Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA NGƯỜI VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN 20002010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.74 KB, 60 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
ĐẠI HOC HUẾ
ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Y
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
HỒ CHÍ MINH VỚI VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA NGƯỜI
VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ở HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN 2000-2010


GV hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Th.S Phan Doãn Việt Nguyễn Thị Lành
Lớp: Triết K31

Huế, tháng 5, năm 2011
SVTH: Nguyễn Thị Lành 1
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bác Hồ Chí Minh – Người cha già của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của
Đảng và nhân dân ta, người chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc, danh nhân văn
hoá thế giới. Trước khi qua đời, Người đã để lại cho Đảng và nhân dân ta di
sản lý luận vô cùng quý giá, thật sự là nguồn trí tuệ to lớn soi sáng công
cuộc đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.


Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta,
SVTH: Nguyễn Thị Lành 2
Khóa luận tốt nghiệp
kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế được hình thành rất sớm - từ đầu
những năm 20 của thế kỷ XX. Mặc dù không có một tác phẩm riêng biệt
nào tập trung nói về tư tưởng kinh tế, nhưng thông qua các bài viết, phát
biểu, nói chuyện của Người đã thể hiện nhiều luận điểm sâu sắc về kinh tế,
đặc biệt là về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, nông nghiệp luôn có một vị trí hết sức đặc biệt đối
với xã hội. Phát triển nông nghiệp là nhân tố đầu tiên, là cội nguồn của mọi
vấn đề xã hội. Sau khi giành được chính quyền trong Cách mạng tháng
Tám, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng xã hội mới trong điều kiện đất nước
nghèo nàn, lạc hậu phải tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
cực kỳ gian khổ. Mặc dù phải tập trung chỉ đạo cuộc chiến đấu ngoài tiền
tuyến, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đặc biệt chú ý đến xây dựng và phát triển
nông nghiệp, nông thôn. Người đã khẳng định: “Việt Nam là nước sống về
nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc
xây dựng nước nhà, Chính phủ trong mong vào nông dân, trong cậy vào
nông nghiệp phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta
thịnh thì nước ta thịnh”. Người còn nói, bởi thế “chúng ta phải quý mỗi tấc
đất như một tức vàng”, “loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước
cần phải ăn), nước ta thì “dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). _
Đây là nhiệm vụ của hệ thống chính trị và toàn xã hội, nó không chỉ khơi
dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân mà
còn đóng vai trò chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển

kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ môi trường sinh thái đất
nước.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp cách mạng lâu dài của
Đảng và nhân dân ta, và Hương Sơn quê tôi là một huyện thuần nông nằm ở
phía tây của tỉnh Hà Tĩnh, nhờ vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và
thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước nên
trong những năm qua tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã
đạt được nhiều khởi sắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp,
nông thôn bắt nguồn từ thực tiễn hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta, và đó là sự cụ thể hóa, Việt Nam hóa quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề nông nghiệp, nông thôn. Những quan điểm và
SVTH: Nguyễn Thị Lành 3
Khóa luận tốt nghiệp
phương pháp tư duy của Người vẫn đúng, hoàn toàn có thể tiếp thu và vận
dụng vào phát triển nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Vì những
lẽ đó tôi chọn đề tài:“Hồ Chí Minh với vấn đề phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn và vận dụng tư tưởng của Người vào phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong giai
đoạn 2000-2010” để làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ sau Đại hội VII của Đảng đến nay, đề tài về tư tưởng Hồ Chí
Minh đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các cơ quan, ban ngành
và các nhà khoa học trong và ngoài nước. Liên quan đến nội dung đề tài
nghiên cứu hiện nay đã có một số công trình chủ yếu được công bố như :
- “Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế” của TS Phạm
Ngọc Anh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
- “Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế định hướng
XHCN ở Việt Nam hiện nay” của TS Nguyễn Huy Oánh, Nxb CTQG, Hà
Nội năm 2004.

- “Phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá
và hiện đại hoá ở Việt Nam” Nguyễn Văn Bích - Chu Tiến Quang, Nxb
Nông nghiệp, năm 1999.
- “Nông nghiệp các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ trong những năm
đổi mới” của TS Trương Minh Dục, Nxb Đà Nẵng năm 2006.
-“Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa nông nghiệp với công
nghiệp” của Hà Lệ Hằng đăng trên Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 2, năm
2004.
→( Nội dung chủ yếu của các đề tài trên là: nghiên cứu một số nội
dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển kinh
tế,về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ quá độ ở Việt
Nam,và khảo sát sự quán triệt, vận dụng, phát triển tư tưởng đó giai đoạn
từ 1986 đến nay.)
Liên quan đến nội dung đề tài khóa luận ở khoa lý luận chính trị trường
Đại học Khoa Học hiện nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu về “Hồ Chí
Minh với vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và vận dụng
tư tưởng của Người vào phát triển nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn
ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2000-2010”
SVTH: Nguyễn Thị Lành 4
Khóa luận tốt nghiệp
Những công trình trên đây có giá trị to lớn về lý luận, đó là sự mở đầu,
có tính chất khai phá, nêu lên vấn đề để khóa luận của tác giả tiếp tục kế
thừa, phân tích và đưa ra giải pháp vận dụng thúc đẩy thực tiễn sản xuất
nông nghiệp ở địa phương huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh quê hương của
tác giả.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Một là: Nắm vững những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn và tình hình vận dụng những
tư tưởng đó vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp ở nước ta thời gian qua nói

chung, ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng để từ đó nâng cao nhận
thức của bản thân và góp phần tuyên truyền tư tưởng của Bác Hồ về tầm
quan trọng của công tác phát triển nền sản xuất nông nghiệp cho mọi
người.
Hai là: Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu tiếp tục vận
dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần thúc đẩy phát triển, chuyển
dịch mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Hương Sơn, tỉnhHà
Tĩnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao đời sống nhân dân
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày và làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, vị trí, vai trò và
tầm quan trọng của sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Trình bày và làm sáng tỏ những tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về
phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, về ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, về phát triển kinh tế tập thể, xã
hội hoá nông nghiệp, xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp.
- Phân tích, đánh giá quá trình vận dụng những tư tưởng chủ đạo của
Hồ Chí Minh về phát triển sản xuất nông nghiệp ở huyện Hương Sơn, tỉnh
Hà Tĩnh nói riêng, khẳng định những thành tựu đã đạt được, chỉ rõ hạn chế
và nguyên nhân của những tồn tại yếu kém trong việc vận dụng những tư
tưởng đó ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục quán
triệt sâu sắc và vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh vào thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp của huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh phát triển, chuyển dịch
mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 5
Khóa luận tốt nghiệp
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Triết

học, khóa luận tập trung nghiên cứu những tư tưởng chủ đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về nông nghiệp và tình hình vận dụng những tư tưởng đó vào
thực tiễn sản xuất nông nghiệp ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong thời
gian từ 2000 – 2010
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được xây dựng dựa vào phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, chủ yếu là sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học,
phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử, phân tích, tổng hợp và thống kê đối
chiếu thực tế và kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác.
Nguồn tài liệu chủ yếu được sử dụng trong khóa luận là các tác phẩm
kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh, văn kiện của Đảng, các
tác phẩm tiêu biểu các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các tác phẩm
và tài liệu có liên quan của các cơ quan, ban ngành.
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đã góp phần luận giải làm sáng tỏ, sâu sắc những tư tưởng
chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển sản xuất nông nghiệp.
Khóa luận góp phần tổng kết, đánh giá quá trình hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với thực tiễn phát triển sản xuất nông
nghiệp, mà đặc biệt là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Khóa luận đã đề xuất được những giải pháp chủ yếu để tiếp tục vận
dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản
xuất nông nghiệp của huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Khóa luận góp phần đổi mới, hoàn thiện các chính sách về phát triển
kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở trên địa bàn của huyện Hương
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, cả nước nói chung.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận được kết cấu gồm 2 chương, 7 tiết, 60 trang.

Chương1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM
SVTH: Nguyễn Thị Lành 6
Khóa luận tốt nghiệp
1.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.1 Cơ sở lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế
thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế được hình thành rất sớm - từ đầu
những năm 20 của thế kỷ XX. Mặc dù không có một tác phẩm riêng biệt
nào tập trung nói về tư tưởng kinh tế, nhưng thông qua các bài viết, phát
biểu, nói chuyện của Người đã thể hiện nhiều luận điểm sâu sắc về kinh tế,
đặc biệt là về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
là sự cụ thể hóa, Việt Nam hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
vấn đề nông dân, nông nghiệp, nông thôn.
Xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẵng định: Sản xuất nông nghiệp là cơ sở của xã hội và là tiền đề của lịch
sử. Vì thực tiễn đã chứng minh “nếu không có một năng suất nào đó của lao
động thì sẽ không có một thời gian nhàn rỗi như thế cho người lao động;
nếu không có một thời gian dôi ra như thế, thì cũng không có lao động
thặng dư, và do đó cũng không có nhà tư bản”[21;722]; “Năng suất lao động
nông nghiệp vượt quá nhu cầu cá nhân của người lao động là cơ sở của mọi
xã hội”[22;409]; Năng suất lao động nông nghiệp là cái cơ sở tự nhiên
không phải chỉ riêng cho lao động thặng dư trong lĩnh vực của bản thân

ngành nông nghiệp mà còn là cái cơ sở tự nhiên để biến tất cả các ngành lao
động khác thành những ngành độc lập và do đó là cái cơ sở tự nhiên cho giá
trị thặng dư được tạo ra trong các ngành đó; Bất cứ giá trị thặng dư nào
cũng thế, cả tương đối lẫn tuyệt đối, đều dựa vào năng suất lao động nhất
định nào đó. Năng suất lao động ấy, mức năng suất ấy được dùng làm điểm
xuất phát phải có trước hết là trong lao động nông nghiệp [22;490 - 491].
Và khi bàn về vai trò của sản xuất của cải vật chất là cơ sở của sự tồn
tại và phát triển xã hội loài người, Ph.Ănghen đã khẳng định: “Trước hết
con người cần phải có ăn, uống, ở, mặc, trước khi lo đến chuyện làm chính
trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo…” [18;264]. Đúng vậy, xã hội ngày
SVTH: Nguyễn Thị Lành 7
Khóa luận tốt nghiệp
càng phát triển thì nhu cầu của con người về sản phẩm thiết yếu được sản
xuất ra từ nông nghiệp ngày càng tăng và đa dạng, phong phú. Vì vậy, phải
đặc biệt quan tâm phát triển sản xuất nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu. Hơn nữa, xét về mặt xã hội, cuộc đấu tranh giải phóng giai
cấp, giải phóng nhân loại và xây dựng xã hội mới của giai cấp công nhân,
Đảng Cộng sản chỉ có thể giành được thắng lợi trên cơ sở xây dựng được
khối đại đoàn kết liên minh công nông vững chắc. Tổng kết các bài học kinh
nghiệm của công xã Pari, chủ nghĩa Mác khẳng định: Để có thể giành và giữ
chính quyền giai cấp vô sản thành thị phải liên minh với giai cấp nông dân,
nếu không “bài ca” của giai cấp vô sản sẽ trở thành “bài ai điếu”. Khối liên
minh ấy càng phải luôn luôn được giữ vững, tăng cường sau khi giành được
chính quyền, thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở những nước
nông nghiệp nếu giai cấp công nhân không nhận thức đúng vị trí của vấn đề
nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì những cải biến xã hội chủ nghĩa sẽ không tránh khỏi những thất bại.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, Lênin vị
lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới, có tầm nhìn rất đúng đắn, sâu sắc,
nhất quán về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong chiến lược xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin nỗi
lên ba nội dung cơ bản là: Chính sách kinh tế mới (NEP)_ Công nghiệp hóa
và xã hội chủ nghĩa_ Chế độ hợp tác xã, nhưng vấn đề trọng tâm của ba nội
dung cơ bản ấy là vấn đề nông nghiệp, bao hàm cả nông dân và nông thôn
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì Lênin cho rằng, muốn xây dựng công
nghiệp thì phải bắt đầu từ nông nghiệp.
Thấm nhuần những quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong
“Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam”, Hồ Chí Minh khẳng định: “Việt
Nam là nước sống về nông nghiệp, nền kinh tế của ta lấy canh nông làm
gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông
dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta
giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.
Và như chúng ta đã thấy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, một trong những vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu
sắc nhất và có những bổ sung, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đồng thời đây cũng là
vấn đề được Người vận dụng phù hợp vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
đem lại nhiều thành công rực rỡ trong hoạt động thực tiễn lúc sinh thời,
SVTH: Nguyễn Thị Lành 8
Khóa luận tốt nghiệp
trong cả hai giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa.
Cũng chính trên vấn đề này, lịch sử từ thập kỷ 20 của thế kỷ XX cho
đến nay đã kiểm chứng và cho phép đánh giá sự vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí
Minh so với nhiều lãnh tụ cách mạng cùng thời.
1.1.2 Cơ sở thực tiễn
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
bắt nguồn từ thực tiễn hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta. Các nhà khảo cổ, nông học đều nhất trí cho rằng Việt Nam là một
trong những cái nôi của nền văn minh lúa nước. Các sưu tập trống đồng cho

ta nhiều họa tiết có liên quan về cây lúa trong đời sống dân cư cổ. Sách
“Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn đã thống kê: Riêng ở đồng bằng Bắc
Bộ có tới 32 giống lúa tẻ và 29 giống lúa nếp, vùng Thuận Quảng có 23
giống lúa tẻ và 5 giống lúa nếp… Trong thời kỳ phong kiến, nhất là triều đại
nhà Trần, nhà Lê đã rất quan tâm đến vấn đề phát triển nông nghiệp, đê
điều, thủy lợi… vì vậy trong dân gian ngày hội mùa hay lễ mừng cơm mới ở
đâu cũng là những ngày hội vui nhất trong năm. Nhưng dưới sự thống trị
của phong kiến, đế quốc cái đói vẫn thường xuyên đe dọa cuộc sống của số
đông dân cư là nông dân. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ “đồng bào nông thôn đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, hy sinh
nhiều nhất cho Tổ quốc. Thế mà đồng bào nông dân lại là những người
nghèo khổ nhất, vì họ thiếu ruộng” [25;587] . Cho nên khi trở thành vị đứng
đầu nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu chương trình hành động đầu
tiên của Chính phủ là cứu đói và tăng gia sản xuất; tấm bằng khen đầu tiên
được dành cho thành tích giữ đê chống lụt; những sắc lệnh đầu tiên là bãi bỏ
thuế thân, thuế chợ, thuế đò; những văn bản ngoại giao đầu tiên phục vụ cho
sự nghiệp kiến quốc là: “Sẵn sàng gửi 50 thanh niên Việt Nam ưu tú sang
học hỏi kỹ nghệ canh nông ở Hoa Kỳ…”
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đưa ra khái niệm về
tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp là một bộ
phận trong hệ thống tư tưởng kinh tế của Người. Những tư tưởng kinh tế nói
chung, về phát triển nông nghiệp nói riêng của Hồ Chí Minh là một mẫu
mực của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
SVTH: Nguyễn Thị Lành 9
Khóa luận tốt nghiệp
Lênin và những quy luật kinh tế khách quan vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của Việt Nam. Tư tưởng về phát triển nông nghiệp của Hồ Chí Minh đã và

đang là những cơ sở lý luận cho đường lối phát triển kinh tế nói chung,
đường lối phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng của Đảng ta.
1.2 Vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn.
Việt Nam là một đất nước nhỏ bé đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh
tàn khốc, chịu sự tàn tàn phá của hàng triệu tấn bom đạn của kẻ thù. Nhà
cửa, làng mạc bị huỷ hoại nặng nề. Sự hy sinh về con người và kinh tế là vô
cùng to lớn. Trong cuộc chiến tranh với bọn thực dân, đế quốc chúng đã
từng tuyên bố là sẽ tàn phá nền kinh tế Việt Nam, sẽ đưa nền kinh tế nước ta
về thời kì đồ đá.
Nhưng chúng không thể thực hiện được điều này vì đã gặp phải sự
chống trả quyết liệt của quân và dân ta. Tuy nhiên chúng cũng phần nào
thực hiện được ý định này là: đã tàn phá kiệt quệ nền kinh tế nước ta, vơ
vét, huỷ hoại rất nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá của nước ta,
tàn phá các công trình, cơ sở kinh tế quan trọng. Một trong những thành
phần kinh tế quan trọng và được coi là hậu phương của đất nước ta đó là
thành phần kinh tế nông thôn cũng bị tàn phá ghê gớm. Và còn ảnh hưởng,
kéo dài tới nền kinh tế nông thôn nước ta hiện nay. Phát triển nông nghiệp,
nông thôn được Đảng và Nhà nước đưa lên vị trí hàng đầu trong đường lối
chiến lược phát triển kinh tế đất nước vì hôm nay ở nước ta nông nghiệp vẫn
còn chiếm bộ phận lớn, trong nền kinh tế sản xuất nhỏ lại chiếm bộ phận lớn
trong nông nghiệp. Vì nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực và nguyên
liệu đồng thời là nguồn xuất khẩu quan trọng, nông thôn là thị trường tiêu
thụ to lớn nhất hiện nay, cho nên cần cải tạo và phát triển nông nghiệp thì
mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác. Phải cải tạo và phát triển
nông thôn – nông nghiệp để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hoá nước
nhà. Phải có nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát
triển mạnh.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2002 Đảng ta vẫn coi
phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở của tăng trưởng kinh tế ổn định

xã hội và nâng cao đời sống nhân dân, là điều kiện không thể thiếu được
trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Nông nghiệp, nông thôn là khu vực đặc biệt của nền kinh tế. Sự phát
triển của khu vực này có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công
SVTH: Nguyễn Thị Lành 10
Khóa luận tốt nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy nông nghiệp, nông thôn là gì? Chúng ta có thể hiểu một cách khái quát:
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà
con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo
ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình như lương thực, thực phẩm…
Nông nghiệp theo nghĩa rộng cũng bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp.
Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất
nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kinh tế nông thôn là một khu vực của nền
kinh tế gắn với địa bàn nông thôn. Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế
nông thôn bao gồm nhiều ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp… Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông
thôn bao gồm các thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế cá thể
Nông nghiệp, nông thôn có những vai trò không thể phủ nhận:
Nông nghiệp, nông thôn cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội.
Nhu cầu ăn là nhu cầu cơ bản, hàng đầu của con người. Xã hội có thể thiếu
nhiều loại sản phẩm nhưng không thể thiếu lương thực, thực phẩm. Do đó,
việc thỏa mản các nhu cầu về lương thực, thực phẩm trở thành điều kiện khá
quan trọng để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội sự phát triển của nông
nghiệp có ý nghĩa quyết định đối với việc thỏa mãn nhu cầu này.
Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ. Các
ngành công nghiệp nhẹ như: Chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp
dệt, giấy, đường… phải dựa vào nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nông nghiệp.
Quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nguồn nguyên liệu là nhân tố quan

trọng quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp
này.
Nông nghiệp cung cấp một phần vốn để công nghiệp hóa. Công nghiệp
hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Để công nghiệp hóa thành công, đất nước phải giải quyết rất
nhiều vấn đề và phải có vốn. Là nước nông nghiệp thông qua việc xuất khẩu
nông sản phẩm, nông nghiệp, nông thôn có thể góp phần giải quyết nhu cầu
về vốn cho nền kinh tế.
Nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Với những nước lạc hậu, nông nghiệp nông thôn tập
trung phần lớn lao động và dân cư, do đó, đây là thị trường quan trọng của
công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp, nông thôn càng phát triển thì nhu cầu
SVTH: Nguyễn Thị Lành 11
Khóa luận tốt nghiệp
về hàng hóa, tư liệu sản xuất cũng như nhu cầu về dịch vụ cho sản xuất
nông nghiệp đều tăng… Mặt khác, sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn
làm cho mức sống của người nông dân tăng lên, nhu cầu của họ về các sản
phẩm công nghiệp, nhu cầu về dịch vụ, văn hóa, y tế… ngày càng tăng.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn có một vị trí quan trọng trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội
của đất nước.
Nhận thức hoàn cảnh Việt Nam là nước thuộc địa lạc hậu, khoảng 90%
dân số là nông dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ “đặc điểm to nhất của nước ta trong
thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Từ đặc
điểm đó, nỗi bận tâm lớn nhất và xuyên suốt của Hồ Chí Minh là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Theo Người,
“chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi, mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự
do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi
mà dân được ăn no, mặc đủ”. Theo Người, trách nhiệm của Đảng và Chính

phủ rất lớn: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi”. Vì vậy, Đảng và
Chính phủ phải thực hiện ngay “ làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chổ ở. Làm cho dân có học hành”.
Nói chuyện ở hội nghị sản xuất cứu đói, Hồ Chí Minh dẫn tục ngữ:
“Dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là
không có trời. Lại có câu: “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là không có
ăn thì chẳng làm được việc gì cả. Đó là hai câu tục ngữ - một của Trung
Quốc, một của Việt Nam. Giải thích hai câu đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Hai
câu tuy đơn giải nhưng rất đúng lẽ. Muốn nâng cao đời sống của nhân dân
thì trước hết phải giải quyết vấn đề ăn (rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề
khác). Muốn giải quyết vấn đề ăn thì phải làm thế nào cho có đầy đủ lương
thực. Mà lương thực là do nông nghiệp sản xuất ra. Vì vậy, phát triển nông
nghiệp là cực kỳ quan trọng” [28;379].
Vấn đề nông nghiệp theo Hồ Chí Minh không chỉ là giải quyết vấn đề
lương thực, nâng cao đời sống vật chất, mà còn liên quan, tác động sâu sắc
tới đời sống tinh thần, là gốc rễ của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người viết:
“Phải rất chú ý tăng gia sản xuất. Các cô, các chú có khi vì công tác, vì điều
kiện, vì trình độ một phần nên chưa nghiên cứu được về chủ nghĩa Mác -
Lênin. Bác chỉ nêu một điểm rất đơn giản “có thực mới vực được đạo” đó
là duy vật, đó là gốc của chủ nghĩa Mác- Lênin” [26;420].
SVTH: Nguyễn Thị Lành 12
Khóa luận tốt nghiệp
Trên cơ sở nhận thức về nguồn cung cấp lương thực và nguyên liệu,
một nguồn xuất khẩu quan trọng, Hồ Chí Minh xác định nông nghiệp là một
mặt trận vừa giải quyết “thực túc binh cường” vừa là vấn đề chính trị, quân
sự, văn hóa. Người dạy:
Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí
Nhà nông là chiến sỹ
Hậu phương thi đua với với tiền phương.

Hồ Chí Minh có một tầm nhìn xa về công nghiệp hóa nông nghiệp
nông thôn khi lý giải mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp. Người
nói: “Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát
triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng
đi đến mục đích. Sự giúp đỡ lẫn nhau đó được thể hiện: “Nông nghiệp phải
phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân: cung cấp đủ
nguyên liệu (như bông, mía, chè ) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như
lạc, đỗ, đay ) để xuất khẩu đổi lấy máy móc. Công nghiệp phải phát triển
mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là
cho nông dân: cung cấp máy bơm nước, phân hóa học, thuốc trừ sâu để
đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác
xã nông nghiệp”. Mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp là tác động
lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau: “Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo
điều kiện cho công nghiệp hóa nước nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát
triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh Công nghiệp phát triển
thì nông nghiệp mới phát triển” [28;545]. Trong mối quan hệ đó, nông
nghiệp là gốc, là chính. Bởi vì, “nếu không phát triển nông nghiệp thì
không có cơ sở để phát triển công nghiệp” [28;180].
Hồ Chí Minh chỉ rõ muốn phát triển nông nghiệp phải xây dựng nông
thôn mới.
Sau khi giành được thắng lợi trong thời kỳ khôi phục kinh tế (1955 -
1957), Đảng ta và Bác Hồ chủ trương cải tạo và phát triển nông nghiệp theo
hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là khâu chính để tạo điều kiện cho công
nghiệp hóa; đồng thời cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các ngành kinh tế
khác. Để thực hiện chủ trương đó trong lĩnh vực nông nghiệp, Hồ Chí Minh
quan tâm tới việc xây dựng nông thôn mới với một số biện pháp gắn bó chặt
chẽ với nhau.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 13
Khóa luận tốt nghiệp
Thứ nhất, “Điều quan trọng bậc nhất hiện nay để phát triển mạnh nông

nghiệp là chỉnh đốn các ban quản trị hợp tác xã cho thật tốt” [28;544]. Hồ
Chí Minh coi cái chìa khóa của việc phát triển nông nghiệp là chỉnh đốn tốt
ban quản trị hợp tác xã. Ban quản trị tốt thì hợp tác xã tốt. Hợp tác xã tốt thì
nông nghiệp nhất định phát triển tốt.
Chỉnh đốn ban quản trị là chỉnh đốn từ tư tưởng, tổ chức đến năng lực
chuyên môn và đạo đức cách mạng. Hoạt động của ban quản trị phải xác
định vì đời sống của nông dân. Cho nên phải công bằng, dân chủ, vô tư,
khéo tổ chức, khéo lãnh đạo. Mọi việc phải bàn với xã viên; sổ sách, tiền
của phải rõ ràng, minh bạch. Ban quản trị phải chống tham ô, lãng phí, quan
liêu, phải đoàn kết chặt chẽ trong hợp tác xã, làm tốt công tác cải tiến quản
lý, cải tiến kỷ thuật và không ngừng nâng cao trình độ chính trị và văn hóa
cho cán bộ và xã viên. Xây dựng hợp tác xã thì không được cưỡng ép; phải
làm cho mọi gia đình trong hợp tác xã đều có lợi; tổ đổi công hoặc hợp tác
xã thì phải có tổ trưởng hoặc phải có quản trị. Quản trị phải dân chủ. Việc
làm phải bàn bạc với nhau. Phải tổ chức thi đua để ích nước, lợi nhà.
Thứ hai, cần phải ra sức củng cố chi bộ ở nông thôn. Chi bộ, ban quản
trị, xã viên có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Chi bộ tốt
thì ban quản trị mới tốt. Ban quản trị tốt thì xã viên mới đoàn kết và hăng
hái sản xuất, hợp tác xã mới được củng cố và phát triển tốt.
Theo Hồ Chí Minh, việc gì cũng phải có lãnh đạo mới thành công.
Nhưng lãnh đạo không phải chung chung. Cán bộ tỉnh huyện phải đi sâu
xuống các hợp tác xã. Nhưng cán bộ tỉnh huyện không thể đi khắp được.
Cho nên, “cái gốc trong việc lãnh đạo hợp tác xã vẫn là chi bộ đảng cơ sở.
Chi bộ phải tăng cường hơn nữa việc đoàn kết nông thôn và làm cho toàn
thể xã viên, toàn thể nông dân phấn khởi, hăng hái tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, phát triển và cũng cố hợp tác xã Phải nâng cao trình độ
giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ của xã viên.
Phải phát huy tác dụng của phụ nữ”.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cũng cố chi bộ ở nông thôn với ý
nghĩa là nền móng của Đảng, thì trước hết đảng viên phải gương mẫu, làm

đúng chính sách, phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, lắng
nghe ý kiến của quần chúng thì mới được dân tin, dân phục, dân yêu. Như
vậy, công việc khó mấy cũng làm được.
Thứ ba, người nông dân, xã viên phải ý thức được mình là người chủ
nước nhà, người chủ hợp tác xã. Đã là người chủ thì phải biết hưởng những
SVTH: Nguyễn Thị Lành 14
Khóa luận tốt nghiệp
quyền lợi đáng được hưởng và phải làm tròn bổn phận, nâng cao tinh thần
làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, muốn no cơm ấm áo thì mọi người phải thi
đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nông dân phải cần kiệm xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp cho tốt, cho vững. Xã viên phải đoàn kết chặt
chẽ, vui vẻ sản xuất, coi công việc hợp tác xã như công việc nhà mình. Phải
làm đúng kỷ luật lao động
Một điều đặc biệt quan trọng trong quan điểm Hồ Chí Minh là phát
triển nông nghiệp nhưng phải phát huy dân chủ. Người khẳng định, “nước ta
là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói” ; “cán bộ giữ gìn,
phát triển đạo đức cách mạng, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Muốn cho
người nông dân biết hưởng quyền dân chủ thì mọi công việc đều phải bàn
bạc với xã viên, hỏi ý kiến xã viên, cán bộ không được quan liêu, mệnh
lệnh. Người đại diện cho dân là do dân ủy thác. Cho nên, sau khi được cử,
nếu ban quản trị - những người do xã viên lựa chọn bầu ra – không làm tròn
nhiệm vụ, thì xã viên có quyền cách chức. Như vậy dân chủ ở nông thôn là
một động lực để phát triển nông nghiệp.
Thứ tư, để phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững
chắc phải cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật. Việc làm này bao
gồm cả nội dung tư tưởng, tổ chức và kỹ thuật. Và để làm tốt, cần huy động
trí tuệ và lực lượng của mọi người, từ các cụ phụ lão, chị em phụ nữ đến
toàn thể cán bộ và xã viên hợp tác xã. Cán bộ kỹ thuật và các ngành phải
giúp đỡ. Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo. Đảng viên, đoàn viên thanh niên

phải xung phong, gương mẫu. Đây là một việc làm cần thiết. Nhưng muốn
có hiệu quả thì phải đi sâu đi sát, điều tra nghiên cứu, vừa làm vừa rút kinh
nghiệm, làm đến đâu cần phải tốt và chắc chắn đến đó, tuyệt đối tránh làm
ẩu, nóng vội qua loa.
Tóm lại trên cơ sở nhận thức những vấn đề của một xã hội nông nghiệp
phương Đông, và từ kinh nghiệm giải quyết trong cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, ngay khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Hồ Chí Minh tập trung nhiều công sức, tâm huyết để giải quyết vấn đề
nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hồ Chí Minh có một tầm nhìn toàn diện
và sâu sắc vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Lý luận và thực tiễn về
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã
đem lại thành quả quan trọng trong xây dựng hậu phương miền Bắc, góp
SVTH: Nguyễn Thị Lành 15
Khóa luận tốt nghiệp
phần tạo sức mạnh to lớn trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc.
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành trung ương khóa X (5 - 8 - 2008) về
nông nghiệp, nông dân nông thôn coi nông nghiệp, nông dân, nông thôn có
vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất
nước. Trên cơ sở coi nông dân là chủ thể, xây dựng nông thôn mới theo quy
hoạch là căn bản, Đảng ta coi phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp
là then chốt. Phát triển “tam nông” nhằm mục tiêu “không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn”. Muốn thực hiện được
mục tiêu đó, phải tập trung xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện
theo hướng hiện đại, bền vững, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn. Xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa có kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị

dưới sự lãnh đạo của Đảng
Hội nghị lần thứ 7 của trung ương ra đời trong một bối cảnh mới, so
với lúc miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hơn nữa thế kỷ trôi qua. Tuy
nhiên, nội dung cơ bản của hội nghị vẫn là tinh thần của triết lý Hồ Chí
Minh về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thiết nghĩ,chúng ta phải nghiên
cứu thấu đáo hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn với ý nghĩa là một chỉnh thể cả kinh tế, chính trị, văn
hóa, an ninh quốc phòng, truyền thống, hiện đại, đặc biệt là nhân tố con
người với lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần độc lập tự cường. Trên cơ sở
đó, phải biết vận dụng và phát triển sáng tạo các quan điểm của Người trong
bối cảnh hiện nay, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và tình hình thế giới thì
chắc chắn sẽ góp phần vào sự nghiệp ổn định và phát triển bền vững đất
nước.
1.3. Những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển nền
nông nghiệp
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền sản xuất nông nghiệp
toàn diện
Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện là một trong những tư tưởng
cơ bản của Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp. Vấn đề này được Người
nhắc đi nhắc lại nhiều lần khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên và nông dân.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 16
Khóa luận tốt nghiệp
Sản xuất nông nghiệp toàn diện theo quan niệm của Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, có ngành trồng trọt phát triển toàn diện, bao gồm cả trồng
cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ.
Về trồng cây lương thực, tập trung phát triển cây lương thực, vì nó giải
quyết nhu cầu cấp thiết về “cái ăn” cho đồng bào. Trong các cây lương thực,
Người nói nhiều đến việc trồng lúa, coi cây lúa là chính, song Người cũng rất
chú trọng các loại cây hoa màu khác để tạo điều kiện phát triển chăn nuôi.
Bởi vì hoa màu không những là cây lương thực quý của người, mà còn dùng

làm thức ăn cho gia súc, gia cầm; thiếu hoa màu chăn nuôi sẽ kém phát triển.
Người coi trọng cây hoa màu đến mức dành hẳn một số bài báo đăng trên
Báo Nhân Dân để cổ động, khuyến khích bà con nông dân trồng cây hoa
màu.
Về trồng cây công nghiệp, khi đi thăm và chỉ đạo phát triển sản xuất
nông nghiệp ở các tỉnh Tuyên Quang, Hưng Yên, Hà Đông, Nghệ An,
Thanh Hoá, Người yêu cầu cần phải chú ý phát triển cây công nghiệp, bởi
vì cây công nghiệp không đạt được kế hoạch thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất công nghiệp. Trong các cây công nghiệp, Người rất quan tâm đến
cây bông, cây dâu tằm, vì đây là những cây nguyên liệu làm sợi cho ngành
dệt vải, giải quyết “cái mặc” cho đồng bào. Sau cây bông, cây dâu tằm
Người còn nói nhiều đến cây cà phê, cây lạc, cây vừng, cây mía, cây
chè, vì nước ta có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi cho các loại cây
này phát triển, đồng thời đó là những cây vừa cho hiệu quả kinh tế cao, vừa
là nguồn hàng xuất khẩu để đổi lấy ngoại tệ và máy móc.
Về trồng cây ăn quả, Người rất chú ý đến đời sống nông dân, khi đến
những nơi có điều kiện, Người đều nhắc nhở trồng cây ăn quả. Người quan
tâm đến từng chi tiết đối với người lao động, Người còn nhắc đến cả việc
trồng ớt để ăn.
Về trồng cây lấy gỗ, đối với nông dân ở đồng bằng Người động viên
phải ra sức trồng cây, vì sau này không những sẽ có đủ gỗ làm nhà, đóng
giường, bàn ghế, làm nông cụ, mà còn góp phần làm cho nước ta phong
cảnh ngày càng tươi đẹp, khí hậu điều hoà hơn. Đối với thanh niên Người
chỉ rõ trồng cây đó là nguồn lợi kinh tế lớn. Theo tính toán của Người, mỗi
thanh niên trồng 3 cây, mỗi cây 3 đồng, trong 5 năm 8 triệu thanh niên miền
Bắc sẽ thu hoạch được một số tiền rất lớn là 360 triệu đồng, có thể xây dựng
được tám nhà máy cơ khí loại khá. Chính vì lợi ích to lớn, nhiều mặt của
việc trồng cây mà Người đã phát động phong trào Tết trồng cây và viết
SVTH: Nguyễn Thị Lành 17
Khóa luận tốt nghiệp

nhiều bài báo để cổ động nhân dân tạo nên một phong tục “Tết trồng cây”
tốt đẹp ở nước ta.
Thứ hai, có ngành chăn nuôi phát triển. Tại hội nghị tổng kết phong
trào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp năm 1959, Người yêu cầu phải phát
triển mạnh chăn nuôi để có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân bón.
Chăn nuôi không những là nguồn thực phẩm quan trọng mà còn cung cấp
phân bón cho trồng trọt. Chăn nuôi và trồng trọt có mối quan hệ mật thiết,
tương hỗ với nhau. Trong chăn nuôi, Người chú trọng chăn nuôi trâu, bò, lợn
vì trâu, bò, lợn là nguồn lợi lớn, lại là một nguồn phân bón tốt cho ruộng
nương. Đi liền với việc khuyến khích phát triển chăn nuôi, nhiều lần Người
nhắc nhở không được lạm sát trâu bò, vì vừa làm giảm sức kéo, vừa gây ra tệ
nạn ăn uống lãng phí.
Thứ ba, có ngành lâm nghiệp phát triển. Hồ Chí Minh không chỉ chú ý
đến việc trồng cây lấy gỗ ở đồng bằng, mà còn luôn nhắc nhở bà con các dân
tộc miền núi trồng rừng và bảo vệ rừng, bởi vì cây và rừng là nguồn lợi lớn.
Nhiều lần Người nhắc lại câu tục ngữ “Rừng vàng biển bạc” và căn dặn
“Chúng ta chớ lãng phí vàng, mà phải bảo vệ vàng của chúng ta” [29;321].
Người còn chỉ rõ nguy cơ tác hại nhiều mặt của nạn phá rừng. Phá rừng sẽ dẫn
đến lụt lội, trôi đất, mất nước, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống. Phá
rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì khó phải mất nhiều công của và thời
gian. Đi liền với việc trồng rừng, bảo vệ rừng là việc khai thác nguồn lợi từ
rừng. Việc khai thác lâm thổ sản từ rừng là hết sức cần thiết vì lợi ích kinh
tế to lớn của nó. Nhưng việc khai thác không hợp lý sẽ để lại hậu quả nặng
nề, vì vậy việc khai thác rừng phải có kế hoạch thật hết sức chu đáo, phải
chấm dứt tình trạng khai thác rừng bừa bãi.
Thứ tư, có ngành thuỷ, hải sản phát triển. Nước ta có tiềm năng thế
mạnh về biển, do đó Người động viên nhân dân cần phải ra sức đẩy mạnh
nghề đánh cá, nghề làm muối, nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển mạnh các
nguồn lợi hải sản. Nước ta người nông dân vốn sống chủ yếu bằng nghề
trồng cây lúa nước. Sự kết hợp giữa trồng lúa nước với nuôi các loại thuỷ,

hải sản trong vườn, ao, hồ, ruộng, sông suối, biển là rất phù hợp, vừa phát
triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, vừa tạo điều kiện để cải thiện đời
sống nhân dân rất tốt. Khi đến những nơi có điều kiện thuận lợi, Người đều
nhắc cùng với việc trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi thì phải đẩy mạnh việc
nuôi trồng thuỷ, hải sản, đặc biệt là phải thả cá.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 18
Khóa luận tốt nghiệp
Thứ năm, đặc biệt quan tâm đến việc phát triển nghề phụ gia đình.
Theo Người, miếng vườn của mỗi gia đình xã viên và các loại nghề phụ là
nguồn lợi để tăng thu nhập, do đó Người yêu cầu cần phải phát triển thích
đáng kinh tế phụ gia đình của xã viên. Khai thác mảnh vườn, mở mang nghề
phụ là rất phù hợp và cần thiết để giải quyết công ăn việc làm nâng cao đời
sống cho bà con nông dân ở nông thôn, và đây cũng là một yêu cầu khách
quan bức thiết hiện nay để từng bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp, nông
thôn đi trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ sáu, phát triển nền nông nghiệp theo mô hình sản xuất hàng hoá,
mạnh mẽ và vững chắc. Hồ Chí Minh quan niệm nền nông nghiệp toàn diện
không phải là nền sản xuất nhỏ, manh mún, tự sản tự tiêu, mà đó là một nền
sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển, có quy mô lớn, có quy hoạch, kế
hoạch phù hợp với yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế quốc
dân. Khi thăm và nói chuyện với đồng bào xã Đại Nghĩa (Hà Đông), Người
chỉ rõ: “Trong kế hoạch 5 năm còn nói đến việc bắt đầu khoanh vùng nông
nghiệp. Như nơi nào sản xuất lúa nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản
xuất lúa là chính, nơi nào sản xuất chè nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng
sản xuất chè là chính,v.v Làm như vậy thì sẽ sử dụng một cách hợp lý và
có lợi nhất của cải giàu có của đất nước ta và sức lao động dồi dào của nhân
dân ta. Làm như vậy thì sau này dùng máy cũng dễ và tiện” [29;407]. Người
coi đây là điều kiện tiền đề, là bước chuẩn bị đầu tiên để xây dựng, phát
triển một nền sản xuất hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn.

Vì sao Hồ Chí Minh coi trọng phát triển sản xuất nông nghiệp toàn
diện? Sở dĩ Người coi trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, là vì phát
triển nông nghiệp toàn diện không những đáp ứng được nhu cầu cái ăn, cái
mặc, chỗ ở, ổn định và cải thiện được đời sống cho nhân dân, mà còn vì
phát triển nông nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát triển nông
nghiệp mạnh mẽ và bền vững. Như chúng ta đã biết, trong trồng trọt bao
gồm nhiều loại cây khác nhau, nếu biết trồng xen canh, gối vụ thì vừa tận
dụng được đất đai mà còn làm cho năng suất từng loại cây trồng tăng lên.
Trong nông nghiệp còn có chăn nuôi, sự phát triển trồng trọt đa dạng sẽ đẩy
mạnh được chăn nuôi. Chăn nuôi phát triển thì lại có nhiều phân bón để đẩy
mạnh trồng trọt. Sự phát triển cả trồng trọt và chăn nuôi sẽ làm cho bản thân
ngành nông nghiệp phát triển. Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả
lâm, ngư nghiệp. Nếu phát triển cả lâm, ngư nghiệp thì sản xuất nông
SVTH: Nguyễn Thị Lành 19
Khóa luận tốt nghiệp
nghiệp sẽ phát triển mạnh, bền vững và có đóng góp to lớn cho việc tăng
trưởng lâu dài của nền kinh tế. Nông nghiệp toàn diện còn bao gồm các
ngành nghề phụ, ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Việc phát triển
ngành nghề bổ sung cho nông nghiệp sẽ làm cho nền nông nghiệp phát triển
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tăng thêm thu nhập, nâng cao
đời sống nông dân. Phát triển ngành nghề sẽ đẩy mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng dần công nghiệp, dịch vụ,
giảm dần nông nghiệp. Phát triển ngành nghề sẽ hình thành yêu cầu và điều
kiện thúc đẩy việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn, tạo thuận
lợi cho phát triển công nghiệp trên địa bàn nông thôn và xây dựng nông
thôn mới.
Tóm lại, theo tư tưởng Hồ Chí Minh nền nông nghiệp toàn diện là
nền nông nghiệp bao gồm cả: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, có cơ
cấu kinh tế nội bộ ngành hợp lý, cân đối, hài hoà, bổ sung cho nhau cùng
phát triển mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả kinh tế

cao và bền vững.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, cải tiến
nông cụ, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, thực hiện công nghiệp
hoá để phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp
Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ, kinh tế nông
nghiệp là chủ yếu. Với tư tưởng “quan trọng nhất là nông nghiệp”, “coi
nông nghiệp làm gốc, làm chính”, trong quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế
của đất nước, Hồ Chí Minh rất chú ý đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn. Điều này xuất phát từ đặc điểm thực tiễn của nền
kinh tế nước ta, từ mối quan hệ biện chứng giữa sản xuất nông nghiệp và
sản xuất công nghiệp, từ yêu cầu của việc xây dựng nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, từ đòi hỏi của việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ của
dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng muốn đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn, trước
hết phải ra sức làm tốt công tác thuỷ lợi, phòng chống thiên tai hạn hán, lụt
bão. Người đặc biệt quan tâm đến thuỷ lợi là vì, đối với nền nông nghiệp lúa
nước, dân ta đã có câu: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Hồ Chí
Minh hiểu rõ nước là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất,
sản lượng cây trồng, vật nuôi và đời sống sinh hoạt của nhân dân ở nông
thôn. Người khẳng định, nói đến kinh tế nông thôn trước hết là nói đến vấn
đề nước. Ở nông thôn, nước ví như sông mà chủ nghĩa xã hội như thuyền,
SVTH: Nguyễn Thị Lành 20
Khóa luận tốt nghiệp
nước sông lên nhiều thì thuyền đi lại dễ dàng. Cho nên, phải làm sao đẩy
mạnh công tác thuỷ lợi cho đều, cho tốt và chắc chắn. Hồ Chí Minh hiểu
làm thuỷ lợi trước mắt tuy rất nhiều khó khăn nhưng lợi ích của nó vô cùng
to lớn và lâu dài, vì vậy Người đã động viên nông dân phải gắng làm thuỷ
lợi, gắng chịu khó nhọc trong vài năm để được sung sướng lâu dài.
Người đã chỉ ra cách làm thuỷ lợi là cần phải kết hợp công trình lớn
với công trình vừa và công trình nhỏ; cần phải kết hợp việc giữ nước với

việc dẫn nước và việc tháo nước. Trong điều kiện kinh phí Nhà nước còn
hạn chế, Người chỉ ra phương châm, cơ chế về nguồn lực làm thuỷ lợi: Các
công trình thuỷ lợi có quy mô lớn thì Nhà nước xuất tiền, nhân dân xuất sức.
Các công trình thuỷ lợi có quy mô vừa thì Nhà nước với nhân dân cùng làm.
Các công trình thuỷ lợi nhỏ thì nhân dân tự làm.
Trong việc phòng chống thiên tai hạn hán, Hồ Chí Minh luôn căn dặn
cán bộ, đồng bào phải thấm nhuần tinh thần “nhân định thắng thiên”, tư
tưởng phải thông suốt, phải tin vào chính bản thân mình. Khi có hạn chúng
ta phải quyết tâm khơi thêm mương, đào thêm giếng, gánh nước, tát nước.
Phải quyết tâm làm đủ mọi cách để có đủ nước tưới ruộng. Chúng ta phải
thực hiện “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”. Phải kiên quyết động viên và
dựa vào lực lượng vô cùng vô tận của quần chúng để làm cho có nước.
Cùng với chống hạn, công tác phòng chống lũ lụt cũng được Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm. Người cho rằng giặc lụt là đồng minh của giặc đói.
Muốn chống đói thì phải chống lụt. Muốn chống lụt thì phải kịp thời đắp đê,
giữ đê. Người coi việc phòng chống lũ lụt như một chiến dịch lớn, trên một
mặt trận dài, trong một thời gian khá lâu và Người kêu gọi toàn thể đồng
bào, cán bộ phải có quyết tâm vượt mọi khó khăn, làm tròn nhiệm vụ đắp đê
và giữ đê, phòng lụt và chống lụt.
Muốn làm tốt công tác thuỷ lợi, theo Người phải dựa vào lực lượng to
lớn của quần chúng nhân dân, phải có kế hoạch chu đáo, phải ra sức tuyên
truyền giải thích, phải khéo động viên nhân dân, phải cố gắng gây thành một
phong trào sôi nổi. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác
thuỷ lợi cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn.
Thứ hai, là khâu giống. Chọn được giống tốt là khâu quan trọng trong
sản xuất nông nghiệp. Có giống tốt mới có điều kiện để nâng cao được sản
lượng, chất lượng và năng suất lao động trong nông nghiệp. Trên cơ sở đó
mới có thể phát triển được một nền nông nghiệp bền vững. Trong Bài nói
chuyện với cán bộ Hưng Yên về những việc cần làm để vụ mùa thắng lợi,
SVTH: Nguyễn Thị Lành 21

Khóa luận tốt nghiệp
ngày 03 - 7 - 1958, Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống tốt thì lúa tốt, lúa tốt thì
được mùa. Điều đó rất dễ hiểu. “Lúa tốt vì giống, lúa sống vì phân” [27;194].
Trong điều kiện của những năm 1950 nền kinh tế ở nước ta còn hết sức khó
khăn, mà Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề chọn giống tốt, là một trong những
việc quan trọng cấp bách cần phải làm để phát triển kinh tế nông nghiệp.
Quan điểm ấy thật quý báu và càng đúng hơn trong điều kiện tiến bộ kỹ
thuật hiện nay.
Thứ ba, phải đẩy mạnh cải tiến nông cụ, ứng dụng khoa học kỹ thuật,
thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp. Hồ Chí Minh cho rằng cải tiến
nông cụ là một công việc rất quan trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp.
Nói về ích lợi của việc cải tiến nông cụ, Người đã chỉ rõ nếu làm tốt phong
trào cải tiến nông cụ, thì sức lao động sẽ lợi gấp đôi, gấp ba, mà lúa và hoa
màu sẽ tốt gấp bội, tức là năng suất lao động sẽ tăng lên nhiều. Chúng ta đều
biết rằng, năng suất lao động chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, nhưng
trong đó nhân tố giữ vai trò quyết định năng suất cao hay thấp là do công cụ
lao động hiện đại hay thô sơ. Chính do nông cụ của chúng ta thô sơ, lạc hậu
mà người nông dân làm việc tốn nhiều công sức, vất vả nhưng năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế lại kém. Theo tư tưởng của Người, việc cải
tiến nông cụ cần phải thực hiện mạnh hơn nữa, toàn diện hơn nữa; phải chú
ý cải tiến từ cái cày, cái bừa, chiếc xe vận tải cho đến các dụng cụ làm cỏ,
tuốt lúa, thái rau, Đồng thời với việc gây dựng phong trào cải tiến nông cụ
rộng khắp, Người yêu cầu phải đẩy mạnh công nghiệp phục vụ sản xuất
nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn. Trong Hội nghị lần thứ 7
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) bàn về phát triển công
nghiệp, Người nói: “Công nghiệp phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu
dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân; cung cấp máy bơm
nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp
dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp” [29;544 - 545].
Cùng với việc gây dựng phong trào cải tiến nông cụ, đưa máy móc vào

sản xuất, Người đề nghị cán bộ và nhân dân phải ra sức học tập và ứng dụng
tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, cải
thiện đời sống, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh rất coi trọng khoa
học công nghệ. Sở dĩ như vậy là vì Người đã nhìn thấy trước được xu hướng
phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới và vai trò cực kỳ quan trọng
của nó trong việc nâng cao năng suất lao động. Người khẳng định khoa học
công nghệ từ sản xuất mà ra và yêu cầu khoa học công nghệ phải quay lại
SVTH: Nguyễn Thị Lành 22
Khóa luận tốt nghiệp
phục vụ sản xuất, đời sống, phải luôn cố gắng giải quyết tốt các yêu cầu
thực tiễn cách mạng đất nước đặt ra.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn coi “trí thức là vốn
liếng quý báu của dân tộc”. Bản thân Người rất trân trọng các trí thức, tin
tưởng giao trọng trách cho họ, có chính sách đãi ngộ và tạo điều kiện thuận
lợi cho họ làm việc, cống hiến tài năng; đồng thời luôn nhắc nhở trí thức cần
phải có quan điểm phục vụ quần chúng. Nhờ đó, trí thức nước ta đã có những
đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước.
Để nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất
có hiệu quả, Người hết sức quan tâm đến việc phổ biến tri thức khoa học
rộng rãi vào quần chúng nhân dân và kịp thời khai thác đúc kết những kinh
nghiệm hay của quần chúng để đẩy mạnh sản xuất; vì theo Người nhân dân
ta rất cần cù, thông minh, khéo léo và có rất nhiều kinh nghiệm quý báu.
Quan điểm quần chúng của Người trong việc triển khai ứng dụng tiến bộ
khoa học công nghệ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt càng có ý
nghĩa hơn trong tình hình khoa học công nghệ đang phát triển nhanh chóng.
1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác hoá, xã hội hoá sản xuất, xây
dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, nông thôn
Từng bước đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, hình thành và
phát triển các hợp tác xã trong nông nghiệp là tư tưởng lớn, có từ rất sớm

trong Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh, xuất bản
năm 1927, Người đã dành hẳn một chương để nói khá kỹ về hợp tác xã, từ
căn cứ lý luận, lịch sử phát triển cho đến các loại hình và cách thức tổ chức
hợp tác xã. Sở dĩ, Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến hợp tác hoá, xây dựng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, nông thôn là vì theo
Người, đây không chỉ là một biện pháp quan trọng để đẩy mạnh sản xuất,
thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống nông dân,
phát triển nền sản xuất nông nghiệp một cách vững chắc, mà còn là một tất
yếu khách quan trên con đường đấu tranh cách mạng, xoá bỏ áp bức bóc lột,
xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề đưa nông dân từng bước vào con đường làm ăn tập thể đã được
Ăng ghen nêu ra từ năm 1894. Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Pháp và
Đức” Ăng ghen đã dạy rằng khi nắm được chính quyền, chúng ta không
được suy nghĩ về việc cưỡng bức những người tiểu nông như chúng ta cần
phải làm với bọn địa chủ lớn, mà nhiệm vụ chính là ở chỗ phải chỉ rõ cho
SVTH: Nguyễn Thị Lành 23
Khóa luận tốt nghiệp
nông dân thấy, chúng ta có thể cứu và giữ gìn đất đai, vườn tược cho họ chỉ
khi chuyển chúng thành sở hữu tập thể và sản xuất tập thể.
Sau này V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng đó trong tác phẩm “Bàn về
chế độ hợp tác xã” chỉ rõ tầm quan trọng của hợp tác xã trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khẳng định: “Nếu chúng ta tổ chức
được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai
chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa” [17;248] và đưa ra những chỉ dẫn có
tính nguyên tắc về hợp tác hoá trong thực tiễn, đó là: tự nguyện; nhà nước
phải giúp đỡ về vật chất; thực hiện từng bước đi dần từ thấp đến cao. Đồng
thời V.I.Lênin lưu ý cần phải quan tâm đến việc giáo dục thuyết phục, nâng
cao trình độ văn hoá cho nông dân và phải nêu gương bằng thực tiễn, tạo ra lợi
ích thiết thân cho họ.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn

cảnh cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân và
muốn phát triển nông nghiệp, làm cho nông dân thật sự ấm no, giàu có,
hạnh phúc thì phải đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, bắt đầu
từ chỗ hình thành và phát triển các tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập
thể đến chỗ xã hội hoá nông nghiệp.
+ Nói về sự cần thiết khách quan và tác dụng của việc đưa nông dân đi
vào con đường làm ăn tập thể, hình thành và phát triển các hợp tác xã trong
nông nghiệp, Người đã giải thích: “Trong lời Tuyên ngôn của hợp tác xã
Anh đã nói: Cốt làm cho những người vô sản giai cấp hoá ra anh em làm
giùm lẫn nhau, nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh. Làm sao cho ai trồng
cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào trồng cây. Tục ngữ An
Nam có câu: “Nhóm lại thì giàu chia nhau thành khó” và “Một cây làm
chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”. Lý luận hợp tác xã
đều ở trong những điều ấy” [23;313 - 314]. Vì vậy, muốn giàu có thì phải
vào hợp tác xã, bởi nhiều người hợp lại thì sẽ làm được nhiều hơn, tốt hơn,
nông dân có thêm sức để cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất và sẽ đi đến
chỗ ấm no, sung sướng. Thật vậy, hợp tác tạo nên sức mạnh tập thể, giúp
các hộ nông dân làm được những công việc mà từng hộ gia đình riêng lẻ
không có khả năng thực hiện, hoặc thực hiện kém hiệu quả hơn như: phòng
chống thiên tai, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phòng trừ dịch hại, sâu
bệnh, Ngoài lợi ích to lớn về kinh tế, hợp tác còn là cơ sở để xây dựng
SVTH: Nguyễn Thị Lành 24
Khóa luận tốt nghiệp
tình đoàn kết, phát huy tinh thần tương thân tương ái để xây dựng cộng
đồng xã hội tốt đẹp ở nông thôn.
+ Mục đích cuối cùng của việc làm ăn tập thể, xây dựng và phát triển
hợp tác xã như Hồ Chí Minh đã chĩ rõ là để cải thiện đời sống nông dân,
làm cho nông dân được no ấm, mạnh khoẻ, được học tập, làm cho dân giàu,
nước mạnh. “Dân có giàu thì nước mới mạnh. Đó là mục đích riêng và mục

đích chung của việc xây dựng hợp tác xã” [27;537].
+ Về bước đi và hình thức hợp tác hoá nông nghiệp: Rút kinh nghiệm
từ thực tiễn, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định hợp tác hoá nông nghiệp ở
nước ta, cần phải trải qua hình thức tổ đổi công và hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp. Nhưng trước hết phải bắt đầu từ chỗ xây dựng và phát triển rộng
khắp tổ đổi công, với các hình thức như tổ đổi công từng vụ, từng việc, tổ
đổi công thường xuyên. Sau này tổ đổi công thường xuyên đã rộng khắp và
có nền nếp rồi, mới tiến lên xây dựng hợp tác xã nông nghiệp từ thấp đến
cao. Chớ vội tổ chức hợp tác xã ngay. Chúng ta phát triển từng bước vững
chắc tổ đổi công và hợp tác xã thì hợp tác hoá nông nghiệp nhất định sẽ
thành công.
+ Về nguyên tắc xây dựng tổ đổi công và hợp tác xã, Hồ Chí Minh căn
dặn là không được cưỡng ép ai hết. Phải tuyên truyền, giải thích cho nông
dân thấy được lợi ích của tổ đổi công và hợp tác xã. Phải làm sao cho những
gia đình trong tổ đổi công và hợp tác xã đều có lợi. Có lợi thì người ta mới
vui lòng vào. Quản trị phải dân chủ. Việc làm phải bàn bạc với nhau, mọi
người đều hiểu mới vui lòng làm.
+ Về phương châm tiến hành: chắc chắn, thiết thực, từ nhỏ đến lớn.
Chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Làm ít mà chắc chắn hơn làm nhiều, làm
rầm rộ mà không chắc chắn. Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ
tiến tới dần dần. Đã tổ chức là phải làm việc thiết thực, chứ không phải tổ
chức cho có tên mà không có thực tế, có số lượng mà không có chất lượng.
Phải làm từ nhỏ đến lớn, không nên tổ chức quá to, vì quá to thì khó quản
lý, dễ thất bại.
+ Về củng cố và phát triển hợp tác xã, Hồ Chí Minh căn dặn cần phải
chú ý các điều kiện cần thiết sau:
- Đi đôi với việc tuyên truyền, giáo dục, vận động thuyết phục nông
dân cần phải tổ chức tốt các hợp tác xã kiểu mẫu.
SVTH: Nguyễn Thị Lành 25

×