Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một số biện pháp giúp học sinh khiếm thính học tốt phân môn luyện từ và câu ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.28 MB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
Mã số:…………
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP HỌC SINH KHIẾM THÍNH HỌC TỐT
PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4
Người thực hiện: Lưu Thị Ngần
Lĩnh vực/ Môn nghiên cứu:
Giáo dục khuyết tật: Phân môn Luyện từ và câu

Sản phẩm đính kèm
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Năm học : 2013 – 2014
1
SƠ LƯỢC VỀ LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Lưu Thị Ngần
2. Ngày tháng năm sinh: 24/9/1984
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: 208 tổ 7, ấp 1, Sông Trầu, Trảng Bom, Đồng Nai.
5. Điện Thoại: 0976224421
6. Email: luulydongnoi2005 @ yahoo.com.vn
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy môn Toán, Tiếng Việt, Đạo đức.
Giáo viên chủ nhiệm lớp 4 khiếm thính.
9. Đơn vị công tác: Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao nhất: Cử nhân sư phạm giáo dục đặc
biệt.
- Năm nhận bằng: 2012


- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục đặc biệt
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy trẻ khiếm thính
- Số năm kinh nghiệm: 6 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm có trong 5 năm gần đây:
1. Năm học: 2010 – 2011: Một số biện pháp giúp học sinh khiếm thính học
múa đạt hiệu quả tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
2. Năm học: 2011 – 2012: Một số biện pháp giúp học sinh khiếm thính học
kí hiệu ngôn ngữ qua phân môn tập đọc lớp 3 tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ
khuyết tật Đồng Nai.
3. Năm học: 2012 – 2013: Một số biện pháp giúp học sinh khiếm thính lớp
2 kèm tăng động giảm trung học có hiệu quả tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết
tật Đồng Nai
2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHIẾM THÍNH
HỌC TỐT PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trẻ khiếm thính là trẻ bị khiếm khuyết về thính giác, bị mất khả năng nghe,
vì vậy việc lĩnh hội và hình thành ngôn ngữ là vô cùng khó khăn, đặc biệt là ngôn
ngữ nói. Khi tiếp xúc với trẻ khiếm thính, trẻ khó có thể dùng ngôn ngữ nói để
diễn đạt những suy nghĩ, cảm xúc, những ý muốn của bản thân cho người khác
biết. Sự hạn chế về ngôn ngữ nói đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển trí tuệ,
nhận thức của trẻ. Phân môn "Luyện từ và câu" là một trong những phân môn
quan trọng có ý nghĩa to lớn trong chương trình tiểu học và có vai trò quan trọng
đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ.
Nếu không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như là
phương tiện giao tiếp. Luyện từ và câu còn phát triển năng lực, trí tuệ, ngôn ngữ,
những phẩm chất đạo đức ở trẻ em. Nó có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc
nghe, nói, đọc, viết. Mặt khác, mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh
một số hiểu biết sơ giản về từ và câu, rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ,

đặt câu và sử dụng dấu câu, bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói
và viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp. Trong
phân môn "Luyện từ và câu" sẽ giúp các em làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm
hồn. Trẻ khiếm thính bị mất khả năng tiếp nhận thế giới âm thanh nên cũng mất đi
phương tiện giao tiếp thông thường là ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ kí hiệu là phương
tiện thay thế cho ngôn ngữ nói, ngôn ngữ kí hiệu và tư duy có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Trong quá trình học tập để hiểu ngôn ngữ kí hiệu của giáo viên thì
trẻ khiếm thính phải có kĩ năng quan sát tốt. Nhờ quan sát tốt, trẻ có thể phân tích
rồi tổng hợp ý nghĩa của các kí hiệu giáo viên vừa diễn đạt. Đối với học sinh
khiếm thính việc học phân môn Luyện từ và câu gặp nhiều khó khăn vì có rất
nhiều từ trừu tượng, khái niệm, hiện tượng,…các em không thể hiểu hết ý nghĩa
của các từ đó. Mặt khác, khả năng tư duy, tưởng tượng cũng hạn chế, ảnh hưởng
đến việc học, học sinh không ham thích môn học. Chính vì vậy, tôi nhận thức rõ
được tầm quan trọng của phân môn nên tôi mạnh dạn chọn đề tài ''Một số biện
pháp giúp học sinh khiếm thính học tốt phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4'', để
giúp các em học tốt hơn.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
a. Khái niệm trẻ khiếm thính (trẻ có tật về thính giác)
- Trong ngôn ngữ phổ thông, điếc thường được biểu hiện là mất thính giác
hoàn toàn, không nghe được chút nào cả hoặc giảm sút nhiều về thính giác, nghe
không rõ.
- Trong ngành y, điếc có nghĩa là suy giảm hoặc mất toàn bộ hay một phần
sức nghe.
- Trong Giáo dục đặc biệt, trẻ điếc hay trẻ khiếm thính là trẻ có khó khăn về
nghe và nói, trẻ không nghe được nên không thể tiếp nhận thông tin hoặc nắm
3
thông tin không trọn vẹn, không chính xác. Do đó sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp
nhận thông tin, ảnh hưởng đến việc học tập và giao tiếp xã hội.
b. Ảnh hưởng của sự phá hủy cơ quan thính giác đến hoạt động của trẻ.

- Thính giác là một cơ quan vô cùng quan trọng đối với một con người, nó
giúp ta tri thức được thế giới xung quanh cho các hoạt động thực tiễn và để phát
triển hài hòa về tâm lý và tình cảm.
- Trẻ bị mất khả năng tiếp nhận thế giới âm thanh phải sống trong môi
trường yên lặng, dẫn đến rối loạn các chức năng tâm lý, trẻ trở nên cục cằn, thô
lỗ, thiếu tự tin và lúc nào cũng cảm thấy thiếu an toàn khi tiếp xúc với cộng đồng.
- Thực tiễn cho ta thấy những trẻ không nghe được không nói được nhu cầu
nghe và nói của những trẻ này càng lớn.
- Trẻ bị khiếm khuyết trong các chức năng tâm lý do sự rối loạn chức năng
thính giác làm cho trẻ trở nên nhút nhát, sợ sệt, thiếu tự tin, thiếu những cảm xúc
tinh tế … Đó là những vấn đề đặt ra cho chúng ta làm như thế nào để trẻ điếc có
thể giao tiếp với cộng đồng.
c. Đặc điểm phát triển thính giác và ngôn ngữ của trẻ khiếm thính
Trẻ khiếm thính hạn chế về sức nghe dẫn đến khó có thể lĩnh hội đầy đủ kiến
thức nên chủ yếu tiếp nhận thông tin qua kênh thị giác. Do đó khi chúng ta muốn
truyền đạt kiến thức cho trẻ cần phải chuẩn bị và sử dụng càng nhiều hình ảnh
càng tốt để các em có thể tiếp nhận thông tin một cách trọn ven nhất. Đối với trẻ
khiếm thính không chỉ giúp trẻ học từ ngữ bằng kí hiệu ngôn ngữ và chữ viết mà
chúng ta còn phải chú trọng tất cả các mặt phát triển khác của trẻ về thể chất, tinh
thần, trí thông minh và kỹ năng giao tiếp xã hội. Bên cạnh đó trẻ kèm theo tăng
động giảm tập trung thường không duy trì chú ý lâu, hay lăng xăng, thì việc học
lại càng khó khăn hơn nhiều.
2. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ khiếm thính
2.1. Đặc điểm cảm giác - tri giác của trẻ khiếm thính
Ở trẻ khiếm thính, do thiếu cảm giác nghe hoặc cảm giác nghe bị phá huỷ,
cảm giác thị giác và cảm giác vận động có một vai trò đặc biệt quan trọng. Thị
giác của trẻ khiếm thính trở thành chủ đạo và chủ yếu trong việc nhận thức thế
giới xung quanh và trong việc tiếp nhận ngôn ngữ. Trẻ bình thường học nói chủ
yếu dựa trên cảm giác nghe và vận động, còn tri giác thị giác đóng vai trò thứ yếu.
Điều này hoàn toàn ngược lại với trẻ khiếm thính. Cùng với cảm giác vận động,

cảm giác tri giác nhìn trở thành nền tảng để hình thành tiếng nói. Thậm chí trẻ
khiếm thính có thể tiếp nhận ngôn ngữ chỉ dựa trên tri giác nhìn. Rất nhiều những
nghiên cứu đã chứng minh rằng cảm giác và tri giác ở trẻ khiếm thính không kém
so với trẻ nghe được, thậm chí còn tích cực và tinh nhạy hơn. Vì vậy, trẻ khiếm
thính thường để ý những chi tiết nhỏ của thế giới xung quanh mà trẻ bình thường
không để ý đến.
2.2. Đặc điểm trí nhớ của trẻ khiếm thính
Ở trẻ khiếm thính việc tiếp nhận từ ngữ bắt đầu muộn hơn nhiều vì mất hẳn
một khoảng thời gian dài ban đầu để tiếp nhận từ ngữ. Thời gian phát hiện tật điếc
4
càng kéo dài thì việc thu nhận ngôn ngữ của trẻ càng bị trì hoãn. Tất nhiên những
từ biểu thị đồ vật và hiện tượng thu nhận bằng những cơ quan cảm thụ khác nhau,
không được ghi nhớ với mức độ nhanh chóng và bền vững như nhau.
Trẻ khiếm thính kém hơn trẻ nghe được trong việc ghi nhớ những từ biểu thị
hiện tượng âm thanh.Việc ghi nhớ những từ thuộc phạm vi những hiện tượng âm
thanh diễn ra nhờ sự hoạt động phức tạp của mỗi loạt cơ quan chức năng của trẻ
điếc: đó là sự hoạt động đồng thời và tác động qua lại của cơ quan thị giác, xúc
giác, vận động và cảm giác - rung.
2.3. Đặc điểm tư duy – tưởng tượng của trẻ khiếm thính
Những đặc điểm tưởng tượng ở trẻ khiếm thính có sự thiếu hụt là do sự hình
thành ngôn ngữ chậm và tư duy trừu tượng hạn chế gây nên. Mặc dù hình tượng
thị giác của trẻ điếc đạt mức độ cao và sống động, nhưng sự hình thành tư duy
bằng khái niệm quá chậm, làm chúng rất khó thoát khỏi cái ý nghĩa cụ thể, nghĩa
đen của từ, điều đó làm khó khăn cho sự hình thành hình tượng mới. Tưởng tượng
tái tạo có một ý nghĩa đặc biệt trong hoạt động nhận thức của trẻ điếc. Nhờ tưởng
tượng tái tạo, thế giới xung quanh được phản ánh trong ý thức của trẻ rộng hơn.
Tầm hiểu biết của trẻ được mở rộng qua giới hạn kinh nghiệm cá nhân, đưa trẻ
tiếp xúc với kho tàng kinh nghiệm của loài người.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP.
1. Biện pháp: Tạo sự gần gũi hứng thú ban đầu cho các em

Đây là quan điểm về đổi mới phương pháp dạy học, phải bắt đầu tạo sinh khí
trong dạy - học, nhằm đi đến mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học.Tạo sự
thoải mái, không gây căng thẳng, sự gần gũi làm cho tâm lý của các em không lo
lắng khi vào buổi học.
+ Kiểm tra bài cũ để giáo viên nắm bắt việc học ở nhà của học sinh, nhưng
nếu chỉ đơn thuần là kiểm tra kiến thức của bài học trước sẽ gây cho học sinh cảm
giác nhàm chán hoặc “sợ”. Vì vậy, hình thức kiểm tra là rất quan trọng để gây
hứng thú học tập cho học sinh. Có thể kiểm tra bằng nhiều hình thức như: hỏi -
đáp giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh hoặc bằng trò chơi
Ví dụ: Bài mở rộng vốn từ: Nhân hậu - Đoàn kết (tuần 3) khi kiểm tra bài cũ
tôi đã thực hiện bằng cách cho học sinh chơi trò chơi: Xếp các từ ghép có tiếng
“Nhân” vào hai cột. “Nhân” có nghĩa là người, “Nhân” có nghĩa là lòng thương
người.
Các từ: Nhân dân, nhân hậu, công nhân, nhân đức, nhân tài, nhân từ, nhân
loại, nhân ái,
- Giáo viên làm các thẻ từ để học sinh gắn.
- Học sinh hai đội lần lượt lên xếp các thẻ từ vào bảng.
- Bảng phụ chia làm 2 cột: “Nhân” có nghĩa là người.
“Nhân” có nghĩa là lòng thương người.
“Nhân” có nghĩa là người. Nhân dân, công dân, nhân loại,
5
nhân tài.
“Nhân” có nghĩa là lòng thương
người
Nhân hậu, nhân ái, nhân đức, nhân
từ.
- Thi đua giữa hai đội, đội nào xếp nhanh và đúng thì sẽ thắng.
Phần giới thiệu bài, dẫn dắt vào bài học cũng là một nghệ thuật. Lời vào bài
chỉ cần ngắn gọn, vừa đủ, không xa xôi, dài dòng hoặc dùng tranh ảnh giới thiệu
để học sinh cảm thấy hấp dẫn, muốn tìm hiểu, muốn nghe cô giảng.

2. Biện pháp sử dụng từ điển Tiếng Việt
Từ điển là nơi cung cấp thông tin hoặc giải thích một sự vật hay hiện tượng
một cách ngắn gọn và chính xác nhất.
Từ điển là danh sách các từ ngữ được sắp xếp thành các từ vị chuẩn
(lemma). Một từ điển thông thường cung cấp các giải nghĩa các từ ngữ đó hoặc
các từ ngữ tương đương trong một hay nhiều thứ tiếng khác. Ngoài ra còn có thể
thêm thông tin về cách phát âm, các chú ý ngữ pháp, các dạng biến thể của từ,
lịch sử hay từ nguyên, cách sử dụng hay các câu ví dụ, trích dẫn.
Trong quá trình dạy trẻ khiếm thính việc sử dụng từ điển rất cần thiết và
quan trọng. Nó giúp cho học sinh nắm được nghĩa của từ một cách nhanh và
chính xác nhất.
Ví dụ: Mở rộng vốn từ: Dũng cảm (tuần 25)
- Tìm những từ cùng nghĩa với từ dũng cảm trong các từ sau: Gan dạ, thân
thiết, hòa thuận, gan lì, bạo gan,…
- Giáo viên cho học sinh sử dụng từ điển để tra ý nghĩa của các từ trên và
chọn cho phù hợp.
Gan dạ: Không sợ nguy hiểm.
Gan góc: Kiên cường, không lùi bước.
Gan lì: Gan đến mức trơ ra, không còn biết sợ là gì.
Thân thiết: Thân cận và mật thiết.
Hòa thuận: Thuận thỏa yên vui, anh em hòa thuận hai thân vui vầy.
Anh dũng: Mạnh mẽ, dũng cảm, người tài giỏi.
Anh hùng: Bậc tài trí hơn người.
Quả cảm: Gan dạ, rắn rỏi.
Can đảm: Dám làm không sợ.
Tháo vát: Giỏi xoay xở, người tháo vát.
Thông minh: sáng dạ, mau hiểu, học ít biết nhiều.
- Giáo viên phát phiếu cho học sinh làm việc theo nhóm.
- Học sinh sử dụng Từ điển tìm nghĩa của các từ.
- Sau thời gian quy định các nhóm dán kết quả làm bài trên bảng.

- Đại diện nhóm lên trình bày.
Từ đồng nghĩa với từ dũng cảm: Can đảm, gan dạ, gan góc, gan lì, anh
hùng, anh dũng, quả cảm, can đảm.

6
Ngoài ra, giáo viên có thể cho học sinh làm cá nhân hoặc làm theo nhóm và
lên bảng viết các từ cùng nghĩa đó.


Hình: Học sinh đang tra từ điển Tiếng Việt
3. Biện pháp hướng dẫn học sinh phân tích dữ liệu
Việc phân tích dữ liệu giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập và thực
hành tốt nhằm rút ra kiến thức.
+ Giáo viên cần cho học sinh đọc thầm, trình bày yêu cầu của bài tập, giải
thích thêm cho học sinh nắm rõ yêu cầu bài tập.
+ Tổ chức cho học sinh làm bài tập bằng nhiều hình thức như: cá nhân, nhóm.
+ Sau đó báo cáo kết quả, cả lớp cùng tham gia trao đổi, nhận xét, học sinh tự
rút ra kết luận.
+ Giáo viên chỉ khẳng định kết luận đúng hoặc bổ sung.
+ Trao đổi với học sinh, sửa lỗi cho học sinh hoặc tổ chức cho học sinh góp ý
và đánh giá cho nhau trong quá trình làm bài.
+ Giáo viên không nhất thiết phải giải nghĩa từ mà gợi ý cho học sinh liên
tưởng, so sánh để tìm nghĩa của từ.
+ Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần gũi học sinh, giáo viên cần đưa vào
hoàn cảnh cụ thể để học sinh hiểu nghĩa.
+ Cuối cùng giáo viên sơ kết, tổng kết ý kiến của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài "Động từ" (tuần 9)
Bài tập: Đọc đoạn văn sau:

Anh nhìn trăng và nghĩ tới ngày mai……

Mươi mười lăm năm nữa thôi, các em sẽ thấy cũng dưới ánh trăng này, dòng
thác nước đổ xuống làm chạy máy phát điện; ở giữa biển rộng, cờ đỏ sao
vàng phấp phới bay trên những con tàu lớn.
Theo Thép Mới
a. Tìm các từ chỉ hoạt động của anh chiến sĩ hoặc của thiếu nhi.
7
b. Tìm các từ chỉ trạng thái của các sự vật.
+ Phần nhận xét sau khi cho học sinh: đọc kĩ, thảo luận theo cặp tìm các từ chỉ
hoạt động của người, các từ chỉ trạng thái của vật, rồi trình bày kết quả trước lớp.
a. Các từ chỉ hoạt động của người là: nhìn, nghĩ, thấy.
b. Các từ chỉ hoạt động của sự vật là: đổ xuống, bay.
+ Giáo viên sẽ chốt lại: Các từ nêu trên là động từ.
+ Vậy động từ là gì? Học sinh trả lời – giáo viên khẳng định và ghi bảng.
+ Giáo viên chốt: Động từ là từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
Ví dụ: Nói tên các hoạt động, trạng thái được các bạn thể hiện bằng cử chỉ,
động tác.
- Giáo viên cho học sinh chia làm 2 đội (đội A và B) có số học sinh bằng
nhau, lần lượt từng học sinh đội A làm động tác cho đội B đoán tên hoạt động.
Sau đó đổi vai đội B làm động tác cho đội A đoán tên.
- Đội nào đoán đúng, nhanh, có động tác đẹp, tự nhiên rõ ràng sẽ thắng
cuộc.
- Học sinh các nhóm làm thực hành.


Hình: Học sinh đang thực hành
4. Biện pháp dạy nội dung mở rộng vốn từ
Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hoá trong phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với chủ
điểm của từng đơn vị học.
+ Để học sinh hiểu nghĩa và biết dùng từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ thuộc các

chủ điểm. Giáo viên cần gợi ý cho học sinh liên tưởng, so sánh hoặc tra từ điển để
tìm hiểu nghĩa. Với những từ ngữ trừu tượng, ít gần gũi với học sinh, cần đưa
chúng vào văn cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa.
+ Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ tên chủ điểm. Từ đó, học sinh có cơ
sở tìm thêm các từ khác theo chủ điểm đã cho. Căn cứ vào từng đối tượng học
sinh, giáo viên cần lựa chọn biện pháp dạy học cho phù hợp. Tạo điều kiện cho tất
cả học sinh đều được tham gia thực hành theo năng lực của mình từng bước vươn
lên đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng .
Ví dụ: Khi dạy bài - Mở rộng vốn từ: Ước mơ.
8
Bài tập 2: Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ước mơ”.
- Bắt đầu bằng tiếng“ước”: ước ao, ước muốn, ước vọng, ước mong…
- Bắt đầu bằng tiếng“mơ”: mơ tưởng, mơ ước, mơ mộng…
+ Học sinh bước đầu tìm được một số từ cùng nghĩa với từ “ước mơ” bắt đầu
bằng tiếng “ước”, bằng tiếng “mơ”, ghép được từ ngữ, hiểu ý nghĩa của từ ngữ
đó.
+ Đối với bài tập này các em chỉ cần tìm thêm một thành tố thứ hai đứng sau
thành tố đã cho để tạo nên một từ cùng nghĩa với “ước mơ”.
Nêu một ví dụ minh họa về một loại ước mơ. Như chúng ta biết trong cuộc
sống ai cũng có những ước mơ của mình. Có những ước mơ chính đáng và không
chính đáng. Từ đó, học sinh có thể lấy bất kỳ một ví dụ cho mỗi loại ước mơ sao
cho thích hợp.
Ví dụ: “Ước mơ sau này sẽ làm thầy(cô) giáo, làm kĩ sư, làm bác sĩ…tài giỏi”.
5. Biện pháp dạy kiến thức về từ, câu, kĩ năng dùng từ, đặt câu và sử
dụng dấu câu
Kiến thức Tiếng Việt là cả một kho tàng phong phú. Ngay từ khi mới bập
bẹ biết nói, các em đã biết dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp. Thế nhưng đến lớp 4
các em mới bước đầu phân tích cấu tạo của từ, câu, từ loại, cách sử dụng dấu
câu.
Trong mỗi bài học gồm 3 phần: Nhận xét, ghi nhớ, luyện tập. Theo quan

điểm tích hợp phần nhận xét (cung cấp ngữ liệu) thường rút ra từ những bài tập
đọc mà học sinh đã học. Giáo viên cần giúp học sinh khai thác tối đa ngữ liệu
được cung cấp. Khi dạy các kiến thức về từ, học sinh thường gặp khó khăn trong
việc nhận diện, phân biệt từ phức, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, từ láy.
Theo chương trình từ ngữ, ngữ pháp lớp 4 cũ, học sinh chỉ biết đơn giản về cấu
tạo của ba từ loại: từ đơn, từ ghép, từ láy. Việc phân tích từ ghép có nghĩa tổng
hợp, có nghĩa phân loại, từ ghép và từ láy, học sinh phải căn cứ trên nghĩa của
từ. Vì vậy, để giúp học sinh nhận ra hệ thống từ, nhận xét về mặt cấu tạo giáo
viên cần: giúp học sinh thao tác ghép các từ với từng phần trong sơ đồ lần lượt
theo thứ tự tầng bậc.
Ví dụ: Khi dạy bài "Luyện tập về từ ghép, từ láy" (tuần 4)
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân loại từ "bánh trái" (chỉ chung cho các
loại bánh) nên là từ ghép có nghĩa tổng hợp.
- Giáo viên đặt câu hỏi: Hãy kể tên một số loại bánh mà em biết? (bánh
rán, bánh cuốn, bánh mì…)
- Bánh rán, bánh cuốn, bánh mì là chỉ riêng cho một loại bánh nên là từ
ghép có nghĩa phân loại.
- Khi học sinh không phân biệt được từ ghép và từ láy, giáo viên cần giải
nghĩa cho học sinh về từ ghép là từ gồm có hai tiếng có nghĩa trở lên tạo thành,
các tiếng đó bổ sung nghĩa cho nhau tạo nên nghĩa mới.
Ví dụ: Từ dẻo dai, bờ bãi,
+ Trong từ này tiếng dẻo hoặc bờ cũng có nghĩa, tiếng dai hoặc bãi cũng có
nghĩa nên từ đó là từ ghép.
Từ ghép: dẻo + dai = dẻo dai
bờ + bãi = bờ bãi
9
Trong trường hợp từ cứng cáp.
+ Tiếng cứng có nghĩa, nghĩa này hợp với nghĩa của từ.
+ Tiếng cáp không hợp với nghĩa của từ.( không có nghĩa).
Vì vậy: hai tiếng lặp lại âm đầu c nên là từ láy.

- Trong kiến thức về từ loại, phần danh từ học sinh rất khó khăn trong việc
nhận diện danh từ chỉ khái niệm, đơn vị. Nên khi dạy phần này giáo viên cần
đưa ra dấu hiệu để giúp học sinh nhận diện danh từ chỉ khái niệm là:
+ Những từ chỉ sự vật có thể cảm nhận bằng trí óc như: đạo đức, kinh nghiệm,

+ Những từ được chuyển hoá từ động từ hoặc tính từ khi ghép với các từ “sự”,
“cuộc”, “lòng”, như: lòng kiên nhẫn, sự hi sinh,
+ Thường là từ gốc Hán như: Truyền thống, Tổ quốc,
6. Biện pháp trò chơi
Phương pháp sử dụng trò chơi học tập là dạy học thông qua việc tổ chức
hoạt động cho học sinh. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được hoạt động bằng
cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu của bài
học. Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố
kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, GV thường tổ chức trò chơi
học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi
các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học
tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới.
Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi.
Bước 2: Hướng dẫn chơi.
Bước 3: Thực hiện trò chơi.
Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi.
Ví dụ: Trò chơi Luyện từ và câu lớp 4: Du lịch (tuần 8 –SGK tiếng việt 4,
tập một)
Bước 1 : Giới thiệu tên và mục đích của trò chơi.
+ Mục đích là luyện viết đúng quy tắc viết hoa tên nước và thủ đô một số
nước.
Bước 2 :
- Chia lớp thành 2 nhóm sao cho mỗi nhóm có 4 học sinh.
- Quản trò là 1 học sinh và trọng tài là giáo viên.
- Dụng cụ chơi: Mỗi nhóm có 1 tờ giấy to, mỗi tờ giấy có hai cột, cột thứ

nhất ghi tên nước, cột thứ hai ghi tên thủ đô, chỗ nào ghi tên nuớc thì cùng dòng
với nó ghi tên thủ đô hoặc ngược lại. Thứ tự tên nước và tên thủ đô của các tờ
giấy to là khác nhau.
- Cách chơi: Trong từng nhóm, học sinh trao đổi để lựa chọn đúng tên
nước với tên thủ đô hoặc tên thủ đô đúng với tên nước viết trong giấy to. Sau 5
phút, các nhóm ngừng chơi và treo kết quả lên bảng lớp. Mỗi tên nước và thủ đô
viết đúng được 1 điểm. Nhóm có điểm cao là nhóm thắng.
Bước 3: Học sinh thực hiện chơi.
Bước 4:
- Một số học sinh nhắc lại kết quả đúng đã được xác nhận sau cuộc chơi.
- Từng học sinh ghi tên nước và tên thủ đô của 11 nước trong cuộc chơi
10
- Từng học sinh đọc từng câu và nghĩa của từ đã chọn trong câu đó.
- Các nhóm nhận xét bài làm của nhau.
- Giáo viên nhận xét ghi điểm cho các nhóm.
Ví dụ: Tên nước Tên Thủ đô
- Việt Nam - Hà Nội
- Nhật bản - Tôkio
- Lào - Viên chăn
- Hàn Quốc - Seoul
7. Biện pháp luyện tập theo mẫu, trực quan.
Trẻ khiếm thính tiếp nhận thông tin qua kênh nhìn nên giáo viên chủ yếu sử
dụng phương pháp làm mẫu và trực quan để học sinh dễ dàng nắm bắt và hiểu nội
dung bài giảng, hình thành biểu tượng, khái niệm về sự vật hiện tượng, giúp trẻ
phát triển nhận thức, tư duy,… Đây là phương pháp mà học sinh tạo ra các đơn vị
ngôn ngữ, lời nói bằng cách mô phỏng mẫu mà giáo viên đưa ra hoặc mẫu có
trong sách giáo khoa. Lựa chọn và giới thiệu mẫu cho cả lớp cùng thấy. Đưa ra hệ
thống câu hỏi gợi ý để học sinh quan sát, tìm hiểu đặc điểm của mẫu. Học sinh
vận dụng những hiểu biết và kết quả quan sát của mình để mô tả lại bằng cách
viết câu. Học sinh thể hiện bằng bài viết và giáo viên kiểm tra, đánh giá, nhận xét

xem mức độ sáng tạo của mỗi học sinh như thế nào. Khuyến khích tuyên dương
những bài viết sáng tạo và đọc cho cả lớp cùng nghe để học tập, đồng thời sửa sai
cụ thể những bài viết của học sinh trung bình yếu.
- Giáo viên cho học sinh nhắc lại một số kiến thức có liên quan, rồi tổ chức
cho học sinh làm các bài tập theo các hình thức trao đổi nhóm, thi đua giữa các
nhóm, cá nhân.
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ yêu cầu của bài tập.
+ Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc 1 bài để hướng dẫn cách làm.
+ Hướng dẫn học sinh làm vào vở (bảng con, bảng phụ, bảng nháp,…)
+ Hướng dẫn học sinh nêu kết quả, chữa bài tập và tự kiểm tra kết quả luyện tập.
Ví dụ: Xác định bộ phận chủ ngữ, vị ngữ trong câu kể Ai là gì?
Chủ ngữ Vị ngữ
Tàu chúng tôi buông neo trong vùng biển Trường Sa.
Một số chiến sĩ thả câu.
Cô giáo là người mẹ thứ hai của em.
Bố em là phi công.
Ví dụ: Bài tập 2/24: Kể về các bạn trong lớp em, trong lời kể có sử dụng
một số câu kể Ai là gì?
Giáo viên hướng dẫn gợi ý cho học sinh bằng câu ngắn gọn cho học sinh
nắm và học sinh viết lại vào giấy.
Trong lớp em, bạn Huy là người học giỏi nhất lớp. Bạn ấy là lớp trưởng.
Bạn Anh là lớp phó,…
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.
11
Quá trình học "Luyện từ và câu" giúp các em biết sử dụng từ ngữ phù hợp
trong giao tiếp hàng ngày với bạn bè, bố mẹ và mọi người xung quanh. Bồi dưỡng
cho các em biết thưởng thức cái đẹp, biết thể hiện những buồn, vui, yêu, ghét của
con người. Từ đó, học sinh biết phân biệt đẹp, xấu, thiện, ác để hoàn thiện nhân
cách cho bản thân. Hình thành và bồi dưỡng kĩ năng sử dụng Tiếng Việt.
Đây là bảng khảo sát ban đầu trước khi tôi thực hiện các hoạt động, tôi đã

quan sát học sinh thật kỹ trong mọi hoạt động của học sinh để đưa ra những bảng
khảo sát mà các em đã có về vốn từ, nắm cấu trúc cấu tạo từ, sử dụng từ đúng ngữ
cảnh, câu đúng ngữ pháp, các dấu câu phù hợp nhằm tìm ra được những hoạt
động, biện pháp giảng dạy phù hợp cho học sinh của mình khi học phân môn.
Tổng số học sinh của lớp 4 là 8/2 nữ.
Số liệu khảo sát ban đầu: Bảng số liệu dưới đây cho thấy mức độ khả
năng đạt được của học sinh trước khi tôi thực hiện đề tài.
Vốn từ/ từ
loại
Tiếng/ cấu
tạo từ
Sử dụng từ
đúng ngữ cảnh
Sử dụng câu
đúng ngữ
pháp
Sử dụng
dấu câu
50% 50% 37.5% 25% 37.5%
Đây là bảng số liệu sau khi tôi thực hiện các biện pháp và kết quả đạt được
như sau :
Vốn từ/
từ loại
Tiếng/ cấu
tạo từ
Sử dụng từ
đúng ngữ cảnh
Sử dụng câu
đúng ngữ
pháp

Sử dụng
dấu câu
87.5% 75% 62.5% 50% 50%
Sau khi vận dụng các biện pháp trên vào quá trình dạy cho học sinh khiếm
thính phân môn Luyện từ và câu tại trung Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật, kết
quả nhận thấy như sau: Học sinh đã có thêm vốn từ để áp dụng vào bài học, khả
năng từ của học sinh đã tăng lên so với ban đầu, cách sử dụng từ đã đúng và chính
xác hơn trước, học sinh có thể đặt được câu đơn giản đã học mà cấu trúc không bị
sai và câu có ý nghĩa. Sử dụng các dấu câu có vẻ tốt, chính xác hơn dấu chấm (.),
dấu hai chấm (:), dấu gạch ngang (-), dấu chấm than( !). Từ đó, ta có thể thấy sự
nhận biết của học sinh đã tốt hơn, có nhiều tiến bộ trong học tập. Nhưng việc để
học sinh sử dụng câu đúng ngữ pháp còn chưa cao vì học sinh khiếm thính thường
sử dụng cấu trúc câu ngược nên trong quá trình học dù giáo viên đã cố gắng chỉnh
sửa câu hoàn chỉnh nhưng kết quả đạt được vẫn chưa như mong đợi. Nhưng là kết
quả mà cô trò đã nỗ lực phấn đấu để đạt được trong thời gian qua, những hoạt
động mà tôi đưa ra đã giúp ích cho công tác giảng dạy rất nhiều và đã mang lại kết
quả học tập tốt.
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
12
Vận dụng phương pháp theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học
đã đóng góp vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tuy nhiên, việc dạy
phân môn luyện từ và câu không ít giáo viên vẫn chưa thoát khỏi quỹ đạo của
phương pháp dạy học truyền thống. Một số giáo viên vẫn coi học sinh tiểu học là
đối tượng nói theo, làm theo khuôn mẫu. Sách giáo khoa Tiếng Việt mới tích hợp
từ ngữ, ngữ pháp thành phân môn luyện từ và câu. Do đó việc tiếp cận phương
pháp dạy học phù hợp với sách giáo khoa mới phần nào còn khó khăn. Chính vì
vậy cần cải tiến phương pháp dạy học "Luyện từ và câu" theo hướng tích cực hoá
hoạt động của người học để giờ học sinh động, hấp dẫn, hiệu quả. Là một giáo
viên trực tiếp dạy lớp 4, khi nghiên cứu về phương pháp dạy học phân môn
"Luyện từ và câu". Tôi đã thấy được mục đích, yêu cầu của một đơn vị kiến thức

mà học sinh được chiếm lĩnh thuộc hệ thống vấn đề nào trong bài giảng. Mặt khác
tôi biết cách phối hợp nhịp nhàng, khoa học và logic giữa kiến thức về từ và câu.
Để cho việc dạy tốt ở phân môn luyện từ và câu tôi mạnh dạn có những đề xuất:
 Đối với giáo viên
- Luôn tìm tòi sáng tạo, kết hợp linh hoạt các biện pháp, phương pháp, hình
thức tổ chức phong phú, lôi cuốn học sinh, phát huy tính sáng tạo, tích cực chủ
động của học sinh. Khuyến khích, động viên học sinh kịp thời.
 Đối với học sinh
- Cần sử dụng và tra từ điển thường xuyên.
- Tích cực, tự giác trong học tập.
 Đối với gia đình và cộng đồng
- Kết hợp chặt chẽ với giáo viên và nhà trường.
- Quan tâm hỗ trợ đúng mức về mọi mặt cho sự tiến bộ của học sinh.
Trên đây mới chỉ là cách nhìn chủ quan của tôi trên một đối tượng học sinh
nhất định chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn chế cần được góp ý bổ sung
khắc phục. Rất mong được sự đóng góp của thầy cô và các bạn đồng nghiệp để
giáo dục trẻ khuyết tật ngày càng tốt hơn.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặc điểm tâm lý của trẻ khiếm thính - Nguyễn Quang Uẩn (2000) - Đại
học Sư phạm Hà nội, tài liệu bài giảng.
2. Bài giảng “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính” - Nguyễn Thanh
Thu Thuỷ.
3.Tài liệu “Thanh thính học trong giáo dục”– Trần Thị Thiệp, Khoa Giáo
dục Đặc biệt, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
4. “Tâm lý trị liệu” Nguyễn Công Khanh – NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội
5. Trang web: Một số phương pháp giáo dục trẻ khiếm thính.
6. Từ điển Tiếng Việt.

Người thực hiện
13

Lưu Thị Ngần
SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TT NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Biên Hoà, ngày tháng năm 2014
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2013- 2014
Tên sáng kiến kinh nghiệm: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH KHIẾM
THÍNH HỌC TỐT PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU Ở LỚP 4.
Họ và tên tác giả: LƯU THỊ NGẦN Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Tổ Chuyên môn (Tiểu học)
Lĩnh vực/Môn nghiên cứu: Giáo dục khuyết tật
- Quản lý giáo dục - - Phương pháp dạy học bộ môn Tiếng Việt
- Phương pháp giáo dục - Lĩnh vực khác:……………………………
14
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong Ngành
1. Tính mới
- Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn
- Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng tại đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị
mình nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị
2. Hiệu quả
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả cao
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành có
hiệu quả cao
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng tại đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn vị
mình nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị

3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Trong tổ/Phòng /Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành
- Đưa ra giải pháp kiến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện, dễ di vào
cuộc sống: Trong tổ/Phòng /Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng:
Trong tổ/Phòng /Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành
Xếp loại chung: Xuất sắc Khá Đạt Không xếp loại
NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN XÁC NHẬN CỦA TỔ THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
CHUYÊN MÔN
Lưu Thị Ngần Nguyễn Thị Ba Hoàng Thị Vân Nga
15

×