Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Những giải pháp mà Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhằm ngăn chặn suy giảm và kích thích kinh tế trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng và suy thoái toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.97 KB, 16 trang )

Họ tên: Nguyễn Trung Dũng
Lớp: Cao học Kinh tế K5
BÀI TIỂU LUẬN
Môn: Tài Chính Phát Triển
Đề tài: Những giải pháp mà Chính phủ Việt Nam đã thực hiện
nhằm ngăn chặn suy giảm và kích thích kinh tế trước tác động tiêu cực
của cuộc khủng hoảng và suy thoái toàn cầu
Bài Làm
Cho đến nay, cuộc khủng hoảng tài chính đã tác động lan toả khắp các
châu lục và thấm sâu vào hầu hết các quốc gia trên thế giới. Khủng hoảng tài
chính đang chuyển dần sang khủng hoảng kinh tế. Cả thế giới đang nỗ lực ứng
phó với cuộc khủng hoảng này, nhưng những dự báo gần đây nhất do Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra cho thấy, kinh tế toàn cầu
đang có dấu hiệu phục hồi
1. Thế giới ứng phó với khủng hoảng tài chính - kinh tế
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính - kinh tế, hầu hết các nước đều thực
hiện đồng bộ 2 công cụ chính sách tài khoá và tiền tệ. Một mặt, kích thích tiêu
dùng chính phủ và kích thích tiêu dùng trong dân cư; mặt khác, giảm bớt khó
khăn, giảm chi phí và giá thành cho các doanh nghiệp để có sản phẩm cạnh
tranh hơn, giá rẻ hơn theo hướng tăng tổng cầu có khả năng thanh toán trên đơn
vị hàng hoá. Đồng thời, trên thị trường tài chính, tập trung vào hỗ trợ và củng cố
lại các định chế tài chính đã bị tổn thất do khủng hoảng tài chính gây ra như
phối hợp giảm lãi suất, bơm mạnh cung tiền, cứu trợ trực tiếp các ngân hàng và
tổ chức tài chính….
Cho đến nay, hàng loạt gói kích cầu khẩn cấp có giá trị lớn được chính phủ
các nước thông qua nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế. Ngày 17-2-2009,
Tổng thống Mỹ đã ký Luật tái đầu tư và phục hồi Mỹ (ARRA) với tổng trị giá
787 tỉ USD, bằng 6% GDP của nước Mỹ. Mục tiêu của gói kích thích kinh tế
thứ 2 này là nhằm tạo 3,5 triệu việc làm, giảm nhẹ tác động bất lợi của cuộc
khủng hoảng đối với người thu nhập thấp; kích thích đầu tư và tiêu dùng để
phục hồi tăng trưởng kinh tế trong 2 năm tới. 65% giá trị của gói kích thích này


1
là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và 35% là giảm thuế. Như vậy, cho đến nay,
tổng trị giá gói kích thích kinh tế của Mỹ qua các đợt đã lên đến 2.250 tỉ USD.
Các nước EU cũng triển khai các gói kích thích kinh tế lớn để đối phó với
khủng hoảng. EU khuyến nghị các nước thành viên cam kết không giảm ngân
sách, thực hiện sớm kích cầu thông qua giảm thuế, tăng cho vay ngắn hạn, cải
thiện môi trường đầu tư, giảm chi phí hành chính và tăng cường đổi mới công
nghệ. Là một trong những nền kinh tế đầu tàu của EU, tháng 12-2008, Đức chi
các gói cứu trợ kinh tế đầu tiên với 31 tỉ USD, gói thứ hai 50 tỉ USD được Hạ
viện thông qua ngày 13-2-2009, tập trung vào xây dựng trường học, đầu tư
đường bộ, đường sắt, internet băng thông rộng, xây dựng, khai thác các nguồn
năng lượng sạch.
Ngay từ đầu khủng hoảng, Chính phủ Pháp liên tiếp đã đưa ra những biện
pháp đối nội và đối ngoại để để đối phó với khủng hoảng. Dành 26 tỉ euro để
đầu tư vào 1.000 dự án ưu tiên trong các lĩnh vực: kết cấu hạ tầng đường bộ và
đường sắt; xây dựng nhà ở xã hội; quốc phòng và an sinh; giáo dục bậc cao và
nghiên cứu; bảo tồn bảo tàng. Ngoài biện pháp hỗ trợ bán ô tô thông qua việc
thưởng 1.000 euro cho những người mua ô tô sạch, chính phủ dành 7,8 tỉ euro
để hỗ trợ hai doanh nghiệp sản xuất ô tô PSA (Peugeot) và Renault. Tây Ban
Nha cũng nhanh chóng thành lập Quỹ đặc biệt kích thích kinh tế và tạo công ăn
việc làm của nhà nước với nguồn vốn 11 tỉ ơ-rô nhằm mục tiêu tạo ra 300.000
việc làm mới trong năm 2009.
Trong các nền kinh tế châu Âu, Anh là nền kinh tế không sử dụng đồng
euro (eurozone), và có cấu trúc, cách thức phát triển tương đối giống Mỹ, nên
chịu tác động của khủng hoảng mạnh nhất trong nhóm các nước G20. Ngay từ
tháng 9-2008, nước này đã đưa ra kế hoạch giải cứu tổng thể đầu tiên với 400 tỉ
bảng nhằm cung cấp tín dụng, tiếp quản một số ngân hàng lớn có nguy cơ đổ
vỡ… Tiếp đến, tháng 11-2008, đưa ra gói giải pháp kích cầu trị giá 20 tỉ bảng
nhằm giảm thuế VAT; tăng chi của chính phủ, điều chỉnh một số chính sách
thuế với doanh nghiệp; an sinh xã hội.

Mặc dù hệ thống ngân hàng của Nhật Bản hiện nay không bị nguy cơ đổ
vỡ như của Mỹ và EU, nhưng các ngành kinh tế chủ lực của nền kinh tế bị đình
trệ do xuất khẩu sụt giảm mạnh. Đến nay, Nhật Bản đã công bố gói kích thích
kinh tế 117 tỉ USD trong quý 4/2008 với mục tiêu tạo 1,5 triệu việc làm trong 3
năm, hỗ trợ tiêu dùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ; giảm thuế, đầu tư phát triển
giao thông, trợ giá nhiên liệu, lương thực….
2
Để đối phó với khủng hoảng, chính phủ Hàn Quốc đã nhanh chóng thực
hiện “chính sách kinh tế - xã hội mới” với chi phí 38 tỉ USD, nhằm phát triển cơ
sở hạ tầng để tăng việc làm, tạo điều kiện cho ngành xây dựng cũng như kinh tế
địa phương phát triển. Ngoài ra chính phủ nước này đã tuyên bố kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội xanh để tạo 96 ngàn việc làm cho đến năm 2012. Hàn Quốc
muốn thông qua những kế hoạch này trước mắt là tạo việc làm, song về lâu dài
để nhằm củng cổ các nền tảng cho sự phát triển sau khủng hoảng.
Trung Quốc gây ngạc nhiên cho toàn thế giới khi công bố gói kích thích tài
chính trị giá 4000 tỉ NDT (tương đương 586 tỉ USD) đến năm 2010 với 10 giải
pháp và các hạng mục đầu tư khá rạch ròi, bao gồm: xây dựng các công trình
đảm bảo đảm đời sống, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đường sắt, đường
bộ, sân bay; tăng chi cho phát triển y tế, giáo dục, môi trường sinh thái; phục hồi
khu vực động đất; điều chỉnh cơ cấu; cải cách chính sách thuế giá trị gia tăng;
cải tạo kỹ thuật, giảm thuế cho các doanh nghiệp, tăng mức hỗ trợ tài chính -
tiền tệ. Chính sách kích cầu của Trung Quốc nhìn chung khá linh hoạt và tỏ ra
có hiệu quả bước đầu. Có sự phân biệt đối tượng hưởng thụ chính sách, không
tràn lan, hướng nhiều đến cải cách hành chính, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế,
khu vực nông thôn, lao động, việc làm và y tế, giáo dục.
Các nước ASEAN chưa chịu tác động trực tiếp, nhưng khủng hoảng tài
chính đã làm bộc lộ điểm yếu của các nước này là lệ thuộc nhiều vào thị trường
xuất khẩu (Mỹ, châu Âu) và chưa thực sự chú trọng thị trường trong nước. Vì
vậy, các biện pháp kích thích của các nước đều hướng vào kích thích nhu cầu
trong nước; giải quyết việc làm, tăng cường đổi mới và nâng cao năng lực cạnh

tranh.Cụ thể là: Xin-ga-po đã đưa kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá 13,7 tỉ USD
chủ yếu hỗ trợ các doanh nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh; Thái Lan thực
hiện gói kích thích kinh tế 8,7 tỉ USD với trọng tâm nhằm tăng sức tiêu thụ
trong nước, hỗ trợ nông dân, xuất khẩu, du lịch, giảm chi phí dịch vụ công, tạo
công ăn việc làm; In-đô-nê-xi-a đang triển khai chương trình kích thích kinh tế
6,3 tỉ USD nhằm miễn thuế VAT cho 17 lĩnh vực ưu tiên, tạo việc làm và hỗ trợ
doanh nghiệp tư nhân. Phi-li-pin kích thích kinh tế với 6,3 tỉ USD, tập trung đầu
tư công cho phát triển hạ tầng và nông nghiệp, tăng cường an sinh xã hội, y tế,
giáo dục…
3
2. Những nỗ lực của Việt Nam trong việc ứng phó với tác động của
khủng hoảng
Là một thành viên mới của WTO, lần đầu tiên Việt Nam chịu tác động một
cách rõ nét và trực tiếp nhất tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế thế
giới. Hoạt động sản xuất kinh doanh giảm, sức tiêu thụ giảm, hàng hóa ứ đọng,
hoạt động sản xuất có xu hướng bị thu hẹp, thu Ngân sách nhà nước giảm, chỉ số
giá tiêu dùng giảm, thị trường chứng khoán trì trệ, xuất nhập khẩu, đầu tư nước
ngoài giảm mạnh đã kéo tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống gây ra nhiều hệ
lụy trong sản xuất, tiêu dùng, cải thiện điều kiện sống của người dân
Trong bối cảnh chung đó, biện pháp mà chúng ta áp dụng để kích thích
kinh tế cũng giống như các nước khác: thông qua “các gói kích cầu”. Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội
với những biện pháp chủ yếu như: giảm thuế, giãn thuế và hoàn thuế; hỗ trợ lãi
suất cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng; hạ lãi suất
cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc; tăng đầu tư công cho kết cấu hạ tầng từ nguồn
trái phiếu chính phủ và hỗ trợ trực tiếp cho người dân thông qua các chính sách
an sinh xã hội.
Cụ thể, Ngày 11/12/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
30/2008/NQ-CP, đề ra những nhóm giải pháp trọng tâm mà các Bộ, ngành, địa

phương cần khẩn trương triển khai ngay thành các chương trình hành động cụ
thể để chủ động ứng phó trước việc sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu giảm sút
do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Nghị quyết nêu rõ, mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2009 khoảng 6,5%. Để
thực được mục tiêu trên, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương phải cấp bách là
tập trung mọi nỗ lực thực hiện:
a. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu
Đây là nhóm giải pháp được đặt ra đầu tiên trong Nghị quyết, bao gồm 11
nhóm công việc cụ thể giao cho các Bộ, ngành, địa phương. Trước hết, trong
năm 2009, phải tập trung hoàn thành và triển khai thực hiện các chương trình, đề
án đã được giao để thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn. Thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn và hỗ
trợ sản xuất nông, lâm, thủy sản, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng nội địa, ưu
tiên hỗ trợ ngành hàng sản xuất, có lợi thế thay thế hàng nhập khẩu, sử dụng
nguồn liệu trong nước, sử dụng nhiều lao động.
4
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao chủ trì phối hợp với Bộ
Tài chính và các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ mức tiền hỗ trợ
giống lúa, hoa màu, gia súc, gia cầm, thủy sản cho nông dân để khôi phục sản
xuất ở các vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.
Bộ Công Thương nghiên cứu đề xuất chính sách hỗ trợ khuyến khích các
tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất, chế tạo sản phẩm ngành Công nghiệp, đủ
điều kiện thay thế hàng nhập khẩu, trình Thủ tướng trong tháng 12/2008.
Bộ Công Thương trình Thủ tướng phê duyệt Đề án đẩy mạnh xuất khẩu,
kiềm chế nhập siêu giai đoạn 2009 - 2010 trong tháng 1/2009.
Bộ Giao thông vận tải có kế hoạch nâng cấp các sân bay tại các địa
phương có điểm du lịch quốc gia.
Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Bộ Công an trình Chính phủ xem xét
miễn thị thực nhập cảnh cho khách du lịch đối với các thị trường tiềm năng.
b. Kích cầu tiêu dùng và đầu tư

Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là một trọng tâm của Nghị quyết số
30, trong đó Chính phủ xác định 12 giải pháp mà các bộ ngành liên quan phải
triển khai.
 Về kích cầu đầu tư
Thứ nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và
các cơ quan liên quan ra soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành về đầu
tư, xây dựng để sửa đổi ngay những bất cập làm ảnh hưởng đến tiến độ các dự
án đầu tư; khẩn trương xây dựng luật sửa đổi, bổ sung các luật về đầu tư, xây
dựng để trình Quốc hội tại kỳ họp sắp tới.
Thứ hai, đối với các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà
nước, cho phép tiếp tục giải ngân số vốn còn lại của năm 2008 đến hết tháng
6/2009. Đối với các dự án, công trình quan trọng, cấp bách nhưng chưa bố trí
được nguồn vốn, trong đó có dự án tái định cư các khu kinh tế, các bộ ngành và
địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục đầu tư và
chủ động làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xử lý nguồn
vốn, kể cả việc tạm ứng ngân sách nhà nước để thực hiện.
Thứ ba, tạm hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước
kế hoạch năm 2009, trừ các khoản đã tạm ứng năm 2009 để hoàn thành trong
năm 2008. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và
các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ngay trong tháng 12 này
danh mục các dự án và mức vốn được hoãn thu hồi.
5
Thứ tư, đối với các dự án, công trình sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ,
cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư đối với các dự án đã có trong danh mục
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ giao; trên cơ sở đó
thực hiện việc điều hòa vốn giữa các dự án, công trình và được thanh toán theo
đúng tiến độ. Đồng thời, cho phép tiếp tục giải ngân nguồn vốn trái phiếu Chính
phủ còn lại của năm 2008 trong năm 2009.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan
liên quan hoàn thành phương án phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ năm 2009

trước ngày 31/12/2008; bổ sung các dự án cấp bách khác trong các lĩnh vực giao
thông, thủy lợi, y tế, giáo dục để triển khai thực hiện.
Tạm ứng từ nguồn trái phiếu Chính phủ khoảng 1.500 tỷ đồng để đầu tư,
xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, nâng cao năng lực phòng chống lụt bão
vùng đồng bằng sông Hồng…
Thứ năm, Bộ Kế hoạch Đầu tư chủ trì ban hành các biện pháp cụ thể
nhằm tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân cách nguồn vốn FDI và
ODA, nhất là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án đầu tư sản xuất sản
phẩm công nghệ cao, có giá trị xuất khẩu lớn, những dự án giải quyết việc làm;
phấn đấu năm 2009 thực hiện giải ngân các nguồn vốn trên không thấp hơn mức
thực hiện trong năm 2008.
Thứ sáu, Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa ủy quyền Thủ tướng Chính
phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong tháng 12/2008 cho phép cấp
quyết định đầu tư được chỉ định thầu các dự án có mức vốn tối đa không quá 5
tỷ đồng/dự án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, đồng thời chịu trách
nhiệm về các quyết định của mình.
Thứ bảy, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư các
dự án, công trình có quy mô lớn được tạo điều kiện tối đa về đất đai, tiếp cận
nguồn vốn, giải phóng mặt bằng, lãi suất…
Các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước chủ động tham gia các dự án,
công trình đầu tư hạ tầng quan trọng như cảng biển, điện, đường cao tốc, thủy
lợi, trường học, cơ sở y tế… để góp phần đẩy nhanh tiến độ và kế hoạch xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của đất nước.
Thứ tám, trong tháng 12/2008, Bộ Xây dựng trình Chính phủ Đề án xây
dựng quỹ nhà ở xã hội giai đoạn 2009 – 2015; Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình
Chính phủ ban hành cơ chế phù hợp để đảm bảo khuyến khích đầu tư xây dựng
nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp
6
 Đối với kích cầu tiêu dùng, Chính phủ xác định 4 giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục điều hành giá theo cơ chế thị trường đối với các mặt

hàng điện, than, nước sạch, cước vận chuyển xe buýt… Trong tháng 1/2009, Bộ
Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Công thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ
về lộ trình thực hiện cụ thể
Thứ hai, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên quan
trình Thủ tướng đề án phát triển hệ thống phân phối các mặt hàng thiết yếu,
trong đó tập trung các mặt hàng lương thực, xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi
măng và thuốc chữa bệnh; chống gian lận, đầu cơ, gây mất ổn định thị trường.
Thứ ba, các bộ ngành liên quan tăng cường các biện pháp quản lý thị
trường, giá cả, chất lượng hàng hóa…; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm
các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là kinh doanh trái phép, trốn thuế,
liên kết độc quyền
Thứ tư, khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức các đợt hạ giá bán hàng
để kích thích tiêu dùng, trước mắt là trong dịp Tết nguyên đán 2009.
c. Chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt: Giảm, giãn thuế cho doanh
nghiệp
 Tiếp tục giảm lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn
Nghị quyết đưa ra 5 giải pháp chính Ngân hàng Nhà nước phải triển khai,
trong đó có việc thực hiện cơ cấu lại hạn nợ cho doanh nghiệp, giảm lãi suất cơ
bản, hướng dẫn cho vay theo lãi suất thỏa thuận…
Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước phải có các biện pháp cụ thể để tạo điều
kiện tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất
khẩu và doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, như tiếp tục xem
xét giảm dự trữ bắt buộc, điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, nghiên cứu, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay
theo lãi suất thỏa thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008/QH12 của Quốc hội.
Thứ ba, các ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ
và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của
pháp luật đối với các hộ nông dân bị thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp

gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
Thứ tư, điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh linh
hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát
7
nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đầu điều hành cán cân thanh toán quốc
tế theo hướng không để thâm hụt.
Thứ năm, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại xem
xét điều chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống phù
hợp theo mức lãi suất hiện hành; không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ khó khăn.
Ngoài ra, Chính phủ cũng giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện nhiệm
vụ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm hỗ trợ tốt hơn cho
các doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh,
tạo thêm việc làm.
 Giảm, giãn thuế cho nhiều đối tượng
Về lĩnh vực tài chính, Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính tập trung triển khai
ngay nhóm 9 giải pháp phục vụ mục tiêu Nghị quyết đặt ra.
Thứ nhất, giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý
4/2008 và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 đối với thu nhập từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9
tháng đối với số thuế phải nộp năm 2009 của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (70%
số thuế còn lại sau khi giảm) và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia
công, chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử
Thứ ba, tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa
thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua
ngân hàng và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán.
Thứ tư, điều chỉnh thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên, khoáng
sản và trình Chính phủ sửa đổi thuế suất thuế tài nguyên theo hướng hạn chế
xuất khẩu, bảo đảm nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.

Thứ năm, điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là
nguyên liệu đầu vào của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản
xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh. Điều chỉnh tăng thuế trong khuôn khổ
cam kết WTO, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất trong nước, kiềm chế nhập
siêu
Thứ sáu, giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù
hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ (đóng tàu, sản xuất cơ khí…). Thực hiện tốt
8
chính sách về ân hạn thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với vật tư,
nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Thứ bảy, cải cách thủ tục xuất nhập khẩu, rút ngắn thời gian thông quan
hàng hóa, đơn giản thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên liệu nhập
khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu.
Thứ tám, quy định rõ và phù hợp tỷ lệ phế liệu, phế phẩm thu được trong
quá trình nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu
thuế nhập khẩu.
Thứ chín, trong tháng 12/2008, Bộ trưởng Bộ Tài chính thừa ủy quyền
Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc triển khai thực
hiện Luật thuế Thu nhập cá nhân theo hướng hỗ trợ khó khăn cho một số đối
tượng nộp thuế.
3. Tính đúng đắn, hiệu quả của nhóm các giải pháp chống suy giảm và
kích thích kinh tế của chính phủ
Trong năm 2008, với việc thực hiện có kết quả 8 nhóm giải pháp của
Chính phủ, lạm phát đã được kiềm chế, kinh tế vĩ mô cơ bản giữ được ổn định,
an sinh xã hội được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,23%. Đạt được kết
quả trên là do có chủ trương đúng đắn của Đảng, sự điều hành quyết liệt của
Chính phủ, sự giám sát có hiệu quả của Quốc hội, sự nỗ lực của cả hệ thống
chính trị và toàn dân. Từ tháng 10-2008 đến nay, tình hình kinh tế thế giới diễn
biến nhanh, phức tạp và khó lường, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế

toàn cầu đã tác động trực tiếp đến kinh tế nước ta, làm cho sản xuất, kinh doanh
và xuất khẩu giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến việc làm và đời sống nhân dân.
Trước tình hình khủng hoảng tài chính thế giới, Chính phủ xác định phải
tập trung điều hành thực hiện mục tiêu tổng quát và các giải pháp của kế hoạch
năm 2009 mà Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư đã thông qua, trong đó nhiệm vụ
trọng tâm, cấp bách là phải tập trung mọi nỗ lực để chủ động ngăn chặn suy
giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu
tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế năm 2009.
Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách nói trên, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11-12-2008 về những giải pháp cấp
bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an
sinh xã hội với 5 nhóm giải pháp chủ yếu: (1) Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và
xuất khẩu; (2) Thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng; (3) Chính
9
sách tài chính và tiền tệ; (4) Bảo đảm an sinh xã hội; (5) Tăng cường công tác
điều hành, tổ chức thực hiện chính sách.
Việc triển khai các gói giải pháp chống suy giảm kinh tế do Chính phủ đưa
ra, đã mang lại cho nền kinh tế những dấu hiệu tích cực bước đầu: mặc dù nền
kinh tế tiếp tục chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế
giới cùng với đó là thiên tai, lũ lụt và dịch bệnh trong nước, nhưng với sự chỉ
đạo quyết liệt của Chính phủ, nỗ lực của các cấp, các ngành và toàn dân, tình
hình kinh tế xã hội tháng 4 đầu năm 2009 tiếp tục có chuyển biến theo chiều
hướng tích cực trong hầu hết các ngành. Thể hiện rõ nhất là sản xuất công
nghiệp tăng trưởng liên tục trong 3 tháng qua, riêng tháng 4 tăng 5,4% so với
cùng kỳ năm 2008. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng tháng 4 tăng
trên 20%. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển ổn định.
Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước 4 tháng đầu năm cũng đạt gần
40.000 tỷ đồng, tăng hơn 8 % so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là những kết quả
tích cực sau khi triển khai một loạt các chính sách hỗ trợ sản xuất, kích cầu đầu

tư và tiêu dùng…
Khi lạm phát tăng cao vào những tháng đầu năm 2008, Chính phủ đưa ra
gói giải pháp kiềm chế lạm phát, chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt, sản xuất thu hẹp, số người mất việc làm tăng. Đến những tháng cuối năm,
do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế xuất hiện dấu hiệu suy
giảm, Chính phủ lại phải chuyển sang thực hiện nhóm giải pháp ngăn chặn suy
giảm kinh tế. Trong bối cảnh đó, để triển khai các nhóm giải pháp của Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước phải linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ, chuyển
mạnh từ chính sách tiền tệ thắt chặt sang chính sách tiền tệ nới lỏng chỉ trong
một thời gian rất ngắn. Sự điều chỉnh quá nhanh đó đã gây ra một số tác động
tiêu cực trước tiên là cho hoạt động ngân hàng sau đó là đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp. Với gói kích cầu mà Chính phủ đưa ra trong thời
gian gần đây như hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, mua sắm phương tiện sản
xuất, tăng lương tối thiểu, hỗ trợ lãi suất trung hạn cho doanh nghiệp sẽ tạo ra
tác dụng kép. Doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp, giúp họ giảm chi phí đầu
vào, chí phí sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhờ gói kích cầu này sẽ
giải quyết được bài toán lãi suất cho các ngân hàng. Doanh nghiệp được vay với
lãi suất thấp, đồng thời mức lãi suất huy động của ngân hàng vẫn đủ sức hấp dẫn
để thu hút tiền nhàn rỗi trong dân, bảo đảm đủ nguồn vốn cung cấp cho nền kinh
tế cũng như an toàn cho hệ thống ngân hàng
10
Về chính sách tiền tệ, đã điều chỉnh tăng tỷ giá USD/VND và hạ lãi suất cơ
bản. Đây là những chính sách cần thiết để góp phần vừa giảm chi phí vay vốn
cho doanh nghiệp vừa giúp cải thiện cán cân ngoại thương. Đồng thời, cũng có
chính sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với doanh nghiệp cho đến hết năm 2009. Bản
chất của việc bù 4% lãi suất là sử dụng công cụ tài khóa để thực hiện chính sách
tiền tệ. Số tiền bù chênh lệch lãi suất được lấy từ ngân sách, được Ngân hàng
Nhà nước triển khai thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Trong chính
sách này, ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian giữa Ngân hàng Nhà
nước và doanh nghiệp để thực hiện việc hỗ trợ lãi suất. Chủ động xử lý các tác

động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đối với hoạt động kinh
doanh, thực hiện đồng bộ các giải pháp để tăng cường huy động vốn, mở rộng
tín dụng có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, áp dụng lãi suất cho
vay hợp lý trong điều kiện sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn; cơ cấu lại thời
hạn trả nợ, miễn giảm lãi vốn vay, điều chỉnh giảm lãi suất cho vay và không
phạt quá hạn theo cơ chế hiện hành; tăng cường kiểm tra, kiểm toán nội bộ, thực
hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Yêu cầu các ngân hàng thương mại nhà
nước xem xét, chủ động giảm lãi suất cho vay các khoản nợ được ký kết trước
đây xuống mức lãi suất cho vay hiện hành để thúc đẩy cạnh tranh, giảm lãi suất
cho vay; phối hợp với Hiệp hội ngân hàng để chỉ đạo, khuyến khích các ngân
hàng thương mại thực hiện các giải pháp tăng cường huy động vốn, mở rộng tín
dụng có hiệu quả và phù hợp với quy định của pháp luật, giảm lãi suất cho vay
nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp.
Nhìn chung, phản hồi của các bộ, ngành và địa phương, doanh nghiệp và
người dân cho thấy, cơ chế hỗ trợ lãi suất do Thủ tướng Chính phủ ban hành là
giải pháp kích cầu phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và được triển khai kịp
thời, có tác động thiết thực đối với các tổ chức và cá nhân để khắc phục khó
khăn, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động; đồng
thời, cũng hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại khắc phục khó khăn, giữ được
an toàn hoạt động kinh doanh; cơ chế này nhận được sự đồng tình, ủng hộ rộng
rãi trong xã hội.
Cơ chế hỗ trợ lãi suất được ban hành và phổ biến một cách công khai, rõ
ràng, minh bạch và có tính giám sát cao đối với các ngân hàng thương mại thực
hiện và đối tượng thụ hưởng là tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất,
kinh doanh; các ngân hàng thương mại đã khẩn trương thực hiện bằng việc ban
11
hành cơ chế nghiệp vụ, làm tốt công tác thông tin truyền thông đối với khách
hàng vay.
Nhằm kích thích tăng trưởng, phòng ngừa suy giảm kinh tế, Chính phủ đã
sử dụng cả chính sách tài khóa và tiền tệ. Trong phạm vi của chính sách tài

khóa, kích thích tiêu dùng nội địa là một biện pháp quan trọng hàng đầu. Điều
đó đã giải tỏa trực tiếp khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện
nay, đó là sự sụt giảm nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Phát triển thị trường nội
địa là một giải pháp được nhiều quốc gia trên thế giới lựa chọn trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Để tăng sức mua trong nước, Chính phủ
đã quyết định giảm 50% thuế VAT đối với 19 nhóm mặt hàng và hoãn thu thuế
thu nhập cá nhân trong 5 tháng đầu năm 2009.
Nhờ việc triển khai nhanh, quyết liệt trong việc thực hiện các giải pháp cấp
bách trong Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ, nhìn chung tình hình
kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2009 có dấu hiệu chuyển biến theo chiều hướng
tích cực: Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế được duy trì; cán cân
thanh toán cân đối; cán cân thương mại có xuất siêu
(
; điều hành lãi suất, tỷ giá
linh hoạt, phù hợp, giữ được an toàn hệ thống ngân hàng; lạm phát tiếp tục được
kiềm chế; nông nghiệp phát triển thuận lợi cả về trồng trọt, chăn nuôi và thủy
sản; giá trị sản xuất công nghiệp của một số ngành chủ yếu đã tăng lên. Nhiệm
vụ bảo đảm an sinh xã hội được tăng cường. Nhân dân đón Tết Nguyên đán Kỷ
Sửu tươi vui, đầm ấm, tiết kiệm; đồng tình ủng hộ các chủ trương, chính sách
của Đảng và Chính phủ. Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27-12-2008 về
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại 61 huyện nghèo đang
triển khai tích cực.
4. Những hạn chế tồn tại trong nhóm các giải pháp chống suy giảm và
kích thích kinh tế của chính phủ
Cho đến thời điểm hiện nay, trọng tâm chính trong các biện pháp ứng phó
của Chính phủ là hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp. Ngày 23-1-2009, Chính
phủ công bố gói kinh tế lần một với lãi suất hỗ trợ 4%. Gói kích thích kinh tế lần
hai được Chính phủ công bố hôm 6-4 nhằm cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp
song hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng thời gian tối đa 24
tháng. Để ngăn chặn suy giảm kinh tế và kích cầu, gói hỗ trợ lãi suất 4% của

Chính phủ là một giải pháp tốt, tuy nhiên, trong quá trình triễn khai còn có một
số hạn chế cần khắc phục như sau:
12
Một là, hiện tượng đảo nợ đã diễn ra khi mà nhiều doanh nghiệp muốn
được vay hỗ trợ lãi suất để trả những khoản vay trước đó với lãi suất cao. Thực
tế, hoạt động đảo nợ có thể diễn ra theo nhiều kiểu, nhiều cách và ngân hàng
cũng khó kiểm soát được
Hai là, biện pháp hỗ trợ lãi suất khó đạt được kết quả mong đợi vì thị
trường của các sản phẩm xuất khẩu lớn của Việt Nam như dệt may, da giày,
thủy sản, gỗ đang thu hẹp nhiều do suy thoái kinh tế toàn cầu, nên các doanh
nghiệp trong các ngành này hầu như không mặn mà đối với các khoản vay này
bởi họ không muốn tăng thêm nợ. Do vậy, gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ khó
đạt được mục tiêu tạo việc làm, do những người mất việc chủ yếu tập trung vào
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có vốn đầu tư ngước ngoài.
Ba là, gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ dường như mới chỉ chú trọng vào
kích cầu sản xuất chứ chưa kích cầu tiêu dùng. Khuyến khích tiêu thụ sản phẩm
nên chăng cần thông qua biện pháp giảm thuế mà không sử dụng biện pháp hỗ
trợ lãi suất. Hỗ trợ lãi suất dễ làm tăng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp để
doanh nghiệp duy trì sản xuất. Như vậy rất có thể làm tăng thêm ứ đọng sản
phẩm. Giảm thuế sẽ có tác dụng tăng thêm thu nhập cho doanh nghiệp giống
như hỗ trợ lãi suất mà không phải qua nhiều thủ tục phiền phức.
Bốn là, có cơ chế quản lý chưa được chặt chẽ : Chưa kiểm soát được
lượng vốn vay hỗ trợ lãi suất được sử dụng đúng mục đích, Nhiều Doanh nghiệp
đã dùng vốn vay hỗ trợ lãi suất vào các hoạt động khác không theo dự án được
duyệt như: đầu cơ, đầu tư tài chính, bất động sản, đảo nợ…
5. Kiến nghị, đề xuất những hướng cần đầu tư để sử dụng có hiệu quả
gói kích cầu của Chính phủ, và đón đầu cơ hội tăng trưởng kinh tế
Từ những vấn đề trên đây, cùng với việc nghiên cứu các chính sách kích
thích kinh tế của các nước trên thế giới, một số vấn đề cần lưu ý khi triển khai
“gói kích cầu” trong nước để có thể đạt mục tiêu: giải quyết được vấn đề trước

mắt là chống suy giảm, ngăn ngừa khả năng lạm phát - tác động trái chiều của
giải pháp chống suy giảm, và lâu dài là lấy lại đà tăng trưởng cao.
Một là, giải pháp ngăn chặn suy thoái kinh tế phải hướng vào việc tạo ra
những doanh nghiệp mới, cần áp dụng chính xác hỗ trợ lãi suất cho những
doanh nghiệp mới có phương án kinh doanh khả thi để thu hút số lao động đã
mất việc và tạo ra công ăn việc làm mới. Không nên quá chú trọng, chạy theo
các chỉ tiêu kinh tế đã đề ra trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu, mà cần tranh
thủ cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại sản xuất - phân phối - tiêu dùng, cơ cấu lại
13
xuất - nhập khẩu, cơ cấu lại đầu tư nhà nước - tư nhân, cơ cấu lại tiêu dùng - tiết
kiệm, cơ cấu lại các ngành, vùng trong nền kinh tế; tranh thủ đầu tư đổi mới
công nghệ; đào tạo lại nguồn nhân lực để chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn phục
hồi của nền kinh tế, hay nói cách khác, thực hiện đẩy mạnh cải cách, tạo lập các
cơ sở thể chế, cơ cấu bền vững cho quá trình tăng trưởng lâu dài.
Hai là, tăng cường và ưu tiên kích cầu cho nông nghiệp và kinh tế - xã hội
nông thôn. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn cần phải ưu tiên cả đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất tín dụng. Đây là khu vực chiếm
hơn 70% dân số và lao động xã hội, và đây cũng là khu vực ít chịu tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, do đó nếu được đầu tư thoả đáng sẽ có bước
phát triển mới. Hơn nữa, khu vực này hiện nay đang là địa chỉ thu hút không ít
(khoảng 600 ngàn người) lao động từ các thành phố, khu công nghiệp bị mất
việc làm, trở về nông thôn làm việc. Vì vậy, tập trung kích cầu vào khu vực này
không những góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá X, mà còn góp
phần duy trì ổn định kinh tế - xã hội, và nhu cầu tiêu dùng của đông đảo nhân
dân lao động.
Ba là, ngoài kích cầu thông qua lãi suất, chính phủ cũng cần chú trọng các
nhóm giải pháp khác như xúc tiến thương mại, đẩy mạnh hoàn thiện các dự án
và công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Hỗ trợ lao động mất việc làm thông qua
kinh phí dự phòng; trợ cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, chi cho
nông nghiệp để đẩy mạnh sản xuất.

Bốn là, bên cạnh kích cầu tiêu dùng trong nước, cần tiếp tục mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đến những thị trường tiềm năng, những
mặt hàng Việt Nam có thế mạnh như nông sản với giá cả hợp lý. Những mặt
hàng này gắn nhiều với nông dân, với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Do đó, “kích” vào đây góp phần giữ một động lực tăng trưởng mạnh của nền
kinh tế, giảm nguy có thâm hụt thương mại. Hơn nữa còn góp phần giúp đông
đảo người lao động duy trì được việc làm, thu nhập và đời sống, đồng thời giữ
vững ổn định chính trị.
Năm là với các dự án sử dụng ngân sách nhà nước, cần phải xác định cụ
thể, chính xác các lĩnh vực cần đầu tư theo các hướng ưu tiên đó là: (1) Phát
triển cơ sở hạ tầng như giao thông, bệnh viện, trường học, công nghệ thông tin
và truyền thông. Đây là nhóm lĩnh vực góp phần tăng trưởng kinh tế vững chắc
sau khủng hoảng kinh tế. (2) Đầu tư các dự án sử dụng nhiều lao động, tạo ra
nhiều việc làm mới, các dự án sản xuất phục vụ thị trường nội địa. Với những dự
14
án loại này, người lao động có việc làm ổn định, nhu cầu tiêu dùng được giữ
vững, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế ,
Sáu là, chính sách kích cầu cần quan tâm hơn nữa đến cầu tiêu dùng của
người dân và của những doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Kinh nghiệm
của các nước cho thấy, kích cầu tiêu dùng là nhóm giải pháp quan trọng để hạn
chế tác động của suy thoái kinh tế. Để kích tích tiêu dùng một cách thiết thực
đối với toàn xã hội, nên chăng: (1) Chính phủ cần điều chỉnh tăng lương, lùi thời
hạn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân, tạm thời miễn thuế VAT đối với một
số mặt hàng sản xuất trong nước. Giải pháp này phần nào làm giảm nguồn thu
ngân sách, nhưng bù lại sẽ kích thích được sản xuất và tăng sức mua của dân cư,
kích thích tiêu dùng nhanh và hiệu quả. (2) Với những mặt hàng thiết yếu, có
ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống của nhân dân mà nhà nước ta nắm
quyền chi phối, trong giai đoạn hiện nay phải kìm chế việc tăng giá. Vì sự tăng
giá các mặt hàng này, lập tức sẽ làm tăng mặt bằng đầu vào của nền kinh tế, dẫn
đến tăng giá thành, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa, nó sẽ làm

giảm sức mua của người dân, giảm nỗ lực kích cầu của nhà nước và hậu quả
cuối cùng là nền kinh tế tiếp tục suy thoái. (3) Song song với giải pháp kích cầu
tiêu dùng nội địa, nhà nước cần phải kiểm soát chặt hàng hoá nhập khẩu, đặc
biệt là hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc và các nước trong khu vực. Nếu không thì
giải pháp kích cầu tiêu dùng sẽ kém hiệu quả, thậm chí có khi lại “kích cầu” tiêu
dùng hàng hoá nước ngoài như lịch sử những năm 1998-1999
Bảy là, cần có bước cải cách sâu rộng về cơ chế quản lý, thủ tục hành
chính bên cạnh những giải pháp về kinh tế. Vì biện pháp kích thích kinh tế được
đặt trong hệ thống chính sách phát triển bền vững của cả nền kinh tế, đầu tư gắn
với cải cách. Nếu không tính toán cẩn trọng, thì những căn bệnh hiện tại trong
bộ máy nhà nước như tham nhũng, thiếu minh bạch, xung đột lợi ích sẽ đưa “gói
kích thích kinh tế” này đến một kịch bản không thể lường trước được. Do đó, để
gói kích thích kinh tế của chính phủ phát huy tác dụng đúng kịch bản đòi hỏi cần
phải tăng cường cải cách cơ chế quản lý và thủ tục hành chính./.
15
- Thông tư 05/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về thủ tục
hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
16
Một số chính sách ngăn chặn suy giảm kinh tế của Việt Nam

- Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
an sinh xã hội.
- Quyết định số 12/2009/QD-TTg ngày 19/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày
11/12/2008 của Chính phủ.
- Quyết định 131/2009QD-TTg ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ
trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh
doanh.
- Quyết định số 16/2009/QD-TTg ngày 21/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban

hành một số giải pháp về thuế nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và
tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
- Quyết định 14/QD-TTg ngày 21/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế
bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại.
- Quyết định 443/QD-TTg ngày 4/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ
trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung và dài hạn ngân hàng để thực
hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Quyết định 497/QD-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ
trợ lãi suất vay vốn mua máy móc thiết bị vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp
và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn.
- Quyết định 30/2009/QD-TTg ngày 23/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó
khăn do suy giảm kinh tế.
- Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 3/2/2009 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay
vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh.
- Thông tư số 05/2009/TT-NHNN ngày 7/4/2009 của Ngân hàng Nhà nước quy
định chi tiết thi hành hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung,
dài hạn ngân hàng, thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Thông tư số 03/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về giảm, gia
hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thông tư 04/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về việc hướng
dẫn thực hiện hoàn thuế VAT theo Nghị quyết 30/2008/NQ-CP.

×