Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

skkn lựa chọn phương pháp thích hợp cho môn học ngữ văn ở phân môn văn học sử.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.25 KB, 26 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Lí do chọn đề tài:
Trong toàn bộ chương trình của môn Ngữ văn ở trường trung học
phổ thông, văn học sử là phân môn có vị trí chủ đạo, quyết định phương
hướng chung cho việc giảng dạy tất cả các phân môn của văn học về
khối lượng, nội dung kiến thức và phương pháp học tập.
Thế nhưng, trong phong trào đổi mới giảng dạy văn học ở bậc trung
học nhiều năm qua, hầu như phân môn được quan tâm nhiều nhất là đọc
văn, và việc dạy văn học sử ít được chú ý. Về mặt nào đó, kể cũng có lí
do của nó. Tiếp cận và tiếp nhận tác phẩm văn chương là một vấn đề
nghệ thuật phức tạp và tinh tế. Tỉ lệ thời gian dành cho đọc văn trong
chương trình lại lớn… Văn học sử, bản thân nó cũng có đầy đủ lí do và
dữ kiện để được nhìn nhận một cách thỏa đáng hơn, nếu không muốn
nói là đáng được quan tâm đặc biệt hơn, cả về phương pháp dạy cũng
như học, về yêu cầu cần đạt tới cũng như hiệu quả thực tế thu lượm
được.
II. Mục tiêu nghiên cứu:
Xét cả quá trình dạy môn Ngữ văn trong nhà trường, từ phân môn
văn học sử, đọc văn cho đến lí luận văn học đều có nhiệm vụ cung cấp
kiến thức văn học. Với văn học sử thì đó là việc hình thành những kiến
thức khái quát về văn học. Từ việc nhìn nhận đúng đắn phân môn văn
học sử trong mối liên hệ vốn có của nó với các phân môn khác, chúng
ta sẽ xác định một cách sáng tỏ nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng của
phân môn này trong việc hình thành kĩ năng văn học và nhân cách cần
có cho học sinh ở trường trung học phổ thông và khi vào đời.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh trường trung học phổ thông Long Khánh- Thị xã Long
Khánh- Tỉnh Đồng Nai.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Sưu tầm, tổng hợp tài liệu, nghiên cứu sách giáo khoa Ngữ văn trung
học phổ thông.


- Áp dụng kinh nghiệm vào thực tế giảng dạy.
- Điều tra kiến thức học sinh.
V. Phạm vi nghiên cứu và ứng dụng
- Chương trình Ngữ văn 10,11,12.
- Ứng dụng vào phạm vi dạy học văn học sử.
- Sáng kiến chỉ mang tính khái quát, không đi sâu vào từng bài cụ thể.
Ở đây chỉ minh họa một bài trong chương trình Ngữ văn 12, bài Tác
giả Hồ Chí Minh ( theo phân phối chương trình chuẩn tiết 4).
1
VI. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
Lựa chọn phương pháp thích hợp cho môn học Ngữ văn ở phân môn
văn học sử.
VII. Cấu trúc của đề tài:
Gồm 3 phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
- Kết luận
2
B. PHẦN NỘI DUNG:
I. Cơ sở lí luận:
“Văn học sử là một phân môn của môn Ngữ văn trong chương trình
học văn ở nhà trường bậc trung học. Theo đó, việc học văn gắn liền
với những hiểu biết về sự hình thành, về quá trình tồn tại và phát triển
của văn học qua những thời kì lịch sử khác nhau.” (Phan Trọng Luận)
Vì vậy, văn học sử có nội dung, phương pháp, nhiệm vụ, mục tiêu
riêng vừa thống nhất, vừa khác biệt với các phân môn khác trong
chương trình văn học. Cùng với đọc văn, làm văn, văn học sử góp phần
hoàn chỉnh tri thức cho học sinh trung học phổ thông.
“Văn học sử cho chúng ta thấy rõ từng bước đi, nhịp đập, hơi thở
của lịch sử xuyên suốt qua từng chặng đường, từng thời kì, từng giai

đoạn văn học với những nấc thăng trầm khác nhau.” ( Nguyễn Thụy
Giang Thủy)
Chính điều này mà trong công việc khai thác và truyền thụ các kiến
thức về văn học sử mang ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng.
II. Cơ sở thực tiễn:
Ở trung học cơ sở không có giờ học văn học sử riêng. Trái lại học
sinh ở trung học phổ thông được học các bài văn học sử trước khi học
tác phẩm. Do đó, những nhận thức về văn học ở trung học phổ thông có
tính hệ thống, khái quát, hoàn chỉnh.
 Ở lớp 10, học sinh được học 8 tiết văn học sử. Cụ thể:
- Học kì I:
+Tổng quan văn học Việt Nam ( 2 tiết)
+Khái quát văn học dân gian Việt Nam ( 1 tiết)
+Khái quát văn học Việt Nam từ Thế kỉ X đến hết Thế kỉ XIX (2
tiết)
- Học kì II:
+Tác giả Nguyễn Trãi ( 1 tiết)
+Tác giả Nguyễn Du ( 2 tiết)
 Lớp 11 có 5 tiết dạy các bài:
+Tác giả Nguyễn Đình Chiểu ( 1 tiết)
+Khái quát văn học Việt Nam từ đầu Thế kỉ XX đến Cách mạng
tháng 8-1945 (3 tiết)
+Tác giả Nam Cao ( 1 tiết)
 Lớp 12, học sinh tiếp tục học:
+Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng thánh 8-1945 đến hết
Thế kỉ XX ( 2 tiết)
+Tác giả Hồ Chí Minh(1 tiết)
+Tác giả Tố Hữu (1 tiết)
Như vậy, phân môn văn học sử chỉ mới được dành một tỉ lệ quá nhỏ
trong quỹ thời gian, nhưng cũng đã giới thiệu cho học sinh một khối

3
lượng không nhỏ về các sự kiện, hiện tượng văn học, các nhà văn, nhà
thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam ở nhiều thời kì lịch sử, nhiều trào
lưu văn học khác nhau. Văn học sử góp phần làm đa dạng, phong phú
thêm sự hiểu biết về văn học cho học sinh.
III. Thực trạng:
Một số giáo viên dạy văn chưa thấy được mối liên hệ chặt chẽ biện
chứng giữa văn học và lịch sử. Muốn dạy ( và học) một tác phẩm văn
học, một hiện tượng văn học, ta không thể không đặt tác phẩm đó, hiện
tượng đó vào bối cảnh lịch sử xã hội mà tác phẩm hay hiện tượng văn
học ấy xuất hiện. Ngược lại, tác phẩm văn học, hiện tượng văn học giúp
cho chúng ta hiểu thêm về diện mạo thời đại, đời sống xã hội và con
người của xã hội đương thời, nhất là về phương diện ý thức, tinh thần.
Cũng còn không ít giáo viên thường có xu hướng coi trọng phần
đọc- hiểu văn bản mà xem nhẹ hoặc bỏ qua các bài khái quát,các mục
tìm hiểu tác giả, tác phẩm hoặc các kiến thức đó nếu có thì cũng chỉ
được nhắc đến một cách qua loa, sơ sài, không liên hệ với phần văn bản
và cũng không phục vụ cho việc đọc- hiểu văn bản.
Có thể nói, vết tích của lối dạy văn chưa kỹ lưỡng như đã nói trên
vẫn còn khá nặng nề. Giáo viên chưa ý thức được đầy đủ yêu cầu rèn
luyện năng lực cho học sinh qua phân môn văn học sử. Một nhận định
của Bộ giáo dục cách đây 10 năm đến nay hầu như vẫn còn có ý nghĩa:
“ Bên cạnh một số giáo viên tận tụy, số đông giáo viên chưa có đầy đủ
tinh thần, trách nhiệm trong việc giảng dạy văn học sử cho học sinh.”
( Báo cáo tình hình giảng dạy Văn học trong trường trung học phổ
thông năm 2002- Bộ Giáo dục).
Đỗ Kim Hồi- một giáo viên làm công tác dạy văn có nhiều kinh
nghiệm đã có nhận xét xác đáng:
 Về việc giảng dạy văn học sử của giáo viên:
- Dạy học đọc chép

- Dạy nhồi nhét
- Dạy học văn như nhà nghiên cứu văn học
 Về phía học sinh:
- Học sinh thụ động, thiếu sáng tạo
- Học sinh không biết tự học
- Học tập thiếu sự hợp tác giữa thầy và trò, giữa trò với trò
- Học thiếu hứng thú, đam mê
Chính phương pháp dạy học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, học
sinh phải học thuộc kiến giải của thầy, chưa xem học sinh là chủ thể của
hoạt động học văn là những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp gây nên
hậu quả giáo dục thấp kém cho học sinh mà giáo viên dạy văn chắc hẳn
phải gánh chịu một phần trách nhiệm. Học sinh ít được tỏ bày ý kiến
của mình. Nguy hại không phải chỉ trong phạm vi học hành ở nhà
trường, cũng không phải chỉ là chuyện trước mắt, điều đáng lo ngại là
4
trong cuộc sống cá nhân học sinh đã hình thành thói quen sao chép, nói
theo. Một yêu cầu mà nhà trường ngày nay đặc biệt coi trọng là việc
phát triển khả năng tư duy độc lập và sáng tạo cho học sinh, nhưng tiếc
thay đây lại là mặt yếu nhất trong chất lượng đào tạo của chúng ta.
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề:
1. Căn cứ vào nguyên tắc dạy học văn học sử ở trung học phổ thông:
a. Dạy học văn học sử phải đảm bảo sự kết hợp hữu cơ giữa tri thức
khái quát và tri thức cụ thể:
Bảo đảm kết hợp hai loại tri thức khái quát và cụ thể trong giờ dạy
văn học sử thể hiện trình độ và năng lực sư phạm của giáo viên. Nếu bài
văn học sử chỉ chú ý loại tri thức là những nhận định có tính chất tổng
hợp, khái quát về sự phát triển của văn học ở một thời kì, một giai đoạn,
của một tác giả, một tác phẩm, bài học sẽ khô khan, khó hiểu, nặng lí
thuyết…Hoặc nếu chỉ thiên về những tri thức có tính chất tư liệu, cụ
thể, minh họa thì bài học dễ rời rạc, liệt kê…

Ở lớp 10 , với bài dạy “ Khái quát Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến
hết thế kỉ XIX ( phân phối chương trình tiết 34,35), cụ thể là giai đoạn
nửa cuối thế kỉ XIX, giáo viên giới thiệu cho học sinh một hệ thống tri
thức có tính chất khái quát, định hướng quan trọng về diện mạo của văn
học giai đoạn này, đó là những đặc điểm chính về xã hội, về lịch sử có
ảnh hưởng đến nội dung văn học, sự kế thừa và tính chất thời đại của
một giai đoạn phát triển văn học:
“Văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX ra đời trong bối cảnh người
dân cả nước kiên cường bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm nên
văn học yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX phát triển rất phong phú và nhìn
chung mang âm hưởng bi tráng. Nguyễn Đình Chiểu với những tác
phẩm có giá trị cao như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều y thuật
vấn đáp,… được xem là tác gia văn học yêu nước lớn nhất của giai
đoạn này… Thơ ca trữ tình- trào phúng đạt được những thành tựu xuất
sắc với những sáng tác của Nguyễn Khuyến, Tú Xương- hai tác gia lớn
cuối cùng của văn học trung đại Việt Nam” ( Ngữ văn 10, tập 1, trang
108).
Trên cơ sở đó, học sinh tiếp tục đi vào tìm hiểu những nhận định vừa
cụ thể, vừa khái quát ở cấp độ bài học giới thiệu về tác giả tiêu biểu giai
đoạn nửa cuối thế kỉ XIX là Nguyễn Đình Chiểu (khối 11, phân phối
chương trình tiết 20). Học sinh sẽ được học những kiến thức cụ thể về
hai giai đoạn sáng tác, các tác phẩm chính, nội dung của từng giai đoạn
trong sự nghiệp văn chương của Đồ Chiểu. Cụ thể: “Nguyễn Đình
Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam kì sáng sác chủ yếu
bằng chữ Nôm. Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn:
trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược. Ở giai đoạn đầu: ông viết
hai truyện thơ dài: truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ- Hà Mậu. Đến
giai đoạn sau, gồm nhiều thơ, văn tế: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần
5
Giuộc, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng ” (Ngữ văn 11, tập

1, trang 57).
Ngoài tính chất cụ thể, minh họa cho những nhận định khái quát về
bài học, về giai đoạn văn học nửa cuối thế kỉ XIX, hệ thống tri thức ở
bài Nguyễn Đình Chiểu còn có ý nghĩa khái quát, tổng hợp về giá trị
nội dung, tư tưởng trong những sáng tác của một tác giả. Học sinh cần
được khắc họa số nhận định sau: “ Nguyễn Đình Chiểu viết truyện Lục
Vân Tiên nhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người
chân chính…Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con
người sống nhân hậu, chung thủy, biết giữ gìn nhân cách thẳng ngay,
cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực
bạo tàn, cứu nhân độ thế”; “Khi cuộc chiến tranh của thực dân Pháp
nổ ra, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những tác phẩm đáp ứng xuất
sắc yêu cầu của cuộc chiến đấu giữ nước buổi ấy. Thơ văn yêu nước
chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại chân thật một thời đau
thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của
nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng, nghĩa sĩ
đã chiến đấu, hi sinh vì tổ quốc.” ( Ngữ văn 11, tập 1, trang 57,58)
Với sự kết hợp biện chứng hai loại tri thức khái quát và cụ thể trong
các bài học về giai đoạn văn học và tác giả, học sinh có thể lĩnh hội
được những tri thức cơ bản về sự phát triển của văn học dân tộc ở giai
đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, đồng thời học sinh có thể lí giải được mối
quan hệ giữa hai giai đoạn sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Đó là một
quá trình phát triển vừa liên tục, vừa nâng cao.
b. Phải phát huy năng lực nhận thức của học sinh để hình thành, khắc
họa các nhận định văn học:
Trong quá trình giảng dạy các bài văn học sử, giáo viên cần giúp học
sinh phát hiện, lí giải, ghi nhớ được tri thức trọng tâm. Cần thiết yêu
cầu học sinh đọc bài trước nhằm giúp học sinh nắm được một cách sơ
lược nội dung của bài học. Sự chuẩn bị có tính chất tự giác, tích cực ban
đầu của học sinh có thể được xem là một phần tri thức cũ, là tiền đề, là

cơ sở để giáo viên phát huy tính chất chủ động, tích cực học tập trong
quá trình lĩnh hội bài mới khi lên lớp.
Để có thể khắc họa những kiến thức trọng tâm, giáo viên cần chủ
động đặt ra những tình huống có vấn đề, hướng học sinh suy nghĩ về
những mối liên hệ bên trong của bài học. Từ đó rèn luyện, củng cố
năng lực tư duy tích cực, chủ động, khả năng tìm tòi, phát hiện ở học
sinh.
Trong bài dạy văn học sử có một số tình huống như sau:
- Khi giáo viên đã giới thiệu xong các sự kiện và hiện tượng cụ thể,
yêu cầu học sinh vận dụng khả năng suy luận để rút ra nhận xét khái
quát. Ví dụ: Qua những tác phẩm của Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão,
Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi đã học và đọc thêm, các em có thể rút
ra những nhận xét gì về cảm hứng chủ đạo của văn học giai đoạn này?
6
- Khi cần củng cố tri thức cũ và làm nổi bật tri thức mới, giáo viên
yêu cầu học sinh liên hệ, so sánh nội dung đang học với nội dung đã
học. Khi giảng bài Nguyễn Trãi, có thể đặt câu hỏi sau: Nguyễn Trãi đã
sử dụng rất thành công thể thơ 8 câu 7 chữ và có khi sáng tạo thêm
bằng cách chen vào đôi câu 6 chữ, tạo ra âm điệu mới. Em hãy nêu một
bài thơ hay một câu thơ thể hiện sự sáng tạo đó?
- Khi cần đánh giá tác dụng nhận thức hoặc giáo dục của các hiện
tượng, sự kiện văn học, giáo viên có thể yêu cầu học sinh phát biểu
những suy nghĩ của mình. Chẳng hạn sau khi dạy phần cuộc đời của
Nguyễn Đình Chiểu, giáo viên có thể hỏi: Em có nhận xét gì về cuộc
đời của Nguyễn Đình Chiểu?
Lưu ý: Khi nào thấy xuất hiện tình huống có vấn đề trong hoạt
động nhận thức, giáo viên mới nên đặt câu hỏi. Không nên đưa ra câu
hỏi vụn vặt, vừa không có tác dụng phát triển tư duy của học sinh, vừa
mất thời gian vô ích.
2. Đề xuất một vài phương pháp dạy các kiểu bài văn học sử bậc

trung học phổ thông:
Việc phân loại các kiểu bài văn học sử vẫn chưa thật xác định. Bản
thân sự sắp xếp trật tự các kiểu bài của chương trình sách giáo khoa
trong nhiều năm qua luôn có sự thay đổi.
Căn cứ vào sự hiện diện của các kiểu bài văn học sử trong các sách
ngữ văn trung học phổ thông hiện nay, ta thấy có những kiểu bài sau:
- Kiểu bài khái quát về lịch sử văn học Việt Nam.
- Kiểu bài khái quát về thời kì, về giai đoạn văn học.
- Kiểu bài khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Kiểu bài khái quát về thể loại ( đối với văn học dân gian).
2.1. Kiểu bài khái quát về lịch sử văn học Việt Nam:
a. Đặc điểm:
Đây là bài học đầu tiên trong chương trình ngữ văn ở trung học phổ
thông. Bài học bao gồm những tri thức lịch sử văn học, nhất là về lịch
trình phát triển của toàn bộ văn học Việt Nam. Đó là những nhận định,
những khái niệm về đặc điểm hình thành, phát triển của nền văn học, về
sự phân loại các thành phần cấu tạo của văn học.
b. Phương pháp giảng dạy:
b.1. Bài học phải giúp cho học sinh có cái nhìn tổng quát về lịch sử
văn học Việt Nam. Giáo viên hướng dẫn học sinh ghi chép và nắm
được những nhận định có tính chất khái quát về nguồn gốc, đặc điểm
của văn học, nhất là các nhận định về điều kiện lịch sử xã hội, về quá
trình phát triển nội tại cũng như những đặc điểm phát triển có tính quy
luật khách quan của văn học trong suốt chiều dài lịch sử.
Cụ thể:
- Văn học Việt Nam có một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời.
Nó gắn liền với lịch sử văn học, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc.
7
- Văn học Việt Nam có hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết,

tồn tại song song, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
- Văn học Việt Nam là một nền văn học đa dân tộc, vừa mang những
nét bản sắc dân tộc độc đáo, riêng biệt, vừa tiếp thu những tinh hoa của
dân tộc, cộng đồng văn học thế giới, ngày càng phát triển đầy đủ, phong
phú.
- Văn học Việt Nam có những đặc điểm mang ý nghĩa truyền thống,
nổi bật là tư tưởng nhân đạo và yêu nước.
b2. Qua bài giảng, giáo viên cần giúp học sinh hiểu và nắm một số
khái niệm đầu tiên, cơ bản của bài văn học sử đó: những khái niệm
về thời kì văn học, giai đoạn văn học, bộ phận văn học, về giá trị nội
dung, hình thức, về khái niệm yêu nước, nhân đạo…
Cụ thể :
 Thời kì văn học: chỉ một khoảng thời gian phát triển nhất định xảy ra
những hiện tượng, sự kiện văn học dưới sự ảnh hưởng, tác động của
những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định.
Căn cứ vào đặc điểm phát triển của văn học Việt Nam, người ta chia
bộ phận văn học viết ở nước ta qua ba thời kì phát triển:
- Thời kì thứ nhất: đầu thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, còn được gọi là
thời kì văn học trung đại.
- Thời kì thứ hai: từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng 8-1945, còn
được gọi là văn học cận đại.
- Thời kì thứ ba: từ Cách mạng tháng 8-1945 đến hết thế kỉ XX, còn
được gọi là văn học hiện đại.
 Giai đoạn văn học: là khoảng thời gian phát triển nhỏ hơn, ngắn hơn
so với thời kì văn học. Theo đó thời kì thứ nhất của văn học có 4 giai
đoạn:
+ Giai đoạn từ thế kỉ XX- hết thế kỉ XIV.
+ Giai đoạn từ thế kỉ XV- hết thế kỉ XVII.
+ Giai đoạn thế kỉ XVII – nửa đầu thế kỉ XIX
+ Giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX

-Thời kì thứ hai có 3 giai đoạn:
+Đầu thế kỉ XX-khoảng năm 1920
+Khoảng năm 1920-năm 1930
+Khoảng từ năm 1930-1945
-Thời kì thứ ba trải qua 2 giai đoạn:
+Cách mạng tháng 8 -1945-1975
+1975-hết thế kỷ XX
 Bộ phận văn học: Là khái niệm chỉ các hiện tượng văn học có
chung đặc điểm hình thành và lịch trình phát triển. Chẳng hạn: “Văn
học Việt Nam bao gồm các sáng tác ngôn từ với hai bộ phận lớn có
quan hệ mật thiết với nhau: văn học dân gian và văn học viết” (Ngữ
văn 10, tập 1, trang 5)
8
Lưu ý:Nên xóa bỏ định kiến học sinh THPT chưa đủ trình độ để tiếp
nhận kiến thức khái quát về văn học.Thực tế, học sinh THPT đã có hơn 8
năm học văn học ở nhà trường. Khối lương đọc sách ngoài trường không
phài là nhỏ.Đó là chưa nói đến trí tuệ học sinh ngày nay đã khác nhiều.
Giáo viên không thể coi nhẹ việc tân dụng kiến thức THCS trong tiến trình
giảng dạy văn học sử ở THPT.
2.2. Kiểu bài khái quát về thời kì, giai đoạn văn học:
a. Đặc điểm: Kiểu bài này giới thiệu khối lượng lớn về tư liệu và nhận
định văn học sử có tính chất tổng hợp, khái quát cao. Chẳng hạn ở bài
“Khái quát Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX”, học sinh
được giới thiệu một dung lượng tri thức lớn về diện mạo của văn học dân
tộc trong suốt 9 thế kỉ. Đó là những nhận định về lịch sử phát triển của nền
văn học trung đại; sự hình thành chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ qua các
giai đoạn, các thể loại văn học như hịch, cáo, thơ, văn xuôi, truyện thơ
Nôm, kịch, tuồng…
Một đặc điểm quan trọng của kiểu bài khái quát về thời kì, giai đoạn
văn học là hai phần nội dung của bài, bao gồm bối cảnh lịch sử và tình

hình văn học luôn luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tri thức của
mỗi phần trong bài giảng luôn hướng vào nhau, quy định nhau.
b. Phương pháp giảng dạy:
b.1. Giáo viên cần nắm vững cấu tạo và mối quan hệ giữa các phần
trong bài giảng, định hướng kiến thức, lựa chọn dẫn chứng sao cho làm
nổi bật sự liên kết, chi phối giữa bối cảnh lịch sử và tình hình văn học, giữa
nội dung và hình thức của văn học trong một giai đoạn
 Khi trình bày phần bối cảnh lịch sử, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh chú ý các biến cố lịch sử, kinh tế, chính trị có ý nghĩa là nguyên nhân
trực tiếp (hay gián tiếp) của sự hình thành, phát triển của hiện tượng văn
học. Muốn vậy, giáo viên cần phải đưa ra một số câu hỏi nêu vấn đề, từ đó
khắc họa những nội dung chính về lịch sử và văn học.
Ví dụ 1:
- Khi dạy về giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, giáo viên cần cho
học sinh chú ý những biến cố, sự kiện lịch sử quan trọng sau: “Dân tộc ta
giành được quyền độc lập tự chủ vào cuối thế kỉ X, lập nhiều kì tích trong
các cuộc kháng chiến chống xâm lược (chống quân Tống thế kỉ XI, chống
quân Mông-Nguyên thế kỉ XIII). Sau cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc là
công cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình. Chế độ phong kiến Việt Nam
nhìn chung đang ở thời kì phát triển”. (Ngữ văn 10, tập 1, trang 105).
- Khi dạy về giai đoạn từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII, giáo viên cần
nhấn mạnh ở hoàn cảnh lịch sử: “Nhân dân ta tiếp tục làm nên kì tích
trong cuộc kháng chiến chống quân Minh ở nửa đầu thế kỉ XV, đưa chế độ
phong kiến Việt Nam đạt tới đỉnh cao cực thịnh ở nửa cuối thế kỉ đó. Bước
9
sang thế kỉ XVI, tuy chế độ phong kiến đã có những biểu hiện khủng hoảng
dẫn đến nội chiến và đất nước bị chia cắt, song nhìn chung tình hình xã
hội vẫn ổn định.” (Ngữ văn 10, tập 1, trang 106).
- Hoặc cho học sinh ghi nhớ đặc điểm của xã hội Việt Nam giai đoạn từ
thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX: “Trong hoàn cảnh đất nước có nhiều

biến động bởi nội chiến phong kiến và bão táp của phong trào nông dân
khởi nghĩa mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Chế độ phong kiến đi từ
khủng hoảng đến suy thoái. Cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ đã cùng một lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến Đàng Trong
(chúa Nguyễn), Đàng Ngoài (vua Lê, chúa Trịnh), đánh tan các cuộc xâm
lược của quân Xiêm ở phía Nam, quân Thanh ở phía Bắc. Phong trào Tây
Sơn suy yếu, triều Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến chuyên chế và đất
nước nằm trước hiểm họa xâm lăng của thực dân Pháp”. (Ngữ văn 10,
tập 1, trang 107).
- Khi dạy bối cảnh lịch sử giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, giáo viên cần làm
rõ một số nội dung cơ bản sau: “Thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt
Nam. Nhân dân cả nước kiên cường bất khuất đứng lên chống giặc ngoại
xâm. Nhưng rồi đất nước dần rơi vào tay giặc. Xã hội Việt Nam chuyển
dần từ xã hội phong kiến sang thực dân nửa phong kiến. Văn hóa phương
Tây bắt đầu có những ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam.” (Ngữ văn
10, tập 1, trang 108).
Ví dụ 2: Ở bài “Khái quát về văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng 8 -1945” (Khối 11, phân phối chương trình tiết 32), giáo viên
cần khắc họa cho được những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu xã hội Việt
Nam từ khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa về mặt kinh tế. Đó
là những đặc điểm nội dung:
- Một số thành phố công nghiệp ra đời, đô thị, thị trấn mọc lên ở nhiều nơi.
- Những giai cấp, tầng lớp xã hội mới: tư sản, tiểu tư sản, công nhân, dân
nghèo thành thi, xuất hiện ngày càng đông đảo.
- Một lớp công chúng có đời sống tinh thần và thị hiếu mới đã hình thành,
đòi hỏi một thứ văn chương mới.
- Văn hóa Việt Nam bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây
(văn hóa Pháp).
- Hoạt động kinh doanh văn hóa với những hình thức: in, xuất bản, làm
báo theo kĩ thuật hiện đại phát triển khá mạnh.

Những điều kiện về kinh tế, xã hội trên giúp học sinh hiểu được vì sao văn
học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 là văn học của thời kì hiện
đại hóa.
10
 Trong phần tình hình văn học, giáo viên cần nêu ra những đặc điểm của
văn học về nội dung, đề tài, hệ thống các tác giả, tác phẩm tiêu biểu, mối
quan hệ giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật…
Ví dụ 1:
- Văn học từ thế kỉ X đến hết thể kỉ XIV mang dấu ấn đậm nét của bối
cảnh lịch sử , xã hội cho nên nội dung chủ đạo trong sáng tác của giai đoạn
văn học này chủ yếu là nội dung yêu nước với âm hưởng hào hùng. “Các
tác phẩm như “Vận nước” của Pháp Thuận, “Chiếu dời đô” của Lý Công
Uẩn, “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt đã mở đầu cho dòng văn
học yêu nước. Những tác phẩm như “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn,
“Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão,
“Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu,… tiêu biểu cho nội dung
yêu nước mang hào khí Đông A.” (Ngữ văn 10, tập 1, trang 105, 106).
- Giáo viên có thể đặt câu hỏi để làm nổi bật đặc điểm văn học từ thế kỉ
XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Ra đời trong một hoàn cảnh “xã hội phong
kiến bị khủng hoảng trầm trọng” nhưng văn học giai đoạn này lại “phát
triển rực rỡ nhất trong quá khứ.” “Văn học phát triển mạnh cả về văn xuôi
và văn vần, cả chữ Hán và chữ Nôm. “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần
Côn, “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương, thơ
Bà huyện Thanh Quan, “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia Văn
Phái… Nguyễn Du với các tập thơ chữ Hán và đặc biệt là kiệt tác “Truyện
Kiều” được coi là đỉnh cao nhất của văn học trung đại Việt Nam. Thơ văn
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… vẫn tiếp tục tinh thần nhân đạo truyền
thống.” (Ngữ văn 10, tập 1, trang 107).
Ví dụ 2: Về những đặc điểm cơ bản của văn học từ đầu thế kỉ XX
đến năm 1945, bài dạy cần làm rõ những nội dung:

- Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng 8 - 1945 đã diễn ra qua 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Từ đầu thế kỉ XX - khoảng năm 1920
+ Giai đoạn 2: Khoảng từ năm 1920 – năm 1930
+ Giai đoạn 3: Khoảng từ năm 1930 – năm 1945
- Sự phân hóa thành nhiều xu hướng văn học khác nhau. Đại thể chia thành
2 bộ phận:
+ Bộ phận văn học công khai – phân hóa thành 2 xu hướng chính:
 Văn học lãng mạn với các tác giả: Tản Đà, các nhà thơ mới, Hoàng Ngọc
Phách, Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam…
 Văn học hiện thực với các tên tuổi: Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao…
- Bộ phận văn học không công khai, gồm:
11
 Thơ văn cách mạng bí mật, thơ ca trong tù với một số tác giả: Nguyễn Ái
Quốc, Tố Hữu, Sóng Hồng…
 Thơ văn nửa hợp pháp gồm thơ văn vô sản thời kì Mặt trận dân chủ
Đông Dương 1935 – 1939 như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng
- Văn học thời kì này có nhịp độ phát triển hết sức nhanh chóng, do 3
nguyên nhân:
+ Do sự thúc bách của thời đại
+ Sự vận động tự thân của nền văn học dân tộc
+ Sự thức tỉnh, trổi dậy mạnh mẽ của cái tôi cá nhân
Về thành tựu văn học của thời kì này, bên cạnh việc cho học sinh tìm
hiểu, làm việc với sách giáo khoa, giáo viên cần làm rõ:
- Văn học từ đầu thế kỉ XX đến 1945 một mặt tiếp tục phát huy những
truyền thống tư tưởng lớn của văn học dân tộc các thời kì trước như lòng
yêu nước, tinh thần nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng, mặt khác, văn học
thời kì này có những đóng góp mới. Đó là truyền thống yêu nước gắn liền

với tinh thần dân chủ. Lòng nhân đạo trong văn học thời kì này gắn liền
với sự thức tỉnh về ý thức cá nhân, sự đấu tranh với luân lý, lễ giáo phong
kiến, sự thấm thía về nỗi thống khổ của con người trong xã hội thực dân…
- Thành tựu thứ hai của văn học thời kì này gắn liền với kết quả phát triển
của các thể loại và ngôn ngữ văn học, Đó là sự phát triển mạnh mẽ của
truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ với nhiều tên tuổi: Hồ Biểu Chánh, Khái
Hưng, Nhất Linh, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam
Cao, Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Hàn Mặc Tử…
Lưu ý: Sau các bài lịch sử văn học ở các thời kì, giáo viên cần thiết cho
học sinh ôn tập các nội dung cơ bản sau:
- Tiến trình phát triển của văn học trong thời kì.
- Các giai đoạn, các chặng phát triển của văn học.
- Đặc điểm của bối cảnh lịch sử cả thời kì, từng giai đoạn.
- Đặc điểm nội dung, hình thức của văn học.
- Hệ thống các tác giả, tác phẩm chính…
b.2. Bên cạnh việc khắc họa một hệ thống tri thức cơ bản về lịch sử phát
triển của văn học trong từng giai đoạn, giáo viên cần chú ý coi trọng các
kết luận, các đánh giá về vị trí của từng giai đoạn, thời kì trong toàn
bộ quá trình phát triển của văn học dân tộc. Đó là những kết luận, nhận
định hết sức khách quan, tổng hợp, được diễn đạt vừa logic, khoa học, vừa
biểu cảm, hàm súc, có tác dụng giúp học sinh hiểu được một cách toàn
diện về đặc điểm, vị trí của văn học từ khi hình thành, phát triển, kết thúc.
Các kết luận cũng còn là những đề bài làm văn nghị luận cho học sinh.
Ví dụ 1: Giai đoạn văn học từ thế kỉ X - hết thế kỉ XIX: “Văn học
chữ Nôm đặt những viên gạch đầu tiên trên con đường phát triển của văn
12
học viết bằng ngôn ngữ dân tộc với một số bài thơ, bài phú Nôm” (Ngữ
văn 10, tập 1, trang 106). Hoặc giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX: “Thơ ca trữ
tình – trào phúng đạt được những thành tựu xuất sắc với những sáng tác
của Nguyễn Khuyến, Tú Xương – hai tác giả lớn cuối cùng của văn học

trung đại Việt Nam” (Ngữ văn 10 , tập 1, trang 108)
Ví dụ 2: “Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng
8 – 1945 có vị trí hết sức quan trọng trong toàn bộ tiến trình văn học dân
tộc: kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc trong suốt 10 thế kỉ, đồng thời
mở ra một thời kì văn học mới - thời kì văn học hiện đại, có khả năng hội
nhập với nền văn học của thế giới.” (Ngữ văn 11, tập 1, trang 90).
Ví dụ 3: Khi đánh giá toàn diện về thời kì văn học Việt Nam từ 1945
– 1975, giáo viên cần lưu ý học sinh một số nét sau đây: “Văn học Việt
Nam từ 1945 – 1975 đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những truyền thống
tư tưởng lớn của văn học dân tộc: chủ nghĩa nhân đạo, đặc biệt là chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hung. Văn học giai đoạn này cũng đạt
được nhiều thành tựu về nghệ thuật ở nhiều thể loại, đặc sắc hơn cả là thơ
trữ tình và truyện ngắn.
Văn học Việt Nam từ năm 1945 – 1975 phát triển trong một hoàn
cảnh hết sức khó khăn, vì thế, bên cạnh những thành tựu to lớn cũng còn
một số hạn chế… Tuy vậy, thành tựu của văn học giai đoạn này là cơ bản
và to lớn.” (Ngữ văn 12, tập 1, trang 17).
2.3 Kiểu bài khái quát về tác giả, tác phẩm:
a. Đặc điểm: Đây là kiểu bài dạy ngay sau bài khái quát về giai đoạn văn
học. Sự xuất hiện của tác giả văn học, nhất là những tác phẩm tiêu biểu
đánh dấu sự phát triển của một thời kì, một giai đoạn văn học. Bằng lao
động nghệ thuật, những nhà văn, nhà thơ, đặc biệt là những nhà văn, nhà
thơ thiên tài đã góp phần hình thành hoặc hoàn thiện một thể loại, một
khuynh hướng.
Ví dụ 1: “Quốc âm thi tập” gồm 254 bài, là tập thơ Nôm sớm nhất
hiện còn. Với tập thơ này, Nguyễn Trãi là một trong những người đặt nền
móng và mở đường cho sự phát triển của thơ Tiếng Việt.” (Ngữ văn 10,
tập 1, trang 117).
Ví dụ 2: Về “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Trên một nền tảng
nhân đạo chủ nghĩa vững chãi, với tài năng điêu luyện, với sự lựa chọn thể

loại truyện thơ kết hợp nhuần nhuyễn cả chất tự sự và chất trữ tình, với sự
am hiểu đồng thời cả ngôn ngữ bình dân cũng như ngôn ngữ văn học bác
học, Nguyễn Du đã sáng tạo nên một kiệt tác độc nhất vô nhị của văn học
trung đại Việt Nam.” (Ngữ văn 10 , tập 2 , trang 96).
Ví dụ 3: Trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, đặc biệt
là với “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”: “Có thể nói, lần đầu tiên trong văn
học dân tộc, người nông dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm đã được dựng một
bức tượng đài nghệ thuật bất tử.” (Ngữ văn 11, tập 1, trang 60).
b.Phương pháp giảng dạy :
13
b.1. Khi giảng dạy bài tác giả, giáo viên cần đảm bảo hai nội dung
sau:tiểu sử và sự nghiệp sáng tác.
 Ở phần tiểu sử:không nên giảng dạy theo lối trình bày sơ yếu lí lịch mà
cần thiết làm nổi bật những chi tiết cụ thể trong cuộc đời tác giả về quê
hương, gia đình, bản thân.Bên cạnh đó, giáo viên cần làm rõ mối quan hệ
giữa hoàn cảnh lịch sử, đặc diểm thời đại với cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác của nhà văn, nhà thơ.Từ đó giúp học sinh nắm và hiểu được phần nào
số phận, nhân cách của nhà văn,nhà thơ;cao hơn, học sinh có thể tự nhận
xét, đánh giá và rút ra những bài học về lẽ sống,nhân cách,nghị lực và khả
năng sáng tạo của nhà văn,nhà thơ
Ví dụ 1:Cụ thể như trong bài Nguyễn Trãi (khối 10,phân phối chương trình
tiết 59), ngoài những tri thức về gia đình,bản thân của nhà thơ,học sinh cần
chú ý đặc điểm cuộc đời của Nguyễn Trãi trước và sau cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn,nhất là từ sau năm 1407,khi đất nước ta bị giặc Minh xâm lược,
Nguyễn Trãi không chỉ chịu chung cảnh ngộ của một người dân mất nước
mà cả gia đình của ông cũng bị tan nát,chia lìa:cha và em bị bắt,bị lưu đày
sang Trung Quốc.Nghe lời cha,Nguyễn Trãi nén đau thương ở lại quê
hương, bị giặc bắt rồi trốn khỏi tay giặc,10 năm ông náu mình trong nhân
dân, hiểu được đời sống của nhân dân, thấm thía sức mạnh của dân. Ông
tìm theo Lê Lợi, có những đóng góp to lớn vào chiến thắng vẻ vang của

dân tộc.
Đầu năm 1428,quét sạch quân thù ,Nguyễn Trãi hăm hở bắt tay vào
xây dựng đất nước nhưng ông bị nghi oan,bị bắt giam.Buồn chán, năm
1439, Nguyễn Trãi xin vế ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1400, bị bọn gian thần
ghép vào tội giết vua và phải chịu án tru di tam tộc-một vụ án được xem là
oan khốc nhất trong lịch sử Xã hội phong kiến ở Việt Nam.
Bài học lớn nhất từ cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi cần được
học sinh cảm nhận là lòng yêu nước,thương dân sâu sắc,là nhân cách,tiết
tháo của một tâm hồn cao thượng, trong sáng, suốt đời vì nước, vì dân.
Ví dụ 2 : Khi dạy về Nguyễn Du (khối 10 phân phối chương trình tiết
81,82),các chi tiết quan trọng trong cuộc đời Nguyễn Du về quê hương,gia
đình, bản thân, cần xoay quanh hai mốc chính:
-Thời Nguyễn Du phải sống trong cảnh lưu lạc nhiều nơi.
-Thời Nguyễn Du ra làm quan với nhà Nguyễn.
Nói đến Nguyễn Du là nói đến tư tưởng nhân đạo cao cả,sâu sắc,lòng
yêu thương con người là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt trong tất cả các
sáng tác của Nguyễn Du,đăc biệt là ở “Truyện Kiều”
 Khi giảng về sự nghiệp sáng tác:Giáo viên nên lần lượt giới thiệu các
giai đoạn trong quá trình lao động sáng tạo của nhà văn,nhà thơ với những
đặc điểm cụ thể, rõ ràng:giới thiệu hệ thống các tác phẩm chính,các hình
tượng nhân vật đặc sắc.Trên cơ sở đó, giáo viên kết hợp nêu lên những
nhận định về quan niệm nghệ thuật,phong cách sáng tác của tác giả.Có thể
phối hợp linh hoạt phương pháp kể chuyện có nghệ thuật và bình giảng
14
hoăc diễn giải. Khi bình giảng tác phẩm của nhà văn, nhà thơ, giáo viên
nên chú ý đặc điểm về thể loại:
-Nếu là thơ:chú ý giới thiệu bức tranh tâm trạng,cảm xúc. Nên dừng lại
bình sâu ở một đoạn, một khổ đặc sắc
-Nếu là truyện ngắn, tiểu thuyết:nên kể tóm tắt cốt truyện, đặc điểm tính
cách của nhân vật chính, tuyến nhân vật …

Ví dụ : Ở bài Nguyễn Đình Chiểu (khối 11 phân phối chương trình tiết
20),giáo viên cần khắc họa một số nội dung cơ bản,trọng tâm về hai giai
đoạn sáng tác:
-Trước khi thực dân Pháp xâm lược: Nguyễn Đình Chiểu viết hai truyện
thơ dài : truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ Hà Mậu đều nhằm mục đích
truyến bá đạo lí làm người.
Về truyện Lục Vân Tiên có hai tuyến nhân vật :
+Lục Vân Tiên,Kiều Nguyệt Nga,Hớn Minh,Tử Trực,Tiểu Đồng… đại
diện cho “giấc mơ lớn”của tác giả “về một cuộc đời tốt đẹp,có những con
người tốt đẹp theo đạo lí nhân dân”.
+Những nhân vật phản diện xấu xa:Thể Loan,Trịnh Hâm,Bùi Kiệm…sống
bất nhân phi nghĩa. Muốn cuộc đời tốt đẹp phải tiêu diệt chúng
-Sau khi thực dân Pháp xâm lược:Nguyễn Đình Chiểu viết nhiều thơ,văn
tế,gọi chung là thơ văn yêu nước chống Pháp:
+Giặc Pháp đánh Gia Định, Đồ Chiểu viết “Chạy Tây”
+Giặc mới đặt chân lên Nam Bộ, Đồ Chiểu đã xúc động biểu dương
những người dân ấp dân lân,chân đất tay không xông lên giết giặc trong
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
+Khi triều đình hàng giặc bắt người kháng chiến buông gươm,trang văn
Đồ Chiểu hiên ngang những Trương Định,Phan Tòng
b.2. Khi giới thiệu về tác phẩm tiêu biểu mà học sinh sẽ học trích đoạn
đọc văn sau này, giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu về hoàn cảnh xã
hội,hoàn cảnh cuộc sống của nhà văn,nhà thơ khi sáng tác; nêu rõ
nguồn gốc,xuất xứ,sự sáng tạo của nhà văn,nhà thơ… Giáo viên cần nêu
bật những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm,giúp học
sinh đánh giá ý nghĩa,tác dụng,vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp sáng
tác của tác giả,trong quá trình phát triển của văn học dân tộc. Giáo viên có
thể vận dụng phối hợp nhiều biện pháp:yêu cầu học sinh đọc, tóm tắt,
phát hiện những đặc điêm nội dung,nghệ thuật, ghi nhớ hệ thống các nhân
vật,thể loại của tác phẩm …

Ví dụ:khi dạy phần “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (Khối 10,phân
phối chương trình tiết 81,82), giáo viên cần khắc họa một sồ nội dung cơ
bản về:
-Tên gọi,nguồn gốc và quá trình sáng tác của Nguyễn Du trong “Truyện
Kiều”. Chú ý nhận định quan trọng về nguyên nhân thành công của tác
phẩm: “Truyện Kiều được sáng tác trên cơ sở cốt truyện của tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc “Kim Vân Kiều truyện”.Tuy nhiên, Nguyễn Du đã
sáng tạo nên một tác phẩm mới,với cảm hứng mới,nhận thức lí giải nhân
15
vật theo cách của riêng ông với thể loại truyện thơ khác hẳn “Kim Vân
Kiều truyện” là tác phẩm tự sự văn xuôi” (Ngữ văn 10, tâp 1,trang 94).
Nhận định có tính chất khái quát, tổng hợp về ý nghĩa, vai trò sáng tạo
của tác giả Truyện Kiều là nôi dung tri thức văn học sử cơ bản giúp học
sinh nâng cao những kiến thức cụ thể đã học về Truyện Kiều ở THCS
thành những nhận thức khái quát, tổng hợp và toàn diện hơn về tác giả, tác
phẩm.
-Nội dung thứ hai cần được khắc họa trong bài dạy về Nguyễn Du và
“Truyện Kiều” là cho học sinh tái hiện lại cốt truyện với những tình tiết,
biến cố xoay quanh nhân vật Thúy Kiều và tiếp tục khẳng định ý nghĩa
khái quát của cốt truyện ấy:
“Nhà thơ triết lí với nỗi đau về thân phận bất hạnh của người phụ
nữ trong xã hội cũ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Ông khái quát bản chất tàn bạo và bộc lộ sự phẫn nộ đối với xã hội
phong kiến”. (Ngữ văn 10, tâp 2, trang 95)
-Giáo viên cần giúp học sinh lần lượt phát hiện hai giá trị nổi bật của
“Truyện Kiều”:
+Về nội dung:
 Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” là cảm hứng về

thân phận con người.
 “Truyện Kiều” là bản cáo trạng đanh thép lên án tất cả những lực lượng
chà đạp con người (bao gồm bọn quan lại,sai nha phong kiến, bọn người
xấu, bất lương….và có lẽ mạnh hơn cả là thế lực đồng tiền)
+Về nghệ thuật: “Truyện Kiều” đã đạt đến một thành tựu rực rỡ:
 Về ngôn ngữ: góp phần trau dồi ngôn ngữ văn học dân tộc.
 Về thể loại: thể thơ lục bát được vận dụng nhuần nhuyễn.
 Nghệ thuật dẫn truyện và nghệ thuật miêu tả, đặc biệt là miêu tả nội tâm
nhân vật, nhất là nội tâm của nhân vật Thúy Kiêu.
Với những hiểu biết về tình cảm của nhân vật Thúy Kiều qua các bài
đọc văn ở THCS như Mã Giám Sinh mua Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích,
Kiều báo ân báo oán…học sinh sẽ có điều kiện hơn khi phân tích tâm trạng
éo le, phức tạp, tinh tế, sâu sắc của nhân vật qua các bài đọc văn sẽ học
như Trao duyên, Nỗi thương mình…Như vậy từ tri thức cụ thể về “Truyện
Kiều” ở THCS đến những tri thức khái quát về Nguyễn Du, về “Truyện
Kiều” ở THPT,quá trình nhận thức của học sinh về tác giả, tác phẩm là quá
trình từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lí tính, từ tư duy cụ thể đến tư
duy trừu tượng
2.4. Kiểu bài khái quát về thể loại(đối với văn học dân gian)
a. Đặc điểm: Ở bài khái quát này (Khái quát văn học dân gian Việt Nam ,
khối 10, phân phối chương trình tiết 4) học sinh được tìm hiểu về quá trình
phát sinh, phương thức sáng tác và lưu truyền,những đặc điểm về ngôn ngữ
, nghệ thuật và các thể loại văn học dân gian
16
b.Phương pháp giảng dạy:
Phương pháp dạy bài đại cương văn học dân gian có thể xem như
phương pháp dạy bài về thời kì,giai đoạn văn học
b1. Giáo viên cần giúp học sinh tìm hiểu và nắm được nguồn gốc của
văn học dân gian- một hình thức văn học ra đời, phát triển từ thời xã hội
công xã nguyên thủy. Lúc đó xã hội chưa phân hóa thành các giai cấp khác

nhau nên văn học dân gian là của toàn xã hội. Lúc đó cũng chưa có chữ
viết nên toàn xã hội cũng chỉ có một hình thức văn học duy nhất đó là văn
học truyền miệng. Chính điều kiện công xã nguyên thủy đã quy định tính
chất chung của văn học dân gian là tính truyền miệng và tính tập thể.
b2. Học sinh cần hiểu được mối quan hệ giữa hoàn cảnh lịch sử xã hội
nguyên thủy cổ xưa với những đặc điểm về ngôn ngữ và phương pháp
nghệ thuật của văn học dân gian để từ đó nắm được những giá trị cơ bản
của bộ phận văn học đầu tiên này.
- Văn học dân gian thể hiện cách cảm, cách nghĩ, cách phản ánh của con
người Việt Nam thời công xã nguyên thủy.
- Cách cảm, cách nghĩ và cách phản ánh ấy gắn liền với tín ngưỡng, với các
yếu tố thần linh, siêu nhiên.
b3. Ở phần giới thiệu về thể loại, giáo viên cần nắm vững mục đích, yêu
cầu chung, đặc điểm của từng thể loại; từ đó giúp học sinh hiểu và ghi
nhớ các khái niệm, định nghĩa của mỗi thể loại. Dựa vào sách giáo
khoa, học sinh cần tìm hiểu và minh họa được các chủ đề chính của thần
thoại, sử thi…, đặc điểm nội dung, nghệ thuật của cổ tích, của ca dao…
V. Thực nghiệm sư phạm:
- Trường thực nghiệm: Trung học phổ thông Long Khánh- Đồng Nai.
- Bài thực hiện: Tác giả Hồ Chí Minh ( khối 12, phân phối chương trình
tiết 4).
- Hình thức thực nghiệm: học sinh luyện tập - làm bài tập 1 trang 29.
- Lớp thực nghiệm 12A9, sĩ số 38 học sinh, hiện diện làm bài 38/38.
- Lớp đối chứng: 12A3, sĩ số 38 học sinh, hiện diện làm bài 38/38.
 Bảng kết quả thực nghiệm:
Lớp thực nghiệm (12A9) Lớp đối chứng (12A3)
Tần số (f) % Tần số (f) %
Giỏi (9-10 điểm) 8 21.0 6 15.8
Khá (7-8 điểm) 25 65.8 22 57.9
Trungbình (5-6 điểm) 5 13.2 10 26.3

Yếu (3-4 điểm) 0 0 0 0
Kém ( <3 điểm) 0 0 0 0
Nhìn chung, kết quả thu được từ hai lớp này khá cao, các em có
hứng thú đối với bài học, mức độ tiếp thu bài nhanh, có hiệu quả; Học sinh
đạt điểm khá, giỏi chiếm tỉ lệ lớn, đặc biệt không có học sinh có điểm yếu,
kém. Lớp thực nghiệm có kết quả cao hơn lớp đối chứng.
17
C. KẾT LUẬN:
I. Bài học kinh nghiệm:
Mỗi kiểu bài văn học sử có yêu cầu, nội dung và phương pháp giảng
dạy khác nhau. Để bài dạy thành công, giáo viên cần nắm vững đặc
18
điểm tâm sinh lí, trình độ, năng lực nhận thức của học sinh để có thể
chủ động vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy phù hợp, hiệu
quả.
Giáo viên cần thiết đọc và nghiên cứu sách giáo khoa, cần xác định cho
được:
- Vị trí của bài sẽ dạy trong chương trình.
- Mục đích yêu cầu về kiến thức, kĩ năng; về tư tưởng, tình cảm.
- Hệ thống tri thức cơ bản, trọng tâm.
- Lựa chọn cách thức, phương pháp trình bày trong giáo án sao cho đầy
đủ, sáng rõ, chính xác, khoa học và hệ thống.
Ngoài ra, giáo viên cần sưu tầm, tìm hiểu các tài liệu tham khảo có
liên quan đến nội dung bài giảng để có những hiểu biết phong phú, sâu sắc;
có khả năng phân tích, lí giải, chứng minh một cách đầy đủ, sáng tỏ các
nhận định có tính chất khái quát của bài.
Bản lĩnh sư phạm và năng lực sáng tạo của giáo viên trong giờ dạy văn học
sử được thể hiện một cách đầy đủ, thuyết phục trong việc bảo đảm tiến
trình giảng dạy một khối lượng nội dung bao gồm nhiều loại tri thức trong
một thời lượng nhất định, hạn chế. Nhiều vấn đề vừa có ý nghĩa phương

pháp, vừa là nội dung mà giáo viên phải suy nghĩ: cần bắt đầu bài giảng
như thế nào để thu hút sự chú ý của học sinh? Nên sử dụng phương pháp
giảng dạy nào cho thích hợp để làm nổi bật trọng tâm? Nên đặt ra những
câu hỏi nào và trong những trường hợp nào để kích thích sự suy nghĩ, tìm
tòi, sáng tạo của học sinh? Nên dùng những hình thức kiểm tra nào để vừa
củng cố tri thức, vừa phục vụ cho việc tiếp thu bài mới? Nên trình bày
bảng như thế nào cho có hiệu quả ?
Có thể nói đó là cả một quá trình lao động trí óc căng thẳng. Nó đòi
hỏi giáo viên phải có sự tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo, đặc biệt là thái độ
lao động trong sự nghiêm túc, cẩn thận, chu đáo với tinh thần trách nhiệm
cao.
II. Một vài kiến nghị:
Vài năm gần đây, Sở giáo dục quan tâm nhiều đến chất lượng giảng
dạy bộ môn Ngữ văn, tổ chức các lớp bồi dưỡng, nhưng hầu như các
chuyên đề bồi dưỡng chỉ tập trung vào phân môn đọc văn, chưa có chuyên
đề về văn học sử. Vì vậy, tôi có một vài kiến nghị nhỏ:
+ Nếu có thể, Sở giáo dục nên tổ chức các chuyên đề về phân môn này để
giúp giáo viên dạy tốt hơn.
+ Bộ giáo dục và đào tạo bố trí tăng cường các giờ văn học sử để việc dạy
và học phân môn này đạt hiệu quả đúng với tầm quan trọng của nó trong
thực tế giáo dục và cuộc sống.
Trên đây là một vài kinh nghiệm về phương pháp dạy các kiểu bài
văn học sử bậc trung học phổ thông được rút ra trong quá trình giảng dạy
và học tập nâng cao trình độ chuyên môn phân môn văn học sử trong nhà
trường. Kính mong được sự góp ý của đồng nghiệp. Trân trọng cảm ơn.

19
Long Khánh, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Người trình bày
Châu Thị Hồng Hoa

Tài liệu tham khảo chính:
1. Sách ngữ văn 10, 11, 12 (Nhà xuất bản Giáo dục).
2. Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn- Phan Trọng Luận (Nhà xuất
bản Giáo dục Hà Nội).
20
3. Các nhà văn nói về văn- Nguyễn Đăng Mạnh (Tác phẩm mới, Hà Nội).
4. Phương pháp dạy học văn- Phan Trọng Luận ( Nhà xuất bản đại học
quốc gia Hà Nội).
Giáo án thực nghiệm:
Tiết 4: TÁC GIẢ HỒ CHÍ MINH
I. Mức độ cần đạt:
21
Nắm được những nét khái quát nhất về sự nghiệp văn học của Hồ
Chí Minh.
II. Trọng tâm kiến thức, kĩ năng:
1. Kiến thức: khái quát về quan điểm sáng tác và phong cách nghệ
thuật của Hồ Chí Minh
2. Kĩ năng: Vận dụng kiến thức về quan điểm sáng tác và phong cách
nghệ thuật của Hồ Chí Minh để phân tích thơ văn của Người.
III. Tiến trình dạy học:
1. Ổn định lớp:
2. Kiểm tra:
a. Bài cũ: Trình bày những đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ
Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.
b. Chuẩn bị bài mới: Giáo viên kiểm tra vở soạn của học sinh.
3. Bài mới:
Hoạt động của giáo viên và học
sinh
Nội dung bài học
GV: Học sinh đọc phần tiểu dẫn

Sách giáo khoa trang 32:
Tóm tắt vài nét về cuộc đời Hồ Chí
Minh
+Sinh: 1890.
+ Quê: Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ
An.
+ 1911: ra đi tìm đường cứu nước,
có nhiều hoạt động tích cực ở nước
ngoài.
+ 1941: về nước lãnh đạo phong
trào Cách mạng
+2/9/1945: Đọc “Tuyên ngôn độc
lập”, khai sinh nước Việt Nam mới.
+ Là lãnh tụ Đảng, chủ tịch nước
cho đến khi từ trần (2/9/1969).
GV:Em có nhận xét gì về cuộc đời
Hồ Chí Minh?
GV:Em hãy trình bày ba quan điểm
sáng tác của Hồ Chí Minh ?
Học sinh cùng bàn trao đổi để trả
I. Tìm hiểu chung:
1. Tiểu sử:
Hồ Chí Minh (1890-1969) gắn
bó trọn đời với dân, với nước, với
sự nghiệp giải phóng dân tộc của
Việt Nam và phong trào cách mạng
thế giới, là lãnh tụ cách mạng vĩ
đại; một nhà thơ, nhà văn lớn của
dân tộc
2. Sự nghiệp văn học:

a. a. Quan điểm sáng tác:
22
lời, giáo viên chuẩn hóa kiến thức
cho học sinh.
- Hồ Chí Minh từng khẳng định:
“ Văn hóa nghệ thuật cũng là một
mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy.”
- Người phê phán thơ xưa chỉ biết
trăng, hoa, tuyết, nguyệt và nhấn
mạnh:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung
phong.”
GV: Vì sao Hồ Chí Minh coi trọng
tính chân thật và tính dân tộc của
văn học?
- Bác căn dặn nhà văn phải “Miêu tả
cho hay, cho chân thật và cho hùng
hồn hiện thực phong phú của đời
sống” và phải “ giữ tình cảm chân
thật.”
- Bác nhắc nhở: “ Chớ gò bó vào
khuôn, làm mất vẻ sáng tạo.”
GV: Em hãy cho biết đối tượng,
mục đích mà Bác hướng đến trong
tác phẩm “Vi hành” là gì?
- Đối tượng : Vua Khải Định và
chính phủ Pháp.
- Mục đích: Vạch trần bản chất bù

nhìn, tay sai của Khải Định, đồng
thời phơi bày tính chất điêu trá, bịp
bợm của những cái gọi là “văn
minh”, “khai hóa” của chế độ thực
dân Pháp.
 Hình thức nhóm : chia lớp
thành 4 nhóm, giáo viên giao nhiệm
vụ cho từng nhóm:
- 3 nhóm: 3 thể loại
 Người coi văn nghệ là một vũ
khí chiến đấu lợi hại phụng sự cho
sự nghiệp cách mạng. Nhà văn phải
có tinh thần xung phong như người
chiến sĩ
 Người coi trọng tính chân thật
và tính dân tộc của văn học:
- Tính chân thật là thước đo của
giá trị văn chương nghệ thuật.
- Người nghệ sĩ phải chú ý phát
huy cốt cách của dân tộc và đề
cao sự sáng tạo.
 Khi cầm bút, người bao giờ
cũng xuất phát từ đối tượng ( viết
cho ai?) và mục đích tiếp nhận
( viết để làm gì?) để quyết định
nội dung ( viết cái gì?) và hình
thức ( viết như thế nào?) của tác
phẩm.
b. Di sản văn hóa:
23

- 1 nhóm: phong cách nghệ thuật
Học sinh trong nhóm trao đổi, sau
đó cử đại diện trình bày bảng
phụ, giáo viên chuẩn hóa kiến
thức cho học sinh.
Giáo viên minh họa một số tác
phẩm
GV: Em hãy nêu nội dung của
truyện ngắn
“Vi hành” ?
- Là truyện ngắn tiêu biểu cho bút
pháp văn xuôi hiện đại của
Nguyễn Ái Quốc, thể hiện tài
châm biếm sâu sắc của tác giả về
hoàng đế An Nam và triều đình
nhà Nguyễn, về thái độ của người
dân và chính phủ Pháp đối với
Việt Nam và vị hoàng đế này.
Giáo viên minh họa một số tác
phẩm.
GV: Theo em những nguyên nhân
b1. Văn chính luận
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ “ Bản án chế độ thực dân Pháp”
(1925)
+ “ Tuyên ngôn độc lập” (1945)
+ “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”(1946)
- Nội dung :
+ Đấu tranh chính trị, tấn công trực

diện kẻ thù.
+ Thể hiện nhiệm vụ chính trị qua
từng thời kì.
b2. Truyện và kí:
- Tác phẩm tiêu biểu: “ Truyện và kí
Nguyễn Ái Quốc” (gồm 7 truyện).
- Nội dung:
+ Vạch trần tội ác kẻ thù
+ Bộc lộ lòng yêu nước và tự hào
dân tộc.
b3. Thơ ca:
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ “ Nhật kí trong tù”
+ “ Thơ kháng chiến”
+ “ Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh”…
- Nội dung: yêu nước, nhân đạo.
c. Phong cách nghệ thuật: độc đáo,
đa dạng, mỗi thể loại văn học có
phong cách riêng, hấp dẫn.
24
nào tạo nên phong cách nghệ
thuật Hồ Chí Minh độc đáo đa
dạng?
- Truyền thống gia đình
- Môi trường văn hóa
- Hoàn cảnh sống, hoạt động cách
mạng, cá tính.
- Quan điểm sáng tác
 Hiện đại, chặt chẽ, sắc sảo
nhưng giản dị, mộc mạc, hàm xúc,

uyên thâm:
+ Khi ôn tồn, thấu tình đạt lí; khi
đanh thép, mạnh mẽ hùng hồn
+ Giàu hình ảnh, thấm đượm tình
cảm
GV: Cái hay về nghệ thuật của
truyện ngắn “Vi hành”?
- Tạo tình huống nhầm lẫn.
- Cách kể chuyện hóm hỉnh, kết
hợp giữa kể, tả, viết thư.
Giáo viên minh họa một số tác
phẩm: Dân cày, Công nhân, Ca
binh lính, Ca sợi chỉ…
Giáo viên minh họa một số tác
phẩm: Rằm tháng giêng, Tin thắng
trận, Cảnh khuya…
GV: Học sinh đọc ghi nhớ sách
giáo khoa trang 29
Giáo viên tổ chức kiểm tra, học
sinh làm ra giấy
Bài 1/29: Sự hòa hợp giữa bút
pháp cổ điển và bút pháp hiện đại
trong bài thơ Chiều tối (Mộ) của
Hồ Chí Minh
 Văn chính luận: thường ngắn
gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt
chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng đầy
sức thuyết phục, giàu tính luận
chiến và đa dạng về bút pháp
 Truyện và kí: rất hiện đại, thể

hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và
nghệ thuật trào phúng, vừa có sự
sắc bén, thâm thúy của phương
Đông, vừa có cái hài hước, hóm
hỉnh của phương Tây
 Thơ ca:
- Những bài thơ tuyên truyền lời lẽ
giản dị, mộc mạc, mang màu sắc dân
gian hiện đại, dễ thuộc, dễ nhớ, có
sức tác động lớn.
- - Thơ nghệ thuật hàm súc, có sự kết
hợp độc đáo giữa bút pháp cổ điển
và hiện đại, chất trữ tình và tính
chiến đấu
II. Ghi nhớ : (SGK/29)
III. Luyện tập:
Bài 1/29:
 Màu sắc cổ điển:
- Thể thơ tứ tuyệt, âm hưởng
25

×