế độ dòng chảy
1.3. Các kiểu hệ sinh thái đất ngập nước
1.3.1. Các sông suối
Nước ta có trên 2500 con sông, trong đó số sông dài trên 10 km là 2360; số sông có lưu

vực từ 500 - 1000 km2 là 166. Số sông có lưu vực nhỏ hơn 500 km2 chiếm 92,55% tổng số
sông. Số sông có lưu vực nhỏ hơn 100 km2 là 1556 chiếm 66,35% tổng số sông.
1.3.2. Các hồ chứa
Theo các tài liệu hiện có, cả nước ta hiện có tổng số 68 hồ chứa nước, với tổng diện tích
242.725 ha thuộc địa bàn 38 tỉnh thành ở miền Bắc, miền Trung và Đông Nam bộ với nhiều hồ
tự nhiên nổi tiếng như: Hồ Ba Bể (Bắc Kạn), Hồ Chử (Phú Thọ) Hồ Tây (Hà Nội), Biển Hồ
(Gia Lai), Hồ Lăk (Đaklac), Hồ Biển Lạc (Bình Thuận).
3.3. Các hồ chứa nước nhân tạo
Trước năm 1945, ở Việt Nam chỉ có một số hồ chứa nước và nhà máy thuỷ điện nhỏ
như Tà Sa (825kw), Nà Ngần (750kw), Bản Thi (140kw), Bồng Miêu Ở miền Bắc sau năm
1954, nhiều hồ chứa nước đã được xây dựng như: Thác Bà, Đại Lải, Suối Hai, Núi Cốc Hiện
nay cả nước có trên 3600 hồ chứa nước nhân tạo do nhiều ngành tham gia xây dựng với mục
tiêu chống lũ, phát điện, cung cấp nước cho sinh hoạt và nuôi trồng thuỷ sản. Tính riêng các hồ
chúa nước có qui mô vừa và lớn (dung tích trên 1 triệu m3, hoặc có chiều cao đập trên 10m) thì
có khoảng 460 hồ (chiếm 13% tổng số hồ chứa). Hồ có diện tích lớn nhất là Dầu Tiếng 72.000
ha, hồ chứa có công suất lắp máy lớn nhất là Hoà Bình: 1920 MW, tiếp theo là Trị An 420
MW, Đa Nhim: 160MW, Thác Bà: 108 MW, Dray - Hling: 12MW. Tổng công suất là 2620
MW. Trong số 460 hồ chứa nước này có 285 hồ (62%) được xây dựng sau năm 1979.
Gần đây cũng đã xây dựng 4 công trình thuỷ điện ở các hồ chứa nước lớn là: Thác Mơ:
150MW, Vĩnh Sơn 66 MW, Sông Hinh 66 MW và Yaly: 690 MW. Tổng công suất là 972 MW
1.3.4. Đất ngập nước vùng đồng bằng châu thổ các sông
Việt Nam có 2 vùng châu thổ của 2 con sông lớn: Sông Hồng và sông Cửu Long. Châu
thổ sông Hồng: có độ cao so với mặt biển: 0 - 5m, diện tích 1.743.200 ha. Sông Hồng là một
con sông lớn, mỗi năm có lượng phù sa đổ ra biển khoảng 115 triệu tấn. Cây trồng chính ở đây
là lúa nước với sản lượng 3 triệu tấn thóc/ năm.
Châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông): có độ cao so với mặt biển khoảng 5m. Diện tích
3.900.000 ha trên lãnh thổ Việt Nam và khoảng 1.600.000 ha trên lãnh thổ Campuchia. Sông
Cửu Long (Mê Kông) chảy qua biên giới 6 nước, lượng phù sa của sông tương đối thấp nhưng
hàm lượng phù sa lại cao, tạo nên năng suất thứ cấp vô cùng lớn của sông này.
1.3.5. Đất ngập nước theo mùa không thường xuyên

Bao gồm các khu vực rừng tràm và các đồng cỏ ngập nước, đầm lầy. Rừng tràm phân
bố ở một số vùng như: Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, một phần tỉnh Bạc Liêu, Cà
Mau, Kiên Giang và rải rác ở một số tỉnh miền Trung. Riêng rừng tràm ở Đồng Tháp Mười có
diện tích tự nhiên 800.000 ha, chiếm 15,8% diện tích đồng bằng sông Cửu Long và rừng tràm
U Minh có diện tích 142.520 ha.
Rừng tràm là nơi có giá trị kinh tế lớn và nhiều mặt. Thảm thực vật rừng tràm cung cấp
nhiều loài cây có giá trị kinh tế cao. Cây tràm vừa là cây cho gỗ xây dựng, đóng đồ đạc, làm
củi, vừa là cây cho tinh dầu với chất lượng cao dùng trong y học và mỹ phẩm. Trong rừng tràm
cũng có rất nhiều loài cá và chim nước sinh sống. Rừng tràm còn là nơi dự trữ nước ngọt trong
mùa mưa và điều tiết nước vào mùa khô nhờ tầng thảm mục dầy được tích luỹ trên mặt đất
rừng.
1.3.6. Các bãi triều và triều lầy vùng cửa sông ven biển
Các bãi triều và triều lầy ở nước ta thường phát triển trên các vùng cửa sông, phân bố ở
độ sâu 0 m hải đồ đến mức nước triều cao nhất. Nơi đây xẩy ra sự tương tác của khối nước
sông - biển và sự ngập nước hàng ngày. Đây là vùng đất ngập mặn rộng, bao gồm các bãi triều
bùn, bùn- cát, có thảm thực vật bao phủ. Nơi có thảm thực vật thường tạo nên một hệ sinh thái
đặc thù. Đó là hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Tổng diện tích các bãi triều- triều lầy của nước ta có trên 1 triệu hecta, chủ yếu phân bố
tại các của sông lớn:
- Vùng cửa sông châu thổ sông Hồng: Từ Đồ Sơn đến Lạch Trường, tổng diện tích
52.000 ha, trong đó bãi triều lầy 25.000 ha, triều bùn cát không có thảm thực vật 27.000 ha.
Tốc độ lấn biển là 30m/năm đối với bãi triều bùn cát (giai đoạn 1940 - 1995) (N. D. Cự, 1993,
P.N. Hồng và cs, 1999).
- Vùng cửa sông châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông) có diện tích rất rộng, khoảng
600.00 - 800.00ha, trong đó 70 -80% là bãi triều lầy. Tốc độ lấn biển rất lớn, đạt 50m/năm
trong khoảng 30- 50 năm qua (N.V. Phổ, 1983).
1.3.7. Rừng ngập mặn
Trên các bãi triều lầy vùng cửa sông ven biển có thực vật bao phủ tạo nên hệ sinh thái
rừng ngập mặn. Trước chiến tranh Việt Nam có khoảng 408.500 ha rừng ngập mặn, chủ yếu là
ở Nam Bộ (250.000 ha). Từ năm 1960 đến 1971 do chiến tranh, bom đạn và chất độc hoá học

của Mỹ đã huỷ diệt gần 150.000 ha rừng ngập mặn. Sau giải phóng năm 1975, diện tích và chất
lượng rừng ngập mặn tiếp tục bị suy giảm. (Theo GS. Phan Nguyên Hồng )
1.4. Chức năng của đất ngập nước.
1.4.1. Chức năng nạp, tiết nước ngầm: vào mùa mưa, khi dư lượng nước mặt
lớn, các vùng ĐNN có tác dụng như một bể chứa nước để sau đó nước ngấm dần vào
lòng đất trong mùa khô. Quá trình này diễn ra liên tục nhằm bổ sung lượng nước cho
các tầng nước ngầm. Mặt khác, quá trình nạp và tiếp nước lien tục giữa vùng ĐNN với
các tang nước ngầm cũng góp phần thấm lọc, làm cho các tầng nước ngầm trở nên sạch
hơn. Ví dụ như, những vùng ĐNN dưới rừngTràm (U Minh Thượng), đóng vai trò giữ
nước, điều hòa độ ẩm, giữ cho lớp than bùn ẩm ướt. Thêm vào đó, có tác dụng hạn chế
quá trình phèn hóa, cung cấp nguồn nước cho sinh hoạt quanh năm cho người dân và
động vật.
1.4.2. Chức năng lắng đọng trầm tích, độc tố: các vùng ĐNN (đặc biệt là hồ,
rừng ngập mặn,bãi triều, vùng vịnh ven bờ…) có tác dụng như là các bể lắng giữ lại
trầm tích, các chất ô nhiễm, độc hại và chất thải nói chung, góp phần làm sạch nước và
ô nhiễm môi trường nước biển.
1.4.3. Chức năng tích lũy chất dinh dưỡng: giữ lại các chất dinh dưỡng (nitơ,
phốt pho, các nguyên tố vi lượng…) cho sinh vật, phát triển nguồn lợi thủy sản và lâm
nghiệp, hạn chế bớt hiện tượng phú dưỡng như ở các vùng ĐBSH, ĐBSCL và các thủy
vực khác.
1.4.4. Chức năng điều hòa vi khí hậu: đặc biệt, ở vùng có cỏ biển, rừng ngập
mặn, rạn san hô, góp phần cân bằng O2 và CO2 trong khí quyển, điều hòa khí hậu địa
phương (nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa) và giảm hiệu ứng nhà kính. Theo tính toán của
Jim Enright vàYadfon Association (2000), rừng ngập mặn có khả năng tích lũy CO2 ở
mức độ cao, rừng ngập mặn 15 tuổi giảm được 90,24 tấn CO2/ ha/năm, tác dụng lớn
làm giảm hiệu ứng nhà kính.
1.4.5. Chức năng hạn chế lũ lụt: ĐNN ( rừng ngập mặn, hồ tự nhiên, hồ nhân
tạo…) có thể đóng vai trò như bồn chứa lưu giữ, điều hòa lượng nước mưa và long
chảy mặt, góp phần giảm lưu lượng dòng chảy lũ và hạn chế lũ lụt ở các vùng lân cận
như hồ Hòa Bình, hồ Thác Bà, hồ Trị An,…

1.4.6. Chức năng sản xuất sinh khối:Là nơi sản xuất sinh khối, tạo nguồn thức ăn
cho các loại thủy sản, gia súc, động vật hoang dã hoặc vật nuôi. Ngoài ra, một phần các
chất dinh dưỡng này có từ các động thực vật đã chết sẽ được các dòng chảy bề mặt
chuyển đến các vùng hạ lưu và các vùng nước ven biển, làm giàu nguồn thức ăn cho
các vùng đó.
1.4.7. Chức năng duy trì ĐDSH: nhiều vùng ĐNN, đặc biệt là các vùng ĐNN có rừng
ngập mặn, rạn san hô, cỏ biển, là môi trường thích hợp cho việc cư trú, đẻ trứng, sinh sống và
phát triển của nhiều loài động, thực vật hoang dã. ĐNN là nơi duy trì nhiều nguồn gen, trong
đó có nhiều loài quý hiếm, có giá trị không chỉ ở Việt Nam.
1.4.8. Chức năng chắn sóng, chắn gió bão ổn định bờ biển, chống xói lở, hạn chế sóng
thần: nhờ có thảm thực vật, đặc biệt thảm thực vật rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô mà
các vùng ĐNN ven biển có chức năng bảo vệ bờ biển khỏi bị tác động của sóng, thủy triều, xói
lở, sóng thần. Mặt khác, chúng còn tạo ra môi trường thuận lợi cho việc lắng đọng phù sa, góp
phần ổn định và mở rộng bãi bồi. Các rạn san hô ngầm rộng lớn đã giảm cường độ sóng tác
động đến bờ biển, các vùng ven đảo trong thời kỳ dông bão, sóng thần.
1.4.9. Giá trị kinh tế của ĐNN: Góp phần quan trọng cho sự phát triển của các ngành
nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp, năng lượng, giao thông thủy. Các dòng chảy thường xuyên
tạo các vùng châu thổ rộng lớn phì nhiêu (là vùng sản xuất nông nghiệp trù phú), có khu hệ cá
phong phú với sản lượng cao, là nguồn lợi cung cấp cho nhiều cộng đồng dân cư sống xung
quanh.
1.4.10. Giá trị văn hóa của ĐNN: ĐNN có những giá trị văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng và
khảo cổ quan trọng đối với cộng đồng địa phương cũng như quốc gia. Rất nhiều biểu tượng nổi
tiếng mang ý nghĩa quốc gia có liên quan đến ĐNN như: Hoa Sen được chạm khắc trong các
đền chùa, trong các điệu múa, bài ca dao, là biểu tượng mới của Hàng không Việt Nam; chim
Hạc (Sếu) và Rồng là hai trong bốn loài sinh vật quý có ý nghĩa, có đời sống liên quan đến
ĐNN, còn là vật thời thiêng liêng. Rối nước ở Việt Nam là loại hình nghệ thuật độc đáo, duy
nhất.
1.5. Đa dạng hệ sinh thái đất ngập nước
Hệ sinh thái nước ngọt có khoảng 2611 loài thủy sinh vật, 1403 loài tảo, 190 loài giáp xác,
147 loài trai, ốc và 547 loài cá….

Hệ sinh thái đất ngập nước ven biển( rừng ngập mặn, rạn san hô, cửa sông….) có khoảng
350 loài san hô tạo rạn (bao gồm các nhóm động vật thân mềm và giáp xác), 15 loài cỏ biển
( cỏ Nàn, cỏ Xoan đơn, cỏ Xoan, cỏ Vic, cỏ lá dừa, cỏ lươn nhật, cỏ kim…), 667 loài rong biển
, 94 loài thực vật ngập mặn ( Sếu Cổ Trụi, cây Tráng, rừng tràm, rừng đước…)
ĐNN vùng cửa sông là nơi cư trú của các loài chim định cư và di cư có nét độc đáo về sinh
cảnh tự nhiên, chưa đựng giá trị đa dạng sinh thái lớn.
Hiện nay sản lượng khai thác thủy sản rất cao ( Việt Nam đạt 2536 triệu tấn), chủ yếu là
các loài tôm, cua, cá….
Duy trì và cung cấp các loài gen quý hiếm như Trai Ngọc, Bào ngư, Đồi mồi, Bò biển
2. TÌNH TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN SUY THOÁI ĐẤT NGẬP NƯỚC
Số lượng kiểu loại và diện tích đất ngập nước nhân tạo tăng lên nhưng diện tích các
kiểu đất ngập nước tự nhiên giảm đi ngày càng mạnh;
Chất lượng môi trường các hệ sinh thái đất ngập nước bị suy thoái ngày càng mạnh, đa
dạng sinh học các vùng đất ngập nước có xu hướng giảm;
Rừng ngập mặn, trong gần 5 thập kỷ qua, diện tích đã giảm hơn 70% do chất độc hóa
học (trước đây) và phong trào nuôi tôm công nghiệp (gần đây). Hệ sinh thái biển và nguồn lợi
hải sản cũng bị suy thoái và là một trong những vấn đề môi trường bức súc nhất, đặc biệt là các
HST san hô và cỏ biển. Kết quả điều tra từ năm 2004 đến 2007 tại 7 vùng rạn san hô trọng
điểm của Việt nam cho thấy chỉ 2,9 % diện tích rạn san hô được đánh giá trong điều kiện phát
triển rất tốt, 11,6% - tốt và 44,9% xấu và rất xấu.
Tài nguyên nước trong các hệ thống sông, hồ chứa trên cả nước đang bị suy thoái ngày
càng nghiêm trọng. Hai nguyên nhân chủ yếu là do sự khai thác quá mức cho những mục đích
khác nhau và BĐKH.
Các đe doạ đối với đất ngập nước có xu hướng gia tăng như thiên tai, sức ép dân số,
khai thác quá mức và bất hợp lý, bất cập về phương thức, quá trình đô thị hóa, các hoạt động
công – nông nghiệp, biến đổi khí hậu, cơ chế, bộ máy quản lý, thiếu sự kết hợp giữa chiến lược
phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường
3. QUẢN LÝ HỆ SINH THÁI ĐẤT NGẬP NƯỚC
3.1. Nguyên tắc, định hướng:
• Khai thác sử dụng ĐNN một cách khôn khéo, không làm biến đổi các chức năng

• Tiến hành quản lý tổng hợp, nhất là quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng
• Xây dựng thể chế, chính sách, quy hoạch, căn cứ pháp lý
• Quy hoạch và triển khai các hoạt động bảo vệ các vùng ĐNN quan trọng và các HST
ĐNN là điểm nóng cần được bảo tồn
• Lồng ghép quản lý ĐNN vào kế hoạch phát triển kinh tế địa phương
• Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ về nghiên cứu, bảo tồn và sử dụng khôn khéo các
HST ĐNN trên cơ sở bảo tồn để phát triển bền vững;
• Tạo những thu nhập thay thế giúp cộng đồng giảm sức ép lên ĐNN. Gắn hoạt động
phát triển kinh tế với bảo tồn ĐNN;
• Đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục môi trường nâng cao nhận thức về ĐNN nói
riêng và môi trường nói chung.
3.2. Nội dung của công tác quản lý
3.2.1. Quản lý bằng các văn bản, hệ thống pháp luật
Hiện nay vẫn chưa có quy chế quản lý ĐNN riêng phù hợp với đặc thù của các loại
hình ĐNN nhưng trong thời gian qua, Nhà nước đã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
hành động liên quan đến bảo tồn và phát triển ĐNN, trong đố có một số văn bản chính sau:
• Công ước Ramsar là một công ước quốc tế về bảo tồn và sử dụng một cách hợp lý và
thích đáng các vùng đất ngập nước, với mục đích ngăn chặn quá trình xâm lấn ngày càng gia
tăng vào các vùng đất ngập nước cũng như sự mất đi của chúng ở thời điểm hiện nay cũng như
trong tương lai, công nhận các chức năng sinh thái học nền tảng của các vùng đất ngập nước và
các giá trị giải trí, khoa học, văn hóa và kinh tế của chúng. Kết hợp với các công ước Đa dạng
sinh học (CBD); Công ước về buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã nguy cấp
(CITES); Hiệp định hợp tác và phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kong (Hiệp định
MeKong); Nghị định thư Kyoto.
• Chiến lược, quy hoạch sử dụng và bảo vệ hợp lý tài nguyên nước Việt Nam;
• Chiến lược quản lý hệ thống khu BTTB Việt Nam năm 2010 (2003);
• Nghị định 109/2003/NĐ-CP ngyaf 23 tháng 9 năm 2003 và Thông tư 18/2004/TT-
BTNMT ngày 23 tháng 8 năm 2004;
• Quyết định 04/2004/QĐ-BTNMT ngày 5 tháng 4 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường phê duyệt Kế hoạch Hành động về Bảo tồn và phát triển bền vững các

vùng ĐNN giai đoạn 2004-2010;
• Kế hoạch hành động ĐDSH của Việt Nam (1995). Hiện nay đang dự thảo “Kế hoạch
hành động về ĐDSH của Việt Nam đến 2015 và định hướng năm 2020”;
• Dự thảo: “Kế hoạch hành động quốc gia nhằm ngăn ngừa các xu hướng suy thoái môi
trường Biển Đông và vịnh Thái Lan đến năm 2010, trong khuôn khổ của Dự án UNEP/GÈ
“Ngăn ngừa các xu hướng suy thoái môi trường Biển Đông và Vịnh Thái Lan”. Kế hoạch này
bao gồm Kế hoạch hành động của các hợp phần: rừng ngập măn, Cỏ biển, rạn san hô, ĐNN
ven biển, bảo vệ nguồn thủy sản và chống ô nhiễm từ đất liền.
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể
1. Quan trắc ĐNN - Wetland Monitoring
Cũng giống như hầu hết các HST, các vùng ĐNN thay đổi qua nhiều năm. Vì vậy, công
tác quan trắc, đánh giá sự biến động của các HST ĐNN là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của công tác quản lý.
Các dữ liệu quan trắc là rất cần thiết để xác định liệu các mục tiêu của dự án có thể đạt
được hay không.
Sử dụng các quan trắc trong thời gian dài để trợ giúp trong việc duy trì các công trình
và quản lý các khu vực để giữ cho nó vận hành theo đúng chức năng.
Ví dụ:
Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ còn gọi là Rừng Sác là một quần thể gồm các loài
động, thực vật rừng trên cạn và thuỷ sinh, được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các
cửa sông Đồng Nai, Sài gòn và Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây.
Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ là 75.740 ha, trong đó:
vùng lõi 4.721 ha, vùng đệm 41.139 ha, và vùng chuyển tiếp 29.880 ha Diện tích rừng đã phủ
xanh hơn 31 nghìn héc-ta, trong đó có gần 20 nghìn héc-ta rừng trồng, hơn 11 nghìn héc-ta
được khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và các loại rừng khác.
Về thực vật: nhiều loại cây, chủ yếu là bần trắng, mấm trắng, các quần hợp đước đôi -
bần trắng cùng xu ổi, trang, đưng v.v… và các loại nước lợ như bần chua, ô rô, dừa lá, ráng,
v.v… Thảm cỏ biển với các loài ưu thế Halophyla sp., Halodule sp., và Thalassia sp.; đất canh
tác nông nghiệp với lúa, khoai mỡ, các loại đậu, dừa, các loại cây ăn quả.
Về động vật: khu hệ động vật thủy sinh không xương sống với trên 700 loài, khu hệ cá

trên 130 loài, khu hệ động vật có xương sống có 9 loài lưỡng thê, 31 loài bò sát, 4 loài có vú.
Trong đó có 11 loài bò sát có tên trong sách đỏ Việt Nam như: tắc kè (gekko gekko), kỳ đà
nước (varanus salvator), trăn đất (python molurus), trăn gấm (python reticulatus), rắn cạp nong
(bungarus fasciatus), rắn hổ mang (naja naja), rắn hổ chúa (ophiophagus hannah), vích
(chelonia mydas), cá sấu hoa cà (crocodylus porosus)… Khu hệ chim có khoảng 130 loài thuộc
47 họ, 17 bộ. Trong đó có 51 loài chim nước và 79 loài không phải chim nước sống trong
nhiều sinh cảnh khác nhau.
Thường xuyên kiểm tra, thu thập số liệu, đánh giá, kiểm kê, quan sát sự thay đổi của hệ
sinh thái.
2. Quản lý sử dụng bền vững
Việc sử dụng bền vững tài nguyên ĐNN là một trong những phương pháp quản lý,
bảo tồn HST ĐNN hiệu quả và khả thi nhất; thỏa mãn cả những nhu cầu phát triển và những
mục tiêu bảo vệ bền vững HST ĐNN.
Theo đó, tùy theo từng loại hình ĐNN mà ta đưa ra những cách thức quản lý phù
hợp.
Ví dụ:
Duy trì và tái tạo những đặc điểm địa mạo thuỷ văn và cảnh quan thiên nhiên.
Điều tiết nước và chất lượng nước cho phù hợp với điều kiện sinh sống của các quần xã
thực vật.
Với vùng đầm lầy ngập mặn, RNM
Duy trì các điều kiện thuận lợi để RNM có thể tái sinh tự nhiên, nhất là ở những vùng
bãi triều lầy mới và đang bồi. Trồng rừng ven biển bảo vệ bờ sông, bờ biển khỏi sạt lở, ngăn
bớt gió bão.
Kiên quyết ngăn chặn việc phá RNM để trồng cây nông nghiệp trong điều kiện không
có đủ nước ngọt để canh tác cả năm.
Ngăn cấm phá RNM để làm ruộng muối
Khôi phục lại các HST ĐNN đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Những đầm phá ven biển là nước mặn hay nước lợ
- Mỗi đầm phá trong hệ thống đầm phá ven biển có đặc điểm riêng, rất nhạy cảm về
môi trường, giàu về tài nguyên sinh vật, do đó cần có chế độ quản lý, khai thác hợp lý để

nguồn lợi sinh vật tự tái sinh kết hợp nuôi trồng các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.
- Chống ô nhiễm trong HST đầm phá.
- Không chuyển đổi mục đích sử dụng đầm phá một cách tùy tiện.
3. Phục hồi ĐNN
Mục đích của việc phục hồi ĐNN là khôi phục lại các chức năng và giá trị của các HST
ĐNN đã bị thay đổi do chuyển đổi mục đích sử dụng thông qua việc khôi phục lại chế độ thủy
văn và thảm thực vật trở về như lúc ban đầu.
Các hoạt động chủ đạo hướng tới việc phục hồi:
- Loại bỏ các nhân tố gây mất mát hay suy thoái ĐNN và để tự nhiên làm công việc
phục hồi.
- Tạo điều kiện cho sự tái sinh tự nhiên của các quần xã thực vật ĐNN, tái thiết lập nơi
ở một cách tự nhiên của các động vật, và khôi phục lại thủy văn và nền đất của ĐNN.
4. Xây dựng các vùng đất ngập nước:
- Xây dựng các vùng đất ngập nước là việc tạo ra một vùng ĐNN ở nơi mà trước đó
nó chưa từng tồn tại – thường là một việc khó khăn.
-Thách thức lớn nhất trong dự án xây dựng các vùng đất ngập nước là đem nước tới
vị trí mà nó chưa từng có và thiết lập một hệ thực vật trên nền đất mà không phải là đất no ẩm
(hydric).
Các yếu tố của việc thiết kế một dự án phục hồi hay xây dựng các vùng ĐNN thông
thường là:
- Các tiêu chí để lựa chọn địa điểm (site-selection criteria),
- Phân tích thủy văn (hydrologic analysis),
- Nguồn nước và chất lượng nước (water source and quality),
- Sự thêm vào các chất nền (substrate augmentation and handling),
- Chọn giống cây trồng (plant material selection and handling),
- Sự sắp đặt các vùng đệm (buffer zones placement),
- Quản lý trong thời gian dài (long-term management).
5. Công tác trồng rừng và phòng chống cháy rừng
6. Nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục và nhận thức về đất ngập nước.
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về ĐNN, về vai trò ĐNN đến nhũng

vấn đề liên quan tới quản lý ĐNN, chính sách và thể chế ở cấp Trung ương và cấp địa phương
về bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên ĐNN. Các hoạt động khuyến nông, khuyến laamvaf
khuyến ngư dưới hình thức các tài liệu phổ biến khoa học kỹ thuật.
Hàng năm Cục bảo vệ môi trường thường tổ chức những hoạt đông kỉ niệm ngày ĐNN như
xuất bản áp phích, tờ rơi, mở các chiến dịch truyền thông. Tuy nhiên các hoạt động tuyên
truyền và giáo dục vẫn còn yếu.
Rất nhiều các khóa tập huấn, hội thảo về quản lý, sử dụng, bảo tồn ĐNN như lượng giá kinh tế
ĐNN, quản lý ĐNN dựa vào cộng đồng, quản lý tổng hợp đới bờ…. đã được tổ chức
4. THÀNH TỰU VÀ THÁCH THỨC
Trong hơn 15 năm qua (kể từ ngày Việt Nam tham gia Công ước Ramsar năm 1989), với
nỗ lực của Chính phủ Việt Nam, các nhà tài trợ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính
phủ trong và ngoài nước, chúng ta đã có những bước tiến đáng kể trong sự nghiệp bảo tồn và
sử dụng bền vững đất ngập nước như:
- Nhận thức về chức năng và giá trị của các vùng đất ngập nước ngày càng được nâng
cao;
- Số lượng các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học, các dự án liên quan đến bảo tồn
và phục hồi hệ sinh thái ĐNN đã được tăng lên đáng kể và mang lại những kết quả nhất định;
- Cách tiếp cận, công cụ quản lý ĐNN ngày càng hiện đại, khoa học và đa dạng hơn.
Đặc biệt chỉ trong 2 năm 2003-2004, một loạt các văn bản pháp quy và kế hoạch hành động
về bảo tồn và khai thác bền vững các vùng đất ngập nước đã ra đời, góp phần định hướng
quan trọng trong công tác bảo tồn và sử dụng bền vững đất ngập nước ở Việt Nam;
- Đến năm 2005, khu Ramsar thứ 2 của Việt Nam đã được chính thức công nhận đó là
khu Bàu Sấu và các vùng đất ngập nước theo mùa thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên đây chúng ta cũng gặp một số thách thức
không nhỏ trong công tác quản lý, bảo tồn đất ngập nước như
- Số lượng kiểu loại và diện tích đất ngập nước nhân tạo tăng lên nhưng diện tích các
kiểu đất ngập nước tự nhiên giảm đi ngày càng mạnh;
- Chất lượng môi trường các hệ sinh thái đất ngập nước bị suy thoái ngày càng mạnh,
đa dạng sinh học các vùng đất ngập nước có xu hướng giảm;
- Các đe doạ đối với đất ngập nước có xu hướng gia tăng như thiên tai, sức ép dân số,

khai thác quá mức và bất hợp lý, bất cập về phương thức, cơ chế, bộ máy quản lý, thiếu sự kết
hợp giữa chiến lược phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường

×