Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

thực trạng tổ chức lãnh thổ kcn, kkt tỉnh thanh hóa giai đoạn cnh – hđh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 75 trang )



i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và có dẫn nguồn cụ thể.
Hà nội, ngày tháng năm
Tác giả

Chu Thùy Dung


















ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban giám đốc, các thầy cô giáo


của Học viện Chính sách và Phát triển và đặc biệt là các thầy cô giáo của
khoa Quy hoạch đã tạo điều kiện, hỗ trợ và giảng dạy cho chúng tôi trong suốt
những năm học vừa qua.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn Ts. Lê Kim Chi người đã tận tình
hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn đến các cơ quan, đoàn thể đã cung cấp cho tôi
những số liệu, thông tin hữu ích phục vụ cho đề tài khóa luận.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn gia đình và bạn bè đã tạo thêm động lực, sát
cánh cùng tôi trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn.

Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả

Chu Thùy Dung










iii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH - HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN - XD

Công nghiệp, xây dựng
CSHT
Cơ sở hạ tầng
CK
Cửa khẩu
CHDC
Cộng hòa dân chủ
ĐH
Đại học
ĐKTN - TNTT
Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
KCN - KKT
Khu công nghiệp, khu kinh tế
KCNC
Khu công nghệ cao
KT
Kinh tế
KH - KT
Khoa học, kĩ thuật
MT
Môi trường
LLSX
Lực lượng sản xuất
TCLT
Tổ chức lãnh thổ
GTXK
Giá trị xuất khẩu
TW
Trung ương


Quyết định











iv



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1
Các chỉ tiêu tổng hợp về các KCN khu vực Bắc Trung
Bộ


Bảng 2.1
Giá trị sản xuất công nghiệp và tốc độ tăng trưởng công
nghiệp Thanh Hóa, Bắc Trung Bộ và cả nước

Bảng 2.2
Các chỉ tiêu cơ bản về các KCN tỉnh Thanh Hóa

Bảng 2.3

Tổng hợp một số chỉ tiêu chính về thực trạng phát triển
Nghi Sơn Thanh Hóa thời kỳ 2008 – 2010

Bảng 2.4
Các dự án tại KKT Nghi Sơn

Hình 2.1
Biểu đồ giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2001 - 2010

Hình 2.2
Biểu đồ cơ cấu lao động KKT Nghi Sơn

Hình 2.3
Bản đồ bố trí các KCN, KKT địa bàn tỉnh Thanh Hóa.













1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
KCN, KKT là hình thức tổ chức lãnh thổ sản xuất của nền kinh tế đem
lại hiệu quả kinh tế cao ở các nước đang phát triển. Điều này được chứng
minh qua thành công của một số nước trên thế giới như Hàn Quốc, Trung
Quốc, Malaisia, singapo…đem lại những bước phát triển vượt bậc cho nền
kinh tế các nước này trong giai đoạn vừa qua. Sau hơn 20 năm hình thành và
phát triển, các KCN, KKT trên cả nước đã có những đóng góp quan trọng
trong phát triển kinh tế - xã hội, thay đổi dần diện mạo mạo đất nước. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế bất cập tồn tại ảnh hưởng đến quá
trình phát triển.
Tỉnh Thanh Hóa nằm ở khu vực cửa ngõ của Bắc Trung Bộ là một
trong những tỉnh có điều kiện thuận lợi trong phát triển trong các KCN, KKT.
Thời gia qua, sự phát triển các KCN, KKT tren địa bàn tỉnh Thanh Hóa đạt
được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội. Tuy nhiên việc sắp xếp, bố trí sao cho hợp lí hệ thống các KCN, KKT
nhằm phát huy hết được lợi thế sẵn có vẫn còn nhiều thách thức.
Với mục đích góp phần luận giải thực trạng tổ chức lãnh thổ KCN,
KKT tỉnh Thanh Hóa và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện tổ chức lãnh thổ
kinh tế KCN, KKT thời gian tới. Tôi chọn đề tài “thực trạng tổ chức lãnh thổ
KCN, KKT tỉnh Thanh Hóa giai đoạn CNH – HĐH hiện nay” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng tổ chức lãnh thổ của KCN, KKT trên địa bàn tỉnh
theo quy hoạch phát triển các KCN, KKT tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020.Từ
đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong phát triển
KCN, KKT của tỉnh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu



2
+ Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ khu
công nghiệp và khu kinh tế, đánh giá các nhân tố tác động đến KCN, KKT.
+ Đánh giá thực trạng lãnh thổ các khu công nghiệp, khu kinh tế trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
+ Đề xuất một số giải pháp số giải pháp góp phần hoàn thiện tổ chức
lãnh thổ KCN,KKT tỉnh thanh Hóa theo Quy hoạch phát triển các KKC,KKT
tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Sự phát triển của ngành công nghiệp và hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
+ Về mặt không gian
Đề tài được thực hiện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong đó tập trung
vào các khu công nghiệp, khu kinh tế của tỉnh.
+ Về mặt thời gian
Đề tài nghiên cứu các số liệu giai đoạn 2000-2010
+ Về mặt nội dung
Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu các KCN, KKT dựa trên các chỉ tiêu chủ
yếu tập trung vào một số KCN, KKT chính trong tỉnh từ đó đưa ra giải pháp
dựa trên quy hoạch tổng thể đến năm 2020
6. Quan điểm nghiên cứu
6.1. Quan điểm tổng hợp
Các yếu tố tự nhiên – kinh tế - xã hội là một thể thống nhất có tác động đến
phát triển KCN, KKT trên địa bàn tỉnh, các KCN, KKT cũng tác động trở lại, chi
phối lẫn nhau trong một thể thống nhất. Các đối tượng phát triển đồng đều, đầy đủ
trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy, cần phân tích toàn diện các khía cạnh,
đề ra giải pháp từ việc nhìn nhận mang tính tổng hợp nên việc vận dụng quan điểm
tổng hợp có ý nghĩa rất quan trọng.



3
6.2. Quan điểm hệ thống
Lãnh thổ Thanh Hóa là một thể thống nhất bao gồm tự nhiên, dân cư,
kinh tế, môi trường,…. Đồng thời Thanh Hóa lại nằm trong mối liên kết vùng,
trên một lãnh thổ lớn hơn. Bởi vậy mà tính hệ thống được thể hiện trong sự
tác động lẫn nhau cũng như trong mối quan hệ với bên ngoài lãnh thổ. KCN,
KKT tỉnh Thanh Hóa nằm trong hệ thống kinh tế tỉnh như một mắt xích trong
một hệ thống lớn hơn có mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế vùng cũng như cả nước .
6.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
KCN, KKT phát triển từ quá khứ, chịu sự ảnh hưởng của quá khứ
và tác động đến tương lai, nhất là đối với tổ chức lãnh thổ kinh tế, việc
sắp xếp, bố trí hợp lí ở hiện tại có vai trò rất lớn trong phát triển tương lai.
Nhìn nhận vấn đề này cũng phải nhìn từ thực tế để đánh giá đưa ra các
nhận định, định hướng để có giải pháp đạt được thành công sau này. Vận
dụng quan điểm này nghiên cứu nhằm xác định được tính thích ứng lâu dài.
6.4. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững vừa được coi là quan điểm, vừa được coi là mục
tiêu của việc phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế. Sử dụng hợp lí tài
nguyên, và bảo vệ môi trường sinh thái là nền tảng để phát triển lâu dài, vì
vậy, các KCN,KKT trong quá trình phát triển phải luôn quan tâm đến vấn đề
phát triển bền vững đảm bảo tăng trưởng về kinh tế nhưng cũng đảm bảo về
môi trường và xã hội. Khi nghiên cứu đề tài cũng phải nhìn nhận tất cả các
góc độ liên quan đến phát triển bền vững của KCN, KKT.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp thu thập số liệu
Có nhiều tài liệu, nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài là
những gợi ý cho tác giả khi viết đề tài này. Đây là phương pháp được sử dụng
nhiều trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu làm đề tài. Các tài liệu được tác
giả thu thập từ nhiều nguồn như các giáo trình, số liệu thống kê, các công trình

nghiên cứu có nội dung liên quan. Ngoài ra tác giả còn thu thập thêm thông tin


4
từ báo chí, Internet…để phục vụ cho đề tài. Trên cơ đó tác giả đã phân tích,
tổng hợp, xử lí, đúc kết tìm kiếm thông tin đưa vào đề tài để làm căn cứ.
7.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế KCN, KKT rất phức tạp nên để
làm rõ cần phải tổng hợp, so sánh. So sánh giữa những vấn đề của các KCN,
KKT với các lí thuyết tổ chức lãnh thổ, các tiêu chí. Tổng hợp đưa ra các
nhận xét liên quan.
7.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực địa
Việc tiến hành điều tra, khảo sát thực địa nhằm quan sát, đánh giá
cũng như thẩm định lại một số nghi vấn trong quá trình nghiên cứu, xử lí
các tài liệu thu thập được. Thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch Đầu tư
Thanh Hóa từ 10/2 – 10/4 tác giả đã khảo sát, tìm hiểu về các KCN lấy số
liệu phục vụ cho đề tài.
8. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, nội dung chính của đề tài
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1 : Những vấn đề lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ
KCN,KKT
Chương 2: Thực trạng tổ chức lãnh thổ KCN, KKT ở tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Một số giải pháp góp phần hoàn thiện tổ chức lãnh thổ
KCN,KKT tỉnh thanh Hóa theo Quy hoạch phát triển các KKC,KKT tỉnh
Thanh Hóa đến năm 2020










5
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC LÃNH
THỔ KCN, KKT
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1. Các lý thuyết chung về phát triển kinh tế theo lãnh thổ
Tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian các hoạt động phát triển của
con người, trước hết là hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ những cơ sở lí thuyết
kinh tế của Adam Smith và David Ricardo, từ các công trình nghiên cứu của
Thunen (1826), Weber (1909)…, sau đó được phát triển về mặt lí luận và ứng
dụng thực tiễn vào những năm 50 của thế kỉ XX tại các nước Châu Âu, liên
xô (cũ) và Mỹ.[8]
+ Tổ chức là việc sắp xếp các đối tượng (xí nghiệp, công trình, các
ngành, các lĩnh vực, các điểm dân cư, kết cấu hạ tầng)
+ Lãnh thổ là địa bàn để tổ chức, sắp xếp các đối tượng, có ranh giới
xác định.
Các nhà khoa học Liên Xô cũ thường sử dụng khái niệm Phân bổ lực
lượng sản xuất. Theo họ, phân bổ LLSX được thực hiện trên lãnh thổ cụ thể ở
các cấp độ khác nhau. Họ coi phân bổ lục lượng sản suất là sự sắp xếp, bố trí
và phố hợp các đối tượng có mối quan hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất,
hệ thống tự nhiên và hệ thống dân cư nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực để
đạt hiệu quả cao về KT, XH và MT.[10]

Các nhà khoa học phương Tây lại sử dụng thuật ngữ Tổ chức không
gian kinh tế - xã hội. Theo họ, tổ chức không gian là sự “thiết lập” trật tự KT,

XH và MT trong phạm vi một lãnh thổ xác định. Tổ chức không gian như
nghệ thuật kiến thiết và sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả.
Ở Việt Nam, TCLT Cũng được quan tâm nghiên cứu. Đi đầu trong lĩnh
vực này là các nhà khoa học thuộc Ủy ban Phân vùng kinh tế trung ương (
nay thuộc Bộ KH và ĐT) và các nhà khoa học thuộc trường ĐHSP HN, ĐH
KTQD,…. Trong báo cáo ”địa lí học Việt Nam và thử nghiệmTCLT” , G.S


6
Lê Bá Thảo cho rằng “ Về khía cạnh địa lí, có thể coi TCLT là 1 hành động
của địa lí học có chủ ý hướng tới một sự công bằng về mặt không gian”.[10]
Tóm lại: tổ chức lãnh thổ là sự tìm kiếm, lựa chọn một sự phân bố tối
ưu, tránh sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia hay một vùng, một lãnh thổ cụ thể
Một số lí thuyết về TCLT: Lí thuyết phát triển các vành đai nông
nghiệp quanh thành phố của trung tâm ( thunen); lí thuyết định vị công nghiệp
của A. Weber; lí thuyết phát triển các điểm trung tâm của W. Christaller,…
+ Lí thuyết định vị công nghiệp của A. Weber: lí thyết này ra đời từ
đầu thế kỉ XX, giải thích sự tập trung công nghiệp ở một địa phương do ba
nguyên nhân đó là chi phí vận tải rẻ nhất, chi phí vè nhân công rẻ nhất và nơi
xí nghiệp tập trung để có thể sử dụng phế liệu làm nguyên liệu rẻ tiền; theo lí
thuyết này Weber coi thành phố, các cửa ra vào là những nút trọng điểm của
lãnh thổ. Sức lan tỏa của chúng có ảnh hưởng rất lớn xung quanh thành phố là
các vành đai với các chức năng khác nhau, nhưng đề phục vụ cho một trung
tâm, lí thuyết phù hượp với một nền kinh tế mà quá trình công nghiệp hóa và
đô thị háo chưa mạnh.
+ Lí thuyết phát triển các điểm trung tâm của W. Christaller: Lí thuyết
được hoàn thiện trên những ý tưởng của mô hình V.Thunen và A. Weber,
Chistaller quan niệm thành phố như những cực hút, hạt nhân của sự phát triển.
Không có một khu vực nông thôn nào lại không chịu tác động của thành phố
như một cực hút, thành phố là các đối tượng để đầu tư có trọng điểm trên cơ

sở nghiên cứu mức độ thu hút và mức độ ảnh hưởng của chúng đến các vùng
xung quanh thông qua bán kính vùng tiêu thụ sản phẩm. Chỉ trong bán kính
vùng tiêu thụ, giwois hạn thị trường được xác định; bên ngoài ngưỡng giới
hạn không có lợi cho việc phục vụ hàng hóa.[12]
1.1.2. Khái niệm về tổ chức lãnh thổ KCN,KKT
1.1.2.1. Khái niệm chung
Tổ chức lãnh thổ là việc tổ chức các hoạt động kinh tế theo lãnh thổ.
Các hoạt động kinh tế bao gồm: sản xuất sản phẩm vật chất và sản xuất sản


7
phẩm dịch vụ. Tổ chức lãnh thổ kinh tế là sự “sắp xếp” và “phối hợp” các đối
tượng trong mối quan hệ liên ngành, liên vùng nhằm sử dụng một cách hợp lí
các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh tế, chính trị và cơ sở vật
chất lĩ thuật đã và sẽ tạo dựng để đem lại hiệu quả KT – XH cao và nâng cao
mức sống dân cư, đảm sự phát triển bền vững của một lãnh thổ.[10]
Đối tượng của TCLTKT, lãnh thổ được xem là một thực thể hay hệ
thống tự nhiên, trực tiếp tổ chức kinh tế - xã hội có ranh giới xác định, đó là
một vùng hữu hạn về phạm vi mà ở đó các yếu tố tự nhiên, nơi sinh sống của
một cộng đồng xã hội có những hành vi tác động vào tự nhiên, trực tiếp sản
xuất kinh tế - xã hội sao cho phù hợp với đường lối chính trị và phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ của TCLTKT là dự báo về mặt phát triển (mục tiêu, phương
hướng phát triển theo quan điểm thống nhất đối với các ngành, lĩnh vực trên
lãnh thổ nghiên cứu nghĩa là sản xuất gì, quy mô bao nhiêu, cơ cấu gì) và luận
chứng các phương án kiến thiết lãnh thổ tương lai (dự kiến phân bố ở đâu cho
hiệu quả nhất).[15]
Các hình thức tổ chức lãnh thổ bao gồm: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp,
tổ chức lãnh thổ công nghiệp, tổ chức lãnh thổ dịch vụ và thổ chức lãnh thổ
theo không gian

Tổ chức lãnh thổ công nghiệp(TCLTCN) là 1 trong những hình thức tổ
chức của nền sản xuất xã hội theo lãnh thổ
TCLTCN là việc bố trí hợp lí các cơ sở sản xuất công nghiệp, các cơ
sở phục vụ cho hoạt động công nghiệp, các điiểm dân cư cùng kết cấu hạ tầng
trên phạm vi 1 lãnh thổ nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên trong cũng như bên ngoài lãnh thổ.[6]
Các hình thức chủ yếu của thổ chức lãnh thổ công nghiệp là: điểm công
nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghiệp tập trung, trung tâm công nghiệp,
vùng công nghiệp


8
Các hình thức tổ chức lãnh thổ theo không gian bao gồm: Khu kinh tế
(ven biển và cửa khẩu), hành lang kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế.
1.1.2.2. Khái niệm KCN
Sự hình thành và phát triển KCN là một quá trình đã diễn ra tương đối
lâu dài trên thế giới. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, những KCN đầu tiên đã được
hình thành tại một số nước tư bản phát triển. KCN đầu tiên được hình thành
vào năm 1896 tại Traffort Part của thành phố Manchester (Anh). Tiếp sau đó
các KCN lần lượt được ra đời ở Mỹ năm 1899, Italia năm 1904; đến những
năm 50 của thế kỷ XX, sự phát triển các KCN đã trở nên phổ biến ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới và khẳng định những tác động tích cực đối với sự
phát triển kinh tế. Tuy nhiên vẫn chưa có sự thống nhất trong khái niệm KCN,
cho đến nay vẫn còn tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau. Nhìn chung các
quan niệm này đều chưa thật sự thống nhất về nội dung và những đặc trưng
chủ yếu.
Theo quan điểm của các nhà khoa học trường Đại học Tổng hợp
Matxcơva: “Khu công nghiệp” là sự kết hợp theo lãnh thổ của những điểm
công nghiệp ở gần nhau được quy tụ về một hay một vài trung công nghiệp và
bị chi phối bởi các nhân tố phân bố công nghiệp đồng nhất.

Theo Xêmênov (1981) thì “khu công nghiệp là một đối tượng sản xuất
phức tạp kết hợp hàng loạt nhân tố kinh tế, xã hội, tự nhiên có quan hệ với
nhau, nhưng khác nhau về loại hình và mục đích”.
Đến năm 1981, một số nhà khoa học thuộc Viện Hàn lâm khoa học
Liên Xô trước đây đã đưa ra khái niệm khu công nghiệp tương đối rõ hơn:
Khu công nghiệp bao gồm một nhóm các trung tâm công nghiệp phân bố gần
nhau và kết hợp với nhau bằng việc cùng chung chuyên môn hoá, mạng lưới
vận tải thống nhất và những mối liên hệ sản xuất chặt chẽ.
Ở nước ta nghị định số 36/CP ngày 24-04-1997 của Chính phủ đã chỉ ra
rằng: khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh


9
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập.[10]
Như vậy có thể hiểu KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung
nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
1.1.2.3. Khái niệm KKT
Khu kinh tế ( economic zones) được xuất hiện cuối thập niên 70 của thế
kỉ XX từ Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình. Thực chất KKT là sự biến
dạng của KCN song về mặt tổ chức các khu chức năng bên trong KKT đa
dạng hơn KCN, có nhiều chính sách của nhà nước ưu tiên hơn, quy mô lãnh
thổ rộng lướn hơn, KKT đầu tiên là Thâm Quyến.
KKT, một các khái quát là một bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc
gia nhưng có không gian KT – XH riêng, được vận hành bởi khung pháp lí
riêng và điều kiện vật chất hiện đại hơn, quy mô lãnh thổ rộng lớn hơn. Hoạt
động gia lưu lãnh thổ với bên ngoài thông thoáng, quản lí nhà nước theo cơ
chế một cửu và mở.[12]
Quan niệm KKT được cụ thể hơn trong các văn bản quyết định thành

lập các KKT ở nước ta theo quyết định của Thủ tướng chính phủ( Quyết định
số 1353/ QĐ – TTg về việc phê duyệt đề án quy hoạch phát triển các KKT
ven biển của việt Nam đến năm 2020), theo đó: KKT là khu vực có ranh giới
địa lí xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, có không gian kinh tế
riêng biệt, với môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, bao gồm
các khu chức năng riêng, các công trình hạ tầng kĩ thuật xã hội, các công trình
dịch vụ và tiện ích công cộng với các chính sách ưu đãi, khuyến khích, ổn
định lâu dài, cơ chế quản lí thông thoáng trong khu pháp lí hiện hành và ngày
càng hoàn thiện.[14]
KKT cửa khẩu là một loại hình KKT, lấy giao lưu kinh tế biên giới qua
cửa khẩu( CK quốc tế hoặc quốc gia) làm nòng cốt, có ranh giới xác định,
được thành lập bởi cấp có thẩm quyền, có cơ chế hoạt động riêng, mô hình
quản lí riêng và có quan hệ chặt chẽ với khu vực xung quanh và nội địa phía
sau.[12]


10
KKT mang một chức năng riêng biệt như khu thương mại tự do, khu
Cảng tự do, khu bảo thuế, CNTT, khu chế xuất, khu công nghệ cao Những
KKT mang chức năng riêng biệt chủ yếu tập trung vào một mục tiêu, các cơ
chế chính sách cho những khu này cũng tập trung sâu nhằm phát huy tối đa
mục tiêu đó. Chẳng hạn khu bảo thuế được áp dụng các thuế suất bằng không
đối với hàng hoá ra vào khu vực này. Khu CNTT được cho áp dụng các ưu
đãi về đầu tư. Khu chế xuất được ưu đãi về gia công hàng cho xuất khẩu. Khu
CNCNC được ưu đãi về nghiên cứu-triển khai các công nghệ mới, công nghệ
cao
Khu KT mang tính chất tổng hợp được hình thành bao gồm trong nó
nhiều KKT mang chức năng riêng biệt và nhằm tới một mục tiêu tổng hợp
hơn. (khu trong khu). Các cơ chế chính sách trong KKT tổng hợp cũng mang
tính tổng hợp đa dạng hơn. Ví dụ KKT Thâm Quyến TQ, bao gồm trong nó

các cơ chế chính sách, các loại hình kinh tế như một quốc gia với những chế
độ gần như riêng biệt đối với Trung Quốc. Các khu kinh tế tính tổng hợp
thường đóng vai trò cửa ngõ đối với đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế.
1.1.3. Đặc điểm của KCN, KKT
1.1.3.1. Đặc điểm Khu công nghiệp
Thứ nhất: Khu công nghiệp có chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi nhằm
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng những phạm vi đất đai nhất định
trong khu để thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với
những ưu đãi về thủ tục xin phép và thuế đất (giảm hoặc miễn thuế).
Thứ hai: Nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ nước
ngoài hay các tổ chức, cá nhân trong nước. ở các nước, Chính Phủ thường bỏ
vốn xây dựng cơ sở hạ tầng như san lấp mặt bằng, làm đường giao thông ở
Việt Nam, Nhà nước không có đủ vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Vì vậy,
việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp được hiểu là tiến hành
kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài và trong nước kể cả xây dựng cơ sở hạ tầng.


11
Sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong khu công nghiệp dành chủ
yếu cho thị trường thế giới, đối tượng chủ yếu là phục vụ xuất khẩu. Tuy
nhiên để tăng thu ngoại tệ bằng cách giảm tối đa việc nhập khẩu máy móc,
thiết bị và hàng hóa tiêu dùng, các nhà sản xuất trong khu công nghiệp rất
quan tâm đến việc sản xuất hàng hoá có chất lượng cao với mục đích thay thế
hàng nhập khẩu.
Thứ ba: Mọi hoạt động kinh tế trong khu công nghiệp trực tiếp chịu sự
chi phối của cơ chế thị trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Bởi vậy, cơ
chế quản lý kinh tế trong khu công nghiệp lấy điều tiết của thị trường làm chính.
Khu công nghiệp có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn là
một vương quốc nhỏ trong một vương quốc như khu chế xuất. Các chế độ

quản lý hành chính, các quy định liên quan đến ra, vào khu công nghiệp và
quan hệ với doanh nghiệp bên ngoài sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong khu
công nghiệp sẽ là các tổ chức pháp nhân và các cá nhân trong và ngoài nước
tiến hành theo các điều kiện bình đẳng.
Khu công nghiệp là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành
phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và cả
doanh nghiệp 100% vốn trong nước.
1.1.3.2. Đặc điểm của Khu kinh tế
Thứ nhất: Về không gian thành lập khu kinh tế, khu kinh tế được thành
lập trên cơ sở diện tích đất tự nhiên rộng lớn có tính đặc biệt về điều kiện tự
nhiên, vị trí địa lí kinh tế thuận lợi.
Thứ hai: Về quy hoạch tổng thể, khu kinh tế được chia làm hai khu vực
chính: khu thuế quan và khu phi thuế quan.
+ Khu thuế quan (khu bảo thuế trong một số khu kinh tế đã được thành
lập) là khu có ranh giới địa lí xác định, được ngăn cách bằng hàng rào cứng
với khu vực xung quanh, không có dân cư sinh sống. Các hoạt động trong khu


12
phi thuế quan, bao gồm: sản xuất hàng xuất khẩu và hàng phục vụ tại chỗ,
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, xúc tiến thương mại và các hoạt
động thương mại khác. Quan hệ trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa khu phi thuế
quan với nước ngoài, giữa các doanh nghiệp trong khu phi quan với nhau
được xem như quan hệ trao đổi giữa các nước với nhau. Hàng hóa từ nước
ngoài nhập khẩu vào khu phi thuế quan hoặc từ khu phi thuế quan xuất khẩu
ra nước ngoài không thuộc diện phải nộp thuế nhập khẩu, xuất khẩu.
+ Khu phi thuế quan là khu vực còn lại của khu kinh tế, ngoài phạm vi
khu thuế quan. Trong khu thuế quan có khu công nghiệp, khu chế xuất, khu

giải trí đặc biệt như du lịch, khu dân cư và khu hành chính. Hàng hóa ra vào
khu thuế quan thuộc khu vực kinh tế phải tuân theo pháp luật về mặt hàng,
thuế xuất nhập khẩu, nhưng được áp dụng những thủ tục hải quan thuận lợi.
Hàng hóa được tự do lưu thông giữa khu thuế quan và khu vực nội địa.
Thứ ba: về lĩnh vực đầu tư, KKT được phép đầu tư đa ngành, đa lĩnh
vực, nhưng có mục tiêu trọng tâm phù hợp từng khu kinh tế được thành lập ở
mỗi địa bàn khác nhau.
* Phân biệt Khu công nghiệp và khu kinh tế:
Hai khu vực này được phân biệt dựa vào các đặc điểm sau
+ Về không gian thành lập, khu công nghiệp có đặc điểm nổi bật là có
sự giải phóng mặt bằng, thiết kế và xây dựng mới theo quy hoạch còn khu
kinh tế lại được xây dựng trên cơ sở diện tích đất tự nhiên sẵn có, đã tồn tại
một số điều kiện nhất định về dân cư, địa lí,…Các yếu tố thuận lợi này được
khai thác trong quá trình quy hoạch, xây dựng mới các khu chức năng, các
công trình kĩ thuật hạ tầng, tạo thành một không gian kinh tế lớn và mang tính
đặc thù.
+ Về chức năng hoạt động, ở khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ dành cho sản xuất công nghiệp, lĩnh vực
đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp là sản xuất công nghiệp và dịch vụ phục
vụ cho sản xuất công nghiệp. Trong khu công nghiệp, các hoạt động sản xuất


13
nông, lâm, ngư nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho các loại sản xuất này
không tồn tại. Còn ở khu kinh tế thì lại được phép đầu tư đa ngành, đa lĩnh
vực nhưng có mục tiêu trọng tâm phù hợp với từng khu vực kinh tế được
thành lập ở mỗi địa bàn khác nhau.
+ Đối với KKT, ở khu thuế quan thì bao gồm cả các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu giải trí đặc biệt, khu dân cư, khu hành chính,…Trong đó,
khu công nghiệp lại là một thực thể đơn lẻ có thể thuộc khu kinh tế hoặc

không phân biệt với các lãnh thổ khác và thường không có dân cư sinh sống.
Như vậy có thể thấy khu kinh tế là mô hình kinh tế đặc biệt, có quy mô lớn và
không chỉ tập trung phát triển công nghiệp , có ranh giới địa lí xác định nhưng
không tách biệt với khu dân cư.
1.1.4 Vai trò của KCN, KKT
Với chức năng là những hạt nhân số một, những đòn bẩy của các vành
đai công nghiệp, các hành lang hay tam giác tăng trưởng kinh tế của cả nước,
khu công nghiệp và khu kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất: Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu,
tăng thu và giảm chi ngoại tệ
Mô hình khu công nghiệp và khu kinh tế có vai trò thu hút các ngành
sản xuất hàng xuất khẩu và thu ngoại tệ. Thực tế ở nhiều nước xuất khẩu,
hàng sản xuất ra từ các KCN, KKT chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số lượng
hàng hoá xuất khẩu của nước đó. Trong giai đoạn đầu hoạt động của các
KCN, KKT mục tiêu tăng thu ngoại tệ nhìn chung không đạt được, vì các
doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu để nhập khẩu công
nghệ, thiết bị tiên tiến.Vì vậy nhập khẩu nhưng không mất ngoại tệ của nhà nước.
Sự hình thành các KCN, KKT khai thác các nguồn lực để phát triển các
nhóm ngành CN – XD và dịch vụ, góp phần chuyển đổi ngành nghề, phát
triển kinh tế nhiều thành phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng


14
tăng CN – XD giảm nông nghiệp theo đúng định hướng phát triển của Đảng
và nhà nước.
Thứ hai: Thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, cải thiện môi
trường đầu tư
Với qui chế quản lý và hệ thống chính sách ưu đãi, các khu công
nghiệp và khu kinh tế sẽ tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh, thuận lợi;

có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài; từ đó giúp cho nước chủ
nhà có thêm vốn đầu tư, tiếp cận vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến, học được
phong cách quản lý hiện đại. Hơn thế nữa, việc phát triển KCN, KKT cũng
phù hợp với chiến lược của các công ty đa quốc gia (TNCs) trong việc mở
rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận, tranh thủ
thuế quan ưu đãi từ phía nước chủ nhà, khai thác thị trường rộng lớn ở các
nước đang phát triển. Chính vì vậy mà số vốn đầu tư vào các địa bàn này
không ngừng tăng lên.
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với thuận lợi về vị trí, ưu
đãi về chính sách và cơ chế, KCN, KKT còn khuyến khích thu hút các nhà
đầu tư trong nước - một nguồn vốn tiềm tàng trong dân chúng có ý nghĩa rất
quan trọng và cũng là nguồn vốn rất lớn còn chưa được khai thác và sử dụng
một cách xứng đáng. KCN, KKT sẽ tạo môi trường và cơ hội phát huy năng
lực về vốn cũng như sản xuất kinh doanh trong cùng một điều kiện ưu đãi đối
với các nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua việc liên doanh, liên kết, các doanh
nghiệp trong nước có điều kiện và cơ hội để tiếp thu kinh nghiệm quản lý,
trình độ điều hành sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại
của người nước ngoài, bồi dưỡng nhân tài, có các phương án cải cách để tiến
dần đến trình độ thế giới.
Thứ ba: Tạo công ăn việc làm và nâng cao trình độ người lao động
Các khu công nghiệp và Khu kinh tế hằng năm đã giải quyết việc làm,
tạo thu nhập đáng kể cho người lao động, giảm gánh nặng thất nghiệp cho nhà
nước. Điều này có thể làm được vì các chủ đầu tư nước ngoài cũng muốn sử


15
dụng nguồn lao dộng dồi dào và rất rẻ của nước có KCN, KKT để tăng thêm
lợi nhuận. Tuỳ thuộc vào từng loại ngành nghề mà có lao động ở các trình độ
khác nhau. Ngành nghề càng đa dạng càng thu hút được nhiều lao động nhàn
rỗi. Ngoài một bộ phận được đào tạo, có một tỉ lệ lao động đáng kể là lao

động phụ nữ, trẻ, chưa lập gia đình, không có tay nghề và từ vùng nông thôn
ra làm việc.
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về việc làm và thu nhập của công
nhân làm việc trong các khu công nghiệp . Đó là họ không được nắm giữ các
cương vị chủ cốt như tổng giám đốc và thủ quỹ mà chỉ nắm giữ các cương vị
quản lý trung gian, thiết kế chế tạo Tiền lương của công nhân làm việc cho
các khu công nghiệp thường thấp hơn rất nhiều so với tiền lương trả cho công
nhân ở các nước phát triển khi cùng làm một công việc tương tự. Trong các
khu công nghiệp, nhất là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì hầu như
không có tổ chức công đoàn bảo vệ quyền lợi công nhân hoặc nếu có thì hoạt
động kém hiệu quả. Song nếu so sánh tiền công giữa công nhân làm việc
trong KCN,KKT so với công nhân làm việc ngoài KCN,KKT thì mức lương
của công nhân làm việc trong KCN vẫn cao hơn. Ngoài ra họ còn được hưởng
những khoản phụ cấp ngoài lương khác như phụ cấp ăn trưa và có phương
tiện đưa đón Như vậy, về mặt công ăn, việc làm và thu nhập, khu công
nghiệp và khu kinh tế đã mang lại lợi ích rõ rệt cho đất nước
Thứ tư: Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý
hiện đại
Việc các nước phát triển đầu tư vào các KCN,KKT sẽ đưa vào đây
những thiết bị kỹ thuật tiên tiến, qui trình công nghệ hiện đại để sản xuất ra
các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị
trường, cũng từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp của các vùng, các khu vực đổi
mới thiết bị và công nghệ, nâng cao từng bước chất lượng sản phẩm.
Xuất phát từ các trang thiết bị hiện đại, công nghệ kĩ thuật tiên tiến, các
cán bộ quản lý, các công nhân kĩ thuật và viên chức làm việc tại các khu công


16
nghiệp, khu kinh tế sẽ được đào tạo lại, đào tạo bổ sung cho thích hợp và trực
tiếp tiếp thu tác phong công nghiệp, kinh nghiệm quản lý, phương pháp kiểm

tra chất lượng hiện đại, thích ứng với cơ chế thị trường và đạt hiệu quả cao.
Những kết quả này không chỉ mang lại cho khu công nghiệp, khu kinh tế mà
nó còn tác động mạnh đến việc thay đổi công nghệ, trang thiết bị, chất lượng
sản phẩm, cơ chế hoạt động, kiến thức và phương pháp quản lý của các doanh
nghiệp bên ngoài, làm cho các doanh nghiệp này cũng đổi mới để đạt hiệu
quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư, tiếp thu khoa học công nghệ phải từ các
nước có nền công nghệ hiện đại nếu không nước được đầu tư sẽ trở thành kho
chứa những công nghệ lac hậu, đi sau thời đại.
Thứ năm: Tăng cường các mối liên kết và tác động tới bộ phận còn lại
của nền kinh tế, khai thác hiệu quả các nguồn lực và lợi thế của đất nước,
vùng lãnh thổ
Một trong những mục đích thiết lập khu công nghiệp, khu kinh tế là
thúc đẩy sự phát triển toàn diện trong vùng, thực hiện marketing trên thị
trường trong nước, mở cửa nền kinh tế trong nước cho hệ thống mậu dịch và
tài chính quốc tế, phát triển hợp tác kinh tế đối ngoại và trao đổi kỹ thuật, đẩy
mạnh công cuộc hiện đại hoá đất nước. Các khu công nghiệp được coi như
một bộ phận gắn liền của chính sách mở cửa ra thế giới bên ngoài, tăng cường
mối liên kết trao dổi kinh tế và kỹ thuật với thế giới.
Hơn nữa, việc phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế còn tạo ra sự tác
động trở lại đối với những động thái phát triển của các ngành sản xuất trong
nước thông qua việc các khu kinh tế đặc biệt này sử dụng vật liệu trong nước,
hoặc qua việc doanh nghiệp trong nước lắp ráp, chế biến và dịch vụ cho các
khu công nghiệp. Việc tận dụng được các nguồn lực trong nước giúp giảm chi
phí, nâng cao hiệu quả và năng suất, khai thác hết các tiềm năng sẵn có phục
vụ cho tăng trưởng nền kinh tế.


17
Việc tạo việc làm, tăng lương cho công nhân trong các KCN, KKT còn

tạo chi tiêu làm những khu vực xung quanh KCN, KKT cùng phát triển, hiệu
ứng lan tỏa khiến nền kinh tế của nước được đầu tư phát triển kinh tế.
Như vậy có thể nói khu công nghiệp và khu kinh tế là công cụ khá hữu
hiệu để một đất nước khởi động sự phát triển các lĩnh vực công nghiệp hướng
về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu và sử dụng nhiều lao động trong nước, thu
hút vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước đang phát triển.
Về lâu dài, các khu công nghiệp tác động gián tiếp đến toàn bộ nền kinh tế
qua khâu chuyển giao công nghệ và qua những mối liên kết khu công nghiệp
với nội địa. Cho dù còn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề lợi ích của các
khu công nghiệp song đây vẫn là một giải pháp thích hợp với giai đoạn đầu
của quá trình đẩy nhanh sự phát triển của các nước đang phát triển vì nó phù
hợp trình độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư trong giai đoạn đầu chuyển sang cơ
chế thị trường, là con đường mở cửa để gia nhập vào nền kinh tế thế giới.
1.1.5. Các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển KCN,
KKT
1.1.5.1. Các nhân tố tự nhiên
Vị trí địa lí có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển KCN, KKT.Vị trí địa lí tạo ra lợi thế hoặc là hạn chế cho việc huy
động các nguồn lực cho tổ chức lãnh thổ kinh tế, tạo ra các mối liên hệ sản
xuất, trao đổi sản phẩm, tiếp thu KH – CN, mở rộng quan hệ kinh tế. Trong
xu thế hội nhập, vị trí địa lí được đánh giá cao khi lựa chọn vị trí để xác lập
các cực phát triển và tăng trưởng vì vậy đây là yếu tố được xem xét đến đầu
tiên xem có nên bố trí KCN, KKT trên lãnh thổ hay không.
ĐKTN và TNTT là nhân tố tiền đề nền tảng của KCN, KKT nhất là
giai đoạn đầu, không có ĐKTN và TNTT cần thiết thì không thể có hoạt động
kinh tế. Những đặc trưng về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên (đất,
nước, khoáng sản, sinh vật, biển…) của lãnh thổ quy định đặc điểm lãnh thổ,
cường độ và hướng di chuyển các môi quan hệ và từ đó quy định việc lựa



18
chọn các ngành công nghiệp để tận dụng được những điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên sẵn có.
1.1.5.2. Các nhân tố KT-XH
Thứ nhất: Về dân cư và nguồn lao động mà cụ thể là con người, con
người vừa là chủ thể của quá trình sản xuất, tạo ra của cải phục vụ nhu cầu
sản xuất và tiêu dùng (lực lượng lao động), lại vừa là đối tượng tiêu thụ sản
phẩm (thị trường tiêu thụ). Dưới góc độ lực lượng sản xuất, lực lượng lao
động có ý nghĩa quan trọng đến TCLTKT ở từng lãnh thổ nhất định, quy mô
và gia tăng dân số, phân bố dân cư, chất lượng dân cư và các dòng di dân quy
định số lượng và chất lượng lao động từ đó ảnh hưởng tới sự phát triển các
KCN, KKT. Dưới góc độ thị trường tiêu thụ, quy mô và cơ cấu dân số, truyền
thống và tập quán tiêu dùng tác động trực tiếp quy định đầu ra sản phẩm để
phù hợp với nhu cầu thị trường và ảnh hưởng đến vị trí sắp xếp các KCN,
KKT trên địa bàn.
Thứ hai: Về công nghệ đây là biện pháp để các KCN, KKT thực hiện
có hiệu quả các quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra của cải vật chất tăng
năng suất lao động tạo ra những sản phẩm khác biệt có lợi thế canh tranh trên
thị trường, áp dụng khoa học công nghệ mới tạo ra những thành quả lao động
mang tính đột phá nhảy vọt. KH – CN sẽ làm thay đổi khả năng khai thác lãnh
thổ cả về chiều rộng và chiều sâu. Thay vì lao động thủ công tốn kém chi phí
và thời gian thì KH – CN sẽ tạo ra nhiều bươc nhảy vọt vì vậy đòi hỏi các
KCN, KKT phải không ngừng đổi mới KH, CN để theo kịp đà tăng trưởng và
phát triển. Những quy trình khai thác và sản xuất dựa trên công nghệ hiện đại
sẽ làm giảm thiểu sự lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường, tiết kiệm chi
phí sản xuất và tăng khả năng tập trung hóa sản xuất trong một không gian
nhất định.
Thứ ba: Về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng gồm
mạng lưới đường giao thông, hệ thống cấp điện, nước, xử lí chất thải,, hệ
thống thông tin liên lạc,… có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành và phát



19
triển các KCN, KKT, tạo khả năng hấp dẫn đầu tư, mức độ tập trung sản xuất,
hiệu quả khai thác lãnh thổ…. Cơ sở vật chất kĩ thuật là nền tảng cho phát
triển và TCLTKT, nơi nào có cơ sở vật chất kĩ thuật (kho bãi, công trình bảo
vệ môi trường,…) thì KCN, KKT sẽ đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu
CSVCKT thiếu hoặc kém phát triển sẽ khó hình thành và thúc đẩy sự phát
triển KCN, KKT.
Thứ tư: Về Trình độ phát triển của nền kinh tế và đường lối chính sách,
đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định vì nó tạo ra phương tiện vật chất, mở
rộng các nhu cầu mới nhằm hình thành các hình thức mới. Nền kinh tế phát
triển sẽ tạo điều kiện cho phát triển các yếu tố nền cần thiết, thuận lợi cho xây
dựng và phát triển các KCN, KKT cũng như thu hút đầu tư, điều này giúp
tránh rủi ro khi thành lập các KCN, KKT.
Đường lối chính sách là nhân tố gốc tạo ra các phản ứng dây chuyền tác
động đến phân bố các cơ sở sản xuất, CSHT của lãnh thổ. Đóng vai trò quan
trọng đối với thành công hay thất bại của KCN, KKT. Sự điều hành vĩ mô của
nhà nước với các chính sách, cơ chế, biện pháp đúng đắn sẽ thúc đẩycác
KCN, KKT phát triển. Ngược lại, nếu đường lối chính sách không phù hợp sẽ
kìm hãm, thậm chí đẩy lùi phát triển KCN, KKT.
Thứ năm: Về nguồn vốn và các mối quan hệ liên vùng, quốc tế; Các
mối quan hệ liên vùng và quốc tế này thúc đẩy quá trình TCLT KCN, KKT
nhanh hay chậm. Mối quan hệ hợp tác chủ yếu là: vốn, kĩ thuật công nghệ, tổ
chức quản lí, tiêu thụ sản phẩm…. Nguồn vốn đầu tư và thị trường có ảnh
hưởng đến việc hình thanh, mở rộng, xây mới và bổ sung các KCN, KKTcũng
như cơ cấu ngành CN. Thị trường trong nước và quốc tế có vai trò trong điều
tiết và kích thích sự phát triển KCN, KKT. Vì vậy, vấn đề về vốn và kêu gọi
đầu tư là thách thưc không nhỏ để có thể phát triển ở các KCN, KKT.
Thứ sáu: Về tình hình chính trị, KT-XH liên vùng và quốc tế, nhu cầu

của thị trường là nhân tố thúc đẩy việc khai thác, phát huy các thế mạnh của
lãnh thổ theo hướng chuyên môn hóa, từ đó góp phần xác định nên hay không


20
việc hình thành các KCN, KKT sao chophù hợp. các mối quan hệ kinh tế liên
vùng phát huy được lợi thế, khắc phục được những hạn chế của 1 lãnh thổ,
đồng thời tạo ra sự phối hợp trong phát triển kinh tế giữa các lãnh thổ để đảm
bảo sự phát triển ổn định và lâu dài.
1.1.6. Một số chỉ tiêu đánh giá TCLT KCN, KKT
Từ đặc điểm, vai trò cũng như các yếu tố tác động đến KCN, KKT có
thể hình thành một số tiêu chí đánh giá KCN, KKT như sau:
Để khẳng định được tầm quan trọng của một KCN, KKT trên lãnh thổ
xem xét việc sắp xếp có hiệu quả hay không trước hết phải đánh giá được
những đóng góp của KCN, KKT đó cho nền kinh tế của tỉnh cũng như của cả
nước như thế nào. Có tạo ra được hiệu quả cao hơn khi chưa có KCN và KKT
hay không, có tương xứng với tiềm năng, lợi thế, với chi phí bỏ ra hay không,
có khả năng tiếp tục phát triển đồng thời thay đổi được diện mạo của lãnh thổ
trong tương lai hay không. Đây là tiêu chí đầu tiên khi xem xét một khu công
nghiệp, khu kinh tế.
Tiêu chí thứ hai là quy mô, bố trí, xây dựng có đáp ứng được yêu cầu
sản xuất ở hiện tại và tương lai với tầm nhìn xa rộng sau này hay không,có
như quy hoạch đề ra hay không. Theo đó các KCN, KKT phải không ngừng
phát triển, nâng cao chất lượng và hiệu quả để không bị lạc hậu so với thế giới
mà vẫn đảm bảo phù hợp với yêu cầu trong nước.
Tiêu chí thứ ba là các hạn chế ở hiện tại có trong khả năng khắc phục
được hay không, có thực sự là vấn đề quá nghiêm trọng hay không.
Để đánh giá các KCN, KKT cần có rất nhiều tiêu chí, và cách nhìn
nhận đứng trên góc độ khác nhau cũng sẽ khác nhau vì vậy đây chỉ là những
tiêu chí cơ bản nhằm xác định xem tổ chức KCN, KKT đã hợp lí chưa.

1.2. Thực tiễn phát triển KCN,KKT ở Việt Nam và vùng Bắc
Trung Bộ trong giai đoạn vừa qua
1.2.1. Thực tiễn phát triển KCN, KKT ở Việt Nam


21
Trãi qua hơn 20 năm (từ năm1991) hình thành và phát triển, tính đến
nay, cả nước có 264 KCN đã thành lập với tổng diện tích tự nhiên là 74.050ha
với tổng vốn đầu tư hạ tầng đăng ký đạt khoảng 2,7 tỷ USD và trên 119 ngàn
tỷ đồng. Tỷ lệ lấp đầy bình quân cả nước đạt 47%. Cho đến tháng 12 năm
2012, các KCN đã thu hút 4244 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng
ký là 56,5 triệu USD và có 4561 dự án trong nước có hiệu lực trong KCN, với
tổng vốn đầu tư trên 365 ngàn tỷ đồng. Tính bình quân một ha đất công nghiệp
cho thuê thu hút vốn đầu tư khoảng 3,8 triệu USD. KCN đã góp phần quan trọng
trong giải quyết việc làm. Tính đến 31/12/2008, các KCN đã thu hút trên 1,17 triệu
lao động trực tiếp. Tính bình quân một ha đất công nghiệp đã cho thuê thu hút trên
70 lao động trực tiếp (trong khi một ha đất nông nghiệp chỉ thu hút được 10 - 12 lao
động). Các KCN đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi bộ mặt lãnh thổ
công nghiệp Việt Nam cũng như xây dựng tiềm lực công nghiệp mạnh cho phát
triển kinh tế đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được các KCN của Việt
Nam còn rất nhiều hạn chế như vấn đề quy hoạch, vốn, quan lí,…
Về KKT, hiện Việt Nam có 18 KKT ven biển và 25 KKT cửa khẩu
được phê duyệt trong Quy hoạch phát triển KKT ven biển của cả nước và quy
hoạch phát triển các KKT của khẩu của Việt Nam đến năm 2020 theo quyết
định số 52/2008/QĐ – TTg. Theo đó, cho đến nay, 18 KKT ven biển với tổng
diện tích mặt đất và mặt nước lên tới 730 000 ha trong số này 9 KKT bao gồm
Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn,Vũng Áng, Chân Mây – Lăng Cô,
Vân Phong, Vân Đồn, Nam Phú Yên đã cơ bản hoàn thành quy hoạch tổng
thể phát triển, quy hoạch chi tiết các phân khu chức năng và đang xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật – xã hội. 9 KKT còn lại vẫn còn đang trong giai đoạn xây

dựng quy hoạch, chuẩn bị bộ máy và nhân sự, xây dựng dự án, xây dựng dự án,
huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, tiên hành đền bù giải phóng mặt bằng.
1.2.2. Thực tiễn phát triển KCN, KKT Bắc Trung Bộ
Khu vực Bắc Trung Bộ phía bắc giáp vùng kinh tế Đồng bằng sông
Hồng, phía Tây giáp nước CHDCND Lào, phía Nam giáp vùng kinh tế Nam

×