Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn cách soạn giảng để dạy có hiệu quả tiết trả bài làm văn ở lớp 11 tại trường thpt trần phú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.36 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2
2.1 Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài 2
2.2 Cơ sở thực tiễn 3
2.2.1 Thuận lợi 3
2.2.2 Khó khăn 4
2.2.3 Thực trạng dạy và học 4
2.2.4 Số liệu thống kê 5
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIẢI PHÁP 6
3.1 Khâu chuẩn bị 6
3.2 Phần nội dung của một bài soạn tiết trả bài làm văn 6
3.3 Nhận xét ưu, khuyết điểm trong bài làm của học sinh 8
3.4 Chữa lỗi 8
3.5 Thống kê chất lượng 10
3.6 Đọc bài văn, đoạn văn hay hoặc giới thiệu bài làm đạt điểm cao 10
3.7 Giải đáp thắc mắc, động viên, nhắc nhỡ học sinh các bài làm sau 11
IV. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 11
4.1 Những kết quả đạt được 11
4.2 Bài học kinh nghiệm 12
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG 12
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
VII. PHỤ LỤC 15
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
CÁCH SOẠN GIẢNG ĐỂ DẠY CÓ HIỆU QUẢ TIẾT TRẢ BÀI LÀM
VĂN Ở LỚP 11 TẠI TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chất lượng môn Ngữ văn ở trường THPT Trần Phú so với các trường bạn ở
khu vực Long Khánh thấp. Bởi tập làm văn là một môn học khó. Môn học này yêu
cầu học sinh vận dụng kiến thức đã học ở môn đọc văn và Tiếng Việt vào làm văn.
Mặt khác, ý thức học môn văn của học sinh chưa cao. Không hiếm tình trạng giáo


viên chỉ chú trọng đến giờ Đọc văn, xem nhẹ giờ Làm văn, đặc biệt là ở tiết trả bài
viết làm văn nên chỉ dạy qua loa chiếu lệ.
Biểu hiện rất rõ của học sinh trong tiết trả bài làm văn là thường tỏ ra lúng
túng, thiếu tập trung trong giờ học. Khi được giáo viên yêu cầu: Hãy tìm hiểu nội
dung ở phần lập dàn ý thường chỉ đứng dậy trả lời qua loa theo trình tự nhiều khi
thiếu lôgíc, nghĩ sao viết vậy, lắp ghép câu chữ tuỳ tiện, quanh quẩn lặp lại những
điều đã viết, đến lúc không nghĩ ra gì nữa thì đứng im như phỗng. Học sinh chỉ mong
nhận được bài bài làm của mình để xem điểm số đạt được là bao nhiêu có ở mức “an
toàn” hay không?. Trong thực tế vẫn còn nhiều bài văn lạc đề, lệch đề, không có kết
cấu rõ ràng, từ ngữ thiếu chính xác, sai chính tả.
Một số giáo viên trong tiết trả bài thường dạy chiếu lệ, đặc biệt ở việc thiết kế
bài soạn cho tiết học này quá khái quát, chưa có sự đầu tư đúng mức cho bài soạn.
Nên tiết dạy trả bài làm văn trở nên chiếu lệ, hình thức, chưa phát huy hết tác dụng
và ý nghĩa của tiết trả bài đối với học sinh.
Làm thế nào để học sinh phổ thông hứng thú trong tiết trả bài? Làm thế nào để
tiết trả bài làm văn thực sự có hiệu quả đối với học sinh là câu hỏi của rất nhiều giáo
viên dạy môn Ngữ văn. Vậy để điều đó trở thành hiện thực đòi hỏi người giáo viên
phải tốn nhiều công sức tìm tòi phương pháp phù hợp.
Riêng đối với tôi, qua thực tế giảng dạy cũng như trong quá trình làm công tác
kiểm tra hồ sơ, giáo án ngữ văn của các giáo viên trong tổ tôi đã rút ra một số kinh
nghiệm giúp giáo viên soạn giảng để dạy có hiệu quả hơn tiết trả bài Làm văn ở
trường THPT Trần Phú. Nhưng do điều kiện khách quan, do yêu cầu của một sáng
kiến kinh nghiệm ở phạm vi hẹp “Cách soạn giảng để dạy có hiệu quả tiết trả bài ở
lớp 11 tại trường THPT Trần Phú”. Đó là lí do tôi chọn đề tài này.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
Theo luật giáo dục Việt Nam, tại điều 3: Tính chất, nguyên lý giáo dục.
Trang 2/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
1. Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc,

khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng.
2. Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
Như vậy nguyên lí của giáo dục trong dạy và học Ngữ văn là người giáo viên
không chỉ giúp cho học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của môn học mà còn
giúp học sinh khám phá đời sống, nhận thức được các phạm trù thẩm mĩ, cái đẹp, cái
cao thượng, cái hài hoà, cái xót thương,… giúp các em hoàn thiện nhân cách bởi “văn
học là nhân học”.
Chỉ thị số 40/2008/CT-GDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 22/07/2008
về mục tiêu phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và
các hoạt động xã hội một cách phù hợp hiệu quả là cơ sở cho các giáo viên mạnh dạn
trong việc đổi mới các phương pháp dạy học của mình.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thuận lợi
a. Về giáo viên
Đại đa số giáo viên đều cố gắng thay đổi phương pháp dạy của mình theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh như phương pháp giải quyết vấn đề,
phương pháp vấn đáp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,…
Giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hướng dẫn học sinh
cách khai thác nội dung trong phần lập dàn ý, chú ý sữa các lỗi sai cho học sinh trong
các bài viết…
Trong quá trình dạy đã có sự kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin vào tiết
dạy trả bài làm văn, vì vậy giờ dạy tiết trả bài làm văn không còn là một giờ học khô
khan mà đã trở nên sinh động và hứng thú đối với học sinh.
b. Về phía học sinh
Đối với học sinh đều tập trung chú ý và suy nghĩ để trả lời các câu hỏi mà giáo
viên đặt ra trong tiết trả bài làm văn.
Đặc biệt học sinh rất thích thú khi được nhìn lại bài viết của mình, điểm số

đánh giá trên mỗi bài viết đã phản ánh khá chính xác quá trình học tập của các em.
Học sinh yếu kém đã và đang cố gắng nắm bắt kiến thức trọng tâm qua tiết học
trả bài làm văn.
Trang 3/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
2.2.2 Khó khăn
a. Về phía giáo viên
Việc nghiên cứu, tìm tòi phương pháp để soạn giảng tiết trả bài làm văn đã
được các nhà giáo dục khám phá nghiên cứu trong một thời gian dài. Nhưng để vận
dụng có hiệu quả các phương pháp đó vào tình hình dạy học thực tế không phải bất
kỳ giáo viên nào cũng đều thực hiện thành công.
Mối quan hệ giữa việc chuẩn bị bài giảng ở trên lớp và kiểm tra hiệu quả vẫn
chưa được ý thức đầy đủ trong quá trình soạn giảng và dạy học tiết trả bài làm văn.
Một số giáo viên trong việc thiết kế tiết trả bài làm văn chưa có sự đầu tư đúng
mức cho bài soạn. Soạn bài còn chung chung, qua loa chiếu lệ. Vẫn còn một số giáo
án của các tiết trả bài làm văn lớp 11 phần lập dàn ý quá khái quát, phần nhận xét và
sữa lỗi cho học sinh còn quá ít.
Giáo viên dạy tiết trả bài làm văn chỉ tập trung chủ huy động số học sinh khá,
giỏi trả lời các câu hỏi, chưa chú ý nhiều đến đối tượng học sinh yếu vì vậy khiến cho
các em thêm tự ti về năng lực của mình và đó là một trong những nguyên nhân khiến
các em giảm dần hứng thú trong môn học Ngữ văn.
b. Về phía học sinh
Học sinh trường THPT Trần Phú mặc dù là trường công, nhưng chỉ xét tuyển
ngay từ khi vào lớp 10 vì vậy chất lượng đầu vào vẫn còn thấp so với các trường công
trong khu vực Long Khánh.
Học sinh còn thiếu ý thức trong quá trình học tập, chưa có sự đam mê đối với
môn Ngữ văn, một bộ phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không làm bài tập
đầy đủ, trên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ, chưa phát huy được khả năng sáng
tạo trong quá trình làm văn.
2.2.3 Thực trạng dạy và học

Ở trường THPT Trần Phú, đa số học sinh còn thiếu ý thức và hứng thú trong
việc học môn Ngữ văn đặc biệt là trong các tiết trả bài tập làm văn, vẫn còn một số
học sinh thiếu tập trung trong giờ học vì vậy sau tiết trả bài làm văn việc nắm bắt các
kiến thức cơ bản của bài học ở những học sinh này chưa cao. Bởi vậy nên giờ học trở
nên đơn điệu các em dễ nảy sinh tâm lí nhàm chán với bài học.
Mặt khác, giáo viên dạỵ môn Ngữ văn ở trường, trong giờ dạy tiết trả bài làm
văn, việc đầu tư cho soạn giảng tiết học này chưa phù hợp. Các bước lên lớp và các
hoạt động của thầy và trò còn thiên về hình thức, quá đơn điệu nên tiết học trở nên tẻ
nhạt. Kết quả điểm số qua các bài kiểm tra ở phân môn bài viết làm văn 11 ở một số
lớp vẫn còn thấp và tỉ lệ học sinh yếu vẫn nhiều. Nhằm giảm bớt số lượng học sinh
yếu kém và nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường khơi gợi và giúp các em yêu
Trang 4/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
thích và hứng thú hơn trong môn Ngữ văn. Đặc biệt nhằm giúp giáo viên có thêm một
số kinh nghiệm trong soạn giảng tiết trả bài làm văn lớp 11.
2.2.4 Số liệu thống kê
Bản thân tôi đảm nhận việc giảng dạy môn Ngữ văn lớp 11 và 12. Trong quá
trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học
sinh và vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua các tiết dạy. Việc điều tra được thể hiện
thông qua hỏi đáp, câu hỏi phát triển tư duy ở lớp, kiểm tra 45 phút. Các kết quả
thống kê cụ thể như sau:
Bảng 1 Số liệu thống kê về mức độ hứng thú và hiểu bài của học sinh
Lớp Số học sinh hứng thú/ Số
học sinh của lớp
Số học sinh hiểu bài/ Số
học sinh của lớp
11a5 30/39 37/39
11a6 32/41 40/41
12a4 34/39 41/41
Trang 5/17

THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIẢI PHÁP
3.1 Khâu chuẩn bị
Cần chuẩn bị các bước bài soạn của tiết trả bài một cách đầy đủ:
a. Mức độ cần đạt.
b. Kiến thức trọng tâm.
c. Phương pháp.
d. Tiến trình lên lớp.
Đây là trình tự các bước trong tiết soạn giảng trả bài làm văn.
3.2 Phần nội dung của một bài soạn tiết trả bài làm văn.
Phân môn làm văn lớp 11 trong năm học học sinh cần trải qua 7 bài làm văn: 4
bài trong học kỳ I và 3 bài trong học kỳ II. Học sinh lớp 11 được tiếp cận với hai loại
nghị luận: nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Năm học lớp 11 học sinh được thực
hành hai bài văn nghị luận xã hội và năm bài văn nghị luận văn học. Giáo viên cần
căn cứ vào năng lực của học sinh khối lớp mình giảng dạy để ra đề văn phù hợp.
Trong bài soạn giảng tiết trả bài giáo viên cần hướng dẫn lại kĩ năng làm văn nghị
luận xã hội và nghị luận văn học, các thao tác lập luận trong bài văn, cách làm các
kiểu bài nghị luận cụ thể trong tiết trả bài làm văn không thể coi thường lí luận cơ
bản. Vì trình trạng mù mờ về lí thuyết đưa học sịnh đến tình trạng làm văn một cách
vô ý thức. Chúng ta bắt gặp không ít trường hợp học sinh đã làm nhầm kiểu bài mà đề
văn yêu cầu. Nhiều bài viết còn dài dòng, tản mạn hoặc quá ngắn tới mức “què, cụt”
về nội dung và thiếu trọng vẹn về hình thức.
Trong bài soạn tiết trả bài làm văn nghị luận, giáo viên cần dự kiến các đơn vị
kiến thức chính trong tiết dạy, sữa chữa, những bài làm, những đoạn văn hay.
Giáo viên có thể phát bài cho học sinh trước tiết trả bài 2 đến 3 ngày để học
sinh xem trước.
a. Tìm hiểu đề
Đây là khâu đầu tiên trong tiết trả bài làm văn. Tìm hiểu đề để xác định yêu
cầu của đề, thể loại, phạm vi đề tài, tư liệu để làm bài. Từ đó xác định yêu cầu chính
trong đề ra.

Tìm hiểu đề là công việc mà người viết phải xác định đúng trọng tâm, chính
xác. Nếu xác định sai yêu cầu đề sẽ dẫn đến bài viết bị lạc đề hoặc lệch đề. Khi ấy
chẳng khác gì người đi giữa đại dương mà không có la bàn.
b. Tìm ý và lập dàn ý
Trang 6/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
Giáo viên giúp học sinh biết cách tìm ý, lập dàn ý cho bài viết và có thói quen
phân tích để tìm ý và lập dàn ý trước khi làm bài.
Giáo viên yêu cầu học sinh của lớp chia làm hai nhóm, mỗi nhóm chịu trách
nhiệm phân tích một đề văn sau đó cử người lên trình bày, các thành viên còn lại của
nhóm có thể bổ sung các ý kiến đánh giá.
Giáo viên nhận xét, chỉnh lại và chốt vấn đề, từ đó yêu cầu học sinh tập làm
dàn ý ở bảng phụ.
Đây chính là quá trình xây dựng dàn bài mẩu để cả lớp rút kinh nghiệm về nội
dung và phương pháp làm bài. Từng học sinh qua đó có thể tự mình rút kinh nghiệm
chỗ được, chỗ chưa được của bản thân qua bài viết.
Giáo viên nên dành 7 đến 10 phút cho học sinh trao đổi thắc mắc về dàn bài
mẩu. Học sinh chép dàn bài mẩu vào vở để về nhà rút kinh nghiệm thêm và tự chữa
bài văn của mình.
Ví dụ 1
Em hiểu như thế nào về hạnh phúc gia đình?
- Giới thiệu vấn đề bàn luận và nêu nhận xét khái quá về vấn đề đó.
- Giải thích.
+ Gia đình là gì?
+ Hiểu như thế nào là hạnh phúc gia đình?
+ Hạnh phúc gia đình phải được thể hiện ở cả vật chất và tinh thần.
+ Làm thế nào để có được hạnh phúc gia đình.
- Những suy nghĩ của bản thân về hạnh phúc gia đình.
Ví dụ 2
Viết một bài văn nghị luận ngắn nêu suy nghĩ của anh/ chị về lòng yêu thương

con người của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay.
a. Giải thích
- Lòng yêu thương là gì? Cho ví dụ: mối xúc động trước nỗi đau trong cuộc
sống, cảm thông và biết chia sẻ với đồng loại, theo tinh thần của dân tộc: “Thương
người như thể thương thân”. Trong tình thương con người sẽ cảm thấy hạnh phúc.
Không biết yêu thương, con người sẽ tự làm mình bất hạnh và cô đơn.
- Tại sao lòng yêu thương người của tuổi trẻ lại được đặt ra trong chính mọi
thời đại nói chung và trong xã hội ta hiện nay nói riêng? Cần nhấn mạnh sự vô cảm
trước nỗi đau của đồng loại trong xã hội hiện đại là một vấn đề bức xúc ngày nay.
Trang 7/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
Chứng mình bằng những sự kiện diễn ra hàng ngày mà học sinh chứng kiến, báo chí
đưa tin: vụ em Hào Anh, Hồng Anh, vụ bảo mẫu hành hạ trẻ tại Đồng Nai.
b. Bình luận
- Tình yêu thương con người của tuổi trẻ cho học sinh thấy sự gắn bó và trách
nhiệm với cộng đồng, sự chung tay giải quyết đối với vấn nạn xã hội.
- Tình yêu thương con người của tuổi trẻ đặt ra cho học sinh sức mạnh tinh
thần, sống quả cảm có ý nghĩa hơn ở cuộc đời.
c. Hướng giải quyết vấn đề đặt ra: Học sinh sẽ làm gì để chứng tỏ lòng yêu thương
con người.
3.3 Nhận xét ưu, khuyết điểm trong bài làm của học sinh.
Lời nhận xét thường có hai phần được và chưa được về quan điểm, về nội
dung, về phương pháp và hành văn. Cần tránh những lời nhận xét chung chung như
“tạm được”, “bài làm khá”, “bài làm sơ lược”,… những lời nhận xét ấy ít bổ ích cho
học sinh, cũng nên tránh những lời phê, lời nhận xét thiếu trân trọng, khích lệ học
sinh. Lời nhận xét vừa biểu dương những mặt tốt, vừa tập trung chỉ ra chổ thiếu sót
chính tiêu biểu nhất của học sinh đồng thời phải nói được điểm có tiến bộ hay chưa
để học sinh có hướng phấn đấu thêm. Lời phê bình bao giờ cũng ân cần chu đáo, trân
trọng và câu chữ của giáo viên phải ngay ngắn, chuẩn mực, lời nói phải chính xác rõ
ràng.

Lời nhận xét của giáo viên trong bài làm văn và trong tiết trả bài làm văn có
tính thúc đẩy trong quá trình học tập của học sinh, giúp học sinh nhận ra được mặt ưu
điểm và mặt còn hạn chế trong bài làm của chính mình. Bởi kết quả bài làm của học
sinh phản ánh tư duy tái tạo và sáng tạo của người học. Chính qua các tiết làm văn
viết bài ở lớp hoặc ở nhà, học sinh được rèn luyện cá tính, năng khiêu riêng của mỗi
người. Các bài viết đã giúp học sinh bộc lộ, giãi bày ngôn từ trên mặt giấy mọi suy tư,
cảm xúc, kinh nghiệm, nhận xét của con người về thiên nhiên, xã hội, cuộc sống,…
Xem lời phê ở bài làm văn của học sinh, lời nhận xét trong tiết trả bài có thể
đoán nhận được người dạy văn đó như thế nào, nói vậy cũng không quá lời.
3.4 Chữa lỗi
Thiếu sót lớn nhất trong giảng dạy tiết trả bài làm văn hiện nay là việc chấm
bài. Bên cạnh phần đông các giáo viên tận tuỵ, vẫn còn một số giáo viên chưa có đầy
đủ tinh thần trách nhiệm trong việc chấm trả bài cho học sinh. Nhiều giáo viên chấm
bài qua loa, nhận xét chung chung bỏ mặc nhiều lỗi của học sinh trong bài làm. Bởi
hiện nay có quá nhiều học sinh văn kém.Tình trạng đó chính là hậu quả của việc
chấm bài chưa đầy đủ tinh thần trách nhiệm của giáo viên.
Trang 8/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
Trong tiết trả bài làm văn chỉ diễn ra trong 45 phút mà phải dạy tuân thủ tiến
trình của phương pháp làm văn nên giáo viên chưa yêu cầu học sinh tự chữa lấy
những lỗi của mình trong bài làm văn, chưa chú ý cân đối đến việc khích lệ những cố
gắng và chỉ rõ sai sót, đến nội dung và hình thức diễn đạt trong bài của học sinh. Giáo
viên cần có quy định các bài làm văn viết rời cần đính lại thành tập để giáo viên có
thể theo dõi sự diễn biến của học sinh qua từng bài làm. Nhưng trên thực tế vẫn còn
tình trạng một số học sinh sau khi nhận được bài làm, biết được kết quả của bài làm
văn đã vượt qua mức điểm trung bình đã là an phận không cần quan tâm đến việc sửa
lỗi nữa.
Trong mỗi bài làm văn, người giáo viên phải xây dựng thang điểm chuẩn
chính xác dựa trên những tiêu chí để đánh giá bài làm của học sinh. Để tránh tình
trạng chấm từng bài văn sai đâu sữa đó và không có một trọng tâm, có yêu cầu riêng

cho từng bài. Đành rằng chấm một bài văn là phải xem xét tất cả mọi mặt, nhất là
những sai sót nặng nề về tư tưởng, về kiến thức giáo viên không thể bỏ qua, nhưng
không phải vì thế mà chấm bài tràn lan.
Người giáo viên có kinh nghiệm và có tinh thần trách nhiệm bao giờ cũng theo
dõi quá trình chuyển biến của học sinh qua các bài làm văn trước ở tiết trả bài. Vậy để
sửa các lỗi về cấu trúc câu, lỗi diễn đạt, dùng từ sai, sai chính tả, sai lôgíc, trùng lặp
luận điểm,… đương nhiên trong quá trình chấm bài và soạn bài giảng cho tiết trả bài
người giáo viên không thể đọc lướt, đọc kiểu “thủ vĩ”. Nghĩa là chỉ chấm mở đầu và
kết thúc, chấm theo ấn tượng và định kiến đối với từng học sinh.
Chấm bài làm văn cần phải tuân thủ các kỉ thuật chấm bài. Việc sửa lỗi cho
học sinh cũng rất quan trọng bời nhờ sự dẫn dắt của người giáo viên, học sinh nhận ra
được các lỗi thường gặp phải trong bài làm văn để từ đó có kinh nghiệm trong làm
văn, hạn chế được tốt đa những sai sót thường gặp khi viết bài.
- Lỗi sai về cấu trúc ngữ pháp: khi phát bài cho học sinh, giáo viên hướng dẫn
chung cả lớp để các em nhìn lại sản phẩm bài làm của mình, phát hiện các lỗi sai và
tự sửa khi cấu trúc ngữ pháp của câu không đúng.
- Lỗi sai về sử dụng từ ngữ không phù hợp với ngữ cảnh hoặc đối tượng được
nói đến trong bài văn. Cách sữa lỗi sai này cần căn cứ vào bài làm thực tế của từng
học sinh để rèn luyện cách sử dụng từ ngữ đúng với đối tượng được nói tới và ngữ
cảnh.
- Lỗi sai về chính tả do viết thiếu thanh điệu hoặc phát âm sai, nhầm lẫn giữa
nguyên âm và phụ âm, sắp xếp các âm tiết không đúng…Khi chữa lỗi sai về chính tả
trong bài viết cho học sinh, trước lớp cần nhắc chung các nguyên nhân dẫn đến sai
chính tả để từ đó học sinh có thói quen phát âm đúng và viết đúng.
Trang 9/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
- Lỗi sai vì nêu luận điểm trùng lặp hoặc không rõ ràng, không phù hợp với
bản chất của vấn đề cần giải quyết.
- Lỗi sai vì luận cứ thiếu chính xác, thiếu chân thực, trùng lặp hoặc quá rườm
rà.

- Luận cứ không phù hợp với luận điểm.
- Lập luận mâu thuẫn, thiếu lôgíc.
Trong tiết dạy trả bài, giáo viên nên để dành thời giờ cho học sinh hỏi trực tiếp
giáo viên về bài làm của mình. Giáo viên có thể đến với một vài em mà giáo viên dự
đoán có những vấn đề thắc mắc hay thất vọng sau khi đã hướng dẫn học sinh tự chữa
lỗi theo lời ghi. Giáo viên có thể kiểm tra một vài trường hợp tự chữa bài ở nhà. Nếu
có thể, chấm bài sữa bài “tay đôi” với một vài học sinh còn yếu cần phải giúp đỡ
thêm.
Mục đích cuối cùng của việc sửa lỗi trong bài làm văn là giúp học sinh phát
hiện, phân tích và sữa chữa được các lỗi về ngữ pháp, dùng từ, chính tả, về lập luận,
… Nên trân trọng từng tìm tòi, cảm thông từng sai sót vừa nghiêm khắc vừa độ lượng
trước từng khuyết điểm của học sinh.
3.5 Thống kê chất lượng
Năm học 2013-2014, tôi được nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy hai
lớp 11 (gồm 11A5 và 11A6) cụ thể kết quả điểm số qua các bài kiểm tra hai lớp như
sau:
Lớp
% điểm trên trung bình của các bài viết số
1 2 3 4 5 6 7
11A5 76,9 82,0 89,7 92,3 94,8 94,8 89,7
11A6 82,9 82,9 95,1 81,3 97,6 95,1 95.1
Kết quả kiểm tra điểm số qua bảng thống kê trên cho thấy khi có sự đầu tư
soạn giảng tiết trả bài làm văn, chất lượng bài làm văn qua cac bài viết của học sinh
đã có sự tiến triển khá khả quan. Chính việc thống kê tỉ lệ trên điểm trung bình của
từng học sinh qua các bài kiểm tra giúp các em nhìn thấy rõ hơn sự tiến bộ và nỗ lực
cố gắng của bản thân qua từng bài viết. Học sinh sẽ cảm thấy hứng thú hơn trong tiết
trả bài làm văn.
3.6 Đọc bài văn, đoạn văn hay hoặc giới thiệu bài làm đạt điểm cao.
Kinh nghiệm của bản thân tôi trong tiết soạn giảng trả bài làm văn, tôi thường
cẩn thận sưu tầm những bài văn, đoạn văn hay, photo thành tài liệu phát vào thời

điểm hết giờ cho học sinh về nhà tham khảo để tự rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
Riêng đối với những bài làm tốt của học sinh, giáo viên giới thiệu để tất cả học sinh
Trang 10/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
của lớp cùng tham khảo. Thiết nghĩ đó cũng là một cách để phát huy khả năng sáng
tạo trong làm văn của học sinh.
3.7 Giải đáp thắc mắc, động viên, nhắc nhỡ học sinh các bài làm sau
Giờ trả bài là một giờ học sinh động và có tác dụng nhiều mặt. Đây là giờ học
được xây dựng từ sự lao động trực tiếp của học sinh, từ vốn liếng nhiều mặt của học
sinh. Vì vậy nên dành ít thời gian ở cuối tiết để giải đáp thắc mắc, động viên nhắc nhỡ
học sinh trong các bài làm sau.
Cách thức giải đáp thắc mắc của giáo viên phải linh hoạt, tránh thái độ gò ép
cách suy nghĩ của giáo viên cho học sinh. Giáo viên phải đọc kỹ, lắng nghe ý kiến
phản hồi của học sinh, cần khuyến khích và trân trọng những ý kiến đóng góp của học
sinh, trao đổi thẳng thắn, cởi mở và tuyệt đối không có thành kiến đối với các em.
Khâu cuối kết thúc tiết trả bài làm văn là nhắc nhở các em rút kinh nghiệm
trong bài viết để làm tốt hơn ở các bài làm văn định kỳ tiếp theo.
IV. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
4.1 Những kết quả đạt được
Việc vận dụng soạn giảng để dạy có hiệu quả tiết trả bài làm văn ở lớp 11 tại
trường THPT Trần Phú ở hai lớp 11A5 và 11A6 qua 7 tiết dạy trả bài làm văn tôi
thấy:
- Hầu hết học sinh đều nắm chắc, khắc sâu kiến thức đã được thực hành ở bài
viết.
- Học sinh hứng thú hơn trong tiết trả bài, tạo nên không khí vui tươi trong tiết
học, trong tranh luận tìm hiểu các vấn đề đã được thể hiện ở bài viết.
- Tránh được việc dạy học thụ động, giáo viên ý thức được sâu sắc hơn giờ trả
bài làm văn đúng với ý nghĩa cần có và vốn có của nó. Khi có sự đầu tư thoả đáng
cho bài soạn giảng tiết trả bài làm văn, tiết dạy đã trở nên sinh động, không còn cảm
giác rập khuôn máy móc và cứng nhắc. Không còn cảm giác tiết trả bài đối với học

sinh là những phút giây căng thẳng chờ đợi kết quả điểm số bời vì trước tiết trả bài 2
đến 3 ngày giáo viên đã chủ động phát trước bài đã chấm cho các em xem trước. Vì
vậy không khí phân tán ồn ào trong lớp đã được hạn chế ở mức tối thiểu.
- Học sinh thu hoạch được bao nhiêu điều bổ ích thiết thực cho những bài văn
tiếp theo.
- Áp dụng để làm các dạng đề mở nhằm phát huy khả năng sáng tạo và phát
huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong phân môn làm văn nói riêng và Ngữ
văn nói chung.
Trang 11/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
- Kết quả kiểm tra viết trung bình của hai lớp 11A5 và 11A6 qua bảy bài viết
trong năm như sau:
+ Giỏi: 8%
+ Khá: 42%
+ Trung bình: 46%
+ Yếu: 4%
4.2 Bài học kinh nghiệm
- Trong khi soạn giảng tiết dạy trả bài làm văn lớp 11, trong mỗi tiết dạy giáo
viên cần nêu mục tiêu yêu cầu của tiết, chọn phương pháp phù hợp và phân chia thời
gian hợp lý.
- Giáo viên cần kết hợp tốt các phương tiện dạy học khác nhau để góp phần
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong tiết dạy trả bài làm văn.
- Trong quá trình dạy, ngôn ngữ nói phải truyền cảm, trình bày phải có điểm
nhấn, tránh đều đều.
- Cần chú ý đến mối quan hệ trực cảm và cảm thụ lý tính, giữa phân tích và
tổng hợp.
- Tuỳ theo các bước trong tiết trả bài để chọn nội dung và phân chia thời gian
phù hợp.
- Trong quá trình chuẩn bị bài soạn ở tiết trả bài phải được chuẩn bị công phu
để khi lên lớp để tiết dạy trở nên sinh động và có tác dụng nhiều mặt đối với học sinh.

- Tuyệt đối người soạn giảng tiết trả bài không nên có suy nghĩ hạn hẹp, sai
lầm “trả bài làm văn chỉ đơn giản là hướng dẫn học sinh làm dàn bài mẫu và công bố
điểm số của bài văn cho học sinh”.
- Giáo viên cần khuyến khích và trân trọng những ý kiến đóng góp của học
sinh, nên trao đổi thẳng thắn, cởi mở và tuyệt đối không có thành kiến đối với các em.
- Lời khen hay lời phê bình khi nhận xét trước lớp bao giờ cũng phải ân cần,
chân thực.
- Người giáo viên dạy môn Ngữ văn phải luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới
trong phương pháp dạy học bởi lao động của người giáo viên vừa mang tính nghệ
thuật vừa mang tính sư phạm.
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Thực ra hiện nay trong nhà trường được cung cấp rất nhiều các thiết bị dạy
học. Tuy nhiên với môn Ngữ văn thì các đồ dùng, thiết bị đó còn chưa nhiều, vì vậy
Trang 12/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
muốn đạt được kết quả cao trong bộ môn này, chủ quan bản thân tôi có một số ý kiến
đề xuất và khuyến nghị như sau:
 Đề xuất:
Các cơ quan trường học cần được trang cấp đầy đủ các phương tiện hỗ trợ cho
dạy và học.
 Khuyến nghị:
- Trong các buổi học hướng nghiệp chọn nghề cần định hướng và khơi dậy ở
học sinh sự đam mê văn chương.
- Với học sinh lớp 11, giáo viên bộ môn cần quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư
vào soạn giảng tiết trả bài làm văn, phải tỉ mĩ, công phu, gắn liền với tinh thần trách
nhiệm và lương tâm nghề nghiệp để góp phần nâng cao chất lượng của bộ môn Ngữ
văn.
 Kết luận:
Qua thực tế áp dụng đề tài “Cách soạn giảng để dạy có hiệu quả tiết trả bài làm
văn ở lớp 11 tại trường THPT Trần Phú”, tôi nhận thấy đây là một phương pháp dạy

học tích cực. Dẫu sáng kiến kinh nghiệm này với đề tài không mới nhưng bằng chính
suy nghĩ của bản thân tôi đã mạnh dạn cải tiến một vài bước nhỏ trong trình tự của
tíêt trả bài làm văn, tôi cũng đã từng dự giờ của nhiều giáo viên ở tổ bộ môn khi dạy
tiết trả bài làm văn và kết quả cũng rất khả quan.
Tuy nhiên tính hiệu quả của tiết dạy còn phụ thuộc nhiều yếu tố (giáo viên,
học sinh) và không phải bất kì tiết dạy trả bài làm văn nào cũng đạt được kết quả
hoàn hảo. Tiết dạy trả bài làm văn đòi hỏi sự sáng tạo trong lao động nghệ thuật, cần
có tinh thần trách nhiệm cao của người giáo viên, cần đòi hỏi năng lực tư duy và hành
động của mình trước giáo dục học sinh, cho nên cần phải nắm vững lý luận, rèn luyện
nghiệp vụ thường xuyên.
Trên đây là một số kết luận nhỏ của tôi khi áp dụng cách soạn giảng để dạy có
hiệu quả tiết dạy trả bài làm văn lớp 11 có hiệu quả. Do hiểu biết và kinh nghiệm
chưa nhiều nên bản thân tôi chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự
góp ý của quý đồng nghiệp để góp phần hoàn thiện đề tài hơn nữa.
Long Khánh, ngày 29 tháng 4 năm 2014
Người viết
Dương Thị Tiến
Trang 13/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học văn, Phạm Trọng Luận cùng các tác giả khác, Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998.
2. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 11, Nhà xuất bản giáo dục, 2007.
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12, Nhà xuất bản giáo dục, 2008.
4. Những vấn đề cơ bản về đổi mới gíáo dục trung học phổ thông hiện nay, Phùng
Đình Mẫn cùng nhiều tác giả, Nhà xuất bản Sở văn hoá thông tin Thừa Thiên Huế.
Trang 14/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
VII. PHỤ LỤC
1. Giáo án áp dụng

Tiết 87 - Làm văn
TRẢ BÀI VIẾT SỐ 5 (NLXH)
A. M ức độ cần đạt
Giúp học sinh thấy được những ưu điểm và nhược điểm trong bài làm văn.
Biết cách làm văn nghị luận xã hội thành thạo.
B. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng.
1. Kiến thức: Suy nghĩ về tết cổ truyền của dân tộc
2. Về kĩ năng: Rèn kĩ năng làm văn nghị luận.
C. Phương pháp: phát vấn, hoạt động nhóm, phân tích, giảng.
D. Phương tiện thực hiện.
GV đọc tài liệu, giáo án, SGK, SGV 11, sách tham khảo.
Học sinh đọc sgk, bài soạn, bài kiểm tra.
E. Tiến trình lên lớp
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số.
2. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh: Bảng phụ, bài kiểm tra.
3. Bài mới.
Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt
HĐ1: GV yêu cầu học sinh nhắc lại đề
của bài viết số 5.
HS: Nêu suy nghĩ của anh chị về cái tết
cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
GV: hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề.
Yêu cầu học sinh xác định thể loại?
Phạm vi yêu cầu của đề? Tư liệu để làm
bài?
GV nhấn mạnh việc tìm hiểu đề là công
việc mà người viết phải xác định đúng
trọng tâm, chính xác.Nếu xác định sai
yêu cầu đề sẽ dẫn đến bài viết bị lạc đề
hoặc lệch đề.

HĐ2: hướng dẫn học sinh tìm ý và lập
dàn ý bài văn mẩu.
GV: Chia lớp thành 2 nhóm nhỏ, giao
việc cho mỗi nhóm:
- Nhóm 1: xác lập ý cho bài viết.
TRẢ BÀI SỐ 5
Đề ra: Nêu suy nghĩ của anh (chị) về cái
tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam.
1. Tìm hiểu đề
- Thể loại: văn NLXH.
- Phạm vi đề bài: tết cổ truyền của
dân tộc Việt Nam
- Tư liệu để làm bài: kiến thức
thực tế từ cuộc sống và sách vỡ.
2. Tìm ý và lập dàn ý.
2.1. Tìm ý.
Trang 15/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt
- Nhóm 2: Lập dàn ý khái quát cho
bài viết.
Yêu cầu hai nhóm thảo luận, tổng hợp ý
kiến và cử đại diện lên trình bày ở bảng
phụ, các thành viên khác có thể bổ
sung, thống nhất kết quả của 2 nhóm.
GV: Nên dành 5 đến 10 phút cho học
sinh trao đổi thắc mắc về dàn bài mẩu.
GV dánh giá: Lập dàn ý là quá trình xây
dựng dàn bài mẩu để cả lớp rút kinh
nghiệm về nội dung và phương pháp

làm bài.
HĐ3: GVnhận xét bài làm của học sinh.
( Phân tích các ưu điểm và chỉ ra các
hạn chế của học sinh)
GV: chuẩn bị bảng phụ thống kê các
lỗi ,yêu cầu học sinh chỉ ra nguyên nhân
sai, đề xuất cách chữa lỗi.
2.2. Lập dàn ý.
a. Mở bài: Giới thiệu và dẫn luận đề.
b. Thân bài:
học sinh có thể diễn đạt bàng nhiều cách
nhưng cần đạt được các ý chính sau:
- Đánh giá về tết cổ truyền của dân
tộc.
- Nét đặc trưng của tết cổ truyền:
+ Thời gian
+ Không khí tết
+ Phần lễ
+ Phần hội
- Tâm trạng của con người: vui vẻ,
hân hoan chào đón năm mới.
- Các hoạt động của con người
trong dịp tết( vui chơi, thăm hỏi,
xông đất, chúc xuân…)
- Ý nghĩa của tết cổ truyền :
+ Nét đẹp của văn hoá truyền thống
của dân tộc được gìn giữ để làm
phong phú thêm bản sắc văn hoá và
phong tục tập quán của người Việt.
+ Tết- gắn kết tình thân.

+ Con người nhớ về quê hương,
nguồn cội.
+ Nhìn laị những việc đã làm và
chưa làm được trong một năm để
phấn đấu hơn trong năm mới.
- Cần phải có thái độ và hành động
phù hợp khi nghĩ về tết cổ truyền
của dân tộc để không làm cho nét
đẹp cổ truyền bị mai một.
c. Kết luận: Nêu suy nghĩ và hành động
của cá nhân.
2.3. Nhận xét.
2.3.1 Ưu điểm: đa số học sinh hiểu đề,
biết cách làm bài văn nghị luận xã hội,
nhiều bài viết suy nghĩ và đánh giá kha
sâu sắc về tết cổ truyền của dân tộc, kết
quả bài làm khá tốt, cách trình bày bài
viết khoa học, hành văn mạch lạc, khúc
chiết, văn viết có sự sáng tạo và giàu
Trang 16/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt
- Lỗi dùng từ:
VD1: Hằng năm, mỗi khi tết về ai ai
cũng náo nức buồn.
-> Chữa:
Thay bằng cụm từ: náo nức niềm vui
VD2: Tết là dịp để mọi gia đình ăn chơi
phè phỡn
 Chữa: thay bằng cụm từ sum họp

vui vầy
- Lỗi saicấu trúc ngữ pháp:
VD1: Gìơ khắc giao thừa, đều dâng lên
cảm xức khó tả.
Nguyên nhân sai: thiếu chủ ngữ.
-> Chữa: bổ sung chủ ngữ: Gìơ khắc
giao thừa, tất cả mọi người đều dâng lên
cảm xúc thật khó tả.
VD2: Sáng mồng một, mọi người chùa.
Nguyên nhân sai: thiếu vị ngữ.
 Chữa: thêm vị ngữ dể hoạn thiện
cấu trúc câu.
Sáng mồng một, mọi người thường
đi lễ chùa.
- Lỗi câu văn thiếu lôgíc:
VD1: Bánh chưng, bánh tét là những
loại bánh truyền thống trong ngày
tết.Ngày thường chúng không có giá trị
về dinh dưỡng nhưng ngày tết thì khác.
Lỗi sai: Câu trước và câu sau mâu
thuẫn, so sánh khập khiễng.
 Chữa: thay câu thứ hai:Hai loại
bánh truyền thống ấy có giá trị
dinh dưỡng cao vì được làm từ
nguyên liệu nếp, đậu xanh, thịt
heo.
VD2: Trẻ con xúng xính trong quần áo
mới với vẻ mặt thật u ám.
 Sửa: vẻ mặt hân hoan, rạng rỡ
GV: Yêu cầu học sinh xem lại bài, nhìn

gợi ý giáo viên đã sửa minh hoạ.
cảm xúc.
2.3.2. Hạn chế: còn 2 bài viết suy nghĩ
còn chung chung, chưa làm nỗi bật
được các ý chính.
3 bài viết còn mắc các lỗi phổ biến như
Lỗi dùng từ chưa phù hợp, viết chưa
đúng cấu trúc ngữ pháp, tính liên kết
trong câu văn yếu, sai lôgíc
5. Thống kê chất lượng chung của bài
Trang 17/17
THPT Trần Phú – SKKN năm học 2013-2014 GV: Dương Thị Tiến
Hoạt động của thầy và trò Nội dung cần đạt
GV: Thống kê chất lượng của bài viết
số 5.
GV: Yêu cầu học sinh đọc 1 bài văn
mẩu cho học sinh cả lớp nghe và tham
khảo.
GV: Giải đáp các thắc mắc của học
sinh, rút kinh nghiệm, nhắc nhở học
sinh chuẩn bị bài viết số 6 (ở nhà).
Đề ra: Cảm nhận vẻ đẹp của bức tranh
thiên nhiên xứ Huế qua bài thơ “Đây
thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
viết số 5:
+ 12% điểm loại giỏi
+ 30% loại khá
+ 52% loại trung bình.
+ 6% loại yếu.
6. Đọc bài văn mẫu.

7. Giải đáp thắc mắc của học sinh.
4. Cũng cố dặn dò:
- Nhắc học sinh về nhà viết bài số 6 chu đáo.
- Soạn bài: Chiều tối - Hồ Chí Minh.
Trang 18/17

×