Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

một số giải pháp giúp học sinh dân tộc học tốt phân môn luyện từ và câu 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.51 KB, 19 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH DÂN TỘC
HỌC TỐT PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU 5
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế kỉ XXI mở ra nhiều thách thức và vận hội đối với đất nước. Đại hội đảng lần
thứ VIII đã quyết định đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh, đất nước vững bước đi lên CNXH. “Giáo dục phải
thực sự trở thành quốc sách hàng đầu Cải tiến chất lượng dạy và học để hoàn thành
tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người cho CNH-HĐH đất nước” (Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ VIII).
Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu giáo dục tiểu học là
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những trí thức cân thiết.
Tiếng việt có nhiều phân môn. Muốn học sinh học tốt thì các em cần được rèn luyện
toàn diện về Tiếng việt mới trở thành học sinh khá và giỏi được. Vì vậy việc dạy học
phân môn Luyện từ và câu rất quan trọng, nó giúp các em hiểu, diễn đạt tư tưởng,
tình cảm, hoạt động của mình bằng tiếng mẹ đẻ ngày càng chính xác, phong phú và
sinh động hơn.
Qua thực tế giảng dạy, tôi cho rằng sự ra đời của phân môn Luyện từ và câu ở
tiểu học là cần thiết, nó chấm dứt dạy từ một cách tản mạn, không hệ thống từ các
bài tập đọc. Việc dạy từ hiện nay được tiến hành một cách có kế hoạch, mang tính
chủ động. Thông qua các bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học
tập mở rộng vốn từ… phát triển vốn từ, tập giải thích nghĩa của từ, tập sử dụng từ
trong các khâu: Điền từ, dùng từ đặt câu, viết đoạn văn ngắn Qua các bài tập,
vốn từ của học sinh được mở rộng, tăng cường kĩ năng giải nghĩa từ, kĩ năng dùng
từ trong hoạt động giao tiếp được hình thành và phát triển. Học sinh có ý thức hơn
về vấn đề từ ngữ, vấn đề hiểu từ và dùng từ trong thực tiễn nói, viết, trong học tập
và giao tiếp.
Chủ trương giảng dạy Luyện từ và câu ở tiểu học đã khẳng định được vị trí, vai
trò của mình trong việc giúp học sinh làm giàu vốn từ, hình thành và phát triển ý
1
thức, kĩ năng sử dụng từ. Chính vì vậy tôi luôn trăn trở làm thế nào dạy tốt môn


học này để đáp ứng với vị trí vai trò của nó.
Luyện từ và câu là một phân môn khô và khó, trong các đợt hội giảng, rất ít giáo
viên đăng kí dạy tiết này.
Qua thực tế trên cho thấy giáo viên rất ngại dạy phân môn Luyện từ và câu.
Nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức một tiết dạy sao cho đúng với
yêu cầu, đặc trưng riêng của môn học và đạt hiệu quả dạy và học cao. Theo sự
đánh giá của giáo viên, một số nội dung giảng dạy được trình bày trong sách giáo
khoa còn nhiều vấn đề chưa sát với học sinh và phương pháp dạy phân môn này
định hình chưa rõ cho nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy.
Bản thân tôi, qua 10 năm dạy học, dành nhiều thời gian để nghiên cứu, thử
nghiệm và thực tế giảng dạy tôi thấy: Muốn giảng dạy tốt môn Tiếng việt nói
chung và Luyện từ và câu nói riêng đòi hỏi người giáo viên phải có vốn từ rộng,
tích luỹ vốn sống, kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn, vững vàng thì mới dạy
tốt môn này, đáp ứng yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học.
Với ý nghĩa quan trọng của môn học và thực trạng về phương pháp dạy - học
Luyện từ và câu ở các trường tiểu học hiện nay, tôi mạnh dạn chọn môn này để
viết và vận dụng vào giảng dạy thực tế tại lớp tôi chủ nhiệm.
Với giải pháp này, tôi không chỉ đổi mới phương pháp dạy học Luyện từ và câu
ở tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng mà còn vận dụng tất cả sự hiểu biết, kinh
nghiệm của bản thân với kì vọng giúp bản thân và mọi người giảng dạy tốt môn
học này.
II. THỰC TRẠNG:
Để có biện pháp dạy -học tốt phân môn Luyện từ và câu, chúng ta hãy nhìn lại và
đánh giá thực trạng năm học.
Trước cải cách giáo dục, trong nhà trường việc dạy từ chủ yếu được thực hiện
qua các bài văn(trong tập đọc, giảng văn ) chúng ta tiến hành dạy từ trong các
bài văn. Như vậy, việc dạy từ ở đây cũng chỉ mang tính ngẫu nhiên, tản mạn
không có tính chủ động, kế hoạch.
2
Trong chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục, Luyện từ và câu

được tách thành phân môn độc lập, có tiết dạy riêng. Trong chương trình và sách
giáo khoa tiểu học phân môn này có nhiệm vụ giúp học sinh hệ thống hoá vốn từ,
mở rộng, phát triển vốn từ dựa vào các chủ đề, chủ điểm từ ngữ. Trên cơ sở đó,
học sinh tiến hành luyện tập sử dụng từ qua các kiểu bài tập như điền từ, dùng từ
đặt câu, viết đoạn văn ngắn Tóm lại, có thể nói Luyện từ và câu được tổ chức
dạy riêng, trong khuôn khổ của một phân môn Tiếng việt, là một bước tiến đáng
kể của chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục.
Bên cạnh những vấn đề đó, trong giai đoạn này các trường đều được học về
vấn đề “Đổi mới sách giáo khoa Tiếng việt”và từ đó đến nay, chúng ta đã thực
hiện nhiều chuyên đề dạy Tiếng việt theo phương pháp mới “Lấy học sinh làm
trung tâm”, các chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học Tiếng việt ở tiểu học”.
Nhà trường còn được học văn bản của Sở về “Thực hiện đổi mới phương pháp
dạy - học phân môn Luyện từ và câu” và tổ chức một số tiết dạy “Chuyên đề lớp
4”, “Chuyên đề lớp 5”
Tất cả các điều kiện trên đều nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho giáo
viên dạy tốt phân môn này.
Bên cạnh những vấn đ ề đó, bản thân tôi nhận thấy rằng: Muốn dạy tốt phân
môn này không chỉ cần sự cố gắng và nỗ lực của các thầy cô giáo mà còn phụ
thuộc vào ý thức học tập của học sinh.
Tôi đã tiến hành phỏng vấn một số học sinh lớp 5 và nhận thấy(Trình độ học
sinh không đồng đều, ít có học sinh hứng thú với môn học này) các em cho rằng
môn này khô và khó…
Tôi đã điều tra chất lượng đầu năm học của học sinh lớp tôi chủ nhiệm và đã
thu được kết quả như sau:
3

Từ kết quả khảo sát trên cho thấy, chất lượng của phân môn Luyện từ và câu còn
rất hạn chế…
III. NGUYÊN NHÂN:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế trên, nó xuất phát từ thực tế khách

quan và chủ quan của cả giáo viên và học sinh.
 Nguyên nhân chủ quan:
• Về phía giáo viên:
Khi giảng dạy, các thầy( cô) chưa chú ý đến đặc trưng của phân môn Luyện từ
và câu, vốn từ của nhiều giáo viên còn chưa phong phú, chưa đáp ứng được yêu
cầu hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ…
Bên cạnh đó thì cách dạy của nhiều giáo viên trong giờ học này còn đơn điệu, lệ
thuộc một cách máy móc vào sách giáo khoa và sách giáo viên. Hầu như rất ít sáng
tạo, chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh… Đôi khi giáo viên còn nặng về áp
đặt, giảng giải khô khan khiến cho học sinh tiếp thu bài giảng thụ động, dễ mỏi mệt,
ngại học …
 Nguyên nhân khách quan:
• Về sách giáo khoa và đồ dùng dạy học:
TSHS
Môn: Luyện từ và câu
Giỏi Khá Tb Yếu
35 3 6 14 12
% 9% 17% 40% 34%
4
Tồn tại song song với những nguyên nhân trên là điều kiện giảng dạy của giáo
viên có nhiều khó khăn. Ngoài cuốn sách giáo viên và sách học sinh thì các tài
liêu tham khảo phục vụ việc dạy, học phân môn Luyện từ và câu hầu như không
có. Đồ dùng dạy học (như tranh ảnh, vật thực và các đồ dùng học tập khác dùng
để dạy về nghĩa của từ) còn ít.
Một số câu hỏi, khái niệm trong sách giáo khoa còn xa lạ với học sinh hoặc ít
nhiều trừu tượng, không gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em. Có bài tập
xuất hiện nhiều gây tâm lý nhàm chán, đơn điệu như (bài tập “Điền từ vào chỗ
trống”)…
• Về phía học sinh:
Đam rông là địa bàn có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, do hoàn cảnh và môi

trường sống còn quá nhiều khó khăn nên đã có ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập
của học sinh. Đối với học sinh lớp (4-5) nói chung và với học sinh lớp 5 nói riêng.
Hàng ngày, ngoài việc đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ rất nhiều công việc
trong gia đình như: Trông em, nấu cơm, đi rẫy phụ giúp bố mẹ…
Do đặc điểm của địa hình nên có những em nhà rất xa trường lại phải đi qua sông,
đò… Nên vào mùa mưa, các em thường xuyên nghỉ học…
Trên thực tế, Đam Rông là một huyện vô cùng khó khăn về mọi phương diện.
Người dân ở đây thường xuyên phải đối mặt với cái nghèo, cái đói…Nên với họ, việc
kiếm bát cơm, manh áo cho con cái hàng ngày còn quan trọng hơn rất nhiều việc mua
sắm đồ dùng cho con đến trường, đi học…
Tất cả những nguyên nhân đó đã làm nảy sinh tâm lý ngại dạy - học phân môn
Luyện từ và câu của cả thầy và trò trong các trường tiểu học ở Đam Rông nói chung
và trường Tiểu học Lương Thế Vinh nói riêng.
Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là:
 Chúng ta phải dạy - học phân môn Luyện từ và câu như thế nào?
 Làm thế nào để lôi cuốn và thu hút các em tham gia giờ học tích cực và hoàn
toàn chủ động?
5
 Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy nói chung và giảng dạy
phân môn Luyện từ và câu nói riêng có đem lại hiệu quả tối đa cho người
học và người dạy?
Từ nguyên nhân và thực trạng trên, tôi xin đ ưa ra đây một số giải pháp để giúp
các em học sinh vùng khó khăn và vùng dân tộc học tốt hơn phân môn Luyện từ và
câu.
IV. GIẢI PHÁP:
Học sinh bậc tiểu học vốn từ ngữ còn rất hạn chế, cần phải được bổ sung, phát
triển để đáp ứng các nhu cầu học tập, giao tiếp Vì vậy, việc dạy từ cho các em ngày
càng được coi là quan trọng không được bỏ qua.
Việc dạy từ ngữ ở tiểu học là giúp học sinh mở rộng vốn từ, hiểu nghĩa của từ
một cách chính xác, giúp học sinh luyện tập sử dụng từ ngữ trong nói, viết

Những từ ngữ được dạy ở tiểu học thường gắn với việc giáo dục cho học sinh tình
yêu gia đình, nhà trường, tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động làm giàu nhận
thức, mở rộng tầm mắt, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương, đất nước,
con người, dạy các em biết yêu và ghét. Đáp ứng với mục tiêu đào tạo của bậc tiểu
học: giáo dục con người phát triển toàn diện…
Chương trình và sách giáo khoa dạy học phân môn Luyện từ và câu ở bậc tiểu học
thể hiện tính thực hành rất rõ: Ở lớp 5 chương trình sách giáo khoa thiết kế hai kiểu
bài dạy - học cơ bản: Kiểu bài lí thuyết về từ và kiểu bài thực hành từ ngữ theo chủ
đề. Trong đó kiểu bài thực hành từ ngữ theo chủ đề chiếm vị trí chủ đạo, bao trùm
trong nội dung giảng dạy về Luyện từ và câu. Cụ thể số bài thực hành chiếm hơn một
nửa số tiết luyện từ và câu ở lớp 5. Vì vậy, để dạy tốt phân môn này đòi hỏi người
giáo viên phải hiểu và nắm chắc từng kiểu bài, phương pháp giảng dạy và cách thức
tổ chức hợp lí với từng kiểu bài đó.
Để một tiết dạy thành công, giáo viên phải hoàn toàn chủ động trong việc nắm
bắt trình độ của đối tượng học sinh lớp mình để từ đó có cách tổ chức phù hợp với
tình hình thực tế của lớp.
 Kiểu bài lý thuyết về từ.
6
Về nội dung, các bài lý thuyết giới thiệu cho học sinh lớp 5 một số vấn đề về cấu
tạo từ Tiếng việt (từ đơn, từ ghép, từ láy) về nghĩa của từ và sự phân loại các từ về
mặt nghĩa (từ đồng nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, đại từ, từ trái nghĩa ). Về cấu
tạo các bài lý thuyết về từ trong sách giáo khoa Tiếng việt lớp 5 gồm 3 phần:
 Phần I – Nhận xét:
Là phần cung cấp ngữ liệu và nêu câu hỏi gợi ý cho học sinh phân tích nhằm rút
ra kiến thức lí thuyết. Theo quan điểm tích hợp, ngữ liệu thường được rút ra từ những
bài tập đọc mà học sinh đã học. Các ngữ liệu đều mang tính điển hình cao và có số
lượng chữ hạn chế để đảm bảo tính hiệu quả của việc phân tích và tránh làm mất thời
gian học tập. Từ đó nêu các câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, từng
bước dẫn dắt học sinh tới khái niệm cần học.
 Phần II – Bài học:

Là phần chốt lại những điểm chính yếu về kiến thức được rút ra từ việc phân tích
ngữ liệu. Học sinh cần nắm vững kiến thức này.
 Phần III - Thực hành:
Là phần bài tập nhằm củng cố và vận dụng kiến thức đã học( các bài học mở rộng,
hệ thống hóa vốn từ, ôn tập, tổng kết đều được thể hiện dưới hình thức bài tập thực
hành). Những kiểu bài thực hành chủ yếu là:
 Tìm từ ngữ theo nghĩa và hình thức cấu tạo đã cho.
 Xác định nghĩa của từ và các yếu tố cấu tạo từ.
 Xác định nghĩa của thành ngữ, tục ngữ.
 Phân loại từ ngữ và các yếu tố cấu tạo từ.
 Đặt câu với từ ngữ đã cho.
 Lập bảng tổng kết kiến thức đã học.
 Xác định tình huống sử dụng thành ngữ, tục ngữ.
Cách trình bày trên rất phù hợp với đặc điểm nhận thức tư duy của học sinh tiểu
học.
 Các giải pháp:
Với những kiểu bài này tôi có những giải pháp dạy như sau:
7
 Hướng dẫn học sinh phân tích ví dụ mẫu sau đó giúp học sinh trả lời câu hỏi
tìm hiểu bài. Trước khi cho học sinh đọc ví dụ mẫu để phân tích, tôi thường giới
thiệu xuất xứ, tác giả, nội dung chính của đoạn văn, đoạn thơ
• Ví dụ:
Khi dạy bài “Từ trái nghĩa” (Trang 38 – TV lớp 5 tập 1). Tôi giới thiệu cho học
sinh thấy: Phrăng Đơ Bô-en là m ột người lính bỉ trong đội quân Pháp xâm lược Việt
Nam. Nhận rõ tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh, năm 1949 ông đã chạy sang
hàng ngũ quân đội ta và lấy tên là Phan Lăng. Một lần, rơi vào ổ phục kích, ông bị
địch bắt. Địch dụ dỗ, tra tấn ông nhưng ông không khuất phục, chúng bèn đưa ông về
giam ở pháp
Việc giới thiệu này tôi chỉ làm nhanh trong vòng 1 phút nhưng tôi thấy học sinh
hiểu rõ ví dụ mẫu, đồng thời hướng được sự chú ý của học sinh vào bài học. Khi giới

thiệu, tôi chú ý nói thật diễn cảm để lôi cuốn học sinh. Sau đó tôi gọi một học sinh
khá đọc diễn cảm lại đoạn thơ, đoạn văn đó sau đó cho cả lớp đọc thầm theo. Trước
đó tôi giao nhiệm vụ : Khi đọc thầm, các em hãy so sánh nghĩa của các từ in đậm
trong đoạn văn…
Do đã hiểu rõ được nội dung của đoạn văn trong phần giáo viên giới thiệu nên
việc so sánh với các em hoàn toàn dễ dàng và nhanh chóng ngay cả với những đối
tượng là học sinh yếu.
Vậy, giờ học Tiếng việt có thật sự diễn ra vui vẻ, nhẹ nhàng, thiết thực, gây được
hứng thú cho học sinh, mở ra những điều mới mẻ cho các em hay không? Chính là
bắt đầu từ khâu này.
Tiếp đó tôi đặt các câu hỏi để học sinh tìm hiểu bài, câu hỏi này mang tính dẫn
dắt, gợi mở để học sinh trả lời theo đúng yêu cầu đặt ra.
• Ví dụ:
Trong bài “Câu ghép ” (Trang 8 – TV lớp 5 tập 2).Tôi cho học sinh đối chiếu các
câu đơn có trong đoạn văn: “ Mỗi lần rời nhà đi, bao giờ con khỉ cũng nhảy phốc
lên…” với câu ghép: “ Hễ con chó đi chậm, con khỉ cấu hai tai chó giật giật”. Và rút
ra nhận xét: Câu đơn chỉ do một cụm C-V tạo thành, câu ghép do nhiều cụm C-V
bình đẳng với nhau tạo thành.
8
Qua việc phân tích ví dụ, học sinh đã phát hiện được khái niệm cần nghiên cứu
trong bài. Giáo viên dễ dàng khái quát thành các kiến thức học sinh cần nhớ.
 Để học sinh hiểu và nắm được nội dung bài học, tôi hướng dẫn học sinh tự
rút ra những kết luận và tự xây dựng các định nghĩa về khái niệm. Để thực hiện
được yêu cầu trên tuỳ theo nội dung, tôi đặt ra một số câu hỏi và gợi mở để học
sinh trả lời. Để giờ dạy đạt hiệu quả cao, giáo viên cần phối hợp nhịp nhàng giữa
đặt câu hỏi, dẫn dắt học sinh trả lời, giảng và ghi bảng. Sau đó cho vài học sinh
đọc để nhớ khái niệm và nêu các ví dụ minh họa cho khái niệm đó( chỉ nên yêu
cầu đối với học sinh khá, giỏi).
 Sau khi học sinh nắm được các khái niệm cơ bản của bài, giáo viên tiếp tục
hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập.

Loại bài tập này dùng vào việc thực hành luyện tập của học sinh, giúp học sinh
củng cố, khắc sâu kiến thức lí thuyết và vận dụng vào hoạt động nói và viết. Ở
phần này tôi luôn gợi ý dẫn dắt học sinh cách làm chứ không làm thay hoặc phó
mặc học sinh. Tôi thường gọi 1,2 em đọc to rõ ràng yêu cầu của bài tập để cả lớp
cùng nghe, tôi hướng dẫn học sinh lần lượt xác định từng yêu cầu của bài tập:
• Ví dụ:
 Bài tập 2( Trang 22- TV lớp 5 tập 2): Xếp các từ cho dưới đây thành những nhóm
từ đồng nghĩa: bao la, bát ngát, thênh thang, lung linh, long lanh, hiu hắt, vắng
ngắt, lấp lánh, vắng teo.
Để học sinh hoàn thành được bài tập này việc trước tiên, giáo viên phải giúp các
em hiểu được nghĩa của từng từ, sau đó các em mới xếp chúng vào các nhóm từ đồng
nghĩa:
• Hiểu nghĩa của từ:
- bao la: Rộng lớn đến mức như vô cùng tận.
- vắng ngắt: Vắng không một bóng người.
- long lanh: Có ánh sáng phản chiếu trên vật trong suốt, tạo vẻ sinh động.
- thênh thang: Rộng rãi, gây cảm giác không có gì làm cho bị vướng.
- bát ngát: Rộng lớn đến mức tầm mắt không sao bao quát hết được.
- lung linh: Vẻ lay động, rung rinh của cái có thể phản chiếu ánh sáng.
9
- vắng teo: Quạnh quẽ, không có người lui tới.
- lấp lánh: Phát ra ánh sáng không liên tục, khi yếu, khi mạnh.
• Xếp thành các nhóm sau:
a. bao la, thênh thang, bát ngát
b. lung linh, long lanh, lấp lánh.
c. vắng teo, vắng ngắt.
 Lưu ý: Trẻ bậc tiểu học rất hiếu động, thích khám phá nên khi giải nghĩa từ, giáo
viên nên kết hợp cho các em quan sát tranh để giúp các em dễ hiểu, hiểu sâu và nhớ
lâu kiến thức.
 Cuối cùng là khâu kiểm tra, đánh giá kết quả làm bài tập của học sinh.Tôi đã sử

dụng rất nhiều hình thức: Sử dụng các ví dụ mẫu đã cung cấp, lời giải mẫu của mình
cho học sinh đối chiếu bài làm hay gọi học sinh lên bảng làm, gọi học sinh nêu miệng
kết quả, đổi chéo vở cho nhau Từng bước hình thành cho học sinh ý thức, thói quen
và năng lực tự phát hiện, tự sửa chữa các lỗi trong phần bài giải của mình.
 Kiểu bài thực hành theo chủ đề.
Các bài thực hành theo chủ đề này được trình bày dưới nhiều kiểu bài khác nhau,
có thể chia thành ba loại lớn, tương ứng với ba nhiệm vụ cơ bản của phân môn Luyện
từ và câu ở tiểu học. Đối với từng bài tập, muốn hướng dẫn học sinh làm bài tập ấy
đúng phương hướng và có hiệu quả, tôi luôn nắm chắc mục đích, ý nghĩa, đặc trưng,
tính chất, yêu cầu của bài tập. Hướng dẫn học sinh làm phần này gồm ba bước:
a. Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của bài tập.
Muốn làm được bài tập, trước hết phải xác định đúng yêu cầu của bài tập.
Có bài tập dễ, học sinh chỉ đọc qua là hiểu ngay yêu cầu của bài tập, nhưng có một
số bài tập khó, học sinh chưa hiểu đúng hoặc hiểu sai. Thông thường tôi cho một,
hai học sinh đọc to đề bài, cả lớp cùng nghe, sau đó cho các em gạch dưới các từ
ngữ quan trọng trong bài tập, từ ngữ thể hiện các yêu cầu của bài, hoặc từ ngữ trừu
tượng, khó hiểu cần làm rõ thì giáo viên phải giải thích cho các em hiểu. Sau đó
lần lượt xác định từng yêu cầu của bài tập.
b.Hướng dẫn học sinh làm bài tập.
10
Trong giảng dạy, tôi thực hiện phương châm không “ làm thay” , cũng không “
khoán trắng” cho học sinh. Câu hỏi tôi nêu ra chỉ có tác dụng định hướng, gợi mở
cho học sinh.
• Ví dụ:
 Bài tập 1 (Tiếng việt lớp 5 tập 1): Phân biệt nghĩa của các cụm từ: khu
dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên.
Để hình thành cho các em khái niệm Thế nào là khu dân cư?, tôi sử dụng tranh 1
cho các em quan sát:
Tranh 1
Học sinh sẽ được quan sát tranh 2 để hiểu khu sản xuất là khu vực như thế nào?

Tranh 2
11
Tiếp tục quan sát tranh 3 để tìm hiểu về khu bảo tồn thiên nhiên.
Tranh 3
Kết hợp quan sát tranh, giáo viên nên sử dụng những câu hỏi động não để gợi
mở, hướng các em vào sự tìm tòi, khám phá tri thức mới…
Bằng hình ảnh trực quan sinh động trên, học sinh rất dễ dàng hiểu được nghĩa của
từng cụm từ và phân biệt chúng một cách nhanh nhất và chính xác nhất.
- Khu dân cư: khu vực dành cho nhân dân ở và sinh hoạt.
- Khu sản xuất: khu vực làm việc của nhà máy, xí nghiệp.
- Khu bảo tồn thiên nhiên: khu vực trong đó các loài cây, con vật và cảnh quan
thiên nhiên đươc bảo vệ, gìn giữ lâu dài.
Với giải pháp trên, có thể vận dụng rộng rãi trong địa bàn Đam Rông vì học
sinh ở đây chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số. Các em ít có cơ hội tiếp cận
với thế giới muôn màu ở bên ngoài nên việc quan sát tranh chính là sự lựa chọn
tốt nhất giúp thầy và trò có những tiết học nhẹ nhàng, thoải mái mà vẫn đạt hiệu
quả cao.
c. Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá bài tập đã làm.
Hiện nay, để đáp ứng được mục tiêu mới của giáo dục nói chung và giáo dục
tiểu học nói riêng là đào tạo ra những con người chủ động, sáng tạo, sớm thích
ứng với thế giới lao động, hòa nhập và phát triển cộng đồng thì việc kiểm tra,
12
đánh giá quá trình học tập của học sinh là vô cùng quan trọng và thiết thực. Ở lớp,
tôi thường sử dụng hai cách đánh giá sau:
 Giáo viên đánh giá học sinh.
 Học sinh đánh giá học sinh.
Tôi hướng dẫn đối chiếu bài tập đã làm với yêu cầu được đặt ra ở từng bài tập,
hoặc đối chiếu bài tập đã làm với đáp án. Đối với những bài làm sai tôi phân tích để
học sinh thấy lỗi sai và biết cách sửa chữa .
Để học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu, trong các giờ lên lớp tôi luôn

cố gắng sử dụng có hiệu quả các đồ dùng dạy học có sẵn trong thư viện nhà
trường và đồ dùng dạy học tự làm để tạo hứng thú cho học sinh, phát huy tối đa
tính tích cực, tư duy sáng tạo của các em, làm cho hoạt động trên lớp nhẹ nhàng
hơn, tự nhiên hơn, phù hợp hơn với lứa tuổi tiểu học.
 Sử dụng đồ dùng dạy học trong phân môn luyện từ và câu,
Trong tiết Luyện từ và câu, để học sinh hiểu bài, nắm chắc được bài và khai thác từ
ngữ, mở rộng vốn từ …thì việc sử dụng đồ dùng dạy học là vô cùng quan trọng, nó là
nhân tố chính quyết định sự thành công hay thất bại của tiết dạy. Khi dạy phân môn
này có những bài tập rất trừu tượng, nhất thiết phải có đồ dùng như: Bài Từ đồng
âm….( nếu giáo viên không sử dụng hình ảnh trực quan thì học sinh sẽ không thể tiếp
thu bài học một cách chính xác…) khi đó giờ dạy chỉ đơn thuần là đảm bảo về mặt
thời gian và hoàn thành nội dung bài mà thôi.
Đối với học sinh tiểu học vùng Đam Rông nói chung và học sinh trường Lương
Thế Vinh nói riêng, do nhận thức của các em còn nhiều hạn chế nên việc tiếp cận
tranh ảnh, vật thực trong các tiết học nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói
riêng sẽ là yếu tố quan trọng nhất giúp các em tiếp thu bài tốt và có hiệu quả. Đó
cũng là động lực lôi cuốn các em vào những giờ học vui tươi, thoải mái.
 Sử dụng phương tiện hiện đại “ Máy chiếu”:
Là một giáo viên đứng lớp, bản thân tôi luôn trăn trở rằng “ Làm sao để cả thầy
và trò luôn có những bài học hay, những giờ học tốt…?”.
13
Mặc dù là giáo viên giảng dạy ở vùng còn nhiều khó khăn, tôi luôn tự học hỏi để
tiếp cận và áp dụng vào giảng dạy những phương pháp và điều kiện tốt nhất giúp
các em phát huy khả năng sáng tạo của mình một cách tốt nhất. Máy chiếu là
phương tiện luôn được tôi lựa chọn để thiết kế những bài dạy cho một số môn học
trong đó có phân môn Luyện từ và câu
Tôi đã sử dụng máy chiếu trong tất cả các bước lên lớp:
• Ví dụ minh họa:
14
PHÒNG GI

PHÒNG GI
Á
Á
O D
O D
?
?
C ÐAM RÔNG
C ÐAM RÔNG
TRU
TRU
?
?
NG TI
NG TI
?
?
U H
U H
?
?
C LUONG TH
C LUONG TH
?
?
VINH
VINH







GI
GI
Á
Á
O VIÊN :
O VIÊN :
DUONG TH
DUONG TH
?
?
HUONG
HUONG
TRU
TRU
?
?
NG TI
NG TI
?
?
U H
U H
?
?
C LUONG TH
C LUONG TH
?

?
VINH
VINH
Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy rằng, với đối tượng học sinh ở
địa bàn chúng tôi thì sử dụng máy chiếu vào giảng dạy là biện pháp tốt nhất để giờ
dạy đạt hiệu quả cao.
Do nhận thức của các em còn nhiều hạn chế nên việc giảng giải, cung cấp
thông tin (kiến thức) bằng lời nói các em rất khó hiểu vì đôi khi nó quá trừu
tượng….nhưng nếu giáo viên đưa ra những hình ảnh cụ thể, sống động thì ngược
lại, các em vô cùng thích thú và bị lôi cuốn ngay vào tiết học.
• Ví dụ:
15
Khi dạy bài “Từ đồng âm - Tiếng việt 5 tập 1” tôi đã sử dụng máy chiếu để giới
thiệu các hình ảnh minh họa, giúp các em dễ hiểu và phân biệt được nghĩa của các từ
đồng âm một cách nhanh chóng và chính xác nhất.

Cánh đồng Một nghìn đồng Tượng đồng

Bàn bạc Bàn phím Bàn có lọ hoa

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Năm học 2008-2009 được sự phân công của nhà trường, tôi chủ nhiệm lớp 5A
của trường Tiểu học Lương Thế Vinh- Đam Rông – Lâm Đồng.
Mặc dù học sinh ở đây đa số là con em người kinh nhưng việc học tập của các
em còn rất nhiều hạn chế xuất phát từ nguyên nhân khách quan và chủ quan trên.
Đầu năm học, sau khi khảo sát và phân loại học sinh, tìm hiểu, nghiên cứu tình
chung của lớp và vận dụng các giải pháp trên vào giảng dạy phân môn Luyện từ
và câu ở lớp tôi chủ nhiệm.
Học kì I đã kết thúc, giờ học Luyện từ và câu của lớp tôi đã diễn ra thật nhẹ
nhàng và có nhiều tiến triển rõ rệt. Các em rất thích tích cực, hợp tác tốt với bạn

và hoàn toàn chủ động trong việc tiếp cận, tìm tòi để khám phá tri thức mới, vốn
từ của các em ngày một giàu hơn, học sinh đã biết dùng từ đúng cách, làm trong
16
sáng, làm đẹp vốn từ cho các em. Từ đó đã rèn luyện cho các em kỹ năng sử dụng
từ trong lời nói, lời viết của học sinh.
Trong quá trình thực hiện, tôi đã gặp không ít khó khăn về thời gian, đồ
dùng, kĩ thuật thiết kế bài giảng trên PowerPoint… Đặc biệt là các phần mềm để
thi ết kế bài giảng điện tử.
Với tinh thần say mê học hỏi, cống hiến vì nghề nghiệp, vì thế hệ tương lai
mai sau của đất nước, tôi đã vượt qua tất cả…
Mục đích cuối cùng của tôi là làm sao để giúp các trẻ em vùng khó khăn, dân
tộc tiếp cận được với các phương pháp giảng dạy mới nhất, với công nghệ thông
tin… và trong môi trường giáo dục, các em phải được tham gia học tập một cách
thoải mái, tích cực, tự tin ở bản thân và hoàn toàn chủ động. Qua đó các em tự
khảng định mình thông qua những bài học và thu lượm kiến thức bằng chính khả
năng của mình một cách tốt nhất.
Dưới đây là kết quả khảo sát tháng 12 của lớp tôi như sau:
VI. KẾT LUẬN:
Giao tiếp bằng ngôn ngữ ( nói, viết ) là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh
Tiểu học. Có thể nói nó quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống hàng
ngày của các em. Chính vì vậy khi đã có động cơ và hứng thú học tập, các em đã
TSHS
Môn: Luyện từ và câu
Giỏi Khá Tb Yếu
35 8 15 10 2
% 23% 42,8% 28,5% 5,7%
17
tham gia hết sức tự giác và chủ động vào các giờ học của lớp. Khi học, các em
biểu lộ tình cảm rất rõ ràng vui mừng khi tự mình được tiếp cận, tìm tòi và tự
khám phá ra tri thức bằng chính khả năng tự nhìn nhận của bản thân. Vui mừng

khi thấy bạn bè hoàn thành nhi ệm vụ học tập…
Vì vậy, việc tìm tòi, sáng tạo của giáo viên để tìm ra những giải pháp tối ưu trong
giảng dạy là điều rất cần thiết để thay đổi thực trạng, giúp các em tự tin bước vào
cuộc sống và đó cũng là tiền đề tốt đẹp cho các cấp học tiếp theo.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã vận dụng vào giảng dạy phân môn
Luyện từ và câu trong học kì I của lớp tôi chủ nhiệm. Có thể với những nơi có
điều kiện thuận lợi thì đây là giải pháp không có gì mới nhưng với địa bàn và đối
tượng học sinh của chúng tôi thì đây lại là vấn đề vô cùng mới mẻ và mang lại
hiệu quả rất cao.
Trong khuôn khổ của giải pháp này, tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ
trong quá trình giảng dạy của người giáo viên. Mặc dù qua quá trình thực hiện tôi
đã thu được những kết quả nhất định, song bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều hạn chế
và khiếm khuyết, rất mong nhận được sự đóng góp và xây dựng chân thành của
các quý vị khi đọc giải pháp này để giúp tôi hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân
thành cảm ơn!
VII. KIẾN NGHỊ:

Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp làm công tác giảng dạy tại huyện Mỹ
xuyên đã 10 năm nay. Do nền kinh tế địa phương còn nhiều khó khăn nên đời sống
của giáo viên cũng còn rất nhiều chật vật…
Là một giáo viên rất tâm huyết với nghề, luôn nỗ lực phấn đấu trong điều kiện và
những hoàn cảnh khó khăn nhất để hoàn thành mục tiêu giáo dục, để chia sẻ và giúp
các em sớm tiếp cận với những phương pháp học tập hiện đại nhất, tốt nhất….nhưng
để có những bài học hay, giờ học tốt của thầy trò chúng tôi thì không chỉ nói đến sự
cố gắng và nỗ lực từ phía giáo viên và học sinh mà còn phải nói đến sự quan tâm của
các cấp giáo dục….
18
Hiện nay, phần lớn các môn học của tôi đều thiết kế bằng giáo án điện tử và
giảng dạy trên máy chiếu. Trong quá trình thiết kế bài, tôi chỉ thực hiện đơn giản trên
Power Point, không có các phần mềm hỗ trợ.

Để thiết kế được một bài giảng điện tử hay, bắt buộc phải có các phần mềm hỗ
trợ, vì vậy tôi xin kiến nghị với các cấp giáo dục một việc sau: “ Hỗ trợ các phần
mềm chuyên dụng” để giúp chúng tôi có những điều kiện tốt nhất đưa nền giáo dục
địa phương sánh vai với các thành phố trên cả nước. Tôi xin chân thành cảm ơn!
19

×