SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
PHÒNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC.
KẾT HỢP CÁC NGUỒN LỰC VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC VÀ KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
Người thực hiện: TRẦN ĐÌNH VINH
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lí giáo dục X
Phương pháp dạy học bộ môn
Phương pháp giáo dục
Lĩnh vực khác
Có đính kèm
Mô hình Phần mềm Phim ảnh Hiện vật khác
Năm học: 2013 -2014
SƠ LƯỢC LÍ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VÊ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Trần Đình Vinh
2. Ngày tháng năm sinh. 02 – 10 - 1962
3. Nam (nữ): Nam
4. Địa chỉ: Phòng Giáo dục Trung học – Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai
5. Điện thoại: Dđ: 0946219979 NR: 0613872026
6. Fax E.mail:
7. Chức vụ : Trưởng phòng
8. Đơn vị công tác : Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO.
- Học vị : Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2004
- Chuyên môn đào tạo: Vât lí Kỉ thuật
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm : Quản lí
- Số năm có kinh nghiệm: 22 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
1. Giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường ( Năm 2010)
2. Kết hợp các nguồn lực và giải pháp nhằm giáo dục kỉ năng sống cho học sinh
trong trường trung học phổ thông Xuân Lộc. ( 2011)
3. Quản lí dạy thêm, học thêm để phát huy tính tự học của học sinh. (2012)
SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
PHÒNG GDTrH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Xuân Lộc, Ngày 22 tháng 5 năm 2014
PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2013 - 2014
Tên sáng kiến kinh nghiệm: Kết hợp các nguồn lực và giải pháp nhằm giáo dục
đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh trong trường trung học phổ thông.
Họ tên tác giả: Trần Đình Vinh
Đơn vị: Phòng Giáo dục Trung học.
Lĩnh vực : Quản lí giáo dục X Phương pháp dạy học bộ môn
Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác
1. Tính mới:
- Có giải pháp hoàn toàn mới:
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có: X
2. Hiệu quả.
- Hoàn toàn mới và đã triển khai ứng dụng trong toàn ngành và hiệu quả cao:
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai sử dụng
trong toàn ngành có hiệu quả:
- Hoàn toàn mới và đã triển khai ứng dụng tại đơn vị có hiệu quả cao:
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai sử dụng tại
đơn vị có hiệu quả: X
3. Khả năng ứng dụng.
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối chính sách:
Tốt khá: Đạt: X
Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn để thực hiện và
để đi vào cuộc sống: Tốt khá: Đạt: x
Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng: Tốt khá: Đạt: x
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
KẾT HỢP CÁC NGUỒN LỰC VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH
TRONG NHÀ TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Năm 1986 dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đổi mới chuyển từ một nền kinh
tế bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, khởi đấu cho công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Sau gần 30 năm thực hiện chiến lươc phát triển đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã có những bước tiến nhảy vọt về lực lượng sản xuất,
áp dụng khoa học kỷ thuật vào phát triển đất nước, kích thích tính năng động, sáng
tạo của các chủ thể kinh tế, đẩy mạnh phân công lao động, cơ sở hạ tầng và phúc lợi
xã hội phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao về vất chất cũng như tinh
thần. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được cũng xuất hiện rất nhiều vấn đề
về xã hội và những thách thức, đối mặt của từng cá nhân con người như: Phân hóa
giàu nghèo, bất công xã hội, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, áp lực cạnh tranh, việc
làm thu nhập, tất cả những yếu tố đó, thường xuyên tác động vào xã hội, tác động
lên từng con người ở mọi lúc, mọi nơi, mọi người luôn luôn phải ứng phó, từ đó làm
cho không khí của xã hội luôn ở trạng thái căng thẳng đòi hỏi xã hội phải tìm cách
hạ nhiệt và có những định chế nhằm hài hòa và cân bằng giữa các nhóm lợi ích, từ
những áp lực này, mỗi người phải trang bị cho mình những kỷ năng để tồn tại trong
môi trường ấy. Vì vậy, giáo dục đạo đức và trang bị kỉ năng sống cho các cá nhân
của xã hội nói chung và học sinh THPT khi đang ngồi trên ghế nhà trường nói riêng
có tính cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đạo đức gồm những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hôi, nhờ có đạo đức,
những chuẩn mực xã hội mới phát huy hết chức năng điều chỉnh hành vi, chế định
hoạt động giao tiếp và hành vi ứng xử của con người, nhằm đảm bảo sự thống nhất
cần thiết giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Để xây dựng một xã hội tốt đẹp
thì mỗi cá nhân trong xã hội phải tuân thủ những chuẩn mực đạo đức, những chuẩn
mục đạo đức này mỗi cá nhân phải được trang bị thông qua các hoạt động của cộng
đồng, đối với học sinh cần được trang bị khi bắt đầu vào các nhà trường.
Kỷ năng sống ( KNS) có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi người, để có thể đương
đầu với mọi thử thách trong cuộc sống và hoàn thiện bản thân mình. Xác định điều
đó chương trình Trường học thân thiện, học sinh tích cực (THTT HSTC) của Bộ
Giáo dục đã hướng đến việc rèn luyện kỹ năng sống (RLKNS) cho học sinh ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường và coi đây là một trong những trọng điểm của
chương trình.
Rèn luyện kỷ năng sống cho học sinh nhằm giáo dục các em rèn luyện kỉ năng
ứng xử thân thiện trong mọi tình huống, thói quen và kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ
năng hoạt động xã hội. Giáo dục học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự
bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội, nhà
trường cập nhật thông tin về sức khỏe thể chất và tinh thần của học sinh. Rèn luyện
kĩ năng ứng xử văn hóa, ý thức chung sống thân thiện, giải quyết hợp lí các mâu
thuẫn, xung đột, có thái độ lên án và kiên quyết bài trừ mọi hành vi bạo lực. Lạm
dụng các hình thức trừng phạt học sinh
Giáo dục đạo đức và rèn luyện kỷ năng sống cho học sinh là hai hoạt động gắn kết
hài hòa có sự tác động tương hỗ và bổ trợ cho nhau, có những yếu tố vừa là đạo đức
cũng vừa là kỷ năng sống, chính vì vậy, nếu ta kết hợp hai mặt giáo dục này sẽ đem
lại hiệu quả cao trong giáo dục học sinh.
Mặc dù được hướng dẫn chỉ đạo của ngành, nhưng vì nhiều lí do, nên nhiều cán
bộ quản lí còn lúng túng trong trong việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Để huy
động nguồn lực nhằm giáo dục đạo đức học sinh hiệu quả hơn và từng bước đưa
nhiệm vụ rèn luyện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đi vào nề nếp, có tính thuyết
phục, từ đó góp phần hoàn thiện mục tiêu giáo dục toàn diên học sinh trong nhà
trường THPT chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài này để thực hiện.
II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN
CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuận lợi
- Nhiệm vụ giáo dục đạo đức trong các nhà trường đã được lồng ghép vào các môn
học ngay trong chương trình học THPT, thông qua môn học các giáo viên bộ môn,
nhất là các môn về khoa học xã hội, đã hình thành cho học sinh một hệ thống các giá
trị các quy tắc, chuẩn mực đạo đức truyền thống và những giá trị chuẩn mực của đạo
đức trong giai đoạn cách mạng mới, ngoài ra, các nhà trường còn tổ chức nhiều hoạt
động ngoài giờ lên lớp để giáo dục đạo đức cho học sinh và đây là nhiệm vụ được các
nhà trường quan tâm.
- Rèn luyện kĩ năng sống trong các trường phổ thông từ trước đến nay tuy không
được đề cập một cách chính thống và rõ ràng nhưng nó cũng đã được thực hiện lồng
ghép thông qua các môn học văn hóa, trong các hoạt động của các trường học, trong
sinh hoạt của giáo viên chủ nhiệm, của các tổ chức đoàn thể rất nhiều thầy cô giáo
đã hiều rõ tầm quan trọng của nó và thực hiện một cách có trách nhiệm khi được
phân công.
- Trong phong trào “ Trường thân thiện, Học sinh tích cực” đã có một nội dung
chương trình về rèn luyện kĩ năng sống, đã chỉ ra tương đối rõ các kỉ năng cần rèn
luyện, bồi đắp cho học sinh.
- Các hiện tượng bất thường xẩy ra trong đời sống, được thông tin trên các phương
tiện thông tin đại chúng đã làm cho các nhà giáo dục và xã hội thấy tầm quan trong
của giáo dục đạo đức và kĩ năng sống cho mọi người, từ đó đã có những chương trình
hành động thiết thực của nhiều tổ chức, cá nhân nhằm giáo dục đạo đức và kỉ năng
sống của mọi người nói chung và cho học sinh nói riêng, đã tác động lên nhiều đối
tượng xã hội và đã có sự đồng tình ủng hộ cao, nhất là các bậc cha mẹ học sinh.
2. Khó khăn.
- Do cách đánh giá học sinh hiện hành và đặc biệt là trong việc thi cử hiện nay,
nhiều giáo viên chưa chú ý nhiều đến giáo dục đạo đức và kĩ năng sống cho học sinh.
Các bậc cha mẹ, chỉ chú ý đến các kết quả văn hóa (điểm số các môn học) và kết quả
thi cử, lơ là trong giáo dục đạo đức và chưa thực sự quan tâm đến kỉ năng sống của
con mình, hoặc nếu có quan tâm thì cũng chỉ là thứ yếu, sau kết quả văn hóa, hoặc chỉ
“hốt hoảng” quan tâm khi đạo đức và kỉ năng sống của con đã bộc lộ những khiếm
khuyết không thể chấp nhận được nữa (Tai họa đã xẩy ra).
- Điều kiện vật chất khó khăn, môi trường xã hội chưa có những hình thức hoạt
động phong phú, các lực lượng xã hội chưa hỗ trợ tích cực, hoặc chưa liên hệ mật
thiết với giáo dục nên việc giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh, mang tích
chắp vá, có phần hời hợt, phiến diện không có hiệu quả.
- Kiến thức về các chuẩn mực, quy tắc, pháp luật và kiến thức về kỉ năng sống
của một bộ phận giáo viên còn yếu, không đủ sức để thực hiện nhiệm vụ này.
- Đạo đức và kỉ năng sống của một bộ phận dân cư bị lệch lạc, có những chuẩn mực
bị đảo lộn, nhưng không ai quan tâm điều chỉnh, đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả
giáo dục của các nhà trường.
- Không có nhiều điều kiện để khảo sát thực trạng đạo đức và kỉ năng sống của
thanh niên trong xã hội, nên đề tài có nhiều hạn chế, chỉ nghiên cứu và tìm giải pháp
cho nhà trường THPT.
III. NỘI DUNG ĐỀ TÀI.
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1. PHẠM TRÙ ĐẠO ĐƯC.
Phạm trù đạo đức học là những khái niệm đạo đức cơ bản, phản ánh những đặc
tính căn bản, những phương diện và những quan hệ phổ biến nhất của những hiện
tượng đạo đức trong đời sống hiện thực:
- Phạm trù đạo đức học đưa lại cho chúng ta một hệ tiêu chuẩn giá trị phù hợp với
thời đại và cả những quan điểm, tư tưởng, thái độ của con người đối với thế giới xung
quanh họ. nó mang tính phân cực, luôn được đánh giá một cách rõ ràng: khẳng định
hoặc phủ định.
- Phạm trù đạo đức học có sự kết hợp giữa tính khách quan và tính chủ quan. Tính
khách quan thể hiện sự phản ánh các quan hệ xã hội và hành vi của con người và tính
chủ quan thể hiện ở những cảm xúc, trách nhiệm, lựa chọn và sự đánh giá của từng cá
nhân, nhóm người… và trên thực tế, các quan niệm về đạo đức thay đổi qua các thời
đại khác nhau và các giai cấp khác nhau.
1.2. ĐẠO ĐỨC
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được hiện thực bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thông và sức mạnh của dư luận xã hội :
- Đạo đức là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời
sống xã hội.
- Đạo đức mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế-xã hội là nguồn
gốc, quan điểm về đạo đức con người.
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Những chuẩn mực
và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp, dân
tộc thừa nhận. Hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến khích,
những chuẩn mực cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Do vậy sự điều chỉnh đạo đức
mang tính tự nguyện, đạo đức là sự tự do lựa chọn của con người.
- Đạo đức là hệ thống các giá trị, các hiện tượng đạo đức thường biểu hiện dưới
hình thức khẳng định hoặc phủ nhận lợi ích chính đáng hoặc không chính đáng nào
đó. Nghĩa là nó bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử
của các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo
đức là một nội dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình thành, phát triển và
hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý
thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức.
1.3. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Giáo dục đạo đức là một mặt của hoạt động giáo dục, nhằm xây dựng cho học sinh
những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho học sinh những quy tắc hành vi thể hiện
trong giao tiếp với mọi người, với công việc, với tổ quốc, với thiên nhiên, môi
trường Giáo dực đạo đức cần phải được coi trọng đặc biệt, nhất là trong sự nghiệp
cách mạng hiện nay của dân tộc. Giáo dục đạo đức cho học sinh là làm cho nhân cách
của học sinh phát triển đúng về mặt đạo đức, tạo cơ sở để họ ứng xử đúng đắn trong
các mối quan hệ của cá nhân với bản thân, với người khác, với xã hội, với tổ quốc,
với môi trường với cộng đồng nhân loại.
Các nội dung giáo dục đạo đức gồm :
- Ứng xử với bản thân
- Ứng xử, quan hệ với người khác ( Bạn bè, thầy cô, bố mẹ, hàng xom láng giềng )
- Quan hệ với công việc.
- Đối với Tổ quốc, với cộng đồng
- Quan hệ với nhân dân và các dân tôc trong khu vực và trên thế giới.
- Quan hệ với môi trường tự nhiên.
1.4. KỸ NĂNG SỐNG.
Kỹ năng sống chính là những kỹ năng tinh thần hay những kỹ năng tâm lý - xã hội
giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống. Kỹ năng sống còn được xem
như một biểu hiện quan trọng của năng lực tâm lý xã hội giúp cho cá nhân vững vàng
trong cuộc sống có nhiều thách thức, nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại.
NHỮNG KỈ NĂNG CĂN BẢN VÀ QUAN TRỌNG.
- Kỹ năng học và tự học.
- Kỹ năng xác định giá trị, lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân.
- Kỹ năng tư duy sáng tạo, tư duy phê phán và mạo hiểm .
- Kỹ năng lập kế hoạch, ra quyết định và tổ chức công việc.
- Kỹ năng lắng nghe và thể hiện sự cảm thông.
- Kỹ năng thuyết trình.
- Kỹ năng giao tiếp,ứng xử và kiểm soát cảm xúc.
- Kỹ năng ứng phó với căng thẳng và giải quyết vấn đề.
- Kỹ năng hợp tác và làm việc đồng đội.
- Kỹ năng thương lượng, giải quyết mâu thuẫn.
Thực tế hiện nay cho thấy giới trẻ Việt Nam còn rất thiếu các kỹ năng sống cần
thiết và điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho họ trong cuộc sống.
2. THỰC TRẠNG VỀ GIÁO VIÊN , HỌC SINH VÀ VIỆC GiÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC VÀ KỈ NĂNG SỐNG HIỆN NAY Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG THPT.
2.1. GIÁO VIÊN.
Đa số các thầy cô giáo ý thức được nghề nghiệp, yêu nghề, yêu trẻ, tận tụy với
công việc, có nghiên cứu tìm tòi, sáng tạo, có kỉ năng sống cơ bản chuẩn mực, hiểu
đúng trách nhiệm “dạy người” của bản thân mình, từ đó vì học sinh mà có các biện
pháp giáo dục, dạy học có hiệu quả, thông qua bộ môn mình dạy học hoặc công tác
giáo viên chủ nhiệm, công tác Đoàn… Nhiều thầy cô ngày đêm băn khoăn về cuộc
sống và nghề nghiệp của mình, nhưng đã bứt ra khỏi được những suy nghĩ bình
thường và đã có nhiều đóng góp cho giáo dục, được học sinh, các bậc cha mẹ học
sinh quý mến, xã hội tôn vinh.
Một số ít giáo viên đi dạy không phải vì yêu nghề (điều này ai cũng biết nhưng
không ai thừa nhận). Người ta đi dạy vì đơn giản đó là nghề tương đối sạch sẽ, công
việc ổn định và ít bị xã hội xô đẩy, ít mạo hiểm, ít phải lo toan, lại được làm thầy
người khác. Thực sự những người thành công trong cuộc sống không có những đức
tính và cách suy nghĩ trên. Hơn nữa những người có đủ kĩ năng sống cũng không bao
giờ chịu ép mình: Trên thì chịu chỉ đạo của nhà trường, dưới thì học trò chưa
ngoan để đổi lấy mỗi tháng là những đồng lương ít ỏi của nghề giáo viên. Đi dạy vì
cam tâm hơn là vì niềm vui, vì đam mê, lí tưởng sống. Như vậy có thể nói và cũng dễ
thấy rằng: Đạo đức của một số ít giáo viên chưa tương xứng với nghề nghiệp, Kỉ
năng sống của nhiều giáo viên còn yếu, chứ chưa nói đến việc nhận thức và thực hiện
nhiệm vụ giáo dục Đạo đức và Kỉ năng sống cho học sinh. Ở đây không có ý chê bai
các thầy cô mà phải thấy rằng: các thầy cô cũng chỉ là sản phẩm của một môi trường
sư phạm chưa toàn diện trước đây mà thôi.
2.2. HỌC SINH.
Phần nhiều học sinh được sinh ra trong gia đình có truyền thống giáo dục, chăm lo
đến sự phát triển của con em mình, lớn lên được học trong các nhà trường có nề nếp
và có chăm lo đến sự phát triển toàn diện học sinh, từ đó số học sinh này được trang
bị những giá trị đạo đức truyền thông cũng như những giá trị đạo đức hiện đại và
những học sinh này cũng có được những kỉ năng sống cơ bản, phù hợp với truyền
thống, đạo lí của dân tộc, có kỉ năng ứng xử các tình huống xẩy ra tương đối chuẩn
mực, làm gương được cho các học sinh khác noi theo.
Một số học sinh do thiếu sự quan tâm của gia đình hoặc thậm chí sinh ra trong gia
đình thiếu chuẩn mực trong lối sống, các thành viên trong gia đình chưa có những
chuẩn mực đạo đức đúng đắn, có kỉ năng sống kém, số học sinh này nếu không được
chăm chút, quan tâm của các nhà giáo dục, sẽ rất khiếm khuyết nhân cách cũng như
kỉ năng sống, từ đó xẩy ra những hiện tượng gây bức xúc cho xã hội…
Theo khảo sát của bản thân qua kênh thông tin từ các thầy cô giáo thì các thầy cô
giáo cho rằng: Thực trạng đạo đức học đường đang bị xuống cấp, lúc ở trường học
sinh rất lễ phép, nhưng ra khỏi cổng trường còn có học sinh chửi thề, vô lễ với phụ
huynh… Tình trạng bạo lực học đường gia tăng. Hầu hết học sinh muốn tham gia các
hoạt động tập thể ngoài giờ lên lớp, tham gia tham quan tìm hiểu thực tế, tham gia
các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, TDTT, tham gia các hoạt động của Đoàn thanh niên
nhưng chương trình học quá nặng, học sinh phải học tăng tiết, đi học thêm vào buổi
tối… nên các em không có thời gian tham gia. Hoạt động đoàn có nơi còn hình thức,
nhiều em vào Đoàn chỉ biết để đảm bảo quyền lợi khi vào đại học, ít học sinh nói
được cảm nghĩ của mình trước khi vào đoàn, nhiều buổi kết nạp Đoàn tổ chức đại
trà…
2.3. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ KỈ NĂNG SỐNG TRONG NHÀ TRƯƠNG.
Nhà trường đã tổ chức thực hiện chương trình giáo dục, giảng dạy, chương trình
sách giáo khoa theo đúng nội dung, tiến độ mà ngành quy định, thông qua các bộ
môn văn hóa đã hình thành nhân cách và kỉ năng sống cho học sinh.
Các nhà trường tổ chức biên chế giáo viên chủ nhiệm lớp, một số nhà trường lên
kế hoạch chung về công tác giáo viên chủ nhiệm trong năm học, chú trọng giáo dục
toàn diên cho học sinh. Biên chế Tổ trưởng tổ chủ nhiệm, thông qua TT tổ chủ nhiệm
hướng dẫn, đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ công tác GVCN theo tuần, theo tháng và
theo chủ đề. Qua việc thực hiện kế hoạch GVCN của nhà trường, GVCN đã thực hiện
được nhiệm vụ giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh.
Đa số các nhà trường tổ chức thực hiện giảng dạy các tiết Ngoài giờ lên lớp
theo quy định. Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, theo các chủ đề giáo dục của các
nhà trường đề ra đầu năm, thông qua tổ chức Đoàn thanh niên, Hội Chữ thập đỏ, Ban
LL Cha mẹ học sinh, các giáo viên bộ môn, các tổ chức ngoài nhà trường.
Tổ chức các hoạt động tập thể của nhà trường và xã hội như: Chào cờ, nói
chuyện, văn nghệ, TDTT, tham quan du lịch, tìm hiểu, quyên góp. ủng hộ, giúp đỡ
người nghèo…
Thông qua các hoạt động nêu trên, cơ bản đã hình thành đạo đức, nhân cách và
giáo dục một phần kỉ năng sống cho học sinh.
3. CÁC NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC VÀ KỈ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC NHÀ TRƯỜNG
THPT MÀ ĐỀ TÀI PHẢI GIẢI QUYẾT.
3.1. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN NHỮNG BẤT CẬP CỦA CÁC NHÀ
TRƯỜNG TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ KỈ NĂNG SỐNG
CHO HS Ở NHỮNG NĂM TRƯỚC.
- Do quá chú trọng các chỉ tiêu lên lớp, tỉ lệ tốt nghiệp, tỉ lệ đỗ đại học mà dẫn đến
có lúc còn coi nhẹ, những chương trình giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học
sinh. Nguyên nhân do áp lực từ phía cha mẹ học sinh và mong muốn những thành
tích này của nhà trường để khẳng định thương hiệu.
- Chưa huy động tốt các nguồn lực để thực hiện nội dung giáo dục đạo đức và kỉ
năng sống (Cà về nhân lực và vật lực, của ngoại lực cũng như nội lực). Nguyên nhân
do Lãnh đạo của nhiều nhà trường chưa có tầm nhìn, chưa biết cách khai thác trong
đội ngũ giáo viên, cha mẹ học sinh và các cá nhân, tổ chức xã hội khác.
- Nhiều giáo viên buông lỏng giáo dục kỉ năng sống, chỉ chú trong kiến thức nhằm
đáp ứng các bài kiểm tra, các bài thi. Do chủ quan của giáo viên, phiến diện trong
nhận thức nhiệm vụ giáo dục của mình và khách quan từ phía BGH chưa quán triệt
để giáo viên nhận thức trách nhiệm của bản thân.
- Năng lực của đội ngũ giáo viên trong giáo dục đạo đức và kỉ năng sống không
đồng đều, có những giáo viên còn quá yếu. Do khâu đào tạo của các trường sư phạm
còn khiếm khuyết, do tác động của xã hội và do nhiều nhà trường chưa quan tâm bồi
dưỡng cho giáo viên.
- Thiếu quan tâm đến nhu cầu thực tế của học sinh, chưa tổ chức nhiều các hoạt
động để giáo dục đạo dức và kỉ năng sống cho học sinh. Nguyên nhân do chủ quan
của các BGH , giáo viên chủ nhiệm và CSVC của một số trường chưa đáp ứng yêu
cầu, đời sống của nhân dân còn thấp.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC CÁC YẾU KÉM, BẤT CẬP VỀ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ KỈ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH.
3.2.1. Xác định các giá trị cơ bản của nhà trường.
Chất lượng giáo dục của nhà trường thường được xã hội đánh giá thông qua các số
liệu về tỉ lệ đỗ TN, đỗ đại học cao đẳng, đạt học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia đây
là những giá trị mà các nhà trường. Tuy nhiên, trong Kế hoạch chiến lược phát triển
của các nhà trường cần phải khẳng định những giá trị nhằm giáo dục toàn diện học
sinh tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của các nhà trường ví dụ các giá trị như:
- Đoàn kết, Mẫu mực. - Trung thực, Nề nếp
- Thương yêu, Trách nhiệm. - Tự học, Sáng tạo
- Hợp tác, Thân thiện. - Ước mơ, Hoài bão
Từ định hướng chiến lược này các nhà trường cần phải có kế hoạch cụ thể hàng
năm để thực hiện Kế hoạch chiến lược, từ đó thực hiện tốt giáo dục đạo đức và kỉ
năng sống cho học sinh.
Giải pháp: Khi duyệt kế hoạch năm học của các cá nhân, tổ chức các nhà trường
cần bám sát các giá trị mà nhà trường theo đuổi và thực hiện, cân đối nguồn lực để
đảm bảo hệ thống thực hiện được các giá trị đã nêu ra. Chú trọng hài hòa trong thực
hiện nhiệm vụ để đạt được các giá trị.
3.2.2. Xây dựng văn hóa nhà trường.
Văn hóa nhà trường là một lĩnh vực rộng, nó được thể hiện trong Điều lệ nhà
trường phổ thông và là một chuyên đề rộng, trong đề tài này chỉ nói một số vấn đề
liên quan đến giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh.
- Văn hóa ứng xử: Nhà trường chủ động xây dựng tốt văn hóa ứng xử trong các
mối quan hệ sau: Thầy (thầy ,cô) với thầy; Thầy với cha mẹ học sinh; Thầy với học
sinh; Thầy với nhà trường; Thầy với xã hội; Nhà trường với học sinh; Nhà trường với
cha mẹ học sinh; Nhà trường với xã hội; Học sinh với học sinh; Học sinh với thầy;
Học sinh với gia đình; Học sinh với các nội quy, quy đinh nhà trường; học sinh với
yêu cầu của xã hội. Các mối quan hệ này được thực hiện tốt sẽ là nền tảng cho việc
hình thành hành vi ứng xử của học sinh trong, ngoài nhà trường và sau khi ra trường.
- Văn hóa về sử dụng và bảo vệ CSVC, cảnh quan nhà trường: Quy định, hướng
dẫn các thành viên trong nhà trường nhất là học sinh ứng xử tốt CSVC và cảnh quan
và các giá trị thẩm mỹ trong nhà trường từ đó giáo dục học sinh ứng xử tốt ở bên
ngoài
3.2.3. Huy động các nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức và kỉ
năng sống.
a. Nguồn nhân lực:
- Phát huy nguồn lực BGH, trao đổi, quán triệt trong BGH về quan điểm chỉ đạo và
thống nhất trong lãnh đạo, quản lí công tác giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho
học sinh, từ đó đề ra các kế hoạch chi tiết cho các tổ chức trong các nhà trường đặc
biệt chú trọng đến kế hoạch của Giáo viên chủ nhiệm và kế hoạch phối hợp giữa
GVCN với các tổ chức trong nhà trường, nhất là tổ chức Đoàn thanh niên.
- Khai thác thế mạnh của một số Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) của các nhà trường
hiện có, bằng cách đặt hàng các đề tài sáng kiến kinh nghiệm về công tác giáo viên
chủ nhiệm, để từ đó tập hợp được trí tuệ của đội ngũ này. Số đề tài SKKN phải đảm
bảo bao quát hết các hoạt động của GVCN, chú ý đến nhiệm vụ giáo dục đạo đức và
kỉ năng sống cho học sinh. Sau khi các đề tài đã hoàn thành, nghiệm thu và tổ chức
hội thảo công tác GVCN. Hội thảo cần chú trọng làm rõ vai trò của GVCN, thực
trạng công tác GVCN, những kinh nghiệm trong công tác GVCN, những vướng mắc
cần chia sẽ và kiến nghị hỗ trợ công tác GVCN và điều quan trong nhất của hội thảo
là định hướng công tác GVCN và phối hợp các nguồn lực trong công tác giáo dục
đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh. Hội thảo cũng nhằm mục đích bồi dưỡng kiến
thức công tác GVCN cho những giáo viên còn non, đồng thời phải khẳng định được
Giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho HS là nhiệm vụ quan trong của nhà trường.
- Liên kết với các cơ quan chuyên môn của huyện, của tỉnh để hỗ trợ nhân lực nhằm
thực hiện các kỉ năng sống có tinh chuyên môn như: Y tế học đường, giáo dục giới
tình, sức khỏe sinh sản,phòng chống HIV, giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thống
QĐNDVN, Giới thiệu văn hóa dân tộc, TDTT, Văn nghệ
- Phối hợp với các tổ chức trong nhà trường, động viên các thành viên các tổ chức
tham gia các hoạt động chung như: Cắm trại, tham quan, Mit tinh, hội thao , thực
hành kiến thức xã hỗi khác. Không để các tổ chức thực hiện nhiệm vụ của mình một
cách đơn độc mà có sự phối hợp và hỗ trợ của các cá nhân, tập thể trong nhà trường.
- Huy động nhân lực trong cha mẹ học sinh, hỗ trợ quản lí học sinh trong các hoạt
động ngoại khóa, tham quan du lịch, tìm hiểu không để cho GVCN đơn độc trong
thực hiện nhiệm vụ này.
- Huy động lực lượng giáo viên có năng khiếu, có kiến thức về các kỉ năng sống để
phối hợp cùng nhà trường tổ chức giáo dục cho các em.
- Liên hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh.
b. Huy động tài lực và vật lực.
- Đầu năm học, cân đối kinh phí được cấp để thực hiện nhiệm vụ nhà trường, trong
đó phải có nguồn kinh phí thích đáng cho hoạt động giáo dục toàn diện học sinh.
- Phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh, lên kế hoạch chi quỹ hội cha mẹ học
sinh, trong đó chú ý chi cho các hoạt động giáo dục đạo đức và kỉ năng sống.
- Mỗi hoạt động giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cấn có kế hoạch cụ thể, có những
hoạt động kinh phí lớn, nhà trường cần công khai, thông báo cho cha mẹ học sinh
đóng góp hỗ trợ để thực hiện.
- Một số tổ chức, doanh nghiệp mong muốn có sự liên kết với các nhà trường để
giao lưu, quảng cáo, các đơn vị này có thể hỗ trợ kinh phí để các trường tổ chức các
hoạt động có tính chất giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh.
- Một số cơ quan chứ năng của nhà nước, có nhiệm vụ kết hợp với các cơ sở GD để
thực hiện nhiệm vụ trong đó có lồng ghép GDKNS và được nhà nước giao kinh phí,
các nhà trường cần liên hệ để cùng các cơ quan đơn vị này phối hợp sử dụng kinh phí
được giao có hiệu quả.
- Một số mạnh thường quân, có trách nhiệm với xã hội, có mong muốn hỗ trợ kinh
phí hoặc các phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của các nhà trường,
trong đó có giáo dục đạo đức và kỉ năng sống, các nhà trường cần khai thác để thực
hiện nhiệm vụ.
3.2.4. Tăng cường công tác quản lí của BGH đối với công tác Giáo dục đạo đức
và kỉ năng sống cho học sinh.
- Lên kế hoạch công tác GVCN chung của nhà trường, chỉ rõ từng mảng công việc,
chú trọng giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh thông qua công tác GVCN.
Từ Kế hoạch GVCN của nhà trường, các GVCN lên kế hoạch cụ thể cho cá nhân,
bám sát các yêu cầu của kế hoạch nhà trường, BGH duyệt kế hoạch và kiểm tra, đôn
đốc thực hiện kế hoạch trong suốt năm học.
- Mỗi nhà trường nên có Tổ trưởng tổ chủ nhiệm (TTCN). TTCN lên kế hoạch sinh
hoạt chủ nhiệm theo tuần cho tất cả các GVCN thực hiện, để đồng bộ hóa một số
nhiệm vụ của GVCN đồng thời cập nhật chỉ đạo của BGH hàng tuần để GVCN thực
hiện. TTCN duyệt kế hoạch chủ nhiệm tuần với hiệu trưởng, trước khi triển khai với
GVCN, trong đó có những yêu cầu về giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh.
Đây là công việc nhằm hỗ trợ cho GVCN còn yếu trong công tác giáo dục đạo đức và
kỉ năng sống cho học sinh.
- Lên kế hoạch Hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động lao động của BGH cho nhà
trường, trong những kế hoạch này chú ý mảng giáo dục đạo đức và kỉ năng sống. Đôn
đốc thực hiện kế hoạch này suốt năm học.
- Hiệu trưởng các nhà trường cần duyệt kế hoạch hoạt động của các tổ chức trong
nhà trường, chú ý đến những hoạt động giáo dục đạo đức và kỉ năng sống và sự phối
kết hợp của các tổ chức trong nhà trường đối với nhiệm vụ giáo dục đạo đức và kỉ
năng sống cho học sinh. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các tổ chức trong suốt
năm học.
- Lên kế hoạch phối hợp với các cơ quan, tổ chức ngoài nhà trường nhằm hỗ trợ nhà
trường giáo dục việc thực hiện các quy dịnh pháp luật, các quy ước làng xã, các
truyền thống địa phương và giáo dục kỉ năng sống cho học sinh: Công an, Đoàn
thanh niên huyện, thị xã, thành phố, các TT văn hóa - thể thao, Hội cựu chiến binh,
Hội chử thập Đỏ, các TT y tế, UBBVBMTE tỉnh Đồng Nai. Phòng cháy chữa cháy
- Tổ chức các lớp học ngoại khóa cho học sinh để đạo đức và kỉ năng sống: Kể
chuyện về “Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh“, hùng biện kể chuyện gương người
tốt việc tốt, nhạc, võ thuật, khiêu vũ, TDTT, vẽ, bơi lội
3.2.5. Tăng cường chỉ đạo công tác chuyên môn nhằm giáo dục đạo đức và kỉ
năng sống cho HS thông qua các môn học văn hóa.
- Bộ phận chuyên môn của các nhà trường, qua TTCM,tổ chức rà soát chương
trình SGK và chuẩn kiến thức, chuẩn kỉ năng để có kế hoạch chỉ đạo chuyên môn,
chú ý những bài học, những yêu cầu của chương hoặc của môn học về giáo dục đạo
đức và kỉ năng sông để chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, nhất là các tiết thực hành, thí
nghiệm và các hoạt động ứng dụng kiến thức vào cuộc sống lao động, sản xuất và các
hoạt động văn hóa, xã hội địa phương.
- Các nhà trường tăng cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa theo khối, lớp, các
tổ xung kích hoặc chung cho HS toàn trường, để ứng dụng các kiền thức, kỉ năng đã
học của học sinh vào các nhiệm vụ kinh tế-xã hội địa phương: Mít tinh, cổ động,
tuyên truyền, thi viết về văn hóa, con người, đồng diễn thể dục, tham gia các hoạt
động lễ hội của dân tộc, của địa phương, cứu trợ, hỗ trợ, chăm sóc, giúp đỡ
- Tổ chức các cuộc thi ứng dụng khoa học- kỉ thuật cho những môn học tự nhiên:
Chế tạo, sản xuất một số sản phẩm dựa vào kiến thức đã học về Vật lí, Hóa học, Sinh
học có thể dùng được cho cá nhân hoặc gia đình.
3.2.6. Phân bố thời lượng học tăng tiết phù hợp với năng lực của học sinh.
Do áp lực của thi cử và nghề nghiệp tương lai của học sinh, rất nhiểu bậc cha mẹ
học sinh muốn cho con học tăng tiết, học thêm rất nhiều thời gian, vì nghĩ rằng chỉ có
học tăng tiết nhiều, học thêm nhiệu mới có thể thi đậu Đại học. Song trong thực tế
của nhiều năm qua, ở nhiều địa phương có rất nhiều học sinh học chương trình cơ
bản, không học thêm, các nhà trường chỉ tăng tiết phù hợp, vừa sức với học sinh,
nhiều học sinh vẫn đậu Đại học, Cao đẳng và chọn nghề phù hợp cho tương lai.
Những học sinh này trong thời gian học không bị áp lực, căng thẳng, có thời gian
tham gia các hoạt động để hoàn thiện kỉ năng sống cho bản thân, từ đó hiệu trưởng
các nhà trường cần xác định việc định hướng học tập của học sinh và giảng dạy của
thầy cô ngay từ đầu năm học là quan trong, chỉ nên cho học tăng tiết theo thời lượng
quy định đáp ứng được chương trình tùy theo điều kiện hoàn cảnh của từng nhà
trường, làm cho học sinh học không bị căng thẳng, không phải đi học thêm nhiều, từ
đó học sinh có thời gian tham gia các lớp học ngoại khóa hoặc tham gia các hoạt
động giáo dục đạo đức và kỉ năng sống của nhà trường và ngoài xã hội, qua đó có
điều kiện hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
3.2.7. Bồi dưỡng kiến thức kỉ năng sống và phương pháp giáo dục đạo đức và
kỉ năng sống cho học sinh đối với đội ngũ thầy cô giáo.
- Lên kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ của nhà trường chi tiết đến từng công việc
cụ thể, nhất là nhiệm vụ giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh, để giáo viên
dễ thực hiện và từ đó cũng bồi dưỡng thêm được nghiệp vụ về mảng giáo dục này
(Vì đây là nội dung mới đối với một số giáo viên).
- Vào đầu các năm học, để có sự hỗ trợ và đồng thuận của tập thể nhà trường trong
việc giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh, hiệu trưởng nhà trường nên tổ
chức hội thảo về phương pháp giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học sinh cho đội
ngũ GVCN và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường. Từ nội dung các đề tài (Hiệu
trưởng nên đặt hàng cho giáo viên làm đề tài) được trình bày tại hội thảo góp phần
bồi dưỡng kiến thức đạo dức và kỉ năng sống và phương pháp giáo dục đạo đức và kỉ
năng sống cho học sinh đối với thầy cô.
- Cử các thầy cô giáo tham gia các lớp chuyên đề, các hội thảo về giáo dục đạo đức
và kỉ năng sống khi ngành tổ chức.
- Tổ chức diễn đàn của giáo viên bàn về đạo đức, kỉ năng sống và nghiệp vụ giáo
dục đạo dức và kỉ năng sồng để chia sẻ thông tin và tự học hỏi trong đồng nghiệp.
- Các nhà trường cần có chế độ khuyến khích thầy cô tự học để hiểu biết sâu thêm,
phong phú hơn về kỉ năng sống và nghiệp vụ giáo dục đạo đức, kỉ năng sống cho học
sinh để từ đó hoàn thành nhiện vụ.
3.2.8. Tìm hiểu xu hướng nhu cầu của học sinh để thực hiện nhiệm vụ giáo dục.
- Cần khảo sát hoặc tiếp cận học sinh để trao đổi, nắm bắt xu hướng nhu cầu của
học sinh để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của học sinh đồng thời qua đó định
hướng nhu cầu và uốn nắn các lệch lạc. Xã hội phát triển mạnh, nhu cầu của học sinh
cũng đa dạng, phong phú và phát triển theo. hệ giá trị xã hội cũng thay đổi do đó
chúng ta cần thường xuyên tiếp cận thông tin của học sinh để thực hiện nhiệm vụ
giáo dục, mỗi nhà trường lập tổ tư vấn để thục hiện nhiệm vụ này, nên giao chotổ
chức Đoàn thanh niện đảm nhận.
- Mạnh dạn tổ chức các hoạt động ngoại khóa theo nhu cầu chính đáng của học
sinh, tạo hứng thú cho học sinh trong các hoạt động giáo dục của nhà trường. Động
viên, khuyến khích sáng tạo của học sinh, trong các sân chơi tự phát, có tính giáo dục
đạo đức và kỉ năng sống. Biểu dương những tập thể, cá nhân có các hoạt động nhằm
tự hoàn thiện nhân cách và kỉ năng sống có hiệu quả.
3.2.9. Tăng cường CSVC cho nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu về giáo dục kỉ
năng sống cho học sinh.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục đạo đức ( ngoài giờ lên lớp) và kỉ năng sống
cho học sinh thì yếu tố CSVC là rất quan trong. Các nhà trường cần tham mưu để
được xây dựng, bổ sung CSVC như: Các phòng học chức năng, hội trường lớn, khu
học tập TDTT, khu thực hành thí nghiệm, vườn sinh vật, phương tiện vận chuyển học
sinh. Các cơ sở và công cụ để thực hành kiến thức
IV. KẾT QUẢ.
Từ nội dung của đề tài, trong năm học vừa qua, có một số nhà trường đã tổ chức
thực hiện và đã có nhiều dấu hiệu tích cực, đánh động, cảnh báo để cán bộ, giáo viên
chú ý quan tâm nhiều hơn,huy động được nhân lực và vật lực , đối với mảng giáo dục
này, cũng qua đó làm cho công tác giáo viên chủ nhiệm thực hiện bớt lúng túng, một
vài nhà trường cũng chỉ đạo, quản lý công tác này hiệu quả hơn. Có nhà trường và
nhiều GVCN có sáng tạo trong nhiệm vụ giáo dục đạo đức và kỉ năng sống cho học
sinh. Nhiều GVCN tích cực thực hiện và thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục đạo đức và
kỉ năng sống cho học sinh. Một số nơi đã tạo ra được diễn đàn nhằm trao đổi, tranh
luận về đạo đức học sinh ngày nay, về kỉ năng sống và giáo dục học sinh ở mảng
nhiệm vụ này. Ở một số nhà trường học sinh đã có nhiều tiến bộ trong kỉ năng sống,
tạo được môi trường học tập thân thiện. Góp phần thực hiện tốt các cuộc vận động
của ngành.
V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Đề tài cần được áp dụng vào các nhà trường THPT trong tỉnh để thông qua thực
tiễn của các nhà trường nhằm dần hoàn thiện và đưa hoạt động giáo dục đạo đức và
kỉ năng sống đi vào nề nếp, thiết thực và hiệu quả, từ đó góp phần vào việc đổi mới
giáo dục của tỉnh nhà.
VI. KẾT LUẬN
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp, tác dụng chủ yếu là để điều chỉnh và dân
dần hoàn thiện công tác quản lí ở các nhà trường phổ thông trung học nhằm góp một
phần nhỏ vào định hướng đổi mới “ căn bản, toàn diên “ của ngành