Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thực hiện sự nghiệp đổi mới nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165 KB, 22 trang )

Lời mở đầu
Thực hiện sự nghiệp đổi mới kinh tế.
Nớc ta chuyển từ nền tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị tr-
ờng và hạch toán kinh tế độc lập có sự quản lý của Nhà nớc. Vì vậy, mối quan
tâm hàng đầu của các doanh nghiệp là thực hiện bảo toàn và phát triển vốn sản
xuất kinh doanh. Để nắm bắt đầy đủ tình hình thực của doanh nghiệp và có biện
pháp ứng phó kịp thời các biến động của thị trờng, các nhà quản lý doanh
nghiệp phải sử dụng nhiều công cụ quan trọng trong hệ thống các công cụ quản
lý để quản lý vốn, tài sản và các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Kế toán, đồng thời là nguồn cung cấp thông tin kinh tế đáng tin cậy giúp
Nhà nớc điều hành vĩ mô nền kinh tế, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các
ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Nhận thức đợc tầm quan trọng
đó, công tác tổ chức kế toán nói cung và tổ chức giá thành nói riêng luôn đợc
các doanh nghiệp quan tâm, về: quản lý giá thành sản phẩm, phơng pháp tính giá
thành biện pháp tính giá thành.
Giá thành là một chỉ tiêu chất lợng quan trọng cho phép tổng hợp, đánh
giá toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nên đòi
hỏi phải có phơng pháp tính giá khoa học, hợp lý nhằm phát huy vai trò của giá
thành.
Giá thành sản phẩm cao hay thấp, tăng hay giảm đồng nghĩa với việc lãng
phí hay tiết kiệm lao động xã hội, bao gồm cả lao động sống và lao động vật
hoá trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Hay giá thành sản phẩm cao hay thấp
phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng vật t, lao động, tiền vốn của xí
nghiệp. Việc quản lý, sử dụng vật t, lao động, tiền vốn của xí nghiệp. Việc quản
lý, sử dụng hợp lý tiết kiệm các nguồn trên sẽ cho phép việc hạ giá thành sản
phẩm và ngợc lại. Đó cũng là đòi hỏi khách quan với các xí nghiệp hạch toán
kinh doanh XHCN.
1
Tuy vậy, với nớc ta giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh
nghiệp thì các doanh nghiệp phải tự quyết định lấy việc lập kế hoạch sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm và phải hạch toán kinh tế một cách độc lập, lấy thu bù chi.


Trong sản xuất kinh doanh, khi quyết định chọn phơng án sản xuất, kinh
doanh loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp phải tính đến chi phí bỏ ra để sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm tức là các doanh nghiệp cần xác định tập hợp chi phí
sản xuất tính giá thành sản phẩm một cách chính xác. Vấn đề là khi doanh nghiệp
đã tính chính xác giá thành sản phẩm thì cũng có thể xác định đợc kết quả sản
xuất, kinh doanh thực tế và hiệu quả tổ chức kỹ thuật đến sản xuất... Mặt khác,
giá thành là cơ sở để xác định giá bán sản phẩm trên thị trờng, là nhân tố quan
trọng quyết định sự tồn tại và phạm vi phát triển của sản phẩm trên thị trờng.
Do đó, việc tính toán giá thành sản phẩm chính xác là yêu cầu rất cần
thiết đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế cạnh tranh trong sản xuất, kinh
doanh dẫn đến sự phá sản của nhiều đơn vị sản xuất yếu thế. Trong cạnh tranh,
giá thành là cốt lõi quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Song, để tính
chính xác giá thành sản phẩm thì buộc doanh nghiệp phải thực hiện một cách
đầy đủ và chính xác các khâu và các bớc công việc cần thiết sau:
1 - Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
2 - Nhiệm vụ kế toán tính giá thành sản phẩm.
3 - Vị trí, vai trò của công tác quản lý giá thành và ý nghĩa của việc hạ
thấp giá thành sản phẩm.
4 - Đối tợng tính giá thành, các phơng pháp tính giá thành.
Với kiến thức trong thời gian học tập qua, nhờ sự giảng dạy tận tình của
các giáo viên công với cố gắng của bản thân, em xin phép đi sâu vào phơng
pháp tính giá thành sản phẩm. Em rất mong đợc sự góp ý của các thày cô để
hoàn thiện hơn chuyên đề của em.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chơng I
2
Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
1 - Khái niệm giá thành sản phẩm
Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất gồm hai mặt đối lập

nhng quan hệ mật thiết với nhau: Một mặt là chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra,
mặt khác là kết quả sản xuất thu đợc. Các sản phẩm, công việc, lao vụ nhất
định đã hoàn thành phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội cần đợc tính
giá thành.
Vậy, giá thành sản phẩm, dịch vụ là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản
xuất tính cho một khối lợng sản phẩm, dịch vụ nhất định đã hoàn thành.
2 - Bản chất, chức năng của giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm luôn đợc biểu hiện ở các mặt định
tính và định lợng.
Mặt định tính đó là các yếu tố chi phí hiện vật hay bằng tiền tiêu hao
trong quá trình sản xuất và chế tạo sản phẩm.
Mặt định lợng thể hiện mức độ tiêu hao cụ thể của từng loại chi phí
tham gia vào quá trình sản xuất, chế tạo để cấu thành nên sản phẩm, biểu
hiện bằng thớc đo giá trị.
Mục đích của sản xuất, kinh doanh hay mục đích chi phí doanh nghiệp
là tạo nên giá trị sử dụng nhất định để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trờng, các doanh nghiệp luôn quan tâm đến hiệu
quả của chi phí bỏ ra, sao cho với chi phí bỏ ra ít nhất vẫn thu đợc giá trị sử
dụng lớn nhất có thể và luôn tìm cách để hạ chi phí với mục đích tối đa hoá lợi
nhuận. Trong hệ thống chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác quản lý giá thành
sản phẩm là chỉ tiêu đáp ứng đợc các nội dung thông tin trên.
Trong giá thành sản phẩm, luôn chứa hai mặt khác nhau vốn có: chi
phí sản xuất và lợng giá trị sử dụng thu đợc cấu thành trong sản phẩm, dịch
vụ nhất định đã hoàn thành.
Giá thành sản phẩm có hai chức năng chủ yếu: chức năng thớc đo bù
đắp chi phí và chức năng lập giá.
3
Toàn bộ chi phí mà các doanh nghiệp có sẽ hoàn thành một lợng sản
phẩm, dịch vụ phải đợc bù đắp bằng chính số tiền thu về nhờ tiêu thụ (bán)
sản phẩm, dịch vụ đó. Việc bù đắp chi phí đầu vào đó chỉ mới bảo đảm đợc

quá trình tái sản xuất giản đơn. Mà, mục đích sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp trong cơ chế thị trờng là ngoài việc bù đắp chi phí đầu vào còn
phải có lãi. Trong cơ chế thị trờng, sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào quy luật
cung - cầu, sự thoả thuận giữa các doanh nghiệp và khách hàng, do vậy việc
bán sản phẩm, dịch vụ phải đợc dựa trên cơ sở giá thành của sản phẩm để xác
định. Thông qua đó để đánh giá mức độ bù đắp chi phí và hiệu quả sử dụng
chi phí đó.
3 - Kết cấu giá thành sản phẩm.
Kết cấu giá thành sản phẩm là tỷ trọng từng khoản mục chiếm trong
tổng số khoản mục, ở xí nghiệp khác nhau, những ngành khác nhau thì kết
cấu giá thành cũng khác nhau. Kết cấu giá thành sản phẩm phụ thuộc các yếu
tố:
+ Đặc điểm, tính chất của từng loại sản phẩm.
+ Trình độ trang bị và sử dụng kỹ thuật sản xuất.
+ Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của các doanh
nghiệp trong cùng một ngành.
+ Điều kiện tự nhiên (vị trí từng doanh nghiệp)
+ Công tác quản lý sản xuất, tổ chức cung tiêu sản phẩm.
Theo chế độ kế toán hiện hành, kết cấu giá thành bao gồm 3
khoản mục sau:
+ Nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: tất cả các nguyên liệu đợc sử dụng để
sản xuất ra sản phẩm.
+ Nhân công trực tiếp: Tiền lơng chính, lơng phụ, phụ cấp trả cho ngời
trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ.
+ Chi phí sản xuất chung: các chi phí sản xuất khác, kể cả nguyên vật
liệu gián tiếp và nhân công gián tiếp.
4
Việc nghiên cứu kết cấu giá thành có ý nghĩa rất lớn trong công tác
quản lý giá thành. Nghiên cứu kết cấu cho thấy rõ tình hình chi phí sản xuất
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và sự biến động từng khoản mục chi phí

trong cùng thời kỳ, là căn cứ xác định trọng tâm cần quản lý, phơng hớng
khai thác, sản xuất để hạ thấp giá thành. Mặt khác, giúp cơ quan chủ quản và
cơ quan quản lý thấy đợc mặt mạnh, mặt yếu của từng doanh nghiệp. Từ đó,
có biện pháp giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, nghiên cứu
xu hớng thay đổi kết cấu giá thành trong các thời kỳ khác nhau giúp doanh
nghiệp thấy đợc tính chất sử dụng thiết bị máy móc, trang bị kỹ thuật, lao
động sản xuất, tăng năng suất lao động, mức độ chi phí nguyên vật liệu, sức
lao động... của mỗi doanh nghiệp hoặc mỗi ngành.
4 - Các loại giá thành sản phẩm.
a. Căn cứ vào thời gian, cơ sở số liệu tính giá thành sản phẩm.
* Giá thành kế hoạch: đợc xác định trớc khi bớc vào kinh doanh trên
cơ sở giá thành thực tế kỳ trớc và các định mức, dự toán chi phí của kỳ kế
hoạch.
* Giá thành định mức: Đợc xác định trớc khi bớc vào sản xuất sản
phẩm, dịch vụ, đợc xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và
không biến đổi trong cả kỳ kế hoạch. Giá thành định mức theo chi phí hiện
hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch nên giá thành định mức
luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt đợc trong
quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
* Giá thành thực tế: đợc xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất
dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản
phẩm, dịch vụ.
b. Căn cứ vào phạm vi phát sinh chia thành:
* Giá thành sản xuất (giá thành công xởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả
các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất.
5
* Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ
các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Đợc tính theo công thức:
5 - Sự khác nhau giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.

Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt biểu hiện của quá
trình sản xuất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giống nhau về chất vì đều
gồm hao phí về lao động sống, lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra
trong quá trình sản xuất sản phẩm. Tuy vậy, giữa chúng lại khác nhau về l-
ợng, thể hiện:
Chi phí sản xuất luôn gắn với một thời kỳ nhất điểm. Còn giá thành
sản phẩm luôn gắn với một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định.
Giá thành sản phẩm chỉ bao gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh
hoặc một phần chi phí sẽ phát sinh ở các kỳ sau nhng đã ghi nhận là chi phí
kỳ này (chi phí phải trả).
Giá thành sản phẩm chứa đựng cả một phần chi phí của kỳ trớc chuyển
sang (chi phí về sản phẩm dở dang đầu kỳ).
Nhiệm vụ kế toán tính giá thành sản phẩm.
Để quản lý tốt giá thành sản phẩm, cần tổ chức công tác tính giá thành
thực tế của các loại sản phẩm sản xuất ra một cách chính xác, kịp thời, đúng
đối tợng, đúng chế độ quy định, đúng phơng pháp. Vậy, tính giá thành sản
phẩm vừa và một phơng pháp của kế toán, vừa là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của công tác kế toán trong các xí nghiệp sản xuất. Tổ chức tốt
công tác tính giá thành sản phẩm là rất thiết thực đối với việc tăng cờng, cải
tiến công tác quản lý giá thành, quản lý xí nghiệp. Nhiệm vụ của kế toán
trong công tác tính giá thành sản phẩm:
1 - Xác định đối tợng tính giá thành trong xí nghiệp: quy trình công
nghệ, tổ chức sản xuất phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế, quản lý xí
nghiệp. Lựa phơng pháp tính giá thành thích hợp cho từng đối tợng và xây dựng
quy tắc tính phù hợp với phơng pháp kế toán và các chế độ hiện hành.
6
2. Căn cứ vào quy tắc tính giá thành đã xây dựng để tổ chức công tác
tính giá thành sản phẩm thực tế cho từng đối tợng, từng đơn vị sản phẩm theo
khoản mục giá thành quy định đúng kỳ hạn, đúng phơng pháp, chế độ và bảo
đảm chính xác.

3. Định kỳ tổ chức phân tích tình hình thực hiện kế hoạch, giá thành,
nhiệm vụ hạ giá thành, vạch ra nguyên nhân hoàn thành, cha hoàn thành, các
khả năng tiềm tàng có thể khai thác, phơng hớng, yêu cầu phấn đấu hạ giá
thành sản phẩm thực tế.
7
Chơng II
Vị trí, vai trò của công tác quản lý giá thành, ý
nghĩa việc hạ thấp giá thành sản phẩm.
Giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lợng toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của xí nghiệp.
Mức hạ giá thành và tỷ lệ hạ giá thành phản ánh trình độ sử dụng hợp lý, tiết
kiệm nguyên vật liệu, khả năng vận dụng công suất máy móc thiết bị, mức độ
trang bị, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến; kết quả việc sử dụng hợp lý sức
lao động, tăng năng suất lao động, trình độ quản lý tài chính, hạch toán kinh
tế của xí nghiệp.
Giá thành sản xuất của sản phẩm, dịch vụ chỉ tính chi phí sản xuất sản
phẩm, còn giá thành toàn bộ của sản phẩm, dịch vụ gồm cả chi phí sản xuất
sản phẩm cộng thêm chi phí ngoài sản xuất phân bổ cho sản phẩm đó. Giá
thành sản xuất dùng để tính trị giá của thành phẩm khi nhập kho thành phẩm
hoặc khi gửi đi tiêu thụ. Còn giá thành toàn bộ đợc xác định khi tính toán kết
quả tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
Trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ tiêu
giá thành sản phẩm thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
+ Giá thành là thớc đo mức chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp là một căn cứ để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanhvà ra
quyết định sản xuất kinh doanh. Để quyết định sản xuất loại sản phẩm naò
đó, doanh nghiệp cần nắm đợc nhu cầu, giá cả thị trờng, tất yếu phải biết mức
chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đó của bản thân doanh nghiệp bỏ ra. Trên
cơ sở đó, xác định đợc hiệu quả sản xuất các loại sản phẩm đó để quyết định
khối lợng sản xuất nhằm tối đa hoá lợi nhuận, cần xác định cả giá thành thực

tế của sản phẩm, dịch vụ đó.
+ Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát
tình hình sản xuất, kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện pháp tổ chức kỹ
thuật. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp xem
8
xét tình hình sản xuất, chi phí sản xuất, phát hiện nguyên nhân phát sinh chi
phí không hợp lý để có biện pháp loại trừ.
+ Giá thành là căn cứ để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả của
doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm.
Chỉ tiêu giá thành nh một tấm gơng phản ánh thực chất hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tính đúng,
đủ giá thành sản phẩm. Muốn vậy, phải xác định đúng đối tợng cần tính giá
thành, phơng pháp tính giá thành thích hợp. Đây là căn cứ để kế toán tập hợp
chi phí sản xuất chính xác để đánh giá sản phẩm dở dang (nếu có) chính xác.
Tính đủ là việc tính toán đầy đủ mọi hao phí đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm
đó trên tinh thần hạch toán kinh doanh, loại bỏ yếu tố bao cấp để tính đủ đầu
vào theo đúng chế độ quy định.
Việc tính đúng, đủ giá thành sản phẩm giúp phản ánh tình hình và kết
quả thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp. Xác định đúng đắn kết
quả tài chính, tránh hiện tợng lãi giả, lỗ thật.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải chú ý
đến giá cả hàng hoá và việc hạ giá thành sản phẩm:
Là một trong những nhân tố quan trọng để doanh nghiệp tăng lợi
nhuận thông qua việc tiêu thụ sản phẩm với khối lợng lớn hơn làm tăng
doanh thu nhanh chóng;
Tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể giảm lợng vốn lu động sử dụng
vào sản phẩm.
Nh vậy, hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp
cũng nh nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện đợc phải tăng thu, giảm chi bằng
cách: tăng năng suất lao động, nâng trình độ tay nghề của công nhân, tăng c-

ờng công tác quản lý giá thành, đẩy mạnh phân tích hoạt động kinh tế ở
doanh nghiệp, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất.
9
Chơng III
Đối tợng tính giá thành và phơng pháp tính giá
thành
1 - Đối tợng tính giá thành:
Các loại sản phẩm, dịch vụ do xí nghiệp sản xuất và cần tính đợc giá
thành và giá thành đơn vị. Xác định đối tợng tính giá thành là công việc đầu
tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành của kế toán. Bộ phận kế toán tính
giá thành căn cứ vào đặc điểm sản xuất, sản phẩm đợc sản xuất, tính chất sản
xuất, cung cấp sử dụng để xác định đối tợng tính giá thành cho phù hợp.
Về tổ chức sản xuất, sản xuất đơn chiếc theo từng sản phẩm, từng dịch
vụ là đối tợng tính giá thành: Ví dụ: từng con tàu đợc đóng trong xí nghiệp,
từng hạng mục công trình, từng công trình trong xí nghiệp xây dựng; Nếu sản
xuất hàng loạt thì từng loại sản phẩm là đối tợng tính giá thành: ví dụ: loạt
máy công cụ trong xí nghiệp cơ khí; Nếu tổ chức sản xuất nhiều, khối lợng
lớn thì mỗi loại sản phẩm khác nhau là một đối tợng tính giá thành. Ví dụ:
các loại vải trong xí nghiệp dệt; cà phê, cao su trong nông trờng cà phê, cao
su.
Về quy trình công nghệ sản xuất: Nếu quy trình công nghệ giản đơn
thì đối tợng tính giá thành có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở cuối quy trình
sản xuất; Nếu quy trình công nghệ kiểu phức tạp liên tục thì đối tợng tính giá
là bán thành phẩm tự chế ở từng giai đoạn công nghệ, hoặc có thể là thành
phẩm của sản phẩm; Nếu quy trình công nghệ phức tạp kiểu song song thì
đối tợng tính giá thành là thành phẩm lắp ráp hoàn chỉnh, một số phụ tùng,
chi tiết, bộ phận sản phẩm.
Đơn vị tính giá thành là đơn vị đợc thừa nhận phổ biến trong nền kinh
tế quốc dân, phù hợp với tính chất lý, hoá của sản phẩm. Đơn vị tính giá
thành thực tế cần phải nhất quán với đơn vị tính đã ghi trong kế hoạch của xí

nghiệp.
10

×