Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

skkn hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục của địa phương thpt chuyên phan bội châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.8 KB, 36 trang )

TÊN ĐỀ TÀI:
HOẠT ĐỘNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH
TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC CỦA ĐỊA PHƯƠNG

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nền giáo dục nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng
khích lệ, góp phần quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chất lượng giáo
dục ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển. Cùng với đó, tình trạng dạy thêm, học thêm vẫn cịn tiếp diễn, tình trạng lạm
thu ở các bậc học đang gây nhiều bức xúc trong xã hội, vấn đề quy hoạch, thành
lập, nâng cấp các trường đại học, cao đẳng, liên kết đào tạo còn nhiều bất cập;
quản lý giáo dục còn nhiều lúng túng; công tác thanh tra, kiểm tra chưa thực sự
hiệu quả.
Để phát huy những thành tựu đã đạt được, cũng như khắc phục có hiệu quả
những yếu kém, để đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển, đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới, tạo nển tảng đưa nước ta thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI định hướng: “Tiếp tục đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo trên tinh thần tăng cường tính tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện hợp lý cơ chế tự chủ đối
với các cơ sở giáo dục, đào tạo gắn với đổi mới cơ chế tài chính. Làm tốt cơng tác
xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển, quản lý mục tiêu, chất lượng giáo dục,
đào tạo. Phát triển hệ thống kiểm định và công bố công khai kết quả kiểm định
chất lượng giáo dục, đào tạo; tổ chức xếp hạng cơ sở giáo dục, đào tạo. Tăng
cường công tác thanh tra; kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong giáo
dục, đào tạo…” 1
Với định hướng trên, Thanh tra giáo dục đóng vai trị quan trọng, như một
kênh để đánh giá chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra giáo dục cịn
gặp nhiều khó khăn như: bất cập, chồng chéo trong cơ chế quản lý giữa các ngành,
các cấp; các quy định của pháp luật chuyên ngành mâu thuẫn, chồng chéo; đối
tượng thanh tra đa dạng, phức tạp; phạm vi thanh tra rộng; tổ chức thanh tra chưa


phù hợp với trách nhiệm quản lý ngành… Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt
động thanh tra giáo dục góp phần vào đổi mới cơ chế quản lý giáo dục thì cịn
nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, mổ xẻ về mặt lý luận và thực tiễn. Với góc nhìn
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia-Sự thật, Hà Nội, tr.217-218.
1

1


pháp lý và thực tiễn bản thân đang công tác tại Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo
ý, tác giả quyết định chọn đề tài “Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực giáo dục của địa phương”.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận.
1.1 Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến Đề tài.
Qua tìm hiểu, tác giả nhận thấy đề tài nghiên cứu có liên quan đến một số đề
tài như:
Các bài viết khoa học trên sách, báo, tạp chí như: Nguyễn Thị Thương
Huyền (2008), “Đánh giá thực trạng pháp luật về tổ chức thanh tra – cơ sở để hoàn
thiện pháp luật thanh tra”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12), Hà Nội; Phan
Trung Lý (2010), “Thanh tra chuyên ngành: khái niệm, tổ chức và hoạt động”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, (12), Hà Nội; Hoàng Văn Vy (2010), “Luật Thanh tra
cần có những quy định linh hoạt cho hoạt động thanh tra chuyên ngành”, Tạp chí
Thanh tra, (3), Hà Nội.
Các luận văn chuyên ngành luật học liên quan đến tổ chức và hoạt động
thanh tra chuyên ngành như: Võ Thị Mai Trâm (2005), Hoạt động thanh tra trong
lĩnh vực văn hóa – Thực trạng và kiến nghị, Luận văn cử nhân, Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh; Đặng Thị Ngọc Uyên (2006), Hoạt động thanh tra vệ sinh an toàn
thực phẩm, Luận văn cử nhân, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; Lý Thanh Long

(2008), Thanh tra xây dựng quận, huyện; thanh tra xây dựng xã, phường, thị trấn
tại thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh; Thái
Bỉnh Nghĩa (2010), Nâng cao hiệu quả thanh tra đất đai trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Bùi Ngọc Thanh Trung
(2011), Pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực văn hóa,
Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh;
Các cơng trình trên nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về thanh
tra, kiểm tra, giám sát ở Việt Nam; phân định phạm vi hoạt động giữa thanh tra với
kiểm tra, giám sát; phân biệt giữa hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra
chun ngành; q trình hình thành và phát triển của thanh tra chuyên ngành. Tập
trung lý giải những vấn đề về khái niệm, vị trí, vai trò của thanh tra, kiểm tra, giám
sát; đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra chuyên
ngành. Lý giải những vấn đề về thực tiễn thi hành pháp luật thanh tra nói chung và
pháp luật thanh tra chuyên ngành nói riêng, bất cập, vướng mắc và giải pháp hoàn
2


thiện pháp luật thanh tra nói chung và pháp luật thanh tra chuyên ngành nói riêng,
các biện pháp tăng cường cơ chế quản lý ngành.
Luận án tiến sĩ luật học: Nguyễn Thị Thương Huyền (2009), Hoàn thiện
pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sỹ, Viện Nhà nước và
Pháp luật, Hà Nội.
Luận án đã có cách tiếp cận mới trong việc phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của việc hoàn thiện pháp luật thanh tra với quan điểm là một chức năng của
quản lý nhà nước nhằm kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước trong hành pháp.
Pháp luật thanh tra với tính cách là một chế định của ngành Luật hành chính và
những đặc điểm, nội dung cơ bản của chúng. Luận án đã chỉ ra những tiêu chí xác
định đối tượng điều chỉnh của pháp luật thanh tra, đặc điểm của quan hệ pháp luật
thanh tra cũng như tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật thanh tra.
Luận án đã so sánh đối chiếu tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính và chuyên

ngành của Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới.
Từ cơ sở lý luận của khoa học hành chính và luật học, Luận án đã phân tích,
tổng kết và chỉ ra những thành công cũng như hạn chế của pháp luật thanh tra từ
góc độ pháp luật thực định cũng như thực tiễn việc thực hiện pháp luật là những
nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra.
Luận án đã phân tích những nhu cầu khách quan, địi hỏi tất yếu của việc
hồn thiện pháp luật thanh tra; trình bày hệ thống quan điểm hồn thiện để từ đó đề
xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật thanh tra có tính khoa học và thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính, yêu cầu giải quyết khiếu nại, tố cáo,
chống tham nhũng ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các cơng trình trên chưa nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp luật
thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục, chưa lý giải những vấn đề về thực
tiễn thi hành pháp luật thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục nói chung
và thanh tra giáo dục địa phương nói riêng. Các đề tài trên cũng chưa đề cập tới tổ
chức và hoạt động thanh tra giáo dục, cũng như hoạt động thanh tra chuyên ngành
trong lĩnh vực giáo dục của địa phương.
Như vậy, đến nay chưa có một đề tài khoa học nào tiếp cận ở góc nhìn pháp
lý về hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục của địa phương
một cách có hệ thống và tồn diện về mặt lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề
ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra giáo dục.

3


1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực giáo dục của địa phương.
1.2.1. Khái niệm hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo
dục.
Theo Từ điển Việt Nam từ thanh tra dùng để chỉ “kiểm soát, xem xét tại chỗ

việc làm của địa phương, cơ quan xí nghiệp” 2. Với nghĩa này, “thanh tra” bao hàm
kiểm soát, xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học: “Thanh tra” là “việc kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của cơ
quan, tổ chức, cá nhân…”3. Theo Từ điển Luật học, “Thanh tra” là hoạt động “xem
xét để làm rõ việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân…”(4). Từ đó, Thanh tra được hiểu là hoạt động
nhằm nhận xét, làm rõ quá trình thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của các chủ thể.
Còn Thanh tra chuyên ngành theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học: “Tổ
chức thanh tra thuộc bộ, sở có quyền thanh tra mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan tới chức năng quản lý nhà
nước chuyên ngành của bộ, sở.”5
Từ các khái niệm trên, thanh tra chuyên ngành được hiểu là việc xem xét,
làm rõ, ngăn chặn việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan tới chức năng
quản lý nhà nước chuyên ngành của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Khi có Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đến trước thời điểm Luật Thanh tra
năm 2004 ban hành thì chưa có một khái niệm pháp lý đầy đủ về thanh tra chuyên
ngành. Sau khi có Pháp lệnh Thanh tra 1990, khái niệm thanh tra chuyên ngành
cũng chưa được khẳng định. Điều 1, Nghị định số 358/HĐBT ngày 28 tháng 9 năm
1992 của Hội đồng bộ trưởng quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 358/HĐBT) đưa ra một khái niệm chung về thanh
tra giáo dục như sau mà không thể hiện rõ như thế nào là hoạt động thanh tra
chuyên ngành: “Thanh tra giáo dục thực hiện quyền thanh tra Nhà nước về giáo
dục và đào tạo trong phạm vi cả nước nhằm tăng cường hiệu lực quản lý, bảo đảm
Viện ngôn ngữ học - Trung tâm từ điển học (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội,
tr.882.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an nhân dân, Hà
Nôi, tr 106.

4
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa-NXB Tư pháp,
Hà Nội, tr 696.
5
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Cơng an nhân dân, Hà
Nôi, tr 107.
2

4


nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của công
tác quản lý ngành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 101/2002/NĐ-CP ngày 10
tháng 12 năm 2002 quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục (sau
đây gọi tắt là Nghị định số 101/2002/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 358/HĐBT và
tại Nghị định này đã đưa ra khái niệm pháp lý về thanh tra giáo dục như sau:
“Thanh tra giáo dục là thanh tra chuyên ngành về giáo dục. Thanh tra giáo dục
thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước về giáo dục, nhằm bảo
đảm việc thi hành pháp luật, phát huy nhân tố tích cực, phịng ngừa và xử lý vi
phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
trong lĩnh vực giáo dục”. Như vậy, tại văn bản này đã khẳng định thanh tra giáo
dục là thanh tra chuyên ngành nhưng nội hàm của khái niệm cũng không làm rõ
thế nào là hoạt động thanh tra chuyên ngành về giáo dục. Đến khi có Luật Thanh
tra năm 2004, tại Nghị định số 85/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2006 của
Chính Phủ quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục (sau đây gọi tắt
là Nghị định số 85/2006/NĐ-CP) không đưa ra khái niệm thanh tra giáo dục mà
liệt kê các hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chun ngành tại Điều 13,
Điều 14.
Đến nay tuy khơng có một khái niệm pháp lý thanh tra chuyên ngành về
giáo dục nhưng căn cứ khái niệm thanh tra chuyên ngành của Luật Thanh tra năm

2010 và các đặc trưng của thanh tra giáo dục, Thanh tra chuyên ngành về giáo dục
được hiểu là: “là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành,
lĩnh vực về giáo dục đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành chính
sách, pháp luật chuyên ngành về giáo dục, những quy định về chuyên môn – kỹ
thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc quyền quản lý về giáo dục”.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo
dục của địa phương.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục cũng là một chức
năng cơ bản và vô cùng thiết yếu của hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục .
Theo quy định của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm
2005 của Quốc hội khóa XI được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 44/2009/QH12 ngày
25 tháng 11 năm 2009 của Quốc hội khóa XII (sau đây viết tắt là Luật Giáo dục)
thì giáo dục bao gồm giáo dục và đào tạo. Giáo dục cũng được hiểu bao gồm việc
dạy và học và đơi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá trình truyền thụ, phổ biến
tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền
tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo dục
là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi
cá nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một
5


phương pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện
về tinh thần, và làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần,
cách ứng xử trong xã hội. Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có
gốc từ tiếng La tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là
q trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo
dục".
Bất kỳ ở một giai đoạn lịch sử nào, giáo dục - đào tạo ln đóng một vai trò
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân
tộc và cả nhân loại. Giáo dục - đào tạo là chìa khoá, là động lực đối với sự phát

triển của xã hội.
Từ lâu Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức được vai trò của giáo
dục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ vai trị của giáo dục trong việc cải tạo,
phát triển con người, làm biến đổi con người cũ, xây dựng con người mới. Người
viết: “Thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà
nên” 6. Giáo dục là một mặt trận quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Giáo dục có vai trị nâng cao về trình độ nhận thức đường lối, chính trị, giáo dục
nhất thiết phải gắn liền với sản xuất và đời sống nhân dân, theo Người: “Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu”7.
Đảng ta khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước,
xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng
với phát triển khoa học và cộng nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục
và đào tạo là đầu tư cho phát triển.”8
Quản lý nhà nước về giáo dục là sự tác động có tổ chức của bộ máy hành
chính nhà nước đối với các hoạt động giáo dục nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục
và đào tạo. Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu,
chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ
thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện phân
công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
cơ sở giáo dục. Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục
thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao
gồm: giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; giáo dục phổ thơng có tiểu học,
Hồ Chí Minh: Tồn tập (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t3, tr 383.
Hồ Chí Minh: Tồn tập (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t4, tr 8.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc
gia-Sự thật, Hà Nội, tr.77.
6

7

6


trung học cơ sở, trung học phổ thông; giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên
nghiệp và dạy nghề; giáo dục đại học, sau đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình
độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Giáo dục và đào tạo nước ta trong thập kỷ tới phát triển trong bối cảnh thế
giới có nhiều thay đổi nhanh và phức tạp. Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế về
giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, cơng nghệ
thơng tin và truyền thơng, kinh tế trí thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động
trực tiếp đến sự phát triển của các nền giáo dục trên thế giới. Trong khi đó, quản lý
giáo dục vẫn cịn nhiều bất cập, cịn mang tính bao cấp, ơm đồm, sự vụ và chồng
chéo, phân tán; trách nhiệm và quyền hạn quản lý chuyên môn chưa đi đôi với
trách nhiệm, quyền hạn quản lý về nhân sự và tài chính. Hệ thống pháp luật và
chính sách về giáo dục thiếu đồng bộ, chậm được sửa đổi, bổ sung. Sự phối hợp
giữa ngành giáo dục và các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Vậy nên, vấn đề
đổi mới về quản lý giáo dục đặt ra hết sức bức thiết, trong đó có cơng tác thanh tra
giáo dục.
Giữa quan lý nhà nước về giáo dục và thanh tra chuyên ngành về giáo dục
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thế nên nội dung, phạm vi quản lý nhà nước
quyết định phạm vi, nội dung hoạt động thanh tra chuyên ngành về giáo dục. Và
thông qua hoạt động thanh tra chuyên ngành về giáo dục không chỉ giúp chủ thể
quản lý nhà nước về giáo dục phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, khiếm khuyết
của pháp luật chuyên ngành về giáo dục để kiến nghị với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền biện pháp khắc phục nhằm phịng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi
phạm pháp luật mà còn giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định
của pháp luật chuyên ngành, các quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản
lý ngành; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt

động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong cơng tác
giáo dục “nên kiểm thảo kỹ cơng tác “cải cách” về chương trình chủ trương và
cách thi hành, để tìm thấy những khuyết điểm mà sửa đổi, những ưu điểm mà phát
triển thêm”9
Điều 99, Luật Giáo dục quy định nội dung quản lý giáo dục bao gồm:
1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục;

9

Hồ Chí Minh: Tồn tập (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t6, tr 266.

7


2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục;
ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở
giáo dục khác;
3. Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo;
tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát
hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ;
4. Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất
lượng giáo dục;
5. Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục;
6. Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;
7. Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục;
8. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo
dục;

9. Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực giáo dục;
10. Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;
11. Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều cơng lao đối
với sự nghiệp giáo dục;
12. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
Từ đó, hoạt động thanh tra chuyên ngành về giáo dục nói chung và hoạt
động thanh tra chuyên ngành của địa phương có những đặc điểm sau:
Chủ thể thanh tra:
Sau khi có Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 thì lĩnh vực giáo dục đã có Nghị
định số 358-HĐBT, tại văn bản này đã quy định hệ thống thanh tra giáo dục gồm
Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT và “ở huyện và cấp tương đương, cơng tác thanh tra giáo
dục do Trưởng phịng Giáo dục - Đào tạo trực tiếp phụ trách” (khoản 3, Điều 3).
Thực hiện Luật Giáo dục, kế thừa Nghị định số 358-HĐBT, Nghị định số
85/2006/NĐ-CP khẳng định cơ quan thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo
dục là Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT nhưng ở văn bản này có một điểm mới là quy
định trách nhiệm phụ trách công tác thanh tra của Hiệu trưởng, thủ trưởng các
trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học: “… Hoạt động thanh tra giáo
8


dục trong cơ sở giáo dục đại học, trường trung cấp chuyên nghiệp do Hiệu trưởng,
thủ trưởng cơ sở trực tiếp phụ trách theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo.” (Điều 19, Nghị định số 85/2006/NĐ-CP).
Như vậy, chủ thể thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực của địa phương bao
gồm: Thanh tra Sở GD&ĐT, Trưởng phòng GD&ĐT, Hiệu trưởng các trường đại học,
cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp đóng trên địa bàn mỗi tỉnh.
Chủ thể thanh tra trong lĩnh vực giáo dục của địa phương có một điểm đặc
thù so với các chủ thể thanh tra chun ngành khác là có Trưởng phịng GD&ĐT,

Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp đóng trên địa bàn
mỗi tỉnh. Nhưng vấn đề đặt ra là hoạt động thanh tra của các chủ thể này so với
Luật Thanh tra năm 2010 có chính danh hay khơng. Vì theo quy định của Luật
Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012
của Chính Phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện hoạt động thanh tra
chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành (sau đây gọi tắt là Nghị định số
07/2012/NĐ-CP) thì Phịng GD&ĐT khơng thuộc phạm vi điều chỉnh.
Nội dung thanh tra: Theo quy định tại Điều 14, Nghị định số 85/2006/NĐCP, nội dung hoạt động thanh tra chuyên ngành về giáo dục gồm:
1. Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật chuyên ngành về giáo dục
đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi quản lý về giáo dục.
2. Thanh tra việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội dung,
phương pháp giáo dục, quy chế chuyên môn, quy chế thi cử, cấp văn bằng, chứng
chỉ; việc thực hiện các quy định về điều kiện cần thiết bảo đảm chất lượng giáo
dục ở cơ sở giáo dục;
3. Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực giáo dục
theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
4. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
Trong các nội dung trên thì nội dung 2 là nội dung thanh tra mang tính đặc
trưng của thanh tra giáo dục, phân biệt với các hoạt động thanh tra chuyên ngành
khác, cụ thể:
- Đánh giá các cá nhân, tổ chức thực hiện mục tiêu đào tạo, giáo dục do nhà
nước quy định trong toàn bộ kế hoạch của một khóa đào tạo hay một nội dung của
bài giảng là nhằm mục đích ngằn ngừa những hiện tượng đưa những nội dung giáo
dục không lành mạnh vào nhà trường và đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng cho
người học.
9


- Chương trình giáo dục và đào tạo nhằm đảm bảo đầy đủ chất lượng giáo

dục, đào tạo, đạt mục tiêu đã đề ra; chống các hiện tượng cắt xén chương trình
nhằm để giảm chi phí đào tạo, chạy theo tỷ lệ tốt nghiệp… dẫn đến nội dung giáo
dục bị bóp méo.
- Việc kiểm sốt quy chế chun mơn trong quá trình giảng dạy, đánh giá,
thi cử là nội dung thanh tra hết sức cần thiết. Vì việc thực hiện quy chế chuyên
môn không nghiêm túc sẽ dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng, phản ánh không
đúng thực chất chất lượng đào tạo, không đảm bảo sự công bằng, ảnh hưởng đến tư
chất của người học. Ví dụ: Vụ việc tiêu cực tại trường Trung học phổ thông Đồi
Ngô, tỉnh Bắc Giang trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2012.
- Văn bằng, chứng chỉ là một trong những vấn đề có tính thời sự. Nạn bằng
cấp giả đang tràn lan trong xã hội, len lõi khắp các ngành nghề và hành vi làm
bằng cấp giả ngày một tinh vi hơn thì nội dung thanh tra văn bằng, chứng chỉ là
một trong những biện pháp hữu hiệu hạn chế nạn bằng cấp giả.
- Thanh tra nội dung, phương pháp giảng dạy của giáo viên là một hoạt động
thanh tra đặc thù của thanh tra giáo dục. Đây là biện pháp nhằm tư vấn, thúc đẩy
năng lực sư phạm của giáo viên, ngăn ngừa việc giảng dạy tùy tiện ảnh hưởng đến
chất lượng giáo dục cho cả một thế hệ học sinh.
- Thanh tra các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục như: Diện tích khn
viên, cảnh quan, mơi trường sư phạm; số lượng phịng học, phịng làm việc, phịng
thí nghiệm thực hành, phịng bộ mơn, thư viện, phòng đa chức năng, phòng y tế,
bếp ăn tập thể, khu nội trú, bán trú, khu vực để xe, vệ sinh, sân chơi, bãi tập, nhà
đa chức năng, môi trường sư phạm, đội ngũ nhà giáo/quy mơ người học, chương
trình, giáo trình… là nội dung thanh tra cần được quan tâm nhiều hơn trong hoàn
cảnh các trường tư thục ngày một nhiều trong khi việc đầu tư nhằm thực hiện các
cam kết khi thành lập trường còn nhiều hạn chế.
Tùy từng cấp học, bậc học, loại hình đào tạo mà chủ thể thanh tra căn cứ vào
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh cụ thể về mục tiêu, kế hoạch, chương
trình, nội dung, phương pháp giáo dục, quy chế chuyên môn, quy chế đánh giá, xếp
loại nhà giáo và những quy định về điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục, đào tạo
để xác định các nội dung thanh tra tương ứng.

Ví dụ: Ở bậc học mầm non có những nội dung đặc trưng như: đồ dùng, đồ
chơi trong lớp và ngoài trời, thực hiện kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ (chế độ ăn
ngủ, học tập, tổ chức các hoạt động vui chơi, theo dõi biểu đồ phát triển của trẻ..)
…; ở các bậc học phổ thông: bàn nghế, đồ dùng dạy học, sân chơi, bãi tập, tuyển
10


sinh, kiểm tra, đánh giá xếp loại học sinh, cấp phát văn bằng, chứng chỉ, thi tốt
nghiệp…
Đối tượng thanh tra:
Đối tượng thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục: Cơ quan, tổ
chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động giáo
dục tại Việt Nam. Như vậy, đối tượng của thanh tra giáo dục rất rộng, đa dạng
nhưng có thể chia thành hai nhóm đối tượng sau:
Nhóm 1: Các cá nhân, tổ chức hoạt động giáo dục từ nguồn ngân sách nhà
nước hoặc một phần từ ngân sách nhà nước (mầm non, phổ thông công lập, các
trung tâm giáo dục thường xuyên, cơ sở giáo dục đại học…).
Nhóm 2: Các cá nhân, tổ chức hoạt động giáo dục từ nguồn vốn tự có
(trường phổ thông tư thục, công ty hoạt động trong lĩnh vực giáo dục…).
Đối với thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục của địa phương, đối
tượng thanh tra gồm các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục thuộc thẩm
quyền quản lý của Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT và các cá nhân, đơn vị thuộc quyền
quản lý của thủ trưởng các cơ sở đại học, trung cấp chun nghiệp.
Trình tự thủ tục: Ngồi các trình tự, thủ tục chung theo Luật thanh tra năm
2010 thì của hoạt động thanh tra giáo dục có những trình tự cụ thể đặc thù, ví dụ: thanh
tra các kỳ thi (trình tự thanh tra chuẩn bị thi, thanh tra coi thi, thanh tra chấm thi, phúc
khảo), thanh tra hoạt động sư phạm của nhà giáo (xem xét hồ sơ, giáo án, dự giờ, phân
tích, đánh giá giờ dạy...), thanh tra tồn diện nhà trường, cơ sở giáo dục...
Phạm vi thanh tra: Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân
nước ngoài tham gia hoạt động giáo dục tại địa phương thuộc phạm vi quản lý của

các Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, thủ trưởng các cơ sở đại học, trung cấp chuyên
nghiệp.
2. Nhận xét chung về hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực
giáo dục của địa phương.
2.1. Những kết quả đạt được.
Thời gian qua, các Sở, Phòng GD&ĐT, cán bộ, giáo viên, nhân viên trong
ngành nhận thức ngày càng đầy đủ về công tác thanh tra giáo dục. Đội ngũ thanh
tra chuyên trách tương đối ổn định, có năng lực, kinh nghiệm, nhiệt tình, chủ động
trong hoạt động trên cơ sở chương trình, kế hoạch được phê duyệt. Cộng tác viên
thanh tra được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, được bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn,
đáp ứng nhiệm vụ được giao. Các Sở GD&ĐT đã tổ chức thực hiện hồn thành kế
hoạch, chương trình cơng tác thanh tra năm học 2009-2010. Hoạt động thanh tra
11


thực hiện có chất lượng, nền nếp, hiệu quả. Qua thanh tra các cấp quản lý đã kịp
thời phát hiện, ngăn ngừa, chấn chỉnh những lệch lạc, xử lý những sai phạm. Hoạt
động thanh tra đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, quản lý dạy thêm, học
thêm đúng quy định, việc cấp phát, quản lý văn bằng chứng chỉ chặt chẽ, công tác
tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật, kỷ cương,
nền nếp của ngành được giữ vững.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn thiện, cụ thể,
đầy đủ, đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, cụ thể: Nghị định số
85/2006/NĐ-CP, Thông tư 43/2006/TT- BGDĐT; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính được ban hành từ năm 2002 và đến năm 2005, lĩnh vực giáo dục đã có Nghị
định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục (sau đây gọi tắt là Nghị định số
49/2005/NĐ-CP); Thông tư số 51/2006/TT-BGDĐT ngày 13 tháng 12 năm 2006
của Bộ GD&ĐT Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 49/2005/NĐCP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ quy định về xử phạtvi phạm hành
chính trong lĩnh vực giáo dục và Nghị định số 40/2011/NĐ-CP ngày 08 tháng 6

năm 2011 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11
tháng 4 năm 2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục (sau đây gọi tắt là Nghị định số 40/2011/NĐ-CP) …
Căn cứ vào các Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về nhiệm vụ trọng tâm
của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục
chuyên nghiệp; văn bản của Bộ GD&ĐT về Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ thanh
tra năm học và các văn bản chỉ đạo của địa phương, các Sở và Phòng GD&ĐT đã
xây dựng kế hoạch thanh tra năm học trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Kế hoạch
thanh tra cơ bản đã triển khai được các nhiệm vụ trọng tâm của năm học và phù
hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Thanh tra chuyên ngành đã được triển
khai cụ thể, thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm. Các chỉ tiêu thanh tra toàn diện
đơn vị và thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên các địa phương xây dựng sát
với chỉ tiêu Bộ GD&ĐT quy định. Một số chuyên đề về đổi mới công tác quản lý,
nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá;
hoạt động của các trường ngồi cơng lập đã được các Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức
thanh tra, kiểm tra luân phiên hầu hết các cơ sở giáo dục.
Theo báo cáo tổng kết năm học của Bộ GD&ĐT: trong năm học 2011-2012,
toàn quốc có 13.446 trường mầm non (tăng 470 trường so với năm học 20102011). Trong đó, cơng lập 11.462 trường (tăng 1.720 trường), bán công 536 trường
(giảm 1.262 trường), dân lập 112 trường (giảm 204 trường), tư thục 1.336 trường
(tăng 216 trường). Cấp tiểu học 15.273 trường (tăng 101 trường so với năm học
12


2009-2010). Cấp trung học cơ sở có tổng số 10.859 trường, tăng 115 trường so với
năm học 2010-2011. Cấp trung học phổ thơng có tổng số 2.683 trường, tăng 76
trường so với năm học 2010-2011; Cả nước hiện có 70 trung tâm giáo dục thường
xuyên cấp tỉnh; 642 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh cấp huyện (tăng 6
trung tâm so với năm học 2010-2011), chiếm tỷ lệ 91,45% tổng số huyện/thị. cụ thể
là: có 191 trung tâm giáo dục thường xuyên - hướng nghiệp - dạy nghề (29,6 %); 116
trung tâm giáo dục thường xuyên - hướng nghiệp (18%); 52 trung tâm giáo dục

thường xuyên - dạy nghề (8%). Cả nước có tổng cộng 596 cơ sở có đào tạo trung cấp
chuyên nghiệp, trong đó có 272 trường trung cấp chuyên nghiệp, 204 trường cao
đẳng đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, 86 trường đại học đào tạo trung cấp chuyên
nghiệp và 34 cơ sở khác đào tạo trung cấp chuyên nghiệp. 10
Kết quả thanh tra trong năm 2011-2012: 11
* Thanh tra toàn diện đơn vị
Năm học 2011- 2012 các Sở GD&ĐT đã thanh tra được 668 cơ sở giáo dục
đạt tỷ lệ 18%, các Phòng GD&ĐT đã thanh tra được 7519 cơ sở, đạt tỷ lệ 19%.
Các cuộc thanh tra toàn diện đơn vị đã triển khai theo đúng Thông tư 43/2006/TTBGDĐT ngày 20/10/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc Hướng dẫn thanh tra
toàn diện nhà trường, cơ sở giáo dục khác và thanh tra hoạt động sư phạm của giáo
viên. Tổ chức thanh tra đúng quy trình, kế hoạch và đảm bảo tiến độ đề ra. Trên cơ
sở các hoạt động giáo dục của nhà trường, Đoàn thanh tra đánh giá đúng thực
trạng, khẳng định những mặt đã làm được, nêu ra những hạn chế thiếu sót trong
cơng tác quản lý điều hành của lãnh đạo, thực hiện quy chế chuyên môn, kỷ cương,
nền nếp dạy học của giáo viên, kết quả rèn luyện văn hóa, đạo đức của học sinh.
Nhận xét, đánh giá của Đoàn là cơ sở để nhà trường phát huy ưu điểm, tìm giải
pháp khắc phục hạn chế thiếu sót, mặt khác giúp các cơ quan quản lý giáo dục có
phương án, quyết sách phù hợp trong việc phát triển giáo dục địa phương. Các
cuộc thanh tra tồn diện đơn vị góp phần quan trọng trong việc duy trì nền nếp và
nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học trong các nhà trường hiện nay.
* Thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên.
Các Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên
theo các chuyên đề riêng hoặc lồng ghép trong cuộc thanh tra toàn diện đơn vị.
Không tổ chức cho Cộng tác viên thanh tra tiến hành thanh tra độc lập. Tổng số
giáo viên được thanh tra là 23.722, đạt tỷ lệ 14,5%. Các cuộc thanh tra được triển
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Tài liệu hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2012 – 2013, NXB Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội, tr 106-107.
11
Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Tài liệu Hội nghị Triển khai nhiệm vụ thanh tra khối các Sở
Giáo dục và Đào tạo năm học 2012 – 2013, Hà Nội, tr 17-19.

10

13


khai đồng đều ở các cấp học mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông và trung tâm giáo dục thường xuyên. Trong quá trình thanh tra, các Cộng tác
viên đã phát huy tinh thần trách nhiệm và năng lực nghiệp vụ, phát hiện những
điểm mạnh, điểm yếu của giáo viên qua việc kiểm tra hồ sơ, giáo án, việc thực hiện
chương trình quy chế chun mơn, dự giờ thăm lớp, qua đó đánh giá tồn diện chất
lượng hoạt động sư phạm của giáo viên. Giúp giáo viên ở các đơn vị thấy rõ các ưu
điểm để phát huy, những tồn tại để rút kinh nghiệm. Trên cơ sở những hạn chế
thiếu sót, Cộng tác viên thanh tra đã tư vấn trao đổi về phương pháp, kinh nghiệm
giảng dạy, giáo dục học sinh để giáo viên tham khảo, áp dụng. Mặt khác, kết quả
thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên là cơ sở để bồi dưỡng, phát triển cán bộ
quản lý và chấn chỉnh kỷ cương nền nếp trong hoạt động giáo dục của nhà trường.
* Thanh tra các chuyên đề.
- Thanh tra công tác quản lý mua sắm, bảo quản và sử dụng thiết bị dạy học:
các Sở GD&ĐT tổ chức thanh tra 2228 lượt việc quản lý, sử dụng cơ sở vật chất,
thiết bị dạy học.
- Thanh tra quản lý dạy thêm, học thêm.
Các Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
quy định về dạy thêm, học thêm của Bộ GD&ĐT và việc ban hành các quy định
dạy thêm, học thêm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Qua thanh tra cho thấy: Các Sở GD&ĐT đã tham mưu Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh ban hành Quyết định về dạy thêm, học thêm trên địa bàn tỉnh. Các Sở
GD&ĐT tiến hành cấp giấy phép dạy thêm cho giáo viên dạy chương trình trung
học phổ thong đồng thời hướng dẫn các Phòng GD&ĐT tham mưu Uỷ ban nhân
dân cấp huyện cấp giấy phép dạy thêm cho giáo viên dạy chương trình trung học
cơ sở của địa phương.

Việc tổ chức dạy thêm, học thêm ở các địa phương cơ bản thực hiện đúng
quy định của Bộ GD&ĐT và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Công tác quản lý, thu, chi
ở các lớp dạy thêm, học thêm do nhà trường tổ chức được công khai minh bạch
theo đúng quy định.
Một số cơ sở giáo dục có giáo viên mở lớp dạy thêm, học thêm ngồi nhà
trường đã được chính quyền địa phương phối hợp cùng nhà trường quản lý nên
tránh được những hạn chế tiêu cực. Những cơ sở khơng có giấy phép dạy thêm,
học thêm trên địa bàn, các Đoàn thanh tra đã kiến nghị cơ quan quản lý giáo dục
phối hợp với chính quyền địa phương xử lý.
- Thanh tra việc cấp phát, quản lý, sử dụng văn bằng, chứng chỉ.
14


Tại các địa phương, việc thanh tra, kiểm tra công tác quản lý, cấp phát, sử
dụng văn bằng chứng chỉ được thực hiện thường xuyên, với hình thức lồng ghép
hoặc theo chuyên đề. Các Đoàn thanh tra đã kiểm tra việc: quản lý và sử dụng phôi
bằng; quản lý hồ sơ cấp phát; thực hiện quy trình cấp phát; quy định việc nhận
bằng thay; xử lý văn bằng viết sai, tồn đọng…Thông qua kiểm tra cho thấy công
tác quản lý, cấp phát văn bằng chứng chỉ ở các đơn vị theo đúng quy định tại quyết
định số 33/2007/QĐ-BGDĐT ngày 20/6/2007 của Bộ GD&ĐT.
Hầu hết các Sở, Phịng GD&ĐT có đủ hồ sơ cấp phát văn bằng, chứng chỉ
theo đúng mẫu. Các cơ sở giáo dục được hướng dẫn cụ thể nên hồ sơ sổ sách nhận
và cấp bằng tốt nghiệp cho học sinh đầy đủ, khoa học. Những văn bằng, chứng chỉ
có nghi vấn tiến hành phối hợp với Cơng an tỉnh, Sở Tư pháp xác minh. Kiên
quyết thu hồi, xử lý văn bằng, chứng chỉ bất hợp pháp.
* Thanh tra các kỳ thi.
Thực hiện kế hoạch thanh tra thi, các Sở GD&ĐT đã thành lập các đoàn
thanh tra thi. Kiểm tra việc quán triệt các văn bản chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố và ban hành các văn bản chỉ đạo về công tác thi và
tuyển sinh.

Tiến hành thanh tra công tác chuẩn bị thi, coi thi, chấm thi, phúc khảo các
kỳ thi tốt nghiệp, thi tuyển sinh, thi nghề, thi cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, thi
chọn học sinh giỏi; công tác tuyển sinh đầu cấp, xét hồn thành chương trình tiểu
học, xét công nhận tốt nghiệp trung học cơ sở.
Tại các địa phương đã xây dựng kế hoạch tổ chức thi, thành lập Ban Chỉ đạo
thi; soạn thảo các văn bản chỉ đạo về kỳ thi; chuẩn bị lực lượng tham gia kỳ thi; tổ
chức tập huấn, học tập quy chế thi, bố trí các phương án phối hợp bảo vệ kỳ thi và
xử lý sự cố bất thường có thể xảy ra trong khi tổ chức thi; điều động cán bộ trực
tiếp thanh tra tại các Hội đồng coi thi, thành lập đoàn thanh tra lưu động phối hợp
với thanh tra uỷ quyền của Bộ GD&ĐT trực tiếp kiểm tra, giám sát các Hội đồng
coi thi; cử cán bộ, giáo viên thanh tra công tác chấm thi, phúc khảo tại các Hội
đồng chấm thi, phúc khảo theo sự điều động của Bộ GD&ĐT.
Cán bộ thanh tra đã phát huy tinh thần trách nhiệm và trình độ nghiệp vụ nên
đã góp phần đưa cơng tác thi vào kỷ cương nền nếp.
Ngồi ra, cịn có các cuộc thanh tra chun ngành khác như: thanh tra công
tác đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện 3 công khai; thanh tra
công tác chuẩn bị đầu năm học, tuyển sinh đầu cấp, các khoản thu, chi trong nhà
trường; thanh tra hoạt động của các trung tâm ngoại ngữ - tin học; thanh tra hoạt
động của các trường ngồi cơng lập…
15


Nhìn chung, các Sở, Phịng GD&ĐT đã tích cực triển khai các cuộc thanh
tra chuyên đề, phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, theo đúng kế
hoạch và tiến độ. Chuyên đề trọng điểm như công tác quản lý tài chính, tài sản;
ứng dụng cơng nghệ thơng tin; đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục; mua
sắm, bảo quản, sử dụng thiết bị dạy học, đồ chơi tre em được tiến hành ở một số
địa phương, nghiêm túc góp phần chấn chỉnh kịp thời các sai sót trong cơng tác
quản lý của các cơ sở giáo dục và cơ quan quản lý giáo dục. Công tác tuyển sinh
đầu cấp và các khoản thu đầu năm được thanh tra, kiểm tra trên diện rộng, hầu hết

các nhà trường và trung tâm giáo dục thường xuyên. Các cuộc thanh tra chun đề
góp phần khẳng định tính chủ động, tích cực của cán bộ quản lý, giáo viên các cơ
sở giáo dục trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ năm học đồng thời nêu ra
những hạn chế thiếu sót để đơn vị có biện pháp khắc phục.
2.2. Những hạn chế, bất cập
2.2.1 Hạn chế về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
- Điều 37, Luật Thanh tra năm 2010 quy định hoạt động thanh tra thực hiện
theo các hình thức: thanh tra theo kế hoạch, thanh tra đột xuất, thanh tra thường
xuyên. Tuy nhiên, hình thức thanh tra thường xuyên chỉ áp dụng cho hoạt động
thanh tra của cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành (khoản 3, Điều
37). Quy định như trên là không phù hợp với thực tiễn hoạt động thanh tra nói
chung và hoạt động thanh tra chuyên ngành nói riêng. Vì thực tế ngồi các cuộc
thanh tra theo kế hoạch thì cơ quan thanh tra cũng phải căn cứ vào tình hình nội bộ
của các đối tượng thanh tra để tiến hành các cuộc thanh tra thường xuyên nhằm kịp
thời chấn chỉnh các tồn tại của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, khi những diễn biến này chưa có dấu hiệu rõ của các hành vi vi
phạm pháp luật. Hơn nữa, trong lĩnh vực giáo dục khơng có cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
- Thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành của thanh tra Sở GD&ĐT theo
quy định của Luật Thanh tra là thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành,
quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan,
tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của sở. Theo phân cấp quản lý có những cơ
quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục thuộc thẩm quyền quản
lý của các Bộ, ngành hoạt động tại địa phương, khi có hành vi vi phạm thì Thanh
tra Sở không thể tiến hành thanh tra chuyên ngành để xử lý.
- Về giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra: Theo Quy chế giám sát, kiểm
tra hoạt động của Đồn thanh tra hiện hành thì sau khi thành lập Đoàn thanh tra,
người ra quyết định thanh tra phải giám sát Đoàn thanh tra hoặc cử người giám sát.
16



Tuy nhiên, quá trình áp dụng quy định này trên thực tế đã gặp khơng ít khó khăn,
việc thực hiện việc giám sát hoạt động thanh tra thực hiện khó khả thi. Thực tiễn
các cuộc thanh tra trong lĩnh vực giáo dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hầu như
không thực hiện. Lý do: Thứ nhất: Người ra Quyết định thanh tra thường là Thủ
trưởng cơ quan hoặc là Chánh Thanh tra nên việc bố trí thời gian để giám sát các
Đồn trong thực tế khơng thể thực hiện, Thứ hai: nếu giao cho cán bộ, công chức
không thuộc biên chế của cơ quan thanh tra đi giám sát thì yêu cầu về sự am hiểu
pháp luật thanh tra, nghiệp vụ thanh tra khơng đảm bảo nên cũng khó có thể thực
hiện; nếu giao cho Cán bộ thanh tra, Thanh tra viên thuộc biên chế của Thanh tra
Sở đi giám sát thì biên chế khơng đảm bảo và trong trường hợp này Trưởng Đồn
thanh tra là Chánh Thanh tra thì liệu cán bộ giám sát có thực thi nhiệm vụ khách
quan khơng; trong trường hợp trưởng Đồn thanh tra là Chánh Thanh tra đồng thời
đảm nhận hai chức trách là Trưởng đồn và cán bộ giám sát thì việc cử người giám
sát là rất hình thức. Đặc thù của hoạt động thanh tra được chia thành các tổ, nhóm
làm việc độc lập với Trưởng Đoàn thanh tra, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục khi tổ
chức Đồn thanh tra thì các tổ, nhóm độc lập đi xuống các đơn vị trường học và
mỗi nhóm lại chia ra để làm việc với từng bộ phận, như vậy liệu cán bộ được cử
giám sát liệu có thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ của mình khơng.
- Chưa có khái niệm về thanh tra giáo dục, khái niệm hoạt động thanh tra
chuyên ngành trong lĩnh vực giáo dục trong Nghị định số 85/2006/NĐ-CP; Hoạt
động thanh tra tồn diện trong Thơng tư số 43/2006/TT-BGDĐT khơng được quy
định rõ là hoạt động thanh tra chuyên ngành hay vừa là thanh tra hành chính và
chuyên ngành.
- Nghị định số 85/2006/NĐ-CP có một số quy định khơng cịn phù hợp với
Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP. Ví dụ nguyên tắc hoạt
động thanh tra quy định tại khoản 1, Điều 3; nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại
khoản 1, Điều 6, khoản 1, Điều 8, khoản 1, Điều 9, khoản 1, Điều 10; quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm và mối quan hệ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động
thanh tra giáo dục quy định tại Chương V...

- Quyền hạn, nhiệm vụ của Trưởng phòng GD&ĐT trong hoạt động thanh
tra chưa được quy định cụ thể trong Nghị định số 85/2005/NĐ-CP.
- Thời hạn thanh tra toàn diện quy định tại khoản 3, mục 2, Thông tư số
43/2006/TT-BGDĐT là không phù hợp với Luật Thanh tra và tình hình thực tế của
một số địa phương.
- Năm 2004, Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư số 07/2004/TT-BGDĐT ngày
30/3/2004 về hướng dẫn thanh tra toàn diện trường phổ thông và thanh tra hoạt
17


động sư phạm của giáo viên phổ thông đã hướng dẫn khi thanh tra đánh giá có xếp
loại nhà trường, cơ sở giáo dục theo 4 mức: tốt, khá, đạt yêu cầu, chưa đạt yêu cầu
nhưng khi Thông tư số 43/2006/TT-BGDĐT thay thế Thông tư số 07/2004/TTBGDĐT không quy định việc đánh giá xếp loại. Qua thực tiễn thực hiện thanh tra
toàn diện tại các cơ sở giáo dục trong những năm qua nếu khi đánh giá chỉ mang
tính tư vấn, thúc đẩy mà không xếp loại sẽ làm hạn chế nhiều đến hiệu quả, hiệu
lực của kết luận thanh tra.
- Thẩm quyền ra Quyết định thanh tra thi tốt nghiệp trung học phổ thông quy
định tại khoản 2, Điều 41, Thông tư số 10/2012/TT-BGDĐT ngày 06 tháng 3 năm
2012 của Bộ GD&ĐT quy định về quy chế thi tốt nghiệp không phù hợp với Luật
Thanh tra và Quyết định số 41/2006/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 10 năm 2006 của
Bộ GD&ĐT ban hành quy định tổ chức và hoạt động thanh tra các kỳ thi.
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành thường xuyên thay
đổi, thiếu tính ổn định. Có một số quan hệ pháp luật phát sinh khơng điều chỉnh
kịp thời ví dụ như: liên kết đào tạo, tin học ngoại ngữ…
- Các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục quy
định cịn nhiều sơ hở, chưa tồn diện nên có những hành vi vi phạm khơng thể xử
lý. Ví dụ: hành vi tổ chức thi lấy chứng chỉ ngoại ngữ có yếu tố nước ngoài.
- Thực tế hiện nay, mỗi địa phương vận dụng Thông tư số 28/2009/TTBGDĐT ngày 21 tháng 10 năm 2009 của Bộ GD&ĐT Quy định chế độ làm việc
với giáo viên phổ thông để thực hiện chế độ thanh tra cho đỗi ngũ Cộng tác viên
thanh khác nhau và Thông tư này chỉ điều chỉnh đối với đội ngũ Cộng tác viên

thanh tra phổ thơng cịn đội ngũ Cộng tác viên thanh tra bậc học mầm non vẫn
chưa có quy định chế độ mới.
- Cịn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà
nước về GD&ĐT, giữa cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và các cơ quan chủ
quản, giữa quản lý GD&ĐT theo ngành và theo lãnh thổ nên các hoạt động thanh
tra chuyên ngành cũng gặp nhiều khó khăn.
2.2.2 Cơ cấu, tổ chức, nhân sự.
- Biên chế cho thanh tra Sở GD&ĐTquá ít trong khi địa bàn, phạm vi thanh
tra rộng, có những địa phương khó khăn về mặt địa lý như các tỉnh miền núi phía
bắc hoặc có đối tượng quản lý nhiều thì vấn đề biên chế cần được coi trọng.
- Do yêu cầu thanh tra về hoạt động sư phạm của giáo viên với nhiều chuyên
môn khác nhau trong một trường học nên đói hỏi một lực lượng Cộng tác viên
thanh tra lớp có giàu kinh nghiện, giỏi chun mơn giàu năng lực sư phạm. Nhưng
18


trên thực tế đội ngũ này khi được trưng tập khơng hẳn đáp ứng được u cầu trên,
vì khơng ít giáo viên khi được trưng tập không giỏi chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm nên khi thanh tra đã không được đồng nghiệp kính nể và khơng thực hiện
được mục tiêu thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên là tư vấn, thúc đẩy. Khi
thanh tra các đơn vị nếu có sai phạm thì một số Cộng tác viên thanh tra lúng túng
vận dụng các quy định của pháp luật, cộng với tâm lý cả nể đồng nghiệp nên càng
khó khách quan, chính xác để đánh giá, xử lý.
Thực tế, vẫn cịn một số ít Cộng tác viên thanh tra mới bổ nhiệm lần đầu cịn
chưa có kinh nghiệm trong phương pháp đánh giá, kỹ năng tư vấn, điều này cũng
chứng tỏ công tác tập huấn, bồi dưỡng chỉ chú trọng đến việc triển khai các quy
định mới về nội dung thanh tra, rút kinh nghiệm tổng thể, chưa đi sâu vào chuyên
đề tập huấn về kỹ năng đánh giá và tư vấn vì đây là những thao tác địi hỏi nghệ
thuật xử lý tình huống cần phải có sự trao đổi, bàn bạc, định hướng chung; trình độ
chun mơn của một số Cộng tác viên thanh tra vẫn chưa tạo uy tín và độ tin cậy

cao, chủ yếu là ở những bộ môn mỏng về nhân sự nên việc lựa chọn, bổ nhiệm
chưa đảm bảo tính tồn diện. Một số Cộng tác viên thanh tra lâu năm còn thể hiện
những nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt bởi kinh nghiệm tạo cho đối tượng
được thanh tra tâm lý căng thẳng, lo sợ, thậm chí chán nản.
Theo quy định, các Cộng tác viên thanh tra không đủ điều kiện là Thanh tra
viên để thực hiện việc thanh tra độc lập, trong một thời gian dài họ phải đi thanh
tra độc lập để đánh giá hoạt động sư phạm của nhà giáo, từ khi có Luật thanh tra
năm 2010 thì năm học 2011-2012 Thanh tra Bộ GD&ĐT mới có hướng dẫn trong
kế hoạch thanh tra năm học là Cộng tác viên thanh tra không phải đi thanh tra độc
lập.
Hiện nay, do yêu cầu của công tác thanh tra tại địa phương kể từ khi có Pháp
lệnh thanh tra năm 1990, ngành giáo dục đã vượt rào bằng các Nghị định về tổ
chức và hoạt động thanh tra (Nghị định số 358/HĐBT ngày 28/9/1992; Nghị định
số 101/2002/NĐ-CP ngày 10/12/2002; Nghị định số 85/2006/NĐ-CP và Luật hóa
ở trong Luật Giáo dục năm 1997 theo đó khẳng định sự tồn tại chức năng thanh tra
ở Phịng GD&ĐT mà khơng xác định được tổ chức của nó. Người phụ trách cơng
tác thanh tra tại các phòng GD&ĐT chưa được đào tạo thường xuyên về nghiệp vụ
công tác thanh tra, khối lượng công việc liên quan đến công tác thanh tra rất nhiều,
biên chế giao cho các phịng GD&ĐT ít nên cán bộ thanh tra phải kiêm nhiệm
nhiều, cán bộ làm công tác này không ổn định mà thường xuyên bị thay đổi, luân
chuyển và chưa có chế độ khuyến khích cho đội ngũ này dẫn đến hiệu quả cơng
việc thấp. Trong khi đó bản thân Phịng GD&ĐT lại quản lý hàng chục thậm chí là
hàng trăm đơn vị trường học, hàng ngàn cán bộ, giáo viên chưa kể là trong giai
19


đoạn hiện nay các nhóm trẻ dân lập thành lập ngày một nhiều. Xin lấy đơn cử tại
Phòng GD&ĐT thành phố Biên Hịa, Đồng Nai: cán bộ phụ trách cơng tác thanh
tra là người tham mưu cho Trưởng phòng về công tác thanh tra nhưng chưa qua
bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên chuyên ngành, các đơn vị trực thuộc nhiều (tại

Phòng GD&ĐT Biên Hòa đơn vị trực thuộc: mầm non 53, tiểu học 52, trung học
cơ sở 31), khối lượng cơng việc phụ trách lớn. Tại phịng GD&ĐT Biên Hịa, trong
một năm học để thực hiện thanh tra tồn diện đạt tỷ lệ 20% đơn vị trực thuộc thì
Phịng GD&ĐT Biên Hòa phải thanh tra được gần 27 đơn vị (mầm non, tiểu học,
trung học cơ sở), mỗi cuộc thanh tra toàn diện từ khâu chuẩn bị thanh tra đến khi
kết thúc thanh tra phải mất thời gian ít nhất một tuần, nếu đi 27 đơn vị thì phải mất
27 tuần mà trong một năm học chỉ có 35 tuần (chiếm 2/3 thời gian), ngoài ra cán
bộ thanh tra phải tham mưu thực hiện các đợt thanh tra chuyên đề, tham mưu công
tác giải quyết tố cáo, công tác phịng chống tham nhũng và các cơng tác khác…
Thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành lại gặp khó khăn về nghiệp vụ thanh
tra, thực hiện quyền trong quá trình thanh tra theo pháp luật thanh tra cũng khó vận
dụng.
Thủ trưởng các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học là một
chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành giáo dục nhưng so với Luật
Thanh tra năm 2010 thì cũng khơng phù hợp, hơn nữa các đơn vị này không phải là
một cơ quan quản lý nhà nước mà chỉ là một đơn vị sự nghiệp, vậy hoạt động
thanh tra của các chủ thể này chỉ có thể coi là hoạt động kiểm tra nội bộ. Mặt khác,
cán bộ phụ trách công tác thanh tra tại các đơn vị này lại chưa được đào tạo, bồi
dưỡng về nghiệp vụ thanh tra, thực tế các hoạt động thanh tra tại các đơn vị này chỉ
mang tính kiểm tra nội bộ mà không phải là hoạt động thanh tra theo đúng nghĩa.
Thư ký Đoàn thanh tra là thành viên Đồn thanh tra, được Trưởng đồn
phân cơng nhiệm vụ giúp cho lãnh đạo Đoàn chuẩn bị hồ sơ thanh tra, soạn thảo
biên bản thanh tra, ghi chép về các hoạt động của Đồn thanh tra từ khi cơng bố
quyết định thanh tra đến khi kết thúc thanh tra, tổng hợp kết quả thanh tra và thực
hiện các nhiệm vụ khác theo phân cơng của Trưởng đồn. Trong q trình thanh
tra Thư ký Đoàn thanh tra là người thực hiện các nhiệm, vụ quyền hạn của thành
viên Đoàn thanh tra, ngoài ra giúp Trưởng đoàn thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của pháp luật thanh tra.
Qua thực tế, Thư ký Đồn thường thực hiện một số cơng việc cụ thể: thu thập
các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản do các cấp có thẩm quyền ban hành

quy định trong lĩnh vực quản lý giáo dục có liên quan đến nội dung, đối tượng
thanh tra; dự kiến thành phần tham gia Đoàn thanh tra, tham mưu cho lãnh đạo lực
chọn hoặc đề nghị cơ quan, đơn vị trường học cử cơng chức, viên chức có chun
20


môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thanh tra để tham gia với tư cách là cộng tác
viên thanh tra; giúp Trưởng đoàn soạn thảo quyết định, kế hoạch thanh tra trình
người có thẩm quyền duyệt, ký; sau đó soạn thảo xây dựng đề cương hướng dẫn
đối tượng thanh tra báo cáo, dự kiến thời điểm công bố quyết định thanh tra, lịch
trình thanh tra; khẩn trương gửi quyết định thanh tra và các tài liệu kèm theo đến
đối tượng thanh tra và các thành phần khác có liên quan đến nội dung thanh tra,
tham mưu cho Trưởng đoàn phân cơng nhiệm vụ cho các thành viên Đồn thanh
tra.
Trong suốt thời gian thanh tra, ngoài việc trực tiếp thu thập tài liệu chứng
cứ, Thư ký Đoàn thanh tra là người tập hợp số liệu, lập các loại biên bản thanh tra,
như: Biên bản công bố quyết định thanh tra, công bố kết luận thanh tra, biên bản
thu giữ tài liệu, biên bản làm việc, biên bản vi phạm của đối tượng thanh tra, soạn
thảo các văn bản khác theo yêu cầu của cuộc thanh tra và chỉ đạo của Trưởng đoàn
thanh tra. Kết thúc thanh tra căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, đối
chiếu với các văn bản pháp luật và quy định hiện hành của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền, Thư ký Đoàn thanh tra giúp Trưởng đoàn soạn thảo báo cáo
kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra, tổ chức lấy ý kiến của các thành viên
trong Đoàn trước khi trình người có thẩm quyền xem xét, ký thơng qua. Thư ký
Đồn thanh tra phải thường xun liên hệ với đối tượng thanh tra để yêu cầu đối
tượng thanh tra chấp hành đúng lịch trình và nội dung làm việc theo kế hoạch, yêu
cầu đối tượng chuẩn bị hồ sơ, tài liệu, sắp xếp thời gian làm việc với Đoàn thanh
tra.
Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên mơn được giao, Thư ký Đồn
thanh tra phải là sợi dây gắn kết các thành viên, duy trì sự đồn kết nhất trí xung

quanh lãnh đạo Đồn, đảm bảo các nguyên tắc hoạt động thanh tra theo quy định
(Điều 7, Luật thanh tra năm 2010), tập trung thực hiện các nhiệm vụ theo kế hoạch
thanh tra đã đề ra.
Với vai trò quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định thành công
hay thất bại của cuộc thanh tra nhưng pháp luật thanh tra lại chưa quy định chức
danh cho thư ký như tòa án để nâng cao hoạt động thanh tra nói chung và luật hóa
chức danh thư ký Đồn thanh tra là để khẳng định vị trí, vai trò của người thư ký
khi tham gia hoạt động thanh tra, nâng cao trách nhiệm cho thư ký Đoàn.
2.2.3 Quy trình thanh tra.
- Trong quá trình thanh tra tại các đơn vị, các loại biên bản thanh tra do các
thành viên Đồn, tổ, nhóm lập khơng thu thập tài liệu, chứng cứ kèm theo để
chứng minh cho các số liệu, nhận xét, kiến nghị trong biên bản.
21


- Báo cáo kết quả của các thành viên Đoàn thanh tra chủ yếu thể hiện bằng
biên bản thanh tra tại đơn vị, thành viên đoàn thanh tra hầu như không báo cáo
tổng hợp kết quả thanh tra căn cứ từ biên bản, tài liệu thu thập được: thanh tra toàn
diện, thanh tra thi, thanh tra hoạt động sư phạm của nhà giáo…
- Nghiệp vụ thanh tra của lực lượng Cộng tác viên thanh tra ở một số môn
chưa đều dẫn đến việc đánh giá xếp loại giáo viên chưa có tính thuyết phục cao,
nặng về xếp loại giáo viên chưa chú trọng công tác tư vấn thúc đẩy, mang tính chủ
quan, cả nể. Cơng tác thanh tra thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên chỉ tập
trung vào thanh tra hoạt động sư phạm của giáo viên chưa chú trọng đến công tác
quản lý chuyên môn của Hiệu trưởng, Tổ trưởng; điều đó thể hiện ở khâu duyệt kế
hoạch thanh tra của Sở, Phòng GD&ĐT chưa kỹ, chưa định hướng được nhiệm vụ
cho cộng tác viên thanh tra. Khả năng vận dụng các quy định của pháp luật để xử
lý các tình huống trong quá trình thanh tra còn nhiều hạn chế. Việc điều động cộng
tác viên thanh tra vẫn cịn nhiều gặp khó khăn đã phần nào ảnh hưởng đến kế
hoạch thanh tra, do nhận thức về công tác thanh tra chưa cao nên một số Hiệu

trưởng không tạo điều kiện thuận lợi cho các giáo viên của mình là Cộng tác viên
thanh tra thực hiện nhiệm vụ khi được Sở, Phòng GD&ĐT điều động.
- Chất lượng kết luận, kiến nghị thanh tra cịn thấp, tính khả thi chưa cao.
Công bố kết luận thanh tra không được tổ chức triển khai, thực hiện đối với các
cuộc thanh tra toàn diện, thanh tra chuyên đề, cụ thể tại tỉnh Đồng Nai trong năm
học 2011-2012, tổng số cuộc thanh tra tồn diện theo thơng tư số 43/2006/TTBGDĐT do Thanh tra Sở, các Phòng GD&ĐT trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thực
hiện là: 167 nhưng chỉ có 02 cuộc thanh tra hành chính và thanh tra chun ngành
đối với phịng GD&ĐT thực hiện việc công bố kết luận thanh tra. 12 Việc công khai
kết luận thanh tra theo Luật Thanh tra năm 2010 hầu như không được thực hiện,
người ra kết luận thanh tra giao cho đối tượng thanh tra công bố tại đơn vị thông
qua các cuộc họp.
- Khi thực hiện các trình tự, thủ tục xử lý sau thanh tra, kể từ khi có quyết
định xử lý về thanh tra thì chủ yếu là theo dõi, chờ sự tự giác thực hiện của đối
tượng thanh tra.
- Chưa xử lý được một số đối tượng thanh tra không chấp hành kết luận,
kiến nghị, cố tình báo cáo khơng trung thực, các kiến nghị chưa được theo dõi, đôn
đốc, chỉ đạo quyết liệt.
- Việc xử lý vi phạm hành chính của địa phương cịn rất ít: Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính được ban hành từ năm 2002 và đến năm 2005, lĩnh vực giáo
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai (2012), Báo cáo số 1037/BC-SGDĐT Về Tổng kết công tác
thanh tra năm học 2011-2012, Đồng Nai.
12

22


dục đã có Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục (sau đây viết tắt là
Nghị định số 49/2005/NĐ-CP); Thông tư số 51/2006/TT-BGDĐT ngày
13/12/2006 của Bộ GD&ĐT Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số

49/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục và Nghị định số 40/2011/NĐ-CP ngày
08/6/2011 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11
tháng 4 năm 2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giáo dục (sau đây gọi tắ là Nghị định số 40/2011/NĐ-CP), tuy nhiên số
lượng các vụ việc bị xử lý vi phạm hành chính của thanh tra giáo dục cấp sở rất ít.
Cụ thể trên địa bàn tỉnh Đồng Nai: Thanh tra Sở GD&ĐT Đồng Nai đã có số lần
đã xử phạt vi phạm hành chính như sau: Đã xử phạt với các hình thức: 02 phạt tiền
và 10 cảnh cáo. Nội dung xử phạt: Vi phạm dạy thêm, học thêm; giáo viên tráo bài
thi trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 chuyên Lương Thế Vinh; vi phạm về thành
lập và hoạt động của một số trung tâm tin học và ngoại ngữ. Tổng số tiền xử phạt:
8.600.000 đồng (Tám triệu sáu trăm ngàn đồng). Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai,
Ủy ban nhân dân các huyện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai không xử phạt trường hợp
nào.
- Công tác đúc rút kinh nghiệm sau khi kết thúc Đoàn thanh tra chưa được
chú trọng, cịn hình thức, các tổ chức sơ, tổng kết chưa thường xuyên, việc học tập,
trao đổi nghiệp vụ thanh tra giữa đơn vị với các tỉnh bạn còn hạn chế, làm chất
lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra chậm được cải thiện. Hàng năm, chưa tổ chức
giao lưu, mở các cuộc thi nghiệp vụ, tuyên truyền đối với đội ngũ cán bộ, công
chức.
2.2.4 Về phối hợp hoạt động.
Các đợt thanh tra giáo dục chủ yếu là do cấp Sở, Phòng GD&ĐT thực hiện
theo kế hoạch, sự phối hợp thanh tra giữa cơ quan thanh tra giáo dục và các đơn vị
có liên quan cịn ít.
Việc thanh tra đột xuất các đơn vị ít, vì cơ chế phối hợp thu thập thơng tin từ
cơ sở cịn hạn chế nên nhiều hành vi vi phạm không được phát hiện, xử lý kịp thời.
Có nhiều nội dung thanh tra cần có sự phối kết hợp của nhiều cơ quan nên
nhiều lúc cũng gây khó khăn cho việc thành lập Đồn thanh tra như: thanh tra các
công ty hoạt động trong lĩnh vực giáo dục có yếu tố nước ngồi, liên kết đào tạo,
đưa học sinh đi du học…

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực giáo dục của địa phương.
23


3. 1 Nhóm giải pháp hồn thiện pháp luật.
- Luật Thanh tra năm 2010 bổ sung hình thức thanh tra thường xuyên cho cơ
quan thanh tra nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
- Để phát huy được mục đích, ý nghĩa của việc giám sát, kiểm tra hoạt động
của Đoàn Thanh tra thì Quy chế giám sát phải quy định thêm một tổ chức độc lập
thực hiện chức năng giám sát hoạt động thanh tra hoặc có thể bổ nhiệm một đội
ngũ làm công tác giám sát kiêm nhiệm được tập huấn sâu về nghiệp vụ thanh tra và
có trình độ am hiểu về lĩnh vực được thanh tra.
- Làm rõ khái niệm thanh tra giáo dục và phân định rõ nội dung hoạt động
thanh tra chuyên ngành quy định tại Nghị định số 85/2006/NĐ-CP.
- Sửa đổi, bổ sung các điều, khoản quy định về nguyên tắc hoạt động thanh
tra quy định tại khoản 1, Điều 3; nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1, Điều
6, khoản 1, Điều 8, khoản 1, Điều 9, khoản 1, Điều 10 và quy định về quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm, mối quan hệ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động
thanh tra giáo dục quy định tại Chương V, Nghị định số 85/2006/NĐ-CP để bảo
đảm phù hợp với Luật Thanh tra năm 2010 và các Nghị định hướng dẫn chi tiết
Luật Thanh tra năm 2010. Nếu tiếp tục quy định thẩm quyền thanh tra giáo dục
cho Trưởng phòng GD&ĐT nên bổ sung trong Nghị định số 85/2006/NĐ-CP về
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Trưởng phòng GD&ĐT trong hoạt động thanh tra.
- Cần quy định Trưởng đoàn thanh tra được ban hành kết luận thanh tra, vì
Trưởng đồn thanh tra là người lãnh đạo đoàn và trực tiếp tiến hành cuộc thanh tra,
do đó, hơn ai hết, Trưởng đồn thanh tra là người hiểu rõ nội dung vụ việc và thấy
cần kết luận như thế nào trên cơ sở quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó Điều 50
Luật Thanh tra năm 2010 quy định trách nhiệm ban hành kết luận thanh tra do
người ban hành quyết định thanh tra, theo cá nhân tơi, là chưa hợp lý vì đây không

phải là người trực tiếp tiến hành cuộc thanh tra. Mặt khác, trong một số trường hợp
có thể Trưởng đồn thanh tra lại khơng nhất trí với kết luận của người ra quyết
định thanh tra, vì thế, cần quy định Trưởng đồn thanh tra có trách nhiệm kết luận
thanh tra để đảm bảo tính kịp thời và tính tự chịu trách nhiệm của Trưởng đoàn
thanh tra.
- Các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp không phải là cơ
quan quản lý hành chính nhà nước nên Luật Giáo dục, Nghị định số 85/2006/NĐCP quy định thẩm quyền của Hiệu trưởng thanh tra tại các đơn vị này là không
đúng về chủ thể quản lý hành chính nhà nước và không phù hợp với Luật thanh tra
năm 2010. Vậy nên chỉ quy định thẩm quyền kiểm tra của Hiệu trưởng đối với đơn
vị mình quản lý.
24


- Bổ sung trong Nghị định số 85/2006/NĐ-CP quy định chế độ chính sách
cho cộng tác viên thanh tra khi thực hiện hoạt động thanh tra sư phạm của giáo
viên.
- Khái niệm thanh tra tồn diện tại Thơng tư số 43/2006/TT-BGDĐT cần
phải được khẳng định lại rõ là hoạt động thanh tra chuyên ngành hay gồm thanh tra
hành chính và thanh tra chuyên ngành. Vì trên thực tế, Bộ GD&ĐT khi thanh tra
toàn diện tại các Sở GD&ĐT, Sở GD&ĐT khi thanh tra tồn diện tại các Phịng
GD&ĐT trong quyết định ghi là thanh tra hành chính và chuyên ngành nhưng khi
thanh tra các trường phổ thông trong quyết định lại ghi là thanh tra toàn diện. Điều
này chứng tỏ, khái niệm thanh tra toàn diện được quy định trong Thơng tư số
43/2006/TT-BGDĐT có thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau.
- Sửa đổi về thời hạn thanh tra toàn diện tại Thông tư số 43/2006/TTBGDĐT theo hướng thời hạn thanh tra tiến hành không quá 30 ngày; trường hợp
phức tạp, ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn có thể
kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày để đảm bảo sự thống nhất với Luật Thanh
tra năm 2010 và điều kiện thực tế của từng địa phương.
- Bổ sung quy định kết luận thanh tra tồn diện nhà trường phải có đánh giá,
xếp loại. Việc đánh giá, xếp loại đúng thực chất sẽ động viên được những đối

tượng thanh tra làm tốt tiếp tục phát huy, những đối tượng thanh tra có hạn chế yếu
kém mới đạt yêu cầu sẽ phải cố gắng học hỏi, để khắc phục những hạn chế yếu
kém để đối mới vươn lên.
- Bổ sung quy định thống nhất mức chi bồi dưỡng cho Cộng tác viên thanh
tra khi tham gia Đồn thanh tra tại Thơng tư số 28/2009/TT-BGDĐT ngày 21
tháng 10 năm 2009 của Bộ GD&ĐT Quy định chế độ làm việc với giáo viên phổ
thông. Quy định thêm mức chi bồi dưỡng đối với Cộng tác viên thanh tra khối
mầm non. Việc đảm bảo kinh phí cho Cộng tác viên thanh tra sẽ phần nào đáp ứng
được cơng sức của họ, do đó khích lệ động viên các Cộng tác viên thanh tra làm
việc trách nhiệm, nhiệt tình hơn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra.
- Căn cứ các quy định của pháp luật về thanh tra giáo dục, Chính phủ cần
ban hành Nghị định hoặc bổ sung trong Nghị định 85/2006/NĐ-CP quy định về
phân cấp trong hoạt động thanh tra giáo dục để phù hợp với Nghị định số
115/2010/NĐ-CP.
- Sửa đổi thẩm quyền ra Quyết định thanh tra thi tốt nghiệp trung học phổ
thông tại Thông tư số 10/2012/TT-BGD&ĐT là do Giám đốc Sở ra quyết định để
phù hợp với Luật Thanh tra năm 2010, Quyết định số 41/2006/QĐ-BGDĐT.
- Bổ sung trình tự thanh tra các kỳ thi tại Quyết định số 41/2006/QĐ25


×