Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Lý luận của Lê nin về chủ nghĩatư bản nhà nước trong thời kỳ quá độlên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng lý luậnđó vào Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.08 KB, 30 trang )

“Lý luận của Lê -nin về chủ nghĩa
tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng lý luận
đó vào Việt Nam hiện nay.”
1
Mục lục
2
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế nước ta, kinh tế Tư bản nhà nước là một thành phần
rất quan trọng. Nó là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào các doanh
nghiệp tư bản. Trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội thì Chủ nghĩa tư
bản nhà nước là một hình thức đặc biệt do nhà nước vô sản sáng tạo ra, đi
theo tay lái của nhà nước vô sản. Để đi lên Chủ nghĩa xã hội thì buộc phải
phát triển nền kinh tế Tư bản nhà nước.
3
Theo Lênin, Chủ nghĩa tư bản nhà nước là hình thức kinh tế cao hơn so
với sản xuất nhỏ. Việc sử dụng Chủ nghĩa tư bản nhà nước là cần thiết để
phát triển lực lượng sản xuất. Vì khi sử dụng hình thức này nhà nước vô sản
huy động được vốn, vật tư kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các nhà tư bản
và cuối cùng thay thế được Chủ nghĩa tư bản bằng Chủ nghĩa xã hội một
cách êm thấm mà những người tư sản vẫn có thể chấp nhận được. Chính vì
thế nền kinh tế Tư bản nhà nước ra đời là tất yếu khách quan và nó là cầu
nối giữa nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa. Vấn
đề này được thể hiện rất rõ trong lý luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản nhà
nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện nước ta
hiện nay việc vận dụng lý luận của Lê nin vào thực tiễn với những điều kiện,
đặc thù riêng là rất cần thiết.
Lênin đánh giá cao Chủ nghĩa tư bản nhà nước và coi nó là một hình thức
kinh tế quan trọng để đưa một nước tiểu nông kinh tế lạc hậu, kém phát triển
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, muốn vậy phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện


đại hoá đất nước. Ngày nay, với xu thế hội nhập toàn cầu, cách mạng khoa
học kỹ thuật phát triển như vũ bão thì việc vận dụng Chủ nghĩa tư bản nhà
nước đang là vấn đề cần được nghiên cứu một cách công phu, tỉ mỉ để phục
vụ cho sự nghiệp đổi mới của đất nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính vì tầm quan trọng của vấn đề nên nó đang được sư quan tâm đặc
biệt của các học giả trên toàn quốc. Hiện nay có rất nhiều sách cũng như các
bài viết về vấn đề này như:
Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin do Vũ Hữu Ngạn chủ biên, Nhà
xuất bản Thanh niên Hà Nội ấn hành năm 1996
4
Về thành phần kinh tế Tư bản nhà nước do Tiến sĩ Trần Ngọc Hiên chủ
biên, Nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội, 2002
Bên cạnh đó là cac bài viết như: Tư tưởng của Lênin về Chủ nghĩa Tư
bản nhà nước trong hệ thống chính sách kinh tế mới do Mai Hữu Thực viết
được đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 7- 1996
Những tác phẩm, bài viết này chủ yếu bàn đến lý luận của Lênin cùng với
một số học giả kinh điển khác về Chủ nghĩa Tư bản nhà nước, từ đó liên hệ
với Việt Nam, rút ra được những bài học thực tiễn đối với nước ta. Những
tác phẩm này đã cho chúng ta có cái nhìn đúng đằn về Chủ nghĩa Tư bản nhà
nước, từ đố vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn ở nước ta góp phần phát triển
kinh tế đất nước.
3.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: mục tiêu lớn nhất mà tiểu luận muốn hướng tới đó là góp phần
giúp mọi người có một cái nhìn toàn diện hơn, xóa bỏ những cái nhìn phiến
diện về Chủ nghĩa Tư bản nói chung và Chủ nghĩa Tư bản nhà nước nói
riêng. Từ đó để áp dụng một cách có khoa học trong việc vận dụng vào nước
ta trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ: chỉ ra những mặt tích cực và đúng đắn của Chủ nghĩa Tư bản
nhà nước, đồng thời chỉ ra những mặt hạn chế không phù hợp với thực tiễn

của nước ta.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được triển khai trên cơ sở và phương pháp luận cụ thể sau:
Phương pháp luận: tiểu luận sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác- Lênin gồm Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Đồng thời sử dụng những lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tinh thần
nghiên cứu khoa học nghiêm túc và những lý luận của Đảng ta về thời kỳ
đổi mới.
5
Phương pháp phân tích tài liệu: phương pháp tổng hợp, phương pháp
diễn dịch, phương pháp so sánh, quy nạp, thống kê, logic…
5. Ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận
Góp phần nâng cao nhận thức đúng đắn, khoa học về Chủ nghĩa tư bản
nhà nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, từ đố áp
dụng vào để phát triển kinh tế Việt Nam nhanh chóng đuổi kịp với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
6. Kết cấu của tiểu luận
Kết cấu tiểu luận gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết
luận. Trong phần nội dung được chia ra thành 2 chương, 6 tiết và 26 tiểu tiết,
ngoài ra còn một số phần như mục lục, danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung
Chương I
Lý luận của Lênin về Chủ nghĩa Tư bản nhà nước
trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội
6
1.1. Lý luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Thực trạng của nước Nga Xô Viết và bàn về thuế lương thực
(năm 1918)
Thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội ở nước Nga

theo Lênin, trong chế độ đó bất cứ ai cũng thừa nhận là có những thành
phần, những bộ phận, những mảnh của Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nghĩa
Xã hôi. Vậy rõ ràng trong tình hình này Chủ nghĩa Tư bản nhà nước về
kinh tế cao hơn nhiều so với nền kinh tế hiện nay. Chủ nghĩa Tư bản nhà
nước không có gì là đáng sợ đối với chính quyền Xô Viết vì nước Xô
Viết là một nước mà trong đó chính quyền của công nhân và dân nghèo
đã được bảo đảm.
7
Năm 1918-1920 diễn ra cuộc nội chiến ở Nga tình trạng kinh tế bị tàn
phá nặng nề đã kìm hãm sự phục hồi của lực lượng sản xuất làm cho
chính giai cấp vô sản hao tổn sức lực. Thêm vào đó, nạn mất mùa năm
1920 đã đẩy nền kinh tế Nga vào tình trạng suy thái nghiêm trọng. Để
khắc phục tình trạng đó bắt buộc phải dùng những biện pháp cấp tốc, cấp
thiết nhất để cải thiện đời sống nhân dân, không thể làm như vậy được
nếu không có sự sửa đổi trong chính sách lương thực. Một trong những
điều sửa đổi là thay thế chế độ trưng thu bằng thuế lương thực. Thực
chất của việc thay thế đó là hình thức quá độ từ chế độ cộng sản thời
chiến sang chế độ trao đổi sản phẩm Xã hội chủ nghĩa bình thường.
Chính sự suy thoái nghiêm trọng đó đã là bước quá độ trở thành cần thiết
và cấp bách vì thế không thể khôi phục được nhanh chóng nền đại công
nghiệp. Chỉ có chính sách thuế lương thực mới phù hợp với những
nhiệm vụ của giai cấp vô sản, mới có thể củng cố được cơ sở vật chất
Chủ nghĩa xã hội và đưa Chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn.
Vậy tại sao phải thay việc trưng thu bằng thuế lương thực? Vì việc trưng
thu tỏ ra cực kỳ nặng nề và bất tiện cho người nông dân. Thuế lương
thực thấp hơn sơ với việc trưng thu hai lần, người dân nào cũng biết rõ
số thuế phải nộp. Do đó sẽ ít có tình trạng lộng quyền khi thu thuế, nông
dân sẽ được hưởng thành quả của mình sau khi nộp thuế nên họ chăm lo
sản xuất.
Như vậy, thuế lương thực giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân.

Bây giờ nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm hăng hái hơn vì
lợi ích của chính mình đó chính là điểm chủ yếu.
8
1.1.2. Chính sách kinh tế mới và sự cần thiết sử dụng Chủ nghĩa Tư
bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
Như đã nói ở trên, việc thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng
chế độ “cộng sản thời chiến” sang chính sách “kinh tế mới “.Có nghĩa là
nông dân đã được tự do mua bán những nông sản thừa ngay sau khi đã
nộp thuế, mà thuế lương thực chỉ chiếm một phần rất nhỏ các sản phẩm.
Tức là “sau khi đã nộp đầy đủ thuế hiện vật, nông dân có quyền tự do
trao đổi số lúa mì còn lại của anh ta”. Sự trao đổi mua bán được coi
là”một hình thức mới của chủ nghĩa tư bản, là sự lập lại chủ nghĩa tư bản
ở mức độ nào đó, là một thứ chủ nghĩa tư bản được giai cấp công nhân
tự giác cho phép tồn tại và hạn chế. Lênin nhấn mạnh nhiều lần rằng nếu
có kinh tế nhỏ, có tự do trao đổi là chủ nghĩa tư bản xuất hiện và phát
triển, không thể nào tránh khỏi sự thật đó”. Như vậy, chủ nghĩa tư bản
nhà nước nếu hiểu một cách ngắn gọn “là một thứ chủ nghĩa tư bản mà
chúng ta có thể hạn chế, có thể quy định giới hạn, chủ nghĩa tư bản Nhà
nước gắn liền với Nhà nước, mà Nhà nước chính là giai cấp công nhân,
là bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiên phong của chúng ta”.
9
Trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới( NEP) ở nước Nga Xô
viết, Lênin đã chỉ rõ rằng việc khuyến khích tự do buôn bán trên cơ sở
thừa nhận sự tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong
một nước tiểu nông thì tính tự phát tiểu tư sản sẽ chiếm ưu thế. Theo đó
sự phát triển của kinh tế tiếp theo tất yếu sẽ là sự phát triển Tư bản chủ
nghĩa nhưng không thể ngăn cấm mà chính sách đúng đắn duy nhất là
hướng sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản vào con đường Chủ nghĩa Tư
bản nhà nước. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến lớn để chiến
thắng tình trạng vô chính phủ và là giải pháp hữu hiệu để tiến lên Chủ

nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất. Chủ nghĩa Tư bản nhà
nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho Chủ nghĩa xã hội, là phòng
chờ đi vào Chủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó và Chủn
nghĩa xã hội không còn nấc thang nào nữa ở giữa.
1.1.3. Chủ nghĩa tư bản nhà nước không đối chọi với Chủ nghĩa xã
hội mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với tư bản tư nhân cùng đấu
tranh chống lại cả Chủ nghĩa Tư bản nhà nước và Chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp tiểu tư sản chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và kiểm soát
nào của Nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản nhà nước hay chủ nghĩa xã hội
nhà nước. “ Đó là sự thật không thể tranh cãi vào đâu được”, một sự thật
mà không hiểu nó thì gây ra nhiều sai lầm về kinh tế.
10
Người tiểu tư sản tàng trữ một số ít tiền, vài nghìn rúp, tích luỹ được
một cách “chính đánh” và nhất là một cách không chính đáng trong thời
kỳ chiến tranh. Đấy là loại thành phần kinh tế tiêu biểu với tính cách là
cơ sở của tệ đầu cơ và chủ nghĩa tư bản tư nhân. Người tiểu tư sản cất
giữ vài nghìn rúp là kẻ thù của chủ nghĩa tư bản nhà nước, họ chỉ muốn
dùng những khoản tiền ấy cho riêng họ thôi, chống lại dân nghèo, chống
lại bất cứ sự kiểm soát chung nào của Nhà nước nhưng số tiền vài nghìn
rúp ấy lại đem lại cơ sở hàng tỷ cho tệ đầu cơ đang phá hoại công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
1.1.4. Chủ nghĩa Tư bản nhà nước muốn phát triển đi lên và thúc đẩy
sự tiến tới Chủ nghĩa xã hội đều phải thông qua con đường “sự kiểm
kê và kiểm soát của toàn dân đối với xản xuất và phân phối sản
phẩm”.
11
Lênin đã từng khẳng định vai trò to lớn của sự kiểm kê kiểm soát. Ở
nước Nga Xô viết, chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản chiếm ưu thế, từ Chủ
nghĩa tư bản tiểu tư sản đi đến Chủ nghĩa tư bản nhà nước với quy mô
lớn cũng như đi đến Chủ nghĩa xã hội, đều phải trải qua cùng một con

đường, thông qua cùng một cái trạm chung gian, đó là “sự kiểm kê kiểm
soát của toàn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm”. Ai không
hiểu điều ấy thì người đó sẽ mắc phải sai lầm không thể tha thứ được
trên vấn đề kinh tế, hoặc là không biết tình hình thực tế, không nhìn thấy
sự vật hiện có, không biết nhìn thẳng vào sự thật, hoặc là chỉ là sự hạn
chế ở chỗ đem Chủ nghĩa Tư bản đối lập một cách trừu tượng với Chủ
nghĩa xã hôi, chứ không nghiên cứu những hình thức cụ thể và các giai
đoạn phát triển của thời kỳ quá độ ấy. Trong lúc ấy, ở nước Nga nếu
không trải qua một cái gì chung cho Chủ nghĩa Tư bản nhà nước và Chủ
nghĩa xã hội (sự kiểm kê, kiểm soát của toàn dân) thì không thể vượt
khỏi tình trạng kinh tế thời đó. Cho nên, họ dọa người và dọa mình bằng
câu “tiến hoá về phía Chủ nghĩa Tư bản nhà nước” là một điều hoàn toàn
phi lý về lý luận. Cái đó thực ra có nghĩa là suy nghĩ “thoát ly khỏi” con
đường thực tế của “tiến hoá”, không hiểu con đường ấy trong thực tiễn,
như vậy chẳng khác gì kéo lùi về phía Chủ nghĩa tư sản tiểu tư hữu.
1.1.5. Chủ nghĩa Tư bản nhà nước trong một nước dân chủ, cách
mạng thực sự có nghĩa là một bước tiến lên Chủ nghĩa xã hôi.
12
Bởi vì, Chủ nghĩa xã hội không phải là cái gì khác hơn là một bước tiến
liền ngay sau chế độ độc quyền Tư bản nhà nước. Chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho Chủ nghĩa xã
hội, là phòng chờ đi vào CHủ nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa
nó với nấc thang được gọi là Chủ nghĩa xã hội thì không có một nấc nào
ở giữa cả. Chúng ta càng leo cao trên bậc thang chính trị ấy, chúng ta thể
hiện càng đầy đủ Nhà nước xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản qua
các Xô -viết, thì chúng ta càng ít có quyền lo sợ Chủ nghĩa Tư bản nhà
nước hơn hơn, chẳng lẽ điều đó không rõ ràng hay sao? Đứng trên ý
nghĩa vật chất, kinh tế, sản xuất mà xét thì chúng ta còn chưa tính đến
“phòng chờ” mà chúng ta chưa đạt tới ấy thì ta không thể vào cửa Chủ
nghĩa xã hôi được.

1.2. Kết quả thực hiện Chủ nghĩa Tư bản nhà nước thời Lênin,
những kinh nghiệm ban đầu.
1.2.1. Sử dụng Chủ nghĩa Tư bản nhà nước ở nước Nga Xô viết.
13
Sau một thời gian thi hành chính sách kinh tế mới, tình hình kinh tế ở
nước Nga Xô- viết đã được cải thiện nhanh chóng. Nông dân chẳng
những thoát được nạn đói mà còn nộp thuế lương thực hàng triệu rúp.
Công nghiệp nhẹ có đà phát triển, đời sống công nhân được cải thiện.
Nhờ tô nhượng với nước ngoài mà phát triển được một số ngành công
nghiệp quan trọng. Tô nhượng cùng với công ty hợp doanh đã góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng thêm dự trữ ngoại tệ, mở rộng quan hệ
thị trường.Nhờ sách kinh tế mới mà thu được một số vốn lớn hơn 20
triệu rúp vàng( nhờ thương nghiệp mà có vốn ấy). Điều quan trọng là tiết
kiệm được về mọi mặt, kể cả những chi phí về trường học để cứu vãn
công nghiệp nặng.
Tuy nhiên, so với mong muốn và mục tiêu ban đầu đặt ra của Lê-nin thì
kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp. Nguyên nhân quan trọng
nhất là chủ nghĩa tư bản đế quốc vẫn tìm cách bóp chết chính quyền Xô
viết, vì thế sự hợp tác, sự đầu tư của tư bản nước ngoài vào Liên Xô
không đạt sự mong muốn. Và trong những năm 1923, 1924( năm cuối
cùng của Lê-nin) tỷ trọng của Chủ nghĩa tư bản nhà nước - với tính cách
là một thành phần, một hình thức kinh tế, trong tổng sản phẩm của cả
nước chỉ chiếm có 1%. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới sản xuất
được khối lượng sản phẩm trị giá 35,1 triệu rúp. Mặc dù chính quyền Xô
viết đã “nhượng bộ” đến mức tối đa, tạo những điều kiện thuận lợi để
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, song thái độ hợp tác, cùng với mưu
đồ của các nước đế quốc câú kết với nhau chống lại Nhà nước Xô viết
non trẻ đã cản trở việc áp dụng rộng rãi các hình thức của Chủ nghĩa Tư
bản nhà nước.
14

Thời gian thực hiện Chủ nghĩa Tư bản nhà nước tuy ngắn ngủi và còn
nhiều hạn chế, song điều quan trọng là, lần đầu tiên trong lịch sử, giai
cấp vô sản Nga dưới sự lãnh đạo thiên tài của Lênin đã tìm ra một
phương thức, con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông
sau khi áp dụng các phương pháp trực tiếp không thành công. Kết quả
lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới, và Chủ nghĩa Tư bản
nhà nước đã thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới.
Và nhờ chính sách kinh tế mới mà chính quyền Xô viết đã giữ được
những vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng
tiến lên được. Nông dân vừa lòng, công nghiệp cũng như nông nghiệp
đang hồi sinh và phát triển. Đó là một thắng lợi của chính quyền Xô viết.
1.2.2. Sử dụng Chủ nghĩa Tư bản nhà nước ở một số nước Đông Âu.
Thắng lợi quân sự của Hồng Quân Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ
hai đã dẫn đến sự ra đời của một loạt nước đi theo con đường Xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, chỉ sau một thời gian
ngắn, giai cấp tư sản ở các nước Đông Âu cơ bản đã được cải tạo bằng
các hình thức khác nhau của Chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhưng phổ biến
nhất là hình thức công ty hợp doanh. Kết quả là nền kinh tế của các nước
Đông Âu phát triển vượt bậc chỉ sau một thời gian ngắn.
1.2.3. Sử dụng Chủ nghĩa Tư bản nhà nước ở những nước đang phát
triển.
15
Sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến việc sử dụng Chủ nghĩa Tư bản
nhà nước ở các nước đang phát triển, bởi Chủ nghĩa Tư bản nhà nước
vốn là một phạm trù kinh tế của Chủ nghĩa Tư bản. Có thể rút ra những
bài học kinh nghiệm của một số các quốc gia trong khu vực trong quá
trình phát triển kinh tế.
- Thứ nhất: phải tạo ra một Nhà nước mạnh, một Nhà nước có khả
năng đưa ra một định hướng chiến lược, cơ cấu kinh tế có triển vọng
kèm theo đó là hệ thống luật pháp và những biện pháp kinh tế hành

chính có tính khuyến khích và ràng buộc cao. Một nhà nước mạnh với
bộ máy gọn nhẹ, có năng lực với chính sách cởi mở sẽ là điều kiện quan
trọng thu hút các nhà đầu tư.
- Thứ hai: đưa ra và thực hiện thành công chiến lược kinh tế mở. Vấn
đề mấu chốt là làm sao vừa thu hút được nhiều vốn, kỹ thuật của nước
ngoài sử dụng chúng một cách hợp lý có hiệu quả vừa đảm bảo được
tính tự chủ của nền kinh tế.
16
Chương II
Sự vận dụng lý luận của Lênin về Chủ nghĩa Tư
bản nhà nước ở Việt Nam
2.1. Sự cần thiết và khả năng sử dụng hình thức kinh tế Tư bản
chủ nghĩa ở nước ta.
Việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ là một tất yếu khách quan. Trong đó kinh tế Tư bản nhà nước là
một thành phần rất quan trọng, nó biểu hiện mối quan hệ kinh tế giữa thành
phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo là kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư
nhân. Thông qua quan hệ này, kinh tế Tư bản nhà nước thực hiện vai trò là
cầu nối giữa sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, là trung gian chuyển từ kinh tế
Tư bản chủ nghĩa lên kinh tế Xã hội chủ nghĩa.
Trong đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thành
phần kinh tế Tư bản nhà nước được coi trọng và khuyến khích phát triển
mạnh mẽ nó đóng góp một phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế xã hội,
biểu hiện ở những kết quả sau:
17
2.1.1. Góp phần huy động vốn cho phát triển kinh tế và thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Để phát triển kinh tế và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại
hoá đất nước vấn đề là huy động được nguồn vốn tư nhân trong nước và
đặc biệt là nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là hết sức quan trọng.

Ngày nay, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá luồng chảy của nguồn
vốn FDI (đầu tư trực tiếp từ nước ngoài) là rất đa dạng với quy mô ngày
càng rộng lớn không chỉ ở các nước phát triển đầu tư vào các nước đang
phát triển mà các nước đang phát triển cũng đầu tư trực tiếp vào nhau. ở
nước ta theo số liệu của bộ kế hoạch và đầu tư thì kế hoạch 5 năm 1996-
2000 cần số vốn cho đầu tư phát triển từ 41- 42 tỉ $, trong đó từ ngân
sách nhà nước đảm bảo 21%, huy động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
(FDI) là 31% thông qua các hình thức kinh tế Tư bản nhà nước, từ các
nguồn vốn khác như vay ODA, huy động tiết kiệm đầu tư từ các doanh
nghiệp và của dân cư khoảng 48%. Trong thực tế 10 năm kể từ năm
1989-1999, tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đăng ký trong
giấy phép là 35 tỉ $ tăng bình quân gần 49% một năm và thực tế đã được
giải ngân khoảng 12-14 tỉ $ bằng 30% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn
xã hôi, một kết quả có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn mở đầu của thì kỳ
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2.1.2. Kinh tế Tư bản nhà nước góp phần đẩy mạnh phát triển kỹ
thuật công nghiệp và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế đất nước.
18
Khi khoa học kỹ thuật công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
thì những nước lạc hậu như nước ta phải tiếp cận, đuổi bắt và đi trước
đón đầu như thế nào cho phù hợp và không bị tụt hậu. Với lợi thế về vốn
đầu tư và khả năng kỹ thuật công nghệ của các nước phát triển và các
nước NICS (các nước đang phát triển) sẽ góp phần đổi mới nhanh chóng
kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh ở nước ta. Đồng
thời gián tiếp thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phải đổi mới kỹ thuật
công nghệ qua cạnh tranh và hợp tác. Thực tế qua 10 năm (1989-1999)
cho thấy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỹ thuật công nghệ cao
hơn so với các thành phần kinh tế khác nhất là trong ngành công nghiệp.
Bởi vậy, chất lượng sản phẩm tốt hơn, mẫu mã đa dạng phong phú hơn,
một số ngành công nghiệp mới đòi hỏi công nghệ cao ra đời từ những

doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư từ nước ngoài như:
Công nghiệp dầu khí, sản xuất ô tô, xe máy, công nghệ điện tử, viễn
thông, thiết bị chính xác….
2.1.3. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước cũng có nghĩa là phát triển
sản xuất, tăng thêm thu nhập, tạo ra việc làm mới cho xã hội.
Tuy mới ra đời nhưng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được
tốc độ tăng trưởng bình quân cao hơn mức tăng chung của nền kinh
tế,giữ vai trò quyết định mức tăng trưởng cao và ổn định của ngành công
nghiệp, làm tăng thêm quy mô, tốc độ tăng trưởng và phong phú đa dạng
các loại hình dịch vụ, du lịch nước ta. Tính đến năm 1999 đã giải quyết
trên 35 vạn lao động có việc làm, đảm bảo thu nhập bình quân là 65$
một tháng.
19
2.1.4. Hoạt động của kinh tế Tư bản nhà nước, mà chủ yếu là thu hút
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sẽ làm cho sợi dây liên kết giữa các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới chặt chẽ hơn tạo điều kiện và
giúp đỡ các thành phần kinh tế trong nước phát triển và mở rộng hoạt
động xuất nhập khẩu.
Đến năm 1998, đã có trên 700 công ty lớn thuộc 35 quốc gia và vùng
lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam giá trị trao đổi kinh tế thông qua hoạt
động nhập khẩu trong 10 năm trở lại đây (1988-1998) phát triển bình
quân 20% một năm trong đó kinh tế Tư bản nhà nước phát triển 28%
một năm chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
2.1.5. Từ vị trí quan trọng trong sản xuất, kinh tế Tư bản nhà nước có
vai trò hết sức tích cực đối với việc ổn định và làm lành mạnh hoá xã
hội.
Thông qua giải quyết công ăn việc làm, giảm bớt tình trạng thất nghiệp,
nâng cao thu nhập cho người lao động góp phần giảm nhẹ áp lực của tiêu
cực xã hội. Mặt khác, những hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho xã hội tăng
lên, chủng loại đa dạng phong phú, chất lượng được nâng cao, phong

cách phục vụ thuận tiện văn minh góp phần cải thiện và nâng cao đời
sống toàn xã hội.
2.2. Những hình thức cụ thể của kinh tế Tư bản nhà nước
đang được vận dụng ở nước ta.
20
Quan điểm của Đảng và nhà nước ta là áp dụng phổ biến hình thức kinh
tế Tư bản nhà nước mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh
tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước, áp
dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà
kinh doanh tư nhân trong nước. Đến nay các hình thức biểu hiện chủ yếu
của kinh tế Tư bản nhà nước ở nước ta là:
2.2.1. Góp vốn cổ phần.
Là hình thức tham gia góp vốn giữa nhà nước với tư nhân trong và
ngoài nước mà đại diện cho nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước,
tổng công ty và các tổ chức khác của nhà nước như viện nghiên cứu,
trung tâm khoa học, đơn vị sự nghiệp. Đây là hình thức phổ biến nhất
chiếm khoảng 65% tổng số dự án và 75% tổng số vốn đầu tư của thành
phần kinh tế này.
2.2.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Là hình thức liên kết sản xuất kinh doanh giữa cơ sở kinh tế có tư cách
pháp nhân của nhà nước với tư nhân nước ngoài để thực hiện một hoạt
động sản xuất kinh doanh theo hợp đồng thỏa thuận giữa các bên.
Hình thức này thích hợp với những hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ,
vốn ít, thời gian liên kết hoạt động giữa các bên ngắn thường dưới 5
hoặc 10 năm thậm chí vài tháng. Hình thức này ít phổ biến, chiếm
khoảng 5% về số dự án và 3% về vốn đầu tư trong thành phần kinh tế Tư
bản nhà nước.
2.2.3. Đầu tư 100% vốn nước ngoài.
21
Là các doanh nghiệp do tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn. Thực

chất đây là hình thức liên kết giữa nhà nước Xã hội chủ nghĩa với Tư
bản tư nhân nước ngoài dưới hình thức tô nhượng.
Các tài nguyên khoáng sản, đất đai và các dịch vụ của nhà nước cho tư
bản nước ngoài thuê, mua sử dụng vào sản xuất kinh doanh và chịu sự
quản lý của nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Hình thức này thích hợp với
những ngành sản xuất kinh doanh cớ lợi nhuận cao hoặc ít rủi ro. Tỷ
trọng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài ở những năm 1990 chỉ từ
10-15% thì nay chiếm gần 30% về số dự án và trên 20% về vốn đầu tư.
2.2.4. Ngoài ba hình thức kể trên trong luật đầu tư nước ngoài của
Việt Nam còn cho phép các hình thức khác như: đầu tư, kinh doanh
chuyển giao BOT. Những hình thức này đã được áp dụng nhưng còn
đang thăm dò thử nghiệm nên tỷ trọng nhỏ chưa đáng kể.
2.3. Những tồn tại và hạn chế chủ yếu trong hoạt động và phát
triển của thành phần kinh tế Tư bản nhà nước.
Từ Đại hội VI quan điểm về phát triển kinh tế Tư bản nhà nước đã được
đặt ra nhưng thực tế đi vào đời sống kinh tế xã hội nước ta chỉ từ sau Đại
hội VII (nghĩa là từ năm 1991 lại đây). Tuy thời gian chưa nhiều, trong
điều kiện vừa làm vừa rút kinh nghiệm bổ xung song đã đạt được những
kết quả đáng kể đồng thời cũng bộc lộ nhiều tồn tại hạn chế:
2.3.1. Chủ trương phát triển nguồn vốn FDI thông qua hình thức kinh
tế Tư bản nhà nước là đúng đắn và cần thiết, song sự phát triển tràn lan
thiếu sự hướng dẫn, định hướng đầu tư dẫn đến hiện tượng mất cân đối
trong các thành phần kinh tế khác trong nước xuất hiện.
22
Chỉ trong thời gian ngắn đã cho đầu tư quá lớn vào một số ngành, tạo ra
năng lực sản xuất vượt xa so với nhu cầu trong nước, trong khi đó tiềm
năng xuất khẩu không có, gây ra sự lãng phí về vốn làm giảm hiệu quả
kinh doanh của toàn ngành.
Những ngành đầu tư có khả năng thu hồi vốn nhanh, tỷ lệ lãi xuất cao sử
dụng nhiều lao động, thì đầu tư 100% vốn nước ngoài là chủ yếu, như

ngành dệt 91% vốn là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, ngành
may 89,4%, ngành giấy là 83,3%….
2.3.2. Tuy mới phát triển mạnh ở vài năm gần đây, nhưng cho thấy
hiệu quả đầu tư thấp.
Trong quá trình đầu tư góp vốn không ít dự án nước ngoài đưa vào liên
doanh với giá thiết bị, vật tư quá cao so với mặt bằng giá thị trường quốc
tế. Nhiều dự án đưa vào kinh doanh nhưng cả chi phí đầu vào và giá đầu
ra do phía nước ngoài thao túng, đưa vào nhiều chi phí không hợp lý mà
phía Việt Nam không kiểm soát được.
2.3.3. Chủ trương phát triển kinh tế Tư bản nhà nước theo quan điểm
nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan
trọng. Nhưng trong liên doanh hợp tác với nước ngoài thì phần vốn của
nhà nước ta đã thấp lại còn có xu hướng giảm.
2.3.4. Cơ chế quản lý đối với thành phần kinh tế Tư bản nhà nước
chưa hoàn thiện còn nhiều lúng túng và sơ hở.
23
Quan hệ quản lý và phân phối lợi ích có nhiều vấn đề bất cập. Những
hiện tượng sơ hở trong quản lý mà phần yếu kém thua thiệt đều về phía
Việt Nam. Hiện tượng tranh chấp lao động đình công trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên, hiệu quả đầu tư thấp… là kết
quả của mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất chưa được củng cố với lực
lượng sản xuất đã ở trình độ khá tiên tiến.
2.4. Những giải pháp nhằm phát triển có hiệu quả thành phần
kinh tế Tư bản nhà nước ở nước ta.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của thành phần kinh tế tư bản nhà nước,
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và vị trí đặc biệt của
nó trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, Đảng và nhà nước đã đề
ra nhiều chủ trương chính sách nhằm phát triển thành phần kinh tế tư
bản nhà nước, coi trọng thu hút nguồn vốn FDI, mở rộng hình thức tham
ra cổ phần với các doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhờ vậy chỉ có hơn

10 năm (1989-1999), hoạt động của thành phần kinh tế tư bản nhà nước
đã đạt được kết quả to lớn, khẳng định vai trò tất yếu và vị trí quan
trọng trong phát triển kinh tế xã hội của đát nước. Song để tạo thuận lợi
cho thành phần kinh tế Tư bản nhà nước tiếp tục phát triển nhanh, vững
chắc, có hiệu quả thì ở tầm quản lý vĩ mô phải quan tâm đến những giải
pháp sau:
2.4.1. Về nhận thức:
Phải coi sự tồn tại của thành phần kinh tế Tư bản nhà nước trong nền
kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, thấy được đó là con
đường để tranh thủ tiềm năng của tư bản nước ngoài và khai thác tiềm năng
24
tư bản tư nhân trong nước cho xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Có nhận thức
đúng đắn về quan điểm, đường lối đó của Đảng thì mới đặt đúng vị trí của
nguồn vốn FDI, mới chủ động có nhiều hình thức liên doanh liên kết của nhà
nước với tư nhân trong nước, khiến họ yên tâm tự nguyện hướng tới cần
thiết và mong muốn tham gia liên doanh cổ phần với nhà nước.
2.4.2. Những giải pháp về chính sách và luật pháp.
Đảng và nhà nước đã cố gắng tạo ra khung pháp lý chung cho hoạt động
thu hút vốn nước ngoài, đó là nguồn vốn FDI bằng cách hoàn thiện luật đầu
tư nước ngoài và bổ xung sửa đổi cho luật đi vào cuộc sống sinh động hơn.
Bên cạnh luật đầu tư nước ngoài là hàng loạt chính sách của chính phủ đều
nhằm mục đích khuyến khích thu hút vốn FDI. Nhưng thực tế cho thấy vẫn
chưa đủ và chưa đồng bộ, đòi hỏi phải có sự bổ sung hoàn chỉnh hơn về mặt
chính sách luật pháp.
Trước hết tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, tạo khung pháp lý thật
an toàn cho các nhà đầu tư an tâm bỏ vốn kinh doanh. Các chính sách như:
chính sách đất đai, thuế, chính sách tài chính, giá cả, xuất nhập khẩu…
không những yêu cầu phải đồng bộ, kịp thời không mâu thuẫn mà còn phải
ưu tiên khuyến khích đủ mạnh tạo lực hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
2.4.3. Giải pháp về tạo dựng điều kiện cơ sở hạ tầng cho kinh doanh.

Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện quan trọng quyết định sự
phát triển của sản xuất kinh doanh. Cần phải có nhiều khu công nghiệp tập
chung, ở đó được bảo đảm tốt về mặt bằng sản xuất, hệ thống dịch vụ đầy đủ
như: dịch vụ điện nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và thuận lợi
cho xây dựng hệ thống xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.
25

×