Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.49 KB, 49 trang )

Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
DANH SÁCH NHÓM THUYẾT TRÌNH
1. CHÂU THÚY PHƯƠNG
2. TỪ THỊ ĐỊNH
3. HOÀNG ĐOAN PHƯƠNG THẢO
4. NGUYỄN THỊ NGỌC LOAN
5. NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG
6. NGUYỄN BÁ CƯỜNG
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 1
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
MỤC LỤC

 !" #$%&'()*%+, - %
 !./*0%1%2%$#3-%&()*%24%5!36)
.!20%78!-% -/* *3!!9:2;%< =3!>?)!)
@%A8%B%!%&4.4;%>C-%BD ;C%
E)8 6.!2.!!-% !F!G
HI3;%"'%B%.!!-% ! %!3F!%&%B%.!JK
LFM%"'.4%&%B%F!)%.!NOJP
QRBGP
KẾT LUẬN 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trên đường hội nhập kinh tế và tìm kiếm vị trí của mình trên trường
quốc tế. Cùng với việc tham gia vào một số tổ chức kinh tế, chính trị lớn của quốc tế, tại
Việt Nam cũng đang thành lập nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước với số vốn lên đến
hàng ngàn tỷ đồng, được kỳ vọng như là những đầu tàu thúc đẩy các ngành kinh tế chủ đạo
đạt được những bước phát triển vượt bậc.
Tuy nhiên, các đầu tàu này hiện nay đang có rất nhiều vấn đề cần chấn chỉnh để có thể
làm tròn trách nhiệm mà chính phủ và dân chúng đang trông chờ. Trong đó nổi bật là vấn đề
đầu tư ngoài ngành của các tập đoàn, tổng công ty, đặc biệt là đầu tư vào thị trường tài chính


– ngân hàng. Việc đầu tư tràn lan của các tập đoàn, tổng công ty vào các ngân hàng có thể là
một kênh huy động vốn khá dồi dào của các ngân hàng, tuy nhiên đứng trên phương diện
xem xét lợi ích – hiệu quả của cả nền kinh tế, tập đoàn dường như đang lơ là với ngành nghề
kinh doanh chính của mình mà cứ đầu tư vào tất cả những ngành đang có lợi nhuận cao, và
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 2
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
dĩ nhiên, đi kèm theo đó sẽ là rủi ro cao. Cùng với đó là nhiều hệ quả tiêu cực khi tập đoàn,
tổng công ty nhà nước trở thành cổ đông chiến lược hay cổ đông sáng lập ngân hàng.
Trong bài tiểu luận này, nhóm sẽ đưa ra thực trạng một số ngân hàng có cổ đông lớn là
các tập đoàn nhà nước, đồng thời phân tích sâu hơn các thuận lợi và hạn chế khi tập đoàn
đầu tư vào các ngân hàng, cũng như ảnh hưởng của việc này đến nền kinh tế.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 3
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Lý thuyết về tập đoàn kinh tế, tập đoàn kinh tế nhà nước và ngân
hàng
I.1 Định nghĩa tập đoàn, tập đoàn nhà nước và chức năng của tập đoàn kinh tế
nhà nước
I.1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế
Ở Việt Nam, hiện vẫn chưa có định nghĩa chính xác về tập đoàn kinh tế, mà thực chất
xung quanh vấn đề này còn rất nhiều tranh cãi. Chẳng hạn, thế nào là một tập đoàn kinh tế?
Gọi là tập đoàn kinh tế hay tập đoàn doanh nghiệp? Tập đoàn có phải là một tổ chức có tư
cách pháp nhân hay không?
Trước tiên cần định nghĩa tập đoàn kinh tế là gì. Trong tiếng Anh có hai từ:
conglomerate và holding company. Đồng thời phải kể thêm hai từ xuất phát từ châu Á:
keiretsu của Nhật Bản và chaebol của Hàn Quốc.
Từ tiếng Anh, conglomerate thường được định nghĩa là một công ty lớn, có sở hữu cổ
phần ở nhiều công ty khác hoạt động trong các ngành nghề gần như không liên hệ gì với
nhau. Từ này mang ý nghĩa tập đoàn được hiểu hiện nay ở Việt Nam. Thí dụ Công ty FPT
doanh thu chủ yếu từ bán điện thoại di động, và sau này vì một lý do nào đó lại là một trong
ba công ty được hưởng quyền sử dụng sóng, do đó có thể mở dịch vụ điện thoại di động và

cung cấp dịch vụ Internet. FPT hiện nay lại được phép mở trường Đại học FPT, Ngân hàng
FPT (Tiên Phong), Công ty Chứng khoán FPT
Chaebol ở Hàn Quốc và keiretsu ở Nhật cũng là những loại hình thức tập đoàn nhưng
lại không giống nhau. Chaebol của Hàn Quốc thường mang hình thức của một công ty mẹ,
và có nhiều công ty con hoạt động để đáp ứng yêu cầu vật tư và dịch vụ của công ty mẹ.
Chaebol cũng thường thuộc sở hữu và do đó đặt dưới quyền quản lý của một gia đình. Về
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 4
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
mặt quản lý, keiretsu ở Nhật khá giống tập đoàn (conglomerate) ở Mỹ, là do những người
chuyên nghiệp làm thuê quản lý, nhưng về mặt sở hữu chúng là công ty có tư cách pháp
nhân độc lập, nhưng hoạt động mang tính liên hệ nối kết lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, dựa vào
chữ tín, được cung cấp hàng hóa, tín dụng lâu dài mà không cần phải trả ngay.
Điểm căn bản đưa đến việc thành lập tập đoàn là nó cho phép một công ty đang tạo ra
nhiều lợi nhuận, nhưng lại không thể phát triển mạnh thêm vì thị trường bão hòa, hướng vào
ngành sản xuất mới có khả năng phát triển mạnh hơn trong tương lai.
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 thì tập đoàn kinh tế được xếp là một
thành phần trong nhóm công ty, cụ thể như sau:
"Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi
ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Thành phần của nhóm
công ty gồm có:
• Công ty mẹ, công ty con.
• Tập đoàn kinh tế
• Các hình thức khác."
Theo Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương CIEM thì:
"Khái niệm tập đoàn kinh tế được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách
pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính,
công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các
bên tham gia. Trong mô hình này, "công ty mẹ" nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của
"công ty con" về tài chính và chiến lược phát triển."
Còn theo ông Hồ Xuân Tùng, Phó trưởng ban Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển

Doanh nghiệp phát biểu trên báo Nhân dân thì:
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 5
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
"Mô hình tập đoàn là một hình thái tổ chức giữa các doanh nghiệp. Còn nhiều quan
niệm khác nhau về tập đoàn, song cũng có một điểm chung nhất là: Tập đoàn doanh nghiệp
là tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp, liên kết nhau bằng quan hệ tài sản và quan hệ
hợp tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa; các doanh nghiệp trong tập đoàn
đều có pháp nhân độc lập."
Nếu xét trên mặt định nghĩa, tập đoàn và công ty mẹ/con không khác nhau. Nhưng qua
thực tế, ta thấy công ty mẹ/con, khác với tập đoàn ở hai điểm.
•Thứ nhất, công ty mẹ/con thường hoạt động trong cùng một ngành nghề, thí dụ như
công ty mẹ làm sản phẩm cuối cùng thì công ty con cung ứng vật tư và các dịch vụ cần thiết.
•Thứ hai, công ty mẹ có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến mục tiêu kinh doanh và
bộ phận quản lý công ty con. Dù thế nào, không có luật pháp nào phân biệt giữa loại hình
công ty mẹ/con và tập đoàn.
Các đặc trưng cơ bản của Tập đoàn kinh tế
(i) Có phạm vi hoạt động lớn trong một hoặc nhiều quốc gia;
(ii) Có quy mô lớn về nguồn vốn, nhân lực và doanh số hoạt động;
(iii) Có hình thức sở hữu hỗn hợp, trong đó có một chủ thể đóng vai trò chi phối;
(iv) Cơ cấu tổ chức phức tạp;
(v) Hoạt động đa ngành nghề, đa lĩnh vực nhưng thường có một ngành, nghề chủ
đạo”.
I.1.2 Tập đoàn kinh tế nhà nước là gì?
Tập đoàn kinh tế nhà nước (TĐKTNN) là nhóm các công ty, liên kết chủ yếu dưới hình
thức công ty mẹ - công ty con, có từ hai cấp doanh nghiệp (DN) trở lên, tạo thành tổ hợp
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 6
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
kinh doanh gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ
kinh doanh khác; trong đó DN do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ giữ vai trò chi
phối hoặc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các DN thành viên khác và các liên kết

giữa các DN.
Theo Nghị định 101/2009/ND – CP về hình thành, tổ chức, hoạt động và quản lý đối
với TĐKTNN, tập đoàn kinh tế nhà nước bao gồm:
a) Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;
b) Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh
nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình
thức công ty mẹ – công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo
Luật Doanh nghiệp), công ty con ở nước ngoài.
c) Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo;
d) Các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn gồm: doanh nghiệp có vốn góp dưới mức
chi phối của công ty mẹ và của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của công ty mẹ
và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức hợp đồng liên kết hoặc không
có hợp đồng liên kết, nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị
trường và các dịch vụ kinh doanh khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong
tập đoàn.
Các đặc điểm chính của TĐKTNN:
- Tập đoàn không có tư cách pháp nhân mà các doanh nghiệp thành viên mới có.
- Tập đoàn không có vốn và tài sản chung.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 7
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
- Liên kết chủ yếu dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, có từ hai cấp DN trở lên.
- Nhà nước là chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước trực tiếp đầu tư tại công ty mẹ và
tại DN thành viên (nếu có). Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các DN thành viên.
- Liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại, hoặc dưới hình
thức hợp đồng liên kết hoặc các hình thức liên kết khác có hoặc không có vốn đầu tư của
công ty mẹ.
Các phương thức hình thành TĐKTNN: có ba phương thức hình thành TĐKTNN, bao
gồm:

- Chuyển đổi từ tổng công ty nhà nước sang hình thức công ty mẹ - công ty con để phát
triển và hình thành TĐKTNN, trong đó công ty mẹ phải có vốn sở hữu nhà nước không thấp
hơn 7.000 tỉ đồng.
- Phát triển một nhóm DNNN theo hình thức công ty mẹ - công ty con và hình thành
TĐKTNN, trong đó công ty mẹ do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc có cổ phần
vốn góp chi phối.
- Phát triển các hình thức liên kết khác trong nhóm công ty mẹ - công ty con như sáp
nhập; mua lại cổ phần hoặc phần góp vốn; đầu tư, góp vốn bằng tài sản hữu hình hoặc vô
hình; ký hợp đồng liên kết sử dụng thương hiệu; nhượng quyền thương mại và các hình thức
liên kết khác do các DN thỏa thuận, không trái với quy định của pháp luật.
I.2 Định nghĩa ngân hàng thương mại và chức năng của nó đối với nền kinh
tế
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010:
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 8
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật này (gồm Nhận tiền gửi,Cấp tín dụng, Cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản như cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán
séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch
vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng,….).
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng
thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận.
Vai trò của ngân hàng thương mại (NHTM)
a) Vai trò tập trung vốn của nền kinh tế
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối
giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại

vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là
khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả
các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng
một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng
họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền
để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và cũng có thể
không tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân hàng thương mại với vai trò
trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay, trả lãi cho họ và đem số tiền ấy cho
người muốn vay vay.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 9
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế
để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái
phiếu,… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư; chuyển giao mệnh
lệnh trên thị trường chứng khoá n ; đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…
b) Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các
thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh
toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán
hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều
phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh
toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh
toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền
để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương
thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được
rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp

phần phát triển kinh tế.
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền
theo lệnh của chủ tài khỏan. Khi các khách hàng gởi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được đảm
bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất
là đối với các khỏan thanh tóan có giá trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm
sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo
quản…).
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 10
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền
quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán ) đã tiết kiệm cho xã hội rất
nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông
hàng hóa. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua sec và được thực
hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện
chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã
tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền bằng
đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec ngân hàng
mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy vi tính của các
ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài khoản người này sang
người khác một cách nhanh chóng.
c) Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM. Với mục
tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình,
các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực
hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức
năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra
lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch,

được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống
NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh
toán, chi trả của xã hội.
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng không
còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung ương là cơ quan
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 11
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
quản lý về tiền tệ, tín dụng là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại kinh
doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền
mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh tóan trong
hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống ngân hàng trung ương mỗi nước. Vậy
tiền “bút tệ” được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta giả sử rằng tất cả các
NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec không chuyển thành tiền
mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo thành tiền như sau:
Tên các ngân hàng Tiền gửi mới
Thanh toán
cho vay mới
Dự trữ bắt buộc
Ngân hàng A 1.000.000 900.000 100.000
Ngân hàng B 900.000 810.000 90.000
Ngân hàng C 810.000 729.000 81.000

Tiền toàn hệ thống ngân hàng 10.000.000 9.000.000 1.000.000
Giả sử ngân hàng A có khoản tiền gửi mới là 1.000.000đ, dự trữ bắt buộc là 10% thì số
tiền nó có thể cho vay là 900.000. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người vay, người
vay tiền không bao giờ vay tiền về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu lãi một cách vô
ích, họ dùng tiền đó chi trả các khỏan. Và số tiền đó đến tay người được chi trả, người chi
trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, ngân hàng B lúc này sẽ có một lượng tiền gửi mới
là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho vay là 810.000. Số tiền này được cho

người cần vay vay, người cho vay chi trả các khỏan đến người được chi trả, người được chi
trả đem số tiền được trả gửi vào ngân hàng C. Lúc này ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là
810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 12
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
được rằng lượng tiền gửi mới trong tòan hệ thống ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự
trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được
tạo ra trong hệ thống ngân hàng 2 cấp.
Giới thiệu một số chỉ số đánh giá hoạt động của ngân hàng
Ngân hàng thương mại (NHTM) là DN kinh doanh tiền tệ, có những đặc thù riêng
trong hoạt động kinh tế - tài chính. Cũng giống như các DN phi tài chính, các NHTM luôn
phải đối đầu với những thách thức của thị trường cạnh tranh và đầy biến động. Hơn nữa,
kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh đặc biệt, có liên quan đến hầu hết các lĩnh vực
khác trong nền kinh tế. Vì vậy, phân tích tài chính đối với NHTM ngoài những nét chung
nhất của phân tích tài chính DN thông thường còn có những điểm rất khác biệt cần quan tâm
nghiên cứu.
NHTM có đặc điểm giống như các DN khác trong nền kinh tế, cũng sử dụng các yếu tố
sản xuất như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động (tiền vốn) làm yếu tố đầu vào, để
sản xuất ra những yếu tố đầu ra dưới hình thức dịch vụ tài chính mà khách hàng yêu cầu.
Tuy nhiên, khác với các DN khác, NHTM là loại hình DN đặc biệt, trong hoạt động kinh
doanh thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời cũng là
đối tựơng kinh doanh của NHTM. Và chính đặc điểm này sẽ bao trùm hơn và rộng hơn so
với các loại hình DN khác.
- NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác. Vốn tự có của NHTM chiếm
một tỷ lệ rất thấo trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc kinh doanh của NHTM luôn gắn
liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp nhận với một mức độ mạo hiểm nhất định.
Bởi vì trong hoạt động kinh doanh hằng ngày của mình, NHTM không những phải bảo đảm
nhu cầu thanh toán, chi trả như mọi khi loại hình DN khác, mà còn phải đảm bảo tốt nhu cầu
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 13

Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
chi trả tiền gửi của khách hàng. Từ đó cho thấy, việc phân tích khả năng thanh khoản của
NHTM có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
- Hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực hoạt
động và nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Do đó, tình hình tài chính của NHTM có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các DN, tâm lý của người dân, cũng như
của cả nền kinh tế. Chính vì vậy, việc phân tích, đánh giá thực trạng tài chính của các
NHTM không chỉ là nhu cầu cấp thiết phục vụ cho hoạt động quản lý của chính nhà quản trị
ngân hàng mà còn là đòi hỏi mang tính bắt buộc của ngân hàng trung ương…
- Hoạt động kinh doanh của NHTM là hoạt động chứa nhiều rủi ro, bởi lẽ nó tổng hợp
tất cả các rủi ro của khách hàng, đồng thời rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có
thể gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của loại hình DN nào vì tính chất
lây lan có thể làm rung chuyển toàn bộ hệt hống kinh tế. Do đó, trong quá trình hoạt động
các NHTM phải thường xuyên cảnh giác, nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo và có
những biện pháp phòng ngừa từ xa có hiệu quả. Ngoài ra, điều này cũng đòi hỏi ngân hàng
tự đánh giá được khả năng chịu đựng rủi ro của mình.
- Hoạt động kinh doanh của NHTM có những đặc thù riêng mả các DN trong các
ngành khác không có. Đồng thời, hoạt động kinh doanh của NHTM diễn tiến liên tục trong
mỗi loại hình nghiệp vụ và các sản phẩm của NHTM có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ.
Điều này sẽ gây khó khăn trong việc tách riêng từng mặt hoạt động của ngân hàng để phân
tích kết quả tài chính.
Do đó nội dung phân tích tài chính cũng dựa trên những nội dung phân tích tài chính
của DN nói chung. Xuất phát từ mục tiêu phân tích tài chính cũng như đặc điểm và nội dung
các quan hệ tài chính trong ngân hàng, nội dung phân tích tài chính ngân hàng bao gồm các
nhóm sau:
a) Một là: phân tích cấu trúc tài chính ngân hàng
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 14
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Cấu trúc tài chính của ngân hàng phản ảnh cấu trúc tài sản, cấu trúc nguồn vốn và cả
mối quan hệ giữa tài sản (tài sản có hay tiêu sản) và nguồn vốn (tài sản nợ hay tích sản) của

ngân hàng. Một cấu trúc nào đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả và rủi ro của ngân hàng. Phân
tích cấu trúc tài chính của ngân hàng chính là phân tích khái quát cơ cấu tài sản có, tài sản
nợ của ngân hàng; tình hình huy động vốn, cho vay vốn; tình hình cân đối giữa nguồn vốn
huy động và dư nợ cho vay; tình hình cân đối giữa việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn tài
trợ cho các khoản vay dài hạn và ngược lại. Phân tích cấu trúc tài chính nhằm đánh giá
những đặc trưng trong cơ cấu tài sản có của ngân hàng, tính hợp lí khi đầu tư vốn cho hoạt
động kinh doanh; cấu trúc nguồn vốn của ngân hàng không những thể hiện chính sách tài trợ
của ngân hàng như các DN phi tài chính khác mà còn thể hiện những lợi thế khác nhau trong
kinh doanh vốn như lãi suất, tính ổn định, khả năng chủ động. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, khi chênh lệch lãi suất đang ngày càng thu hẹp các ngân hàng còn phân tích mối
tương quan giữa tài sản và nguồn vốn để thấy sự phù hợp, hiệu quả của việc sử dụng vốn,
trên cơ sở đó cơ cấu, xây dựng danh mục tài sản vừa cho hiệu quả cao, vừa đảm bảo khả
năng thanh khoản, hạn chế rủi ro.
b) Hai là: Phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng
Các NHTM hoạt động đều nhằm mục tiêu lợi nhuận; dưới áp lực phải hạ thấp chi phí
trong điều kiện cạnh tranh với những định chế tài chính khác. Hiệu quả được xem xét trên
quan điểm biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Phân tích hiệu quả là một giai đoạn quan trọng của công tác quản trị ngân hàng, là cơ
sở đánh giá quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh, xác định nguyên nhân ảnh hưởng đến
chiến lược kinh doanh và kiến nghị những giải pháp xử lý; là cơ sở cho những quyết định
kịp thời và đúng đắn. Các chỉ tiêu trong nhóm này giúp cho ngân hàng đánh giá được hiệu
quả của quá trình kinh doanh bằng cách so sánh kết quả kinh doanh đạt được với chi phí bỏ
ra để đạt được kết quả đó.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 15
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Khác với các DN phi tài chính, đa số tài sản của ngân hàng tồn tại dưới hình thức
quyền về tài chính (các khoản cho vay và chứng khoán) không phải là tài sản cố định
(TSCĐ). Tuy nhiên, các TSCĐ tạo ra chi phí hoạt động cố định dứơi dạng khấu hao, thuê tài
sản là những yếu tố làm hình thành đòn bẩy hoạt động. Đòn bẩy hoạt động này cho phép
ngân hàng đẩy mạnh thu nhập từ hoạt động nếu có thể gia tăng khối lượng dịch vụ lên tới

một mức đủ lớn, tạo được nhiều thu nhập hơn từ việc sử dụng các TSCĐ so với chi phí cho
các tài sản đó. Tuy nhiên, do TSCĐ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản, các ngân
hàng không thể dựa nhiều vào đòn bẩy hoạt động để tăng thu nhập; vì thế họ phải sử dụng
đòn bẩy tài chính - việc sử dụng vốn vay để đẩy mạnh hoạt động, tạo thu nhập và duy trì
cạnh tranh với những ngành khác trong quá trình huy động vốn và cho vay. Vì vậy, khi phân
tích hiệu quả hoạt động ngân hàng cần chú ý đến đặc điểm này để đánh giá hiệu quả của
từng hoạt động cũng như toàn bộ hoạt động trong ngân hàng.
Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại gồm: hoạt động huy động vốn, hoạt
động cho vay, đầu tư và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Do vậy, các nhà quản trị ngân
hàng cần phải đo lường hiệu quả cho từng hoạt động. Hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng
chú trọng đến các chỉ tiêu hiệu quả từng hoạt động sau: tổng dư nợ trên vốn huy động, hiệu
quả sử dụng vốn huy động, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ suất lợi nhuận hoạt động tín dụng,
lãi suất bình quân đầu vào, lãi suất bình quân đầu ra.
Ngoài việc đo lường hiệu quả cho từng hoạt động, các nhà quản trị cần tính toán các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho tất cả các hoạt động. Hiện nay, các ngân hàng thương mại
dùng các chỉ tiêu sau: Tổng thu nhập trên tổng tài sản, Tổng chi phí trên tổng thu nhập, Tỷ lệ
lợi nhuận, Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản
(ROA) và dùng các mô hình để phân tích khả năng sinh lời.
1. Hệ số tổng lợi nhuận: cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào (vật
tư, lao động) trong một quy trình sản xuất của doanh nghiệp.
Hệ số tổng lợi nhuận = (doanh số - trị giá hàng đã bán tính theo giá mua)/doanh số bán
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 16
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Như vậy, về nguyên lý, khi chi phí đầu vào tăng, hệ số tổng lợi nhuận sẽ giảm và
ngược lại. Trong thực tế, khi muốn xem các chi phí này có cao quá hay không, người ta sẽ
so sánh hệ số tổng số lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty cùng ngành. Nếu
hệ số tổng lợi nhuận của các công ty cùng ngành cao hơn thì công ty cần có giải pháp tốt
hơn trong việc kiểm soát các chi phí đầu vào.
2. Hệ số lợi nhuận hoạt động: cho biết việc sử dụng hợp lý các yếu tố trong quá trình
sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Hệ số lợi nhuận hoạt động = thu nhập trước thuế và lãi (EBIT)/doanh thu
Hệ số này là thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà một công ty đạt
được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi nhuận hoạt động
cho biết một đồng vốn bỏ ra có thể thu về bao nhiêu thu nhập trước thuế. Hệ số lợi nhuận
hoạt động cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả, hay doanh thu tăng nhanh hơn chi phí
hoạt động. Các nhà quản lý cần phải tìm ra các nguyên nhân khiến hệ số lợi nhuận hoạt động
cao hay thấp để từ đó họ có thể xác định xem công ty hoạt động có hiệu quả hay không,
hoặc xem giá bán sản phẩm đã tăng nhanh hơn hay chậm hơn chi phí vốn.
3. Hệ số lợi nhuận ròng: phản ánh khoản thu nhập ròng (thu nhập sau thuế) của một
công ty so với doanh thu của nó.
Hệ số lợi nhuận ròng = lợi nhuận ròng/doanh thu
Trên thực tế, hệ số lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản thân một
ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng các yếu tố đầu vào tốt hơn thì sẽ có hệ số này cao
hơn. Xét từ góc độ nhà đầu tư, một công ty có điều kiện phát triển thuận lợi sẽ có mức lợi
nhuận ròng cao hơn lợi nhuận ròng trung bình của ngành và có thể liên tục tăng. Ngoài ra,
một công ty càng giảm chi phí của mình một cách hiệu quả thì hệ số lợi nhuận ròng càng
cao.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 17
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
4. Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần (ROE): phản ánh mức thu nhập ròng trên vốn cổ
phần của cổ đông. Hệ số này được các nhà đầu tư cũng như các cổ đông đặc biệt quan tâm.
ROE = lợi nhuận ròng/vốn cổ đông
Có thể nói, bên cạnh các hệ số tài chính khác thì ROE là thước đo chính xác nhất để
đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. Đây cũng là một chỉ
số đáng tin cậy về khả năng một công ty có thể sinh lời trong tương lai. ROE thường được
các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham
khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào. Thông thường, ROE càng cao càng
chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một
cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong
quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô.

5. Hệ số thu nhập trên đầu tư (ROI): phản ánh mức độ ảnh hưởng của biên lợi nhuận so
với doanh thu và tổng tài sản.
ROI = (thu nhập ròng/doanh số bán) x (doanh số bán/tổng tài sản)
Mục đích của việc sử dụng hệ số ROI là để so sánh cách thức tạo lợi nhuận của một
công ty và cách thức công ty sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có
hiệu quả thì thu nhập và ROI sẽ cao. Ngược lại, thu nhập và ROI sẽ thấp.
6. Hệ số thu nhập trên tổng tài sản (ROA): phản ánh hiệu quả việc sử dụng tài sản trong
hoạt động kinh doanh của công ty và cũng là một thước đo để đánh giá năng lực quản lý của
ban lãnh đạo công ty.
ROA = lợi nhuận ròng/tổng giá trị tài sản
Hệ số này có ý nghĩa là, với 1 đồng tài sản của công ty thì sẽ mang lại bao nhiêu đồng
lợi nhuận. Một công ty đầu tư tài sản ít nhưng thu được lợi nhuận cao sẽ là tốt hơn so với
công ty đầu tư nhiều vào tài sản mà lợi nhuận thu được lại thấp. Hệ số ROA thường có sự
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 18
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
chênh lệch giữa các ngành. Những ngành đòi hỏi phải có đầu tư tài sản lớn vào dây chuyền
sản xuất, máy móc thiết bị, công nghệ như các ngành vận tải, xây dựng, sản xuất kim loại…,
thường có ROA nhỏ hơn so với các ngành không cần phải đầu tư nhiều vào tài sản như
ngành dịch vụ, quảng cáo, phần mềm…
c) Ba là: Phân tích rủi ro của ngân hàng.
Phân tích hiệu quả chỉ mới là một mặt để xem xét tình hình tài chính của ngân hàng.
Hiệu quả ngân hàng chỉ được xem xét tương ứng với một mức rủi ro mà ngân hàng có thể
chịu đựng được và ngược lại.
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, và những rủi ro đối với hoạt
động ngân hàng cũng vì thế mà mang tính đặc thù. Bản chất của hoạt động kinh doanh luôn
mang tính mạo hiểm nên bất kỳ nhà phân tích nào cũng quan tâm đến rủi ro. Qua phân tích
nhằm phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng, trong thanh khoản. Trong
lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, rủi ro chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sau: khả năng chi
trả cho khách hàng, khả năng thu hồi nợ trong cho vay và đầu tư chứng khoán, sự thay
đổi của lãi suất và tỷ giá hối đoái, sự biến động của thu nhập. Do vậy, trong phân tích tài

chính chú trọng đến các loại rủi ro chủ yếu: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất
và rủi ro thu nhập.
Tóm lại, từ đặc điểm của hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc điểm hoạt động tài
chính của ngân hàng, dẫn đến các ngân hàng thương mại cổ phần có đặc điểm phân tích tài
chính riêng, khác biệt với các DN phi tài chính khác. Do đó, cần nghiên cứu đặc điểm phân
tích tài chính của ngân hàng thương mại để phân tích và đánh giá tình hình tài chính của các
DN này.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 19
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Sơ lược tình hình các tập đoàn nhà nước và việc thành lập ngân
hàng của các tập đoàn:
I.3 Sơ lược về các tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam.
Vào năm 1990 và 1991 nhà nước đã thành lập các Tổng công ty nhà nước, đến năm
2005 thì một số Tổng công ty được tổ chức thành tập đoàn kinh tế. Đến năm 2008 có 8 tập
đoàn kinh tế và 96 Tổng Công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con.
Danh sách các tập đoàn kinh tế Việt Nam cho đến năm 2010 đã có 12 tập đoàn nhà
nước được thành lập, gồm:
1. Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
2. Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam
3. Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam
4. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản
5. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
6. Tập đoàn Dệt- May Việt Nam
7. Tập đoàn Điện lực Việt Nam
8. Tập đoàn Bảo Việt
9. Tập đoàn Viễn thông quân đội
10.Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
11.Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 20
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2

12.Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam
Chính phủ vừa gửi tới ĐBQH Báo cáo về nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính
sách pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn kinh tế và tổng
công ty nhà nước. Báo cáo được hoàn thành sau 1 năm QH thực hiện giám sát tối cao việc
thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước ở các TĐ, TCT
nhà nước tại kỳ họp thứ 6, tháng 11.2009.
Báo cáo (do Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh ký) nêu đã tập trung làm rõ tình hình
tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của 81/91 TĐ, TCT nhà nước (không bao gồm
Tập đoàn công nghiệp tàu thủy VN - Vinashin) trong năm 2009 và 6 tháng đầu năm 2010.
Tính đến 30.6.2010, vốn chủ sở hữu của các TĐ, TCT là 572.582 tỉ đồng, tăng thêm khoảng
3,8% so với năm 2009. Giá trị tổng tài sản là 1.518.999 tỉ đồng, tăng khoảng 4,8% so với
năm trước. Nợ phải trả của các TĐ, TCT năm 2009 là 813.435 tỉ đồng.
Theo báo cáo của Chính phủ, đến hết tháng 6.2010, doanh thu của các TĐ, TCT đạt
732.761 tỉ đồng, bằng 58,6% kế hoạch năm 2010. Lợi nhuận đạt 43.865 tỉ đồng, bằng 51%
kế hoạch năm 2010. Tổng nộp ngân sách năm 2009 của các TĐ, TCT đạt 189.467 tỉ đồng, 6
tháng đầu năm nay là 97.671 tỉ đồng, bằng 58,2% kế hoạch năm.
Báo cáo cũng cho biết tính đến 30.6.2010, đầu tư ra nước ngoài của các TĐ, TCT
tương đương khoảng 71.380 tỉ đồng, tăng khoảng 1.768 tỉ đồng so với thời điểm ngày
31.12.2009. Giá trị gia tăng chủ yếu do Tổng công ty hàng không VN đầu tư góp vốn thành
lập hãng hàng không quốc gia tại Campuchia.
Báo cáo cũng đánh giá những tồn tại, yếu kém trong hoạt động và khâu quản lý. Đó là
“hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với quy mô đầu tư của Chính phủ, còn để tình trạng
lãng phí trong đầu tư như chậm hoàn thành các dự án đầu tư trọng điểm tại các lĩnh vực
năng lượng, giao thông, cảng biển”. Bên cạnh đó, chức năng đại diện chủ sở hữu còn phân
tán, chồng chéo nên trách nhiệm trong quản lý chưa rõ ràng. Doanh nghiệp đầu tư ra ngoài
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 21
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
ngành vẫn còn dàn trải, chưa tập trung ngành nghề kinh doanh chính hoặc chủ yếu. Một số
tập đoàn, tổng công ty những năm qua góp vốn vào ngân hàng, chứng khoán, bất động sản
với số tiền khá lớn nhưng hoạt động đầu tư trong những lĩnh vực này chưa thực sự hợp lý

khi nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính còn hạn chế.
Do mở cửa hội nhập nên cần phải tổ chức sắp xếp các doanh nghiệp nhỏ, manh mún
thành những doanh nghiệp lớn để đủ khả năng đối tác cũng như cạnh tranh với doanh nghiệp
nước ngoài, tăng cường vị trí của doanh nghiệp nhà nước trong việc bảo đảm vai trò chủ
đạo, dẫn dắt các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoạt động theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, và các tập đoàn hoạt động có hiệu quả sẽ làm nòng cốt trong nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Do nền kinh tế hội nhập sẽ phải chấp nhận cạnh tranh, cạnh tranh tất yếu dẫn
đến tích tụ và tập trung vốn vì vậy tất yếu sẽ hình thành doanh nghiệp lớn, tức các tập đoàn
kinh tế.
Song khác với các tập đoàn kinh tế thế giới, hầu hết đều đi từ các các công ty nhỏ, hoạt
động rất hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở thành các tập đoàn khổng lồ, các
tập đoàn kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên các tổng công ty có quy mô chưa lớn,
yếu kém trong quản lý, quen dựa vào bao cấp đã vừa độc quyền lại thích có thêm quyền,
phần lớn vị trí chủ chốt được bổ nhiệm vì lý do chính trị chứ không dựa trên năng lực quản
trị kinh doanh nên sự tác hại của tập đoàn kinh tế khi làm ăn thiếu hiệu quả có thể gây tác
hại lớn cho nền kinh tế, cần thận trọng trong việc thành lập.
Tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập nhằm năm mục tiêu, trong đó có hai mục
tiêu liên quan đến ngành nghề kinh doanh, gồm: tập trung đầu tư và huy động nguồn lực
hình thành những nhóm công ty quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt; giữ vai trò
bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển
cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế.
Các tập đoàn kinh tế nhà nước về bản chất là thuộc sở hữu toàn dân. Chính phủ là
người đại diện thực hiện quyền sở hữu toàn dân đó. Chính phủ không thể trực tiếp thực hiện
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 22
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
quyền của chủ sở hữu nên Chính phủ cử ra hội đồng quản trị làm đại diện. Ở đây xuất hiện
một số vấn đề. Trước hết là mối quan hệ giữa chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu. Hiện
không có quy định nào thể hiện sự giám sát tập thể của chủ sở hữu nhà nước đối với đại diện
chủ sở hữu. Ông Giá cho biết, tình trạng hiện nay là tập đoàn có rất nhiều chủ, nhưng thực tế
các ông chủ này chỉ quản lý các tập đoàn về mặt hành chính, trong đó mỗi bộ được giao làm

một mảng. Không có ông chủ sở hữu đích thực. Chính vì có quá nhiều chủ nên trở thành vô
chủ.
Bên cạnh đó, cũng không có cơ chế giám sát của toàn dân trong quá trình hoạt động
của tập đoàn, vốn thuộc sở hữu toàn dân. Nhân dân chỉ có thể giám sát kết quả hoạt động
nếu kết quả ấy được báo cáo công khai theo một quy định chặt chẽ. Trong khi hội đồng quản
trị - người đại diện chủ sở hữu nhà nước, chỉ lập báo cáo định kỳ hoặc báo cáo theo yêu cầu
của Thủ tướng, nhưng các báo cáo này được xử lý, thẩm định thế nào thì không rõ. Chưa nói
đến tình hình rất có thể xảy ra là sẽ không ai đọc báo cáo đó.
Tiếp theo là thành phần hội đồng quản trị. Hiện thành phần này phần lớn là cán bộ
quản lý doanh nghiệp. Họ có lợi ích gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và thường là
những lợi ích ngắn hạn sẽ chi phối quyết định của họ. Việc này sẽ có ảnh hưởng lớn đến khả
năng thực hiện những mục tiêu chiến lược dài hạn và trong nhiều trường hợp là xung đột với
lợi ích của chủ sở hữu. Trong thành phần hội đồng quản trị của những tập đoàn quan trọng
có một số thành viên từ các bộ ngành. Sự tham gia của các thành viên này cũng dẫn đến hai
hệ lụy: xung đột lợi ích giữa chủ sở hữu và lợi ích của chính doanh nghiệp; thiên vị doanh
nghiệp, làm méo mó chính sách quản lý.
I.4 Sơ lược tình hình thành lập Ngân hàng thuộc tập đoàn KTNN
Nói chung về mặt pháp lý, các nước thường hạn chế sự tham gia vào hoạt động tài
chính, ngân hàng của các công ty phi tài chính (như sản xuất xe hơi, phần mềm) hoặc quỹ
đầu tư, bảo đảm rằng không có sự liên hệ mẹ/con giữa công ty phi tài chính và ngân hàng.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 23
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, cả hai loại chaebol hay keiretsu đều bị cấm sở hữu ngân
hàng vì ở Hàn Quốc, chính phủ muốn kiểm soát những công ty này qua việc kiểm soát tín
dụng. Còn ở Nhật, keiretsu không được làm chủ ngân hàng nhưng thường hoạt động rất chặt
chẽ với ngân hàng và thường được ngân hàng đáp ứng tín dụng rất dễ dàng, ít nhất là cho
đến cuộc khủng hoảng kéo dài hơn 10 năm ở Nhật và chỉ chấm dứt khoảng năm 2000.
Theo luật ngân hàng Mỹ (Bank Holding Company Act hay Savings and Loan Holding
Company Act) một công ty được coi là công ty mẹ của ngân hàng nếu nó: i) hoặc trực tiếp
hay gián tiếp kiểm soát được số cổ phiếu ở mức quyết định ở ngân hàng (sở hữu 10% số cổ

phiếu hay hơn thường được coi là thước đo quyền làm chủ), hoặc ii) có khả năng ảnh hưởng
đến việc tuyển chọn đa số thành viên hội đồng quản trị, hoặc iii) có ảnh hưởng đến quyền
quản lý hay chính sách của ngân hàng.
Từ định nghĩa quyền kiểm soát (hay làm mẹ trên) mà các công ty mẹ và con đều phải
đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan giám sát tài chính như FED của Mỹ, đặc biệt liên
quan đến tỷ lệ tín dụng ngân hàng cấp cho công ty mẹ/con.
Luật Canada hạn chế sở hữu ngân hàng của bất cứ sở hữu chủ không phải công ty tài
chính nào ở mức 10%. Ở Mỹ, tỷ lệ hạn chế là 25% nhưng nếu là 10% trở lên phải xin phép
cơ quan kiểm soát và phải chứng tỏ rằng nó không có sự liên hệ mẹ/con theo định nghĩa ở
trên.
Yêu cầu kiểm soát chặt chẽ tính mẹ/con giữa công ty tài chính và phi tài chính là dễ
hiểu vì hoạt động ngân hàng, tài chính có nhiều rủi ro; việc mất niềm tin của khách hàng có
thể tạo ra sự sụp đổ dây chuyền của cả hệ thống và do đó ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền
kinh tế. Để giảm độ rủi ro, tín dụng ngân hàng do đó bị pháp luật nhiều nước đòi hỏi phải đa
dạng cho nhiều khách hàng khác nhau, và hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau, chứ không
chỉ phục vụ một thiểu số khách hàng, nhất là những là khách hàng làm chủ cổ phần đáng kể
trong ngân hàng.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 24
Đánh giá hoạt động các ngân hàng thuộc TĐKTNN Nhóm 5-TCDN Đêm 2
Không chỉ tín dụng ngân hàng, ngày nay các hoạt động tài chính mang tính tín dụng
(do những công cụ tài chính mới ra đời) nhưng lại không phải ngân hàng, vì không bị kiểm
soát, đã là nguyên nhân tạo ra cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay ở Mỹ và do đó có thể bị
đặt vào vòng kiểm soát trong tương lai.
Dù vậy, tại Việt Nam, luật pháp không cấm các doanh nghiệp đầu tư tài chính, trong đó
có việc tham gia hoạt động NH. Theo QĐ 24/2007/QĐ-NHNN, DN (không phải NHTM) có
vốn chủ sở hữu tối thiểu 500 tỉ đồng, kinh doanh có lãi trong 3 năm liền kề đủ điều kiện là
cổ đông tổ chức của Ngân hàng.
Quy chế cấp phép thành lập và hoạt động NHTMCP (ban hành theo QĐ 24/2007/QĐ-
NHNN ngày 7/6/2007 của Thống đốc NHNN) đã quy định rõ một cổ đông là tổ chức sở hữu
tối đa 20% vốn điều lệ của một NH và chỉ được tham gia góp vốn thành lập tại một NH.

Như vậy, các tập đoàn kinh tế dù có năng lực tài chính và tham vọng lớn đến đâu về nguyên
tắc cũng không thể có NH riêng của mình.
Cổ đông tham gia góp vốn thành lập ngân hàng phải đáp ứng một số điều kiện nhất
định. Đó là: Phải có tối thiểu 100 cổ đông tham gia góp vốn thành lập ngân hàng, trong đó
có tối thiểu 3 cổ đông sáng lập là tổ chức có tư cách pháp nhân; các cổ đông phải có khả
năng về tài chính để góp vốn thành lập ngân hàng; cá nhân hoặc tổ chức và người có liên
quan của cá nhân hoặc tổ chức đó chỉ được tham gia góp vốn thành lập 1 ngân hàng, không
được tham gia góp vốn thành lập ngân hàng nếu cá nhân hoặc cá nhân đó cùng với người có
liên quan đang sở hữu mức cổ phần trọng yếu của một ngân hàng, tổ chức hoặc tổ chức đó
cùng với người có liên quan đang sở hữu từ 10% vốn điều lệ trở lên của một ngân hàng; cổ
đông là tổ chức phải đáp ứng một số điều kiện theo quy định như thời gian hoạt động tối
thiểu là 3 năm, kinh doanh có lãi trong 3 năm liền kề năm đề nghị thành lập ngân hàng.
Đối với cổ đông là doanh nghiệp Nhà nước phải được Thủ tướng Chính phủ chấp
thuận bằng văn bản cho phép tham gia góp vốn thành lập ngân hàng.
GVHD: PGS TS Trương Quang Thông Page 25

×