SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Họ và tên
: ĐẶNG TIỂU LIỄU
2. Ngày tháng năm sinh : ngày 10 tháng 08 năm 1982
3. Nam, nư
: Nư
4. Địa chi
: 137/4 Bạch Lâm - Gia Tân 2 - Huyện Thống
Nhất - Tinh Đồng Nai
5. Điện Thoại
: CQ: 0613.867151 NR (ĐTDĐ): 0983.18 15 21
6. Emai
:
7. Chức vu
: Giáo Viên
8. Đơn vị công tác
: Trường THPT Kiệm Tân - Hụn Thớng Nhất
- Tinh Đờng Nai
II. TRÌNH ĐỢ ĐÀO TẠO
- Học vị
: Cử nhân Văn Học
- Năm nhận bằng
: 2007
- Chuyên ngành đào tạo : Văn Học
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm
: Văn Học
- Số năm có kinh nghiệm
: 05
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 2 năm gần đây: 01
“MỘT SỐ KINH NGHIỆM CUNG CẤP CHO VIỆC GIẢNG DẠY
ĐOẠN TRÍCH TRUYỆN KIỀU NGỮ VĂN 10”
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 1
Mục lục
Trang
A. LỜI GIỚI THIỆU …………………………………………………………. 3
B. NỘI DUNG ………………………………………………………………….3
I. PHÁT HIỆN VÀ SỬA LỖI VỀ CÁCH DÙNG “NGÔN NGỮ
CHÁT”(1) VÀ NHỮNG “LỜI NÓI CỐ ĐỊNH”(2) CỦA HỌC SINH THPT …… 3
1. Tiếng Việt là tài sản vô giá của chúng ta ………………………………3
2. Phát hiện và sửa lỗi về cách dùng ngôn ngư chát và nhưng lời
nói cố định của học sinh THPT …………………………………………..4
a. Một số kí tự học sinh thường dùng phổ biến qua nhắn tin, chát ..4
b. Một số “Lời nói cố định” giới học sinh THPT hay sử dung …. 11
II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN VIỆC DÙNG “NGÔN NGỮ CHÁT”
VÀ NHỮNG “LỜI NÓI CỐ ĐỊNH” CỦA HỌC SINH THPT ………………..12
III. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC ………………………………………………..13
C. LỜI KÊT ………………………………………………………………….. 14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………….. 15
Chú thích:
(1) “Ngôn ngư chát”: ngôn ngư học sinh bị ảnh hưởng bởi mạng internet, trong việc tán gẫu hoặc dùng điện thoại di
động.
(2) “Lời nói cố định”: trong bài viết được dùng theo nghĩa là nhưng lời nói bị ảnh hưởng bởi nhưng câu nói quen
thuộc do lứa tuổi học sinh tự tạo ra.
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 2
A. LỜI GIỚI THIỆU
Xin mượn ra hai trích dẫn về tiếng Việt của nhà văn Đặng Thai Mai và cố
Thủ Tướng Phạm Văn Đồng để thấy được giá trị của Tiếng Việt
Nhà văn Đặng Thai Mai đã viết: "Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của
sức sống dân tộc.”
Khẳng định của Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, "Tiếng Việt của chúng ta rất
giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân
dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai
nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy
tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó
là ngơn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... và
những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình
độ rất cao về nghệ thuật."
Vâng, lịch sử đã chứng minh rằng, Tiếng Việt đã trở thành vũ khí của dân
tợc Việt Nam, thoát khỏi mọi vịng xiềng xích nô lệ để trở thành một quốc gia đợc
lập như ngày hơm nay. Khơng nhưng thế, nó cịn làm nên bản sắc Việt Nam, mà
chúng ta hay nói đến một cách tự hào với cum từ “niềm kiêu hãnh dân tộc”. Nhưng
tiếng Việt đang bị bóp méo và xâm phạm đến đáng sợ. Dẫu biết rằng Ngôn ngư là
một hiện tượng xã hội nên nó luôn luôn phát triển cùng xã hội. Với nhan đề của
chuyên đề PHÁT HIỆN VÀ SỬA LỖI VỀ CÁCH DÙNG “NGÔN NGỮ CHÁT” (1)
VÀ NHỮNG “LỜI NÓI CỐ ĐỊNH” (2) CỦA HỌC SINH THPT, tôi xin đưa ra một
vài phát hiện mà chúng ta nhưng giáo viên đang đứng lớp nói chung và giáo viên
giảng dạy môn Ngư Văn nói riêng sẽ có nhưng việc làm dù có thể nhỏ nhưng vẫn
làm cho tiếng Việt trong sáng.
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 3
B. NỘI DUNG
I. PHÁT HIỆN VÀ SỬA LỖI VỀ CÁCH DÙNG “NGÔN NGỮ CHÁT” VÀ
NHỮNG “LỜI NÓI CỐ ĐỊNH” CỦA HỌC SINH THPT
1. Tiếng Việt là tài sản vô giá của chúng ta
Bác Hồ từng căn dặn chúng ta: “Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng lâu đời và
vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, q trọng nó làm cho nó
phát triển ngày càng rộng khắp”. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tiếng Việt
đã vươn lên làm trọn chức năng giao tiếp xã hội của một quốc gia độc lập và ngày
càng vượt qua mọi thử thách để phát triển như ngày nay. Thời gian gần đây tiếng
Việt đang được sử dung một cách bừa bãi, khiến cho sự phát triển của nó đang
nghiêng theo chiều hướng tiêu cực. Sự trong sáng của tiếng Việt đang bị giảm sút
nghiêm trọng. Sự xuống cấp của ngôn ngư được biểu biện ở nhưng yếu tố khác
nhau như: dùng từ ngoại lai, dùng sai cấu trúc, dùng từ vay mượn, từ sáng tạo…
Góp phần vào việc mất đi sự trong sáng của tiếng Việt trong đó phải kể đến thành
phần học sinh trung học phổ thông (tạm gọi là giới tuổi teen). Nhưng người đã và
đang được học văn hóa, được tiếp thu nhưng thành tựu khoa học, thế nhưng chúng
ta lại thấy vô tình các em đã làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt ngay trong
cuộc sống hằng ngày. Giáo viên đã cho thảo luận nhóm ở hai lớp học tại trường
Trung học Phổ Thông Kiệm Tân là lớp 11c1 và 12s5 (năm học 2010-2011) về
“Việc dùng ngôn ngữ điện thoại, ngôn ngữ chát của học sinh phổ thông hiện nay”.
Các em tỏ ra rất phấn khởi với đề tài này, và kết quả tôi đã thu được gần 200 từ
ngư đang được sử dung rộng rãi trong thế giới ngôn ngư của các em. Điều đáng
ngạc nhiên là ở cả hai khối lớp 11 và 12 chúng tôi đều thu được nhưng đáp án
tương tự giống nhau. Điều này chứng tỏ rằng các em đang sử dung một loại kí tự
ngôn ngư chung do các em tạo ra và ngay cả các giới nghiên cứu cũng không thể
tìm cho thứ ngôn ngư đó một thuật ngư mà gọi chung là NGƠN NGỮ CHÁT hay
NGƠN NGỮ @ (ngơn ngư a cịng, ngôn ngư tuổi teen).
2. Phát hiện và sửa lỗi về cách dùng “ngôn ngữ chát” và những “lời nói cô
định” của học sinh THPT
a. Một số kí tự học sinh thường dùng phổ biến qua nhắn tin, qua chát
Theo số liệu thống kê được từ hai lớp học tại trường THPT Kiệm Tân, từ ngôn ngư
gốc đã sáng tạo ra nhưng ngôn ngư mà học sinh thường xuyên sử dung và có sử
dung trong bài viết kiểm tra như sau:
Ngôn ngữ (gốc)
Ngôn ngữ (sáng tạo)
(cười) haha
Kaka
(cười) hihi
Hjhj
À
Àh
anh
A
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 4
Ăn cơm
ăn kum
Ba (cha)
Papa
Bà xã
Vx
bạn
you, pạn
Bé
Pé
bệnh
Bịnh
biến
phiến, bín
biết
pít, pek,bk
bình thường
Bt
buổi
Biu
buồn
pùn, bùn
bực mình
pựx mìn
Cái
Káj
cảm ơn
Tks
Có
Koa
con
Kon
con gái
Girl
con trai
Boy
cơm
Kưm
của
Kủa
cút
Kút
cưng
Kưng
cười
Kười
chà
Ckàz
chảnh chó
c2
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 5
chào
bye bye
chắc
Chắt
chết
Chjt
chia tay
Ct
chim
Chym
chịu
Ckju
cho
Choa
chó
Tró
chồng
Ck
chúc ngủ ngon
g9, chux ngủ ngon
chuyện
chiện, chyn
chửi
Ekuj
Dạ
Dzạ
đang
Dag
đánh lộn
Wuynh lộn
đánh nhau
Pk
đâu
Âu
đẹp
Chẹp
đẹp gái
chẹp gái
đẹp trai
đẹp zai
Đi
Đj
điên
Đin
điện thoại
Đt
Đó
Đok
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 6
đồng (đơn vị tiền Việt
Nam
k, kooo (trên game oline)
được
đk, đc
Em
E
Em yêu
i*, ey
Ế
Ếk
ê (dùng gọi ai đó)
Êt
ghét
Gket
Gì
J
Gia kiệm (tên địa danh)
Gkịm
giận
Jận
giấy
Jay
giờ
H
giư gìn
ju jin
hên xui
hin xuj
hiểu
Hju
học
Hox
hôm (qua)
Hum
hôn
kis, hun
Im
Jm
kia
Kiêu
kiêu
Kiu
khiếp
Khíp
khóc
khox, koh
khóc
hix hix
không
k, o, hok, hum
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 7
khùng
Khjn
khùng khùng
khìn khìn
lắm
k'm, lém
Lấy
Lax
ln
Jn
Mà
Mịa
Mẹ
mama, mọe
mình
Mìk
ḿn
Mún
Ne
Nak
Nó
Nóa
nói chụn
nc, pm, nói chỵn
nghe
Nge
nghĩ
Ghĩ
nha
Heng
nhắn tin
tn
nhiều
nhju, nhiù
nhờ
Nhok
nhớ
Miss
như thế nào
Ntn
ơng xã
Ơx
ơi
Ui
phịng trọ
Pt
phúc
Pux
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 8
qua
Wa
quá
góa, wa
quen
Wen
q
Wế
qn
Wên
qủn sách
wyen sak
Rời
ùi, gịi, rùi, rùj, roj
sao
Seo
sặc
Sặx
Sớt (đang là chủ điểm)
Hót
sớm
Súm
tạm biệt
pp. pipi
Tao
Kao
tiền
lúa, máu, tìn
tình cảm
Tc
tình yêu
t/ju
Tôi
Tui
thằng
Theng
Thì
Tky
thích
Thik
thích
thít, thick
thôi
thoj, thui
thương
Xương
trong
Trog
trời
Chaj
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 9
trước
trướk, trc
uống nước
un nc
Ư
uk, ừa
vẫn
Zẫn
vậy
zậy, z, vz
Vô duyên
zô zuyên
Vở
Zở
Vợ
Vk
với
zới, vs, zs
vui
Zui
xin chào
22…
xin lỗi
sr, xl
xinh
Xin
xoắn
Xoak
xuống
Xún
Y
Yk
Yêu
ju, iu
- Nhìn vào bảng thống kê ta thấy các ngôn ngư của giới tuổi teen sáng tác
một cách tùy tiện, hỗn tạp bao gồm tiếng lóng, xen lẫn ngoại ngư không theo một
quy luật nào.
Khi được hỏi về nguyên nhân sử dung nhưng ngôn ngư trên thì các bạn trả
lời là do nhanh. Nếu ta xét các ngôn ngư đó trong trường hợp viết cho nhanh thì ta
chi chấp nhận được một số chư ví du: tình cảm/ tc; tin nhắn/ tn; điện thoại/ đt;
anh/ a. Thế nhưng nhưng chư như nhờ/ nhok; mẹ / mama, mọe; ế/ ếk thì không thể
xem là viết cho nhanh được. Ta thấy giới tuổi teen thường chuyển đổi chư i, thành
chư j, chư v thành z, ch thành tr và ngược lại, c thành k, qu thành w….sự chuyển
đổi này không nhằm muc đích nào ngoài việc thể hiện cái mới, cái hay, thể hiện
đẳng cấp VIP (Very Important Person) nếu như không dùng nhưng ngôn ngư như
thế này thì bị cho là quê mùa, lúa, hay còn gọi là “cùi bắp”. (ý kiến của chính các
học sinh trong buổi thảo luận)
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 10
- Và khi nhưng ngôn ngư kia được chuyển thành văn bản với từng bước phát
triển và sáng tạo thì chúng sẽ có hình dạng như sau, hãy xem một tin nhắn của giới
tuổi teen.
1. The la cau hem bit roai, hihi
Khi tiếng Việt có hai dạng viết hoa và viết thường câu trên được chuyển đổi thành
2. ThE^ lA` kA^.u hEm pYt r0A`j nhA, hYhY
Khi chư a biến thành số 4, và chư e biến thành số 3, i thành j và g đổi thành 9…
3. Th3 l4 k4u h3m pjt r04j, hyhy
Chư a phải thành Cl, @ hay là ã, Ỉ mới hoành tráng, chư q thì phải là v\/ mới sành
điệu, p thành º]º với “xì tin”
4. |ộ ]_ òa]\[ ]<|ụ]\[(ơ ò]ờ Pv], |]|]
ờn õy thi chc chắn khi nhìn vào tin nhắn này đã khơng cịn được gọi là dịng
chư nưa.
Hoặc mợt dạng tin nhắn khác có hình dạng như sau:
4nh o? da^y giu*a~ d0‘ng -do*j‘ la.c l0ng~... ng0n’g ch0*‘ aj -da~ ba0 la^n‘ fu.
ba.c... Ha^n ngu*o*i‘ Kja Nhu*ng Sa0 L0n‘g H0k the^?.. A^n Tjn‘h Naj‘ Tho^y
Hen. Nhau Kiep’ Kha’c...M0^ng Hem Tha‘nh th0^y -Danh‘ Que^n –Dj
(Tạm dịch là: Anh ở đây giưa dòng đời lạc lõng, ngóng chờ ai đã bao lần phu bạc,
hận người kia nhưng sao lịng khơng thể, ân tình này thơi hẹn nhau kiếp khác,
mộng không thành thôi đành quên đi).
Ngoi` pun` hok bjk lem` je^`, vo^ tinh` nghj~ den' anh, hok bjk jo` nay` anh dang
lam` j` ta?
(Tạm dịch là: Ngồi buồn không biết làm gì, vô tình nghĩ đến anh, không biết giờ
này anh đang làm gì ta?)
b. Một số “lời nói cố định” giới học sinh THPT hay sử dụng
Gần đây trên thông tin đại chúng xuất hiện quyển sách mang tên “SÁT THỦ
ĐẦU MƯNG MỦ” với dòng chư phu đề “Thành ngư sành điệu bằng tranh”. Bỏ
qua phản ứng của xã hội trước nội dung của quyển sách trên, chúng tôi muốn nói
đến nhưng câu giới tuổi teen hay sử dung trong quyển sách đó:
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 11
Chảnh như con chó cảnh
Chán như con gián
Chuyện nhỏ như con thỏ
Biết chết liền
Đã xấu còn xa, đã si đa còn xông pha hiến máu
Thú vui tao nhã - giặt tã cho con
Bộ đội phải chơi trội
Bó tay chấm cơm
Bó tay con gà quay
Bực như con mực
Ăn trông nồi ngồi trơng xó
Cái khó ló cái ngu
Buồn như con chuồn chuồn
Đen như con mèo hen
Đẹp trai có gì là sai
Đói như con sói
Dở hơi tập bơi
Khơng phải chủ dốt - chỉ vì mẹ chủ qn cho Iốt vào canh
Khơng mày đố thầy dạy ai
Một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ
Một điều nhịn là chín điều nhục
Ngu như con bò thích hát hò
Xấu như con gấu
Xấu nhưng biết phấn đấu….
Để giải thích cho hiện tượng giới tuổi teen thích dùng cách nói trên GS Trần
Trí Dõi phát biểu ý kiến “Tôi nghĩ rằng “ngôn ngư chat” và những “lời nói cố
định” như thế xuất hiện là do những cách nói đã có chưa thỏa mãn hết yêu cầu
giao tiếp của một bộ phận những người thích chát, những người ưa có một cái gì
đó khác đi về hình thức trong giao tiếp hàng ngày”. Nó là sự thể hiện rõ nhất thói
quen ăn nói, sử dung ngôn từ của người Việt từ xưa đến nay như “nói vần dựa vào
đồng âm hay gần âm”, “đối âm hay/ đối nghĩa” v.v. vốn thông dung trong thành
ngư, tuc ngư, ca dao tiếng Việt. Nếu xét về nội dung ta thấy có một số câu phù hợp
với cách lí giải của tuổi teen là nói cho vui, Xấu như con gấu; Đói như con sói;
Chuyện nhỏ như con thỏ; Chán như con gián; Chảnh như con chó cảnh. Nhưng ta
cịn nhận thấy bên cạnh nhưng câu nói có thể chấp nhận được cịn là nhưng câu nói
dựa vào thành ngư gớc mà biến đổi, làm mất hết ý nghĩa của thành ngư và nó mang
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 12
lại một thông tin sai lệch hoàn toàn với thành ngư ban đầu mà người Việt sử dung
Không mày đố thầy dạy ai; Một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ; Một điều
nhịn là chín điều nhục; Ăn trơng nồi ngồi trơng xó. Và khi nhưng câu nói quen
thuộc này được giới tuổi teen sử dung để giao tiếp với người lớn. Giáo viên chúng
ta cũng từng là nạn nhân của nhưng câu nói trên khi đôi lần hỏi bài học sinh trả lời
trống không “biết chết liền” đây là nhưng tình huống nằm ngoài ý muốn của người
đứng lớp. Trước một hiện tượng về ngôn ngư như trên chúng ta nhưng người đang
đứng lớp cần phải làm gì? Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên từ đâu?
NHỮNG HÌNH ẢNH VÀ NHỮNG “LỜI NÓI CỐ ĐỊNH” ĐƯỢC SỬ DỤNG RỘNG RÃI
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 13
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 14
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 15
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 16
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 17
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 18
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 19
II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN VIỆC DÙNG “NGÔN NGỮ CHÁT”,
NHỮNG “LỜI NÓI CỐ ĐỊNH” TUỔI TEEN MỘT CÁCH PHỔ BIỀN
Bàn đến nguyên nhân của hiện tượng giới tuổi teen sử dung ngôn ngư chát,
nhưng lời nói cố định của tuổi teen một cách phổ biến, giáo sư Trần Trí Dõi cho
rằng Ngôn ngư là hiện tượng xã hội nên nó luôn luôn phát triển cùng xã hội, hiện
tượng “ngôn ngữ chát” và nhưng “lời nói cố định” trong quyển “Sát thủ đầu mưng
mủ” đúng là thể hiện sự phát triển không ngừng của ngôn ngư trong quần chúng,
trong đó có bộ phận là nhưng người trẻ tuổi. Nhìn lại quá khứ, chúng ta trao đổi
thông tin với bạn be ở xa bằng nhưng lá thư, nên chúng ta chú ý cách trình bày,
chư viết, ngay khi diễn đạt một nội dung chúng ta cũng phải lựa, tìm ý cho phù
hợp…Với giới trẻ hiện nay thì chúng lại dùng thông tin liên lạc hiện đại là điện
thoại, internet. Sự phát triển của xã hội đã tạo ra nhưng nguyên nhân khách quan.
1. Nguyên nhân khách quan
- Ngôn ngư chát là hiện tượng mới do giới tuổi teen hiện nay thường dùng.
Ngôn ngư này xuất hiện từ khi có sự bùng nổ của Internet đồng thời với sự thay
đổi của xã hội, từ một xã hội khá bảo thủ sang một xã hội cởi mở. Đây là một hiện
tượng bình thường của ngôn ngư - xã hội, nó như là một quy ḷt tự nhiên. Xã hợi
cởi mở, dịng thơng tin, lới sống phong cách phương Tây, phương Đông ồ ạt tràn
vào Việt Nam. Giới trẻ là nhưng người thích thú nhất. Họ học tập, sáng tạo, áp
dung và làm ra cái mới của riêng họ, để thể hiện mình. PGS-TS Đặng Ngọc Lệ,
Phó Chủ tịch Hội Ngôn ngư học VN, Chủ tịch Hội Ngôn ngư học TPHCM, cho
rằng giới trẻ hiện nay thích sử dung ngôn ngư chát trong giao tiếp và hành văn là
do tâm lý muốn mình phải khác người. Sử dung ngôn ngư cũng là một cách thể
hiện mình như việc ăn mặc, đi đứng... Tuy nhiên, vì còn trẻ nên họ chưa khẳng
định được việc thể hiện mình như vậy là đúng hay sai, các em muốn thay đổi
nhưng chưa biết cách thay đổi như thế nào cho phù hợp.
- Chính bản chất ngôn ngư của tiếng Việt cho phép tạo ra nhưng “lời nói cố
định” như trong cuốn “Sát thủ đầu mưng mủ” với cách nói so sánh ví von, có vần
có ve.
2. Nguyên nhân chủ quan
- Nhiều học trò biện minh cho cách nói và viết như trên. Theo các em, miễn
là các em hiểu, và viết, nói cho nhanh, để cho vui, ngộ nghĩnh, tiện lợi và hài hước.
- Khi được hỏi về việc sử dung như trên học sinh trả lời để phu huynh không
can thiệp vào đời tư của con, và nếu có đọc được nhưng dịng tin nhắn thì cũng
khơng thể hiểu.
III. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Việc sử dung ngôn ngư chát, lời nói cố định của tuổi teen là một hiện tượng
của ngôn ngư phát triển cùng xã hội. Hiện tượng này phổ biến và lan rộng tới giới
trẻ trong cả nước. Phải làm gì khi chính bản thân người sử dung nó cũng không
nhận thấy rằng mình làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt.
Trước hiện tượng trên chúng ta nhưng người đang dạy môn Văn nói riêng và
các môn học khác nói chung cần phải giảng, phân tích cho học sinh thấy nhưng
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 20
điều hạn chế khi sử dung nhưng lỗi sai về cách dùng từ. Phát hiện lỗi sử dung
trong giao tiếp, trong bài kiểm tra của học sinh, khoanh tròn sửa lỗi đặc biệt nhưng
lỗi sai do cố tình sử dung sai cách dùng từ như hiện nay. Trừ điểm thành phần bài
kiểm tra đối với trường hợp sai nhiều lần. Giáo viên Văn nên có bảng thống kê bài
kiểm tra các lỗi sai kể cả sai chính tả để xem mức đợ thay đởi ví du:
SỚ LỠI CHÍNH TẢ, CÁCH DÙNG TỪ…
(CÁC LỖI KHÁC)
TÊN
BÀI SỐ 1
BÀI SỐ 2
BÀI SỐ 3
BÀI SỐ 4
NGUYỄN VĂN A
NGUYỄN VĂN B
Nhà trường và Đoàn thanh niên cần có nhưng buổi sinh hoạt ngoại khóa về
nhưng vấn đề nóng bỏng có tính thời sự, ví du Bạo lực học đường, ví du việc sử
dung tiếng Việt không đúng chuẩn, chắc chắn học sinh sẽ hứng thú với nhưng vấn
đề nóng bỏng và để học sinh thảo luận tự tìm ra nhưng hạn chế của vấn đề.
Xin đưa ra một số kinh nghiệm chia sẻ của nhưng người làm trong lĩnh vực
nghiên cứu ngôn ngư.
- TS. Tùng Lâm chia sẻ kinh nghiệm: “Trước tiên, chúng ta phải giáo dục
để các em hiểu rõ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ, chứ không nên lầm lẫn khi biến
phương tiện làm việc thành phương tiện giao tiếp. Lời nói lệch chuẩn có thể dẫn
đến tư duy, hành vi lệch lạc. Vì thế, việc làm méo mó ngơn ngữ tiếng Việt cần phải
được lên án”.
- Trong 3 yếu tố tác động đến ngôn ngư tuổi teen, yếu tố gia đình vẫn là
quan trọng nhất. Bản thân gia đình cũng phải có ý thức ren con cái từ lời nói đến
hành vi. Bố mẹ cũng phải nêu gương cho con cái. Bên cạnh đó, nhà trường phải
chú ý ren học sinh về ngôn ngư, nói đúng, viết đúng chuẩn tiếng Việt, trong đó có
viết đúng chính tả.
- TS. Mai Xuân Huy nêu: “Biện pháp để ngăn chặn loại ngôn ngữ này xâm
nhập vào tiếng Việt là chúng ta cần khoanh vùng và quy định khu vực sử dụng của
nó. Chẳng hạn, có thể cấm dùng ngôn ngữ “chát” trong phạm vi công cộng, trong
các bài viết ở trường, trên các phương tiện thơng tin đại chúng như tivi, đài, báo.
Nó chỉ có thể được sử dụng trong giao tiếp giữa những người “chát” trong các
chatroom trên internet. Theo tôi, muốn khắc phục được tình trạng này, gia đình và
nhà trường phải kết hợp giáo dục, kiểm soát, nhưng quyết định hơn cả thì phải có
một đạo luật cụ thể về tiếng Việt nằm trong Chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà
nước. Ở nhiều nước phát triển họ có hẳn một đạo luật về ngôn ngư”.
- Chúng ta phải sửa bằng tư duy, sửa bằng ý thức công dân. Chúng ta cũng
cần đưa ra các phân tích kem theo các lời khuyên để học sinh hiểu và không nên
lạm dung nó.
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 21
IV. KẾT QUẢ
Nhưng kết quả đạt được từ việc sửa lỗi học sinh trong cách dùng từ chưa đúng
Bài viết sô 1
Lớp
Sĩ số
12S5
45
11C1
40
Bài viết sô 2
Số bài vi
phạm
Số lỗi vi
phạm
Số bài vi
phạm
23 bài
6
17 bài
(51%)
lỗi/bài
(37%)
25bài
8
15 bài
3
(62%)
lỗi/bài
(37%)
lỗi/bài
Bài viết sô 3
Lớp
Sĩ số
12S5
45
11C1
40
Số lỗi vi
phạm
4 lỗi/bài
Bài viết sô 4
Số bài vi
phạm
Số lỗi vi
phạm
Số bài vi
phạm
Sớ lỡi vi
phạm
7 bài
2
1 bài
2
(15%)
lỡi/bài
(0.2%)
lỡi/bài
8 bài
3
0 bài
0
(20%)
lỡi/bài
(0%)
lỡi/bài
SƠ ĐỜ BIỂU HIỆN KẾT QUẢ THU ĐƯỢC TƯ LỚP 12S5
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 22
SƠ ĐỒ BIỂU HIỆN KẾT QUẢ THU ĐƯỢC TƯ LỚP 11C1
V. KẾT LUẬN
Sống trong thời đại “bùng nổ” thông tin và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc
tế, nhu cầu phát triển vốn từ vựng cũng như cách diễn đạt của Tiếng Việt là một xu
thế khách quan. Chúng ta cần có định hướng đúng đắn và chủ động đón nhận xu
thế đó để trong quá trình phát triển tiếng Việt không làm mất đi bản sắc vốn có của
ngôn ngư dân tộc. Đấy là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh
vực này, đồng thời cũng là trách nhiệm của mọi công dân Việt Nam, trước hết là
các nhà ngôn ngư học, các thầy giáo, các nhà văn, nhà báo…Với thiên chức của
người Thầy không chi truyền đạt tri thức mà còn truyền cả đạo lí làm người, đạo lý
đó phát xuất từ ngay trong cách sử dung ngôn ngư, làm cho tiếng Việt trong sáng.
Chắc chắn với nhưng câu tuc ngư cải biên như kiểu “Công cha như miếng rau câu,
nghĩa mẹ như nước trong cầu chảy ra” (ca dao: Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra) sẽ khơng cịn x́t hiện từ cửa miệng của học
sinh. Với bài viết nhỏ và một vài ý kiến riêng chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhưng
thiếu sót, rất mong được sự góp ý chân thành của quý Thầy cô trong hội đồng sư
phạm nhà trường.
Nhận xét của BGH
Kiệm Tân, ngày 21 tháng 05 năm 2012
Người viết
Đặng Tiểu Liễu
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách SÁT THỦ ĐẦU MƯNG MỦ - THÀNH NGỮ SÀNH ĐIỆU BẰNG
TRANH (NXB MỸ THUẬT)
2. GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT (Sgk lớp 12, tập I – NXB
GD).
3. CÁC TRANG WEB CÓ LIÊN QUAN VỀ NGÔN NGỮ.
4. MỘT SỐ HÌNH ẢNH CÓ LIÊN QUAN.
Người viết: Đặng Tiểu Liễu
Trang 24