Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học của một số loài vi tảo biển quang tự dưỡng thuộc hai chi isochrysis và nannochloropsis phân lập ở việt nam với mục đích ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo định hướng đến năm 2020, thủy sản là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp phát triển bền
vững với tốc độ tăng trưởng khoảng trên 7%/năm, giá trị xuất khẩu dự kiến đạt mức
10-10,5 tỷ USD. Năm 2012, theo thống kê của VASEP (Vietnam Association of
Seafood Exporters and Producers) mặc dù đã đạt được mức độ tăng trưởng cao
nhưng giá trị xuất khẩu hàng hóa các sản phẩm thủy sản lại không tăng. Do đó, việc
nâng cao giá trị xuất khẩu của các sản phẩm thủy sản đã được đặt ra và cần phải giải
quyết, trong đó thức ăn là một khâu quan trọng, mang tính đột phá đối với ngành
nuôi trồng thủy sản (NTTS).
Hiện nay, ngoài thức ăn nhân tạo thì nguồn thức ăn sống như vi tảo biển
(VTB) đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của hầu hết các đối tượng
nuôi thủy sản. VTB rất giàu dinh dưỡng, rẻ tiền, dễ tiêu hóa và là nguồn cung cấp
các axít béo không bão hòa đa nối đôi (PUFAs-Polyunsaturated fatty acids) như axít
docosahexaenoic (DHA, C22:6n-3), axít eicosapentaenoic (EPA, C20:5n-3) và axít
arachidonic (AA, C20:4n-6) rất cần thiết cho sự phát triển của vật nuôi ở giai đoạn
ấu trùng. Một số loài VTB được sử dụng rộng rãi và phổ biến làm thức ăn sống
trong NTTS như Isochrysis galbana, Chaetoceros gracilis, Chlorella vulgaris,
Nannochloropsis oculata, Tetraselmis chuii. Tuy nhiên, hầu hết các trại NTTS ở
Việt Nam đều chưa nuôi chủ động được nguồn thức ăn sống nêu trên mà chủ yếu
vẫn là bơm nước biển tự nhiên vào bể nuôi. Ngoài ra, các giống tảo sử dụng trong
NTTS đa phần có nguồn gốc nhập ngoại, khó thích nghi với điều kiện khí hậu tự
nhiên của Việt Nam. Do đó, các giống này sau một thời gian nuôi trồng không có
khả năng nhân nhanh sinh khối, dễ bị tạp nhiễm và cuối cùng bị thoái hóa và mất
giống.
Để chủ động cung cấp nguồn giống VTB thuần chủng, giàu dinh dưỡng theo
định hướng làm thức ăn sống cho các đối tượng NTTS, cần phải phân lập, lựa chọn


được các chủng giống thích nghi với khí hậu của Việt Nam, có khả năng nuôi trồng
trên quy mô lớn và cho năng suất, chất lượng sinh khối cao. Xuất phát từ những vấn
đề nêu trên, chúng tôi đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu đặc điểm sinh học của một
số loài vi tảo biển quang tự dƣỡng thuộc hai chi Isochrysis và Nannochloropsis
phân lập ở Việt Nam với mục đích ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản”
2. Mục tiêu của đề tài
- Phân lập, lựa chọn, định tên khoa học và nghiên cứu các đặc điểm sinh học của các
loài vi tảo biển thuộc hai chi Isochrysis và Nannochloropsis;
- Chọn 2 loài vi tảo biển thuộc 2 chi nêu trên có khả năng lưu giữ thuần chủng, nhân
nhanh sinh khối, nuôi trồng trên quy mô lớn và sinh khối giàu dinh dưỡng làm thức
ăn cho một số đối tượng NTTS.
3. Nội dung nghiên cứu
1. Phân lập các loài vi tảo biển thuộc 2 chi Isochrysis và Nannochloropsis từ vùng
biển của Việt Nam có khả năng sử dụng làm thức ăn sống trong NTTS;
2. Định tên khoa học các chủng vi tảo biển phân lập được dựa trên các đặc điểm
hình thái, đọc và so sánh trình tự của đoạn gen 18S rRNA; Đăng ký trình tự đoạn
gen 18S rRNA của các chủng này trên Ngân hàng gen (Genbank);
2

3. Nghiên cứu lưu giữ các chủng giống VTB có được với sự hỗ trợ của một số chất
bảo quản ở nhiệt độ thấp hoặc nhiệt độ phòng, xác định khả năng hoạt hóa chúng;
4. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, thành phần dinh dưỡng của chủng Isochrysis
galbana HP1 và Nannochloropsis oculata HP2;
5. Đánh giá khả năng chống chịu với điều kiện môi trường nuôi bất lợi của các
chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 so với các chủng phân lập ở Singapore;
6. Nhân nuôi sinh khối trong điều kiện phòng thí nghiệm và ngoài tự nhiên các
chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 để làm thức ăn sống cho các loài động vật
thân mềm hai mảnh vỏ như ngao Bến tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851); hầu Thái
bình dương (Crassostrea gigas Thunberg, 1793) và tu hài (Lutraria rhyncheana
Jonas, 1844).

4. Những đóng góp mới của luận án
1. Phân lập thành công và dựa trên các đặc điểm hình thái và giải mã đoạn gen 18S
rRNA đã xác định được tên 2 chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2;
2. Đã nghiên cứu đặc điểm sinh học chính, thành phần dinh dưỡng và khả năng
chống chịu với điều kiện nuôi bất lợi của các chủng tiềm năng I. galbana HP1 và N.
oculata HP2 so với các chủng có nguồn gốc nhập ngoại;
3. Lần đầu tiên đã thành công trong nuôi sinh khối chủng N. oculata HP2 ở hệ thống
nuôi kín dạng ống tự thiết kế (với điều kiện không sử dụng bơm chỉ dùng máy nén
khí) có dung tích 20 L, đạt mật độ tế bào cao (gần 200 triệu tb/mL);
4. Đã sử dụng sinh khối chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 cùng với sinh khối
các loài VTB khác làm thức ăn sống cho một số đối tượng động vật thân mềm hai
mảnh vỏ như ngao Bến tre, hầu Thái bình dương và tu hài, góp phần quan trọng
trong việc sản xuất giống thủy sản sạch bệnh, chất lượng cao và thúc đẩy nghề nuôi
trồng thủy sản phát triển bền vững.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu thu được trong luận án này là cơ sở khoa học để nghiên
cứu sâu về đặc điểm sinh học của 2 chủng VTB I. galbana HP1 và N. oculata HP2
phân lập được từ vùng biển Việt Nam và bổ sung cơ sở dữ liệu cho tập đoàn giống
VTB có nguồn gốc của Việt Nam; cung cấp số liệu khoa học cho phép khẳng định
tính chống chịu cao với điều kiện bất lợi của các chủng phân lập được từ Việt Nam
so với nhập ngoại; khả năng sử dụng hệ thống nuôi kín tự thiết kế trong việc cung
cấp giống ban đầu cho nuôi trồng VTB ở các hệ thống nuôi hở.
Các kết quả của luận án có ý nghĩa thực tiễn đối với các trại sản xuất giống
NTTS ở Việt Nam trong việc chủ động lưu giữ, nuôi trồng và thu sinh khối 2 chủng
I. galbana HP1 và N. oculata HP2 làm thức ăn sống cho một số loài động vật thân
mềm hai mảnh vỏ như ngao Bến tre, tu hài và hầu Thái bình dương.
6. Bố cục của luận án
Luận án gồm 133 trang, trong đó phần mở đầu 3 trang, tổng quan tài liệu 30
trang, vật liệu và phương pháp nghiên cứu 23 trang, kết quả 57 trang, bàn luận 17
trang, kết luận và kiến nghị 3 trang, danh mục các công trình đã công bố 1 trang, tài

liệu tham khảo 12 trang với 167 tài liệu tham khảo, tóm tắt kết quả nghiên cứu bằng
tiếng Anh 9 trang. Trong luận án có 30 Bảng và 48 Hình.

3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Từ lâu vi tảo nói chung và VTB nói riêng được coi là nguồn thực phẩm chức
năng quan trọng cho con người và động vật; nguồn phân bón; cung cấp các chất có
hoạt tính sinh học được dùng làm thuốc, mỹ phẩm, dược phẩm; có vai trò bảo vệ
môi trường và cố định CO
2
. Trong đó, ứng dụng phổ biến nhất hiện nay của vi tảo
vẫn là làm thức ăn sống cho các đối tượng NTTS.
VTB I. galbana và N. oculata đều có kích thước nhỏ, dao động 2-4 µm, dễ
tiêu hóa, không độc, giàu dinh dưỡng và là nguồn cung cấp PUFAs như DHA và
EPA (Brown et al., 2002). Cụ thể, hàm lượng DHA ở loài I. galbana có thể dao
động 9-11% so với tổng số axit béo (Total fatty acids, TFA), thậm chí có thể lên tới
17,5% so với TFA (Liu et al., 2013), hàm lượng EPA ở loài N. oculata có thể dao
động 24,5-40% so với TFA, hàm lượng PUFAs có thể thay đổi tùy theo điều kiện
nuôi cấy. VTB I. galbana không phải là loài có khả năng thích nghi với sự biến
động rộng của môi trường còn N. oculata thì ngược lại, do đó chúng có khả năng hỗ
trợ lẫn nhau về mặt sinh trưởng trong quá trình nhân nuôi, đảm bảo cung cấp sinh
khối giàu dinh dưỡng cho đối tượng nuôi. Chính vì vậy, sinh khối của 2 loài VTB
nói trên đã được sử dụng phổ biến làm thức ăn sống cho hầu hết các đối tượng động
vật thân mềm hai mảnh vỏ, góp phần nâng cao khả năng sống sót và chất lượng ấu
trùng nuôi.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng 2 loài N. oculata và I. galbana làm thức ăn sống
cho các đối tượng NTTS khác nhau ngày càng tăng cao do giá trị dinh dưỡng của
chúng, đặc biệt là nguồn cung cấp PUFAs. Do vậy, cần phải có những giải pháp về
kỹ thuật nuôi trồng tảo có chất lượng cao với giá thành thấp. Trên thế giới, hệ thống

nuôi kín đã được sử dụng để nuôi sinh khối hai loài nêu trên nhằm nâng cao năng
suất cũng như hàm lượng các chất có hoạt tính sinh học như DHA, EPA (Briassoulis
et al., 2010; Feng et al., 2011; Patil et al., 2007). Ở Việt Nam cho tới nay việc nuôi
trồng các loài VTB trong các hệ thống nuôi kín còn khá mới mẻ, chủ yếu vẫn là nuôi
trong các hệ thống nuôi hở (túi nilong, bể composit,…). Do vậy, năng suất và chất
lượng sinh khối vi tảo thu được không đảm bảo, gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng sản xuất tại các trại NTTS.
Gần đây, các nghiên cứu tìm kiếm, lựa chọn, thay thế và chủ động nguồn thức
ăn ngoại nhập bằng các nguồn trong nước rẻ tiền, giàu dinh dưỡng đang được tiến
hành ở Việt Nam. VTB dị dưỡng Schizochytrium mangrovei PQ6 có khả năng tổng
hợp một lượng lớn PUFAs, hàm lượng lipit tổng số chiếm gần 40-70% sinh khối
khô, tổng số axít béo có thể chiếm trên 90% so với lipit tổng số, hàm lượng DHA và
DPA chiếm đến 50-60% so với TFA (Đặng Diễm Hồng và cs., 2008). Do vậy, để
chủ động nguồn giống tảo cung cấp cho các đối tượng NTTS thì việc phân lập, lưu
giữ, nghiên cứu các đặc điểm sinh học của các chủng VTB thuộc chi Isochrysis và
Nannochloropsis ở Việt Nam với định hướng ứng dụng làm thức ăn sống cho các
động vật thân mềm hai mảnh vỏ như ngao Bến tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851);
hầu Thái bình dương (Crassostrea gigas Thunberg, 1793) và tu hài (Lutraria
rhyncheana Jonas, 1844) là rất cần thiết; kết quả nghiên cứu thu được sẽ góp phần
đáp ứng được các yêu cầu thực tế của ngành NTTS phát triển bền vững và có chất
lượng cao đang được đặt ra ở Việt Nam.

4

CHƢƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
- Mẫu VTB được thu tại cảng Bến Bèo, huyện đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng
tháng 3/2008, vùng biển Quất Lâm, Nam Định, Quảng Ninh và Nha Trang, Khánh
Hòa tháng 4/2009.
- Các mẫu VTB thuộc các chi Isochrysis và Nannochloropsis sau khi phân lập được

nuôi cấy ổn định trong điều kiện phòng thí nghiệm, lưu giữ trên môi trường thạch,
lỏng và cung cấp giống thuần để thực hiện các nội dung nghiên cứu của luận án.
- Hai chủng VTB N. oculata LB2164 và I. galbana LB2307 phân lập ở vùng biển
Singapore (do TS. Đoàn Thị Thái Yên, khoa Khoa học và kỹ thuật môi trường,
Trường Đại học quốc gia Singapore cung cấp) được lưu giữ trong bộ sưu tập giống
của Phòng Công nghệ Tảo, Viện Công nghệ sinh học, VAST.
- Ngao Bến tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851) được thu tại bãi nuôi ở vùng biển xã
Giao Xuân, huyện Giao Thuỷ, Nam Định do doanh nghiệp tư nhân Cửu Dung cung
cấp. Hầu Thái bình dương (Crassostrea gigas Thunberg, 1793) được nuôi tại trại
NTTS của phòng Sinh học thực nghiệm, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3
(Nha Trang, Khánh Hòa). Tu hài (Lutraria rhyncheana Jonas, 1844) được nuôi tại
trại NTTS của Trung tâm phát triển nghề cá và đa dạng sinh học vịnh Bắc Bộ thuộc
Viện Nghiên cứu Hải sản, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
- Sinh khối VTB dị dưỡng S. mangrovei PQ6 được sử dụng làm thức ăn sống cho tu
hài bố mẹ và hầu Thái bình dương do Phòng Công nghệ Tảo, Viện CNSH nuôi trồng
và bảo quản ở 0ºC cho tới khi sử dụng.
- Trình tự cặp mồi nhân đoạn gen 18S rRNA với kích thước khoảng 1100 bp do
Phòng Công nghệ Tảo, Viện CNSH thiết kế được sử dụng với Primer F: 5’-
TACCACATCTAAGGAAGGCAGCAG-3’(24 nu) và Primer R: 5’-
GGCATCACAGACCTGTTATTGC-3’ (22 nu).
2.2 Hóa chất
Các hóa chất sử dụng trong nghiên cứu là thông dụng trong phòng thí nghiệm,
đạt độ tinh khiết cần thiết cho các nghiên cứu.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phân lập các loài vi tảo biển thuộc chi Isochrysis và Nannochloropsis: theo
Andersen (2005) và có một số cải tiến cho phù hợp với điều kiện phòng thí nghiệm
của Việt Nam.
2.3.2. Chụp ảnh hình thái tế bào dưới kính hiển vi quang học (Light Microcope) và
kính hiển vi điện tử quét (Scanning electron microscope –SEM); cố định mẫu bằng
glutaradehyde trước khi chụp ảnh dưới kính JEOL, JSM-6400 (Nhật Bản).

2.3.3. Lưu giữ, bảo quản các mẫu vi tảo phân lập được ở nhiệt độ phòng (trong môi
trường lỏng và môi trường thạch) và nhiệt độ thấp (-80

C) có sử dụng 10% DMSO.
2.3.4. Các phương pháp sinh học phân tử: đọc và so sánh trình tự nucleotide đoạn
gen 18S rRNA của các chủng Isochrysis sp. HP1 và Nannochloropsis sp. HP2 tiềm
năng được tiến hành theo Sambrook và Rusell (2001). Các chương trình phần mềm
chuyên dụng như DNA Club, ClustalX 1.83, DNASTAR, MEGA4 và BLAST được
sử dụng cho phân tích, so sánh và xây dựng cây phát sinh chủng loại của các mẫu
Isochrysis sp. và Nannochloropsis sp. trong nghiên cứu.
5

2.3.5. Xác định sinh trưởng của các chủng Isochrysis sp. và Nannochloropsis sp.
bằng đo mật độ quang ở bước sóng 680nm, đếm mật độ tế bào (MĐTB) sử dụng
buồng đếm Burker-Turk (Đức), xác định tốc độ sinh trưởng đặc trưng (Guillard and
Sieracki, 2005) sinh khối khô (sấy ở 105C), hàm lượng chlorophyll a và carotenoit.
2.3.6. Phân tích thành phần và hàm lượng dinh dưỡng, kim loại nặng, lipit và các
axit béo trong sinh khối chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2
- Xác định hàm lượng lipit trong sinh khối tảo: theo phương pháp của Bligh and
Dyer (1959) có một số cải tiến cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
- Thành phần và hàm lượng các axít béo trong sinh khối của chủng I. galbana HP1
và N. oculata HP2: được xác định bằng máy sắc kí khí HP-6890 theo mô tả của
Đặng Diễm Hồng và cs., (2007).
- Phân tích thành phần dinh dưỡng và kim loại nặng của các chủng nói trên được
tiến hành theo Horwitz (2000).
2.3.7. Xác định điều kiện nuôi cấy thích hợp cho sinh trưởng của chủng I. galbana
HP1 và N. oculata HP2: nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng (với ba
môi trường Walne, F/2 và Erd), nồng độ muối (dao động từ 5 - 60‰), nhiệt độ (15 -
40C), ánh sáng (60 - 800 mol/m
2

/s), pH (3 - 11) lên sinh trưởng và phát triển của
các chủng VTB nói trên (với chu kỳ sáng tối là 12:12h) (Durmaz, 2007).
2.3.8. Nghiên cứu khả năng chống chịu với các điều kiện môi trường nuôi bất lợi
của chủng I. galbana HP1 và N.oculata HP2 phân lập từ vùng biển Việt Nam và
Singapore: so sánh khả năng chống chịu của chủng N. oculata HP2 và LB2164, ở
điều kiện môi trường nuôi cực trị như: nhiệt độ (11 và 55°C), ánh sáng (500
mol/m
2
.s), pH (3 và 11) và nồng độ muối (2 và 70‰) lên sinh trưởng của tảo và
khả năng phục hồi của chúng sau 5 ngày được nuôi trong điều kiện thích hợp cho
sinh trưởng. Tương tự, đối với chủng I. galbana HP1 và LB2307 - nhiệt độ (11 và
45°C), ánh sáng (400 mol/m
2
/s), pH (3 và 11) và nồng độ muối (5 và 70‰) lên
sinh trưởng của tảo và khả năng phục hồi của chúng sau 5 ngày được nuôi trong điều
kiện thích hợp cho sinh trưởng. Sinh trưởng của các chủng này được đánh giá thông
qua xác định mật độ quang ở bước sóng 680nm hoặc đếm MĐTB.
2.3.9. Phương pháp nuôi 2 chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 ở quy mô
phòng thí nghiệm và pilot; thiết kế và nuôi thành công chủng N. oculata HP2 trong
hệ thống nuôi kín dạng ống tự thiết kế (20-26 L)
2.3.10. Phương pháp nghiên cứu thử nghiệm sử dụng sinh khối I. galbana HP1,
N.oculata HP2, S. mangrovei PQ6 để nuôi một số loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ.
2.4. Xử lý số liệu
Số liệu được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Sử dụng
phương pháp phân tích phương sai 1 yếu tố (oneway – ANOVA) để so sánh sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P< 0,05).
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Phân lập và nghiên cứu đặc điểm sinh học của các loài VTB thuộc chi
Isochrysis và Nannochloropsis
3.1.1. Phân lập các loài VTB thuộc chi Isochrysis và Nannochloropsis dựa trên

các đặc điểm hình thái
6

Từ các mẫu nước thu được ở các vùng biển Hải Phòng, Nam Định, Quảng
Ninh, Nha Trang- Khánh Hòa, chúng tôi đã phân lập được 3 mẫu Isochrysis spp. và
3 mẫu Nannochloropsis spp. Hình thái tế bào của các mẫu Isochrysis spp. có dạng
đơn bào, hình cầu hoặc elip, màu nâu vàng, có 2 roi bằng nhau, dài 7 µm, có khả
năng chuyển động hoặc đứng yên, có kích thước chiều dài 4,4 - 5,3 μm; chiều rộng
2,7 – 3,5 μm; chiều dầy 2,1 – 3,0 μm. Tế bào của các mẫu Nannochloropsis spp. có
dạng đơn bào, dạng hình trứng, không có roi, màu xanh, kích thước dao động
khoảng 2,6 - 3,6 μm (Hình 3.1 và Hình 3.2).















Hình 3.1. Hình thái tế bào của 6 mẫu Isochrysis spp. và Nannochloropsis spp.
phân lập ở vùng biển Việt Nam dƣới kính hiển vi quang học
Dựa trên các đặc điểm hình thái (quan sát dưới kính hiển vi quang học và kính hiển
vi điện tử quét), chúng tôi đã phân lập được 3 chủng Isochrysis spp. và 3 chủng

Nannochloropsis spp. ở các vùng biển Hải Phòng, Nam Định, Quảng Ninh và Nha
Trang - Khánh Hòa trong năm 2008-2009.















x 10000
x 10000
Isochrysis sp. HP1 Isochrysis sp. NĐ1 Isochrysis sp. NT1
x 10000
Nannochloropsis sp. HP2 Nannochloropsis sp. QN1 Nannochloropsis sp. NT2
Hình 3.2. Hình thái tế bào của 6 mẫu Isochrysis spp. và Nannochloropsis spp.
dƣới kính hiển vi điện tử quét

x 15000
x 15000
x 15000
x 1500
Nannochloropsis sp. HP2 Nannochloropsis sp. QN1 Nannochloropsis sp. NT2



x 2000
x 2000
x 2000
Isochrysis sp. HP1 Isochrysis sp. NT1 Isochrysis sp. NĐ1


x 1500
x 1500
4 µm
4 µm
4 µm
3 µm
3 µm
3 µm
7

3.1.2. Lƣu giữ các chủng VTB thuộc chi Isochrysis và Nannochloropsis
3.1.2.1. Lưu giữ giống ở nhiệt độ phòng
Việc lưu giữ được các chủng giống Isochrysis spp. và Nannochloropsis spp.
sau khi phân lập được trong điều kiện phòng thí nghiệm có ý nghĩa quan trọng, góp
phần bổ sung cho bộ sưu tập giống của Phòng Công nghệ Tảo. Ở nhiệt độ phòng,
chúng tôi đã lưu giữ được các chủng này trên môi trường lỏng. Mẫu được cấy
chuyển với chu kỳ 1-2 tháng/lần tùy thuộc vào đặc điểm sinh học của từng chủng và
lưu giữ ở cả 3 đợt cấy chuyển liên tiếp (3 thế hệ). Giữ giống VTB trong môi trường
lỏng có ưu điểm dễ tiến hành và có khả năng hoạt hóa mẫu nhanh. Tuy nhiên, do
phải cấy chuyển thường xuyên nên khả năng mẫu bị nhiễm khuẩn, nhiễm chéo là rất
lớn, ngoài ra tốn diện tích lưu giữ, môi trường nuôi, thời gian và công sức khi cấy
chuyển. Vì vậy, để khắc phục và đảm bảo cung cấp nguồn giống ổn định lâu dài,

chúng tôi tiến hành lưu giữ các chủng giống phân lập được trên môi trường thạch có
bổ sung 1,2% agar (Hình 3.3).















3.1.2.2. Lưu giữ giống ở nhiệt độ thấp
Chúng tôi đã lưu giữ được chủng Nannochloropsis sp. HP2 ở - 80°C có bổ
sung 10%DMSO. Kết quả sau 24 ngày hoạt hóa trở lại ở nhiệt độ phòng, các chủng
này có tỉ lệ sống sót cao nhất, đạt 62,45% (ngày thứ 18 sau khi hoạt hóa) trong khi
đó tỷ lệ sống sót tự nhiên của chúng chỉ đạt có 35,44% (Hình 3.4).











Isochrysis sp. HP1 Isochrysis sp. NĐ1 Isochrysis sp. NT1


Hình 3.3. Khuẩn lạc của các chủng Isochrysis spp. và
Nannochloropsis spp. phân lập đƣợc trên môi trƣờng thạch





Nannochloropsis sp. HP2 Nannochloropsis sp. QN1 Nannochloropsis sp.
NT2


Hình 3.4. Tỷ lệ sống sót của chủng Nannochloropsis sp. HP2 ở
nhiệt độ - 80°C có sử dụng 10% DMSO
8

Kết quả bảo quản chủng Isochrysis sp. HP1 ở -80°C có bổ sung 10% DMSO
đã cho thấy sau 7 ngày hoạt hóa trở lại ở nhiệt độ phòng, tỷ lệ sống sót của chúng
chỉ đạt 7,3%; tế bào bị vỡ và hầu như không có khả năng phục hồi trở lại ở nhiệt độ
phòng. Vì vậy, chúng tôi chỉ tiến hành lưu giữ chủng Isochrysis sp. HP1 phân lập
được trong môi trường lỏng và ở nhiệt độ phòng.
3.1.2.3. Sàng lọc nhanh các chủng tiềm năng cho nuôi trồng thủy sản
Các chủng VTB phân lập ở vùng biển Việt Nam được sử dụng làm thức ăn
sống cho NTTS cần phải hội tụ được một số đặc điểm như: sinh trưởng nhanh, giàu
dinh dưỡng và có khả năng nuôi trồng trên qui mô lớn. Dựa trên khả năng sinh
trưởng của các chủng đã phân lập được trong môi trường lỏng (đánh giá qua MĐTB,

thời gian đạt mật độ cực đại và tốc độ sinh trưởng đặc trưng), thành phần dinh
dưỡng (hàm lượng protein, lipit và hydratcacbon), chúng tôi đã chọn được 2 chủng
tiềm năng Isochrysis sp. HP1 và Nannochloropsis sp. HP2 phân lập từ vùng biển
Hải Phòng làm đối tượng nghiên cứu cho các thí nghiệm tiếp theo.
3.1.3. Định tên khoa học các chủng thuộc chi Isochrysis và Nannochloropsis
bằng kỹ thuật đọc và so sánh trình tự nuleotit của đoạn gen 18S rRNA
* Kết quả tách dòng đoạn gen 18S rRNA của chủng tiềm năng Isochrysis sp. HP1 và
Nannochloropsis sp. HP2 được trình bày ở Hình 3.5.
* Trình tự nucleotide của đoạn gen 18S rRNA của chủng Isochrysis sp. HP1
Độ phần trăm tương đồng của gen 18S rRNA của các loài thuộc chi Isochrysis
khá cao từ 81,5% đến 99,5%. Hai loài Crypthecodinium cohnii (Seligo) Chatto và
Fucus distichus Linnaeus được sử dụng làm nhóm ngoại của chi Isochrysis. Trên
cây phát sinh chủng loại của chi Isochrysis được chia thành 2 nhánh, nhánh thứ nhất
là loài C. cohnii có độ tương đồng so với các loài thuộc chi Isochrysis đạt 81,5%;
nhánh thứ 2 được chia thành 2 nhánh phụ, nhánh phụ thứ nhất là loài F. distichus
(độ tương đồng đạt 84%) và nhánh phụ thứ 2 là các loài thuộc chi Isochrysis. Trong
đó, chủng Isochrysis sp. HP1 phân lập được từ vùng biển Hải Phòng có tỷ lệ phần
trăm tương đồng cao nhất là 99,5% với loài I. galbana Parke (AJ246266), tiếp theo
đến loài Isochrysis sp. CCAP 927/14 (DQ79859) đạt 99,4% và thấp nhất là loài
Isochrysis sp. MIBC 10557 (AB183617) đạt 98,0%. Do vậy, dựa trên các đặc điểm
hình thái, tỷ lệ phần trăm tương đồng và cây phát sinh chủng loại của các loài thuộc
chi Isochrysis, chúng tôi có thể kết luận chủng Isochrysis sp. HP1 phân lập từ vùng
biển Hải Phòng có thể là loài Isochrysis galbana Parke 1949 (hình 3.6).














Hình 3.5. Tách dòng đoạn gen 18S rRNA của chủng Isochrysis sp. HP1 và
Nannochloropsis sp. HP2
A: DNA tổng số của chủng HP1 và HP2 (lane 1 và 2); B: Sản phẩm PCR nhân đoạn gen 18S
rRNA của chủng HP1 và HP2 (lane 3 và 4); C: Sản phẩm PCR tinh sạch của chủng HP1 và HP2
(lane 5 và 6); D: PCR checking của chủng HP1 (lane 7, 8 và 9) và chủng HP2 (lane 10, 11, 12).
M: Thang DNA chuẩn 1 Kb Plus Ladder.

A B C D
9

* Trình tự nucleotide của đoạn gen 18S rRNA của chủng Nannochloropsis sp.
HP2
Độ tương đồng của các loài thuộc chi Nannochloropsis dao động từ 84,0%
đến 99,0%. Trong đó, chúng tôi sử dụng các chi Aphanochaete, Bulbochaete,
Chaetophora, Oedogonium là nhóm ngoại - đây là các chi có quan hệ gần gũi với
chi Nannochloropsis. Chủng Nannochloropsis sp. HP2 phân lập ở Hải Phòng có độ
tương đồng cao nhất với loài N. oculata (AF045045) đạt 99,0%, tiếp theo là N.
granulate (AF045043) đạt 98,7% và thấp nhất là loài N. gaditana (AF133819) đạt
97,5%. Kết hợp tỷ lệ phần trăm tương đồng và cây phát sinh chủng loại (Hình 3.6),
chúng tôi có thể kết luận chủng Nannochloropsis sp. HP2 phân lập được từ vùng
biển Hải Phòng thuộc về loài N. oculata vì chúng có độ tương đồng đạt 99,0% với
loài N. oculata (Droop) Hibberd 1981 có mã số (AF045045).
3.1.4. Nghiên cứu đặc điểm sinh học chính của chủng I. galbana HP1 và N.
oculata HP2

3.1.4.1. Đặc điểm sinh học chính của chủng I. galbana HP1
Điều kiện nuôi cấy thích hợp cho sinh trưởng của chủng I. galbana HP1 là
môi trường dinh dưỡng F/2, độ mặn 30‰, nhiệt độ 25C, CĐAS 100 μmol/m
2
/s, pH
7. Thành phần axít béo trong sinh khối của chủng HP1 ở các pha khác nhau trên
đường cong sinh trưởng đã được xác định (Bảng 3.1).


















Bảng 3.1. Thành phần và hàm lƣợng các axít béo của chủng I. galbana HP1 ở
các pha sinh trƣởng khác nhau (% so với TFA)
Axít béo
Tên khoa học
Pha sinh

trƣởng
theo
hàm số
mũ (log)
Pha sinh
trƣởng
tuyến
tính
Pha cân
bằng sớm
Pha cân
bằng
muộn
Hình 3.6. Cây phát sinh chủng loại của chủng Isochrysis sp. HP1 (A) và
Nannochloropsis sp. HP2 (B) phân lập từ vùng biển Hải Phòng

A

B

10

C10:0

0,2±0,0
0,4±0,0
0,6±0,0
0,2±0,0
C12:0


Vết
Vết
Vết
Vết
C14:0
Axít myristic
7,9±0,9
15,5±1,1
12,0±0,7
17,5±1,3
C14:1n-5

0,1±0,0
0,2±0,0
0,3±0,0
0,3±0,0
C15: 0

0,2±0,0
0,1±0,0
0,5±0,0
0,4±0,0
C15:1n-5

0,4±0,0
0,6±0,0
0,8±0,1
0,7±0,1
C16:0
Axít palmitic

6,7±0,6
13,1±1,3
11,6±0,8
13,4±1,1
C16:1n-7
Axít palmitoleic
1,9±0,1
2,2±0,1
3,2±0,2
3,1±0,2
C17:0

Vết
Vết
Vết
Vết
C17:1n-7

0,4±0,0
0,4±0,0
0,6±0,0
0,3±0,0
C18:0
Axít stearic
0,1±0,0
0,1±0,0
0,2±0,0
0,2±0,0
C18:1n-9
Axít oleic

5,5±0,2
16,0±1,3
18,0±1,1
9,6±0,9
C18:1n-7

0,7±0,0
0,9±0,1
1,2±0,1
1,0±0,1
C18:2 n-6

1,9±0,1
1,9±0,1
2,5±0,1
2,4±0,1
C18:3n-6
Axít γ-Linolenic
(GLA)
1,7±0,1
2,1±0,1
2,4±0,1
2,0±0,1
C18:3n-3
Axít -Linolenic
(ALA)
12,9±1,1
24,3±1,4
21,0±1,7
18,6±1,5

C20:0

1,0±0,1
1,2±0,1
1,5±0,1
1,1±0,1
C20:1n-9

0,1±0,0
0,1±0,0
0,2±0,0
0,1±0,0
C20:1n-7

0,9±0,1
1,0±0,1
1,3±0,1
0,9±0,1
C20:3n-6

0,2±0,0
0,6±0,0
0,4±0,0
0,5±0,0
C20:4n-6
AA
(Axít Arachidonic )
1,6±0,4
1,9±0,4
2,1±0,9

1,9±0,4
C20:5n-3
Axít
eicosapentaenoic
(EPA)
1,0±0,1
1,2±0,1
1,7±0,2
1,5±0,1
C22:0

Vết
Vết
Vết
Vết
C22:3n-3

-
-
-
-
C22:4n-6

0,2±0,0
0,5±0,0
0,4±0,0
0,5±0,0
C22:5n-3
Axít
docosapentaeoic

(DPA)
2,9±0,3
3,0±0,3
2,7±0,2
3,2±0,4
C22:6n-3
Axít
docosahexaenoic
(DHA)
8,3±1,2
11,3±1,4
14,7±0,8
13,6±1,4
SFAs

16,1
30,4
26,4
34,8
MUFAs

10,0
21,8
25,6
16,0
(PUFAs)

30,7
46,8
48,2

44,2
SFA +
MUFA

26,1
52,2
52,0
50,8
(SFA+MUFA)

0,85
1,12
1,10
1,15
11

/PUFA
n-3 PUFA

25,1
39,8
40,1
36,9
n-6 PUFA

5,6
7,0
7,8
7,3
n-3/n-6


4,5
5,69
5,14
5,06

Ghi chú: - Không phát hiện
Kết quả ở Bảng 3.1 cho thấy hàm lượng DHA và các axít béo chiếm ưu thế
như myristic (14:0), palmictic (16:0), oleic (18:1n-9) , α-Linolenic (ALA, 18:3n-3)
và docosapentaenoic (DPA, 22:5n-3) của chủng HP1 đều tăng dần từ pha log đến
pha cân bằng sớm và giảm dần ở pha cân bằng muộn. Hàm lượng PUFAs chiếm tỉ lệ
cao từ 30,7 - 48,2% so với TFA. Chủng HP1 có giá trị dinh dưỡng cao nhất ở pha
cân bằng sớm. Khi đó hàm lượng SFA (saturated fatty acid – axít béo bão hòa) và
MUFA (Mono unsaturated fatty acid – axít béo không bão hòa 1 nối đôi) đạt 52,0%
so với TFA, PUFAs đạt 48,2% so với TFA. Ngoài ra, hàm lượng DHA, EPA và
DPA cũng đạt giá trị cao nhất là 14,7 ± 0,8%; 1,7 ± 0,2% và 2,7 ± 0,2% so với TFA,
tương ứng. Tỷ lệ axít béo n-3/n-6 đạt giá trị 5,14 - đây được xem là nguồn dinh
dưỡng phù hợp cho các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ ở các giai đoạn sinh
trưởng khác nhau.
Hàm lượng protein tổng số, lipit và hydratcacbon của chủng HP1 đạt 27,98 ±
0,89%, 9,78 ± 0,12%, 25,26 ± 0,79% sinh khối khô (SKK), tương ứng, và rất giàu
các khoáng đa và vi lượng. Hàm lượng các kim loại nặng như As, Cd, Hg và Pb có
trong sinh khối chủng HP1 đều nằm dưới ngưỡng cho phép đối với các mẫu thủy sản
và sản phẩm thủy sản theo quy chuẩn Việt Nam (2011).
3.1.4.2. Đặc điểm sinh học chính của chủng N. oculata HP2
Điều kiện nuôi cấy thích hợp cho sinh trưởng của chủng N. oculata HP2 là
môi trường dinh dưỡng Erd, độ mặn 30‰, nhiệt độ 25 - 30C, CĐAS 100
μmol/m
2
/s, pH 7. Thành phần axít béo trong sinh khối chủng HP2 đã được xác định

ở các pha khác nhau trên đường cong sinh. Kết quả ở Bảng 3.2 cho thấy các axít béo
của chủng HP2 gồm 14:0 (chiếm 0,54 - 2,42%), 16:0 (14,65–27,68%), 18:1n-9 (7,99
– 10,12%); 18:2n-6 (7,15 - 8,30%), 18:3n-3 (15,92 – 22,65%), 20:4n-6 (0,28 –
1,78%), 20:5n-3 (20,5 – 24,7%). Các PUFAs chiếm ưu thế là ALA và EPA. Hàm
lượng PUFAs chiếm tỉ lệ cao từ 44,10 -53,48% so với TFA .Giá trị dinh dưỡng của
chủng HP2 đạt cao nhất ở pha cân bằng sớm. Cụ thể hàm lượng EPA, SFA+MUFA
và PUFAs đạt 24,70±1,42%; 45,50% và 52,8% so với TFA, tương ứng. Tỷ lệ axít
béo n-3/n-6 đạt giá trị 4,42 – được coi là nguồn dinh dưỡng phù hợp cho các đối
tượng NTTS trong đó có các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ.
Bảng 3.2. Thành phần và hàm lƣợng các axít béo của chủng N. oculata HP2 ở
các pha sinh trƣởng khác nhau (% so với TFA)
Axít béo
Tên khoa
học
Pha sinh
trƣởng
theo hàm
số mũ
(log)
Pha sinh
trƣởng
tuyến tính
Pha cân
bằng sớm
Pha cân
bằng
muộn
C10:0

0,45±0,05

0,48±0,05
0,50±0,07
0,46±0,05
12

C12:0

Vết
Vết
Vết
Vết
C14:0
Axít
myristic
2,42±0,48
1,05±0,20
0,60±0,12
0,54±0,14
C14:1n-5

0,13±0,03
0,18±0,04
0,21±0,04
0,17±0,03
C15:0

0,61±0,12
0,51±0,10
0,10±0,02
0,05±0,00

C 15:1n-5

0,50±0,10
0,75±0,15
0,80±0,16
0,63±0,13
C16:0
Axít
palmitic
14,65±2,93
18,34±2,59
20,10±1,02
27,68±2,22
C16:1n-7
Axít
palmitoleic
5,67±1,13
4,91±0,98
4,30±0,65
2,94±0,44
C17:0

Vết
Vết
Vết
Vết
C17:1n-7

4,02±0,60
3,79±0,57

0,50±0,08
0,45±0,07
C18:0
Axít stearic
1,83±0,37
2,47±0,37
1,10±2,20
0,98±0,20
C18:1n-9
Axít oleic
10,12±2,02
9,75±1,95
8,90±1,87
7,99±1,84
C18:1n-7

0,24±0,05
0,35±0,05
0,40±0,05
0,36±0,05
C18:2n-6

7,50±0,90
8,00±1,43
8,30±1,99
7,15±1,00
C18:3n-6
GLA
Vết
Vết

Vết
Vết
C18:3n-3
ALA
22,65±0,13
21,27±1,32
17,70±1,66
15,92±1,18
C20:0

1,96±0,39
2,09±0,44
6,90±1,73
4,56±0,78
C20:1n-7

0,53±0,09
0,82±0,19
1,20±0,24
0,74±0,19
C20:3n-6

0,53±0,13
0,65±0,16
0,70±0,18
0,25±0,03
C20:4n-6
AA
1,78±0,45
1,02±0,23

0,60±0,13
0,28±0,06
C20:5n-3
EPA
21,48±5,16
22,54±3,83
24,70±1,42
20,5±1,10
C22:0

Vết
Vết
Vết
Vết
C22:6n-3
DHA
Vết
Vết
Vết
Vết
Khác

2,93
1,03
1,70
8,35
SFAs

21,92
24,94

29,30
34,27
MUFAs

21,21
20,55
16,20
13,28
PUFAs

50,05
53,48
52,80
44,10
SFA + MUFA

43,13
45,49
45,50
47,55
(SFA +
MUFA)/PUFA

0,86
0,85
0,86
1,08
n-3/n-6

4,5

4,53
4,42
4,74

Ghi chú: - Không phát hiện
Hàm lượng protein, lipít và hydratcacbon đạt 8,20 ± 1,64%; 18,72 ± 1,74% và
34,77 ± 2,30% SKK, tương ứng và rất giàu các khoáng đa và vi lượng. Hàm lượng
các kim loại nặng có trong sinh khối chủng HP2 đều nằm dưới ngưỡng cho phép đối
với các mẫu và sản phẩm thủy sản theo quy chuẩn Việt Nam (2011).
3.1.5. So sánh khả năng chống chịu với điều kiện môi trƣờng nuôi bất lợi của
các loài VTB phân lập từ vùng biển Việt Nam và Singapore
3.1.5.1. Khả năng chống chịu với điều kiện môi trường nuôi bất lợi của chủng N.
oculata HP2 và N. oculata LB2164
13

Chủng N. oculata HP2 có tính chống chịu với điều kiện nuôi trồng bất lợi cao
hơn chủng LB2164 (khi được xử lý ở điều kiện cực đoan nhiệt độ 11 và 55C;
CĐAS – 500 mol/m
2
.s; nồng độ muối 2 và 70‰; pH 3 và 11). Điều này khẳng định
ưu thế của chủng N. oculata HP2 bản địa về khả năng thích nghi với biến động rộng
của môi trường hơn so với các chủng có nguồn gốc ngoại nhập.
3.1.5.2. Khả năng chống chịu với điều kiện môi trường nuôi bất lợi của 2 chủng
VTB I. galbana HP1 và I. galbana LB2307
Chủng I. galbana HP1 chưa chứng tỏ được khả năng chống chịu với điều kiện
nuôi bất lợi so với chủng LB2307 (khi được xử lý ở điều kiện cực đoan như: nhiệt
độ 11 và 45C; CĐAS – 400 mol/m
2
/s; nồng độ muối 5 và 70‰; pH 3 và 11). Điều
này có thể giải thích do bản chất di truyền loài I. galbana - không phải là loài có khả

năng thích nghi tốt với biến động rộng của môi trường như nhiệt độ, ánh sáng, nồng
độ muối…
3.2. Nghiên cứu công nghệ nuôi chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 ở quy
mô phòng thí nghiệm và pilot
3.2.1. Công nghệ nuôi hai chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 ở quy mô
phòng thí nghiệm và pilot
Chúng tôi đã xây dựng được quy trình nuôi chủng I. galbana HP1 và N.
oculata HP2 ở quy mô phòng thí nghiệm và pilốt với điều kiện nuôi cấy thích hợp:
môi trường (Erd, F/2, Walne), nồng độ muối 30‰, nhiệt độ 30C, CĐAS (100 –
300 µmol/m
2
.s) và pH 7. Ở mỗi cấp độ nuôi cấy khác nhau, chúng tôi đã chọn được
môi trường dinh dưỡng và MĐTB ban đầu phù hợp để sinh trưởng của tảo giống
luôn ở pha log, rút ngắn được thời gian thích nghi của tảo khi chuyển sang nuôi ở
các cấp độ thể tích lớn hơn.
3.2.2. Nuôi sinh khối chủng N.oculata HP2 trong hệ thống nuôi kín dạng ống 20
Lít tự thiết kế
* Đặc điểm của hệ thống nuôi kín dạng ống tự thiết kế
Hệ thống nuôi kín (HTNK) dạng ống tự thiết kế có dung tích 20 L với một số
đặc điểm cấu tạo khác biệt so với các HTNK đã được biết trước đó. Theo thiết kế,
hệ thống bể chứa tảo được nâng cao kết hợp với dòng khí đẩy sinh ra bởi máy nén
khí vừa có tác dụng tạo lực đẩy giúp dịch tảo luân chuyển tuần hoàn trong hệ thống
theo dòng chảy rối với hệ số Renol > 4000, vừa có tác dụng phân tán oxy trong dịch
nuôi mà không gây tổn thương đến tế bào tảo so với việc sử dụng bơm cơ học cũng
như hạn chế tối đa tế bào tảo lắng xuống đáy ống và bám dính. Đồng thời, do không
sử dụng bơm để đẩy khí nên hầu như không gây nên sự chênh lệch nhiệt độ ở trong
hệ thống nuôi và ngoài môi trường, điều này rất thuận lợi cho việc nâng cấp hệ
thống nuôi lên quy mô lớn hơn, không cần hệ thống làm mát đi kèm, giúp làm giảm
giá thành sản phẩm (Hình 3.7). Kết quả nghiên cứu đã được đăng ký giải pháp hữu
ích với tên gọi “Hệ thống bể phản ứng quang sinh để nuôi vi tảo biển” và đã được

Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ chấp nhận đơn hợp lệ theo Quyết
định số 609562/QĐ-SHTT ngày 29/10/2012.
Nhờ sử dụng HTNK dạng ống tự thiết kế nêu trên, chúng tôi đã nuôi thành
công chủng N. oculata HP2 với MĐTB cao nhất đạt 197,2 triệu tb/mL sau 23 ngày
nuôi cấy, nhiệt độ dao động 25-30C. Sinh khối tảo nuôi trong HTNK, không bị tạp
14

nhiễm, thời gian vận hành được kéo dài làm giảm chi phí nuôi cấy, năng suất sinh
khối luôn ổn định, tiết kiệm diện tích cũng như công lao động. Các kết quả nuôi
trồng loài VTB này trong HTNK dạng ống đã khẳng định được công nghệ nuôi
trồng VTB ở Việt Nam bước đầu tiếp cận được với các công nghệ nuôi trồng trong
HTNK của thế giới để chủ động cung cấp nguồn giống ban đầu cho các trại sản xuất
giống nhằm nâng cao chất lượng con giống và góp phần làm giảm giá thành của sản
phẩm.












3.3. Nghiên cứu sử dụng sinh khối chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 để
nuôi một số loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ
3.3.1. Sử dụng sinh khối vi tảo biển làm thức ăn sống cho sinh sản nhân tạo ngao
Bến tre (Meretrix lyrata Sowerby, 1851)

3.3.1.1. Sử dụng 2 chủng VTB I. galbana HP1 và N. oculata HP2 làm thức ăn sống
cho nuôi vỗ ngao bố mẹ: Sử dụng sinh khối hỗn hợp 2 chủng HP1 và HP2 (với
MĐTB đạt 200 x 10
4
tb/mL) làm thức ăn sống cho ngao bố mẹ đã góp phần tăng tỷ
lệ sống của chúng lên khoảng 20% so với công thức đối chứng chỉ cho ăn men bánh
mỳ (2 g/kg).
3.3.1.2. Ảnh hưởng của nguồn thức ăn lên hệ tiêu hóa của ấu trùng ngao: ấu trùng
ngao ở giai đoạn chữ D có hệ thống tiêu hóa chứa màu sắc đặc trưng của các loài
VTB tương ứng đã được dùng làm thức ăn. Ngoài ra, ấu trùng ngao ở lô 3 (ăn hỗn
hợp I. galbana HP1 và N. oculata HP2) - cung cấp đủ thành phần axít béo như AA,
EPA, DHA, DPA và kích thước của hệ thống tiêu hoá ở lô này lớn hơn so với ở lô 1,
2 và ĐC (đối chứng) (Hình 3.8).










Hình 3.7. Sơ đồ khối và hình ảnh của hệ thống nuôi kín dạng ống
tự thiết kế (20 L)



Hình 3.8. Hình thái hệ thống tiêu hoá của ấu trùng ngao (ấu trùng chữ D)
khi cho ăn các chủng vi tảo khác nhau

Lô ĐC (chỉ cho ăn tảo được bơm từ nước biển tự nhiên); Lô 1 (chỉ ăn tảo N. oculata
HP2); Lô 2 (chỉ ăn tảo I. galbana HP1); Lô 3 (cho ăn hỗn hợp 2 chủng tảo I. galbana
HP1, N. oculata HP2)
Lô ĐC
Lô 1
Lô 3
Lô 2
15

Tỉ lệ sống sót của ấu trùng ngao sử dụng nguồn thức ăn bơm từ nước biển tự
nhiên là thấp (dưới 10%). Khi kết hợp sử dụng hỗn hợp sinh khối của 5 loài
Chaetoceros gracilis, Chlorela vulgaris, I. galbana, N. oculata và Tetraselmis
convolutae làm thức ăn sống cho ấu trùng ngao Bến tre trong giai đoạn 0-40 ngày
tuổi đã nâng được tỷ lệ sống sót của ấu trùng chân bò (giai đoạn 8-40 ngày tuổi) đạt
trên 25% (Bảng 3.3). Kết quả trên đã cho thấy sử dụng một cách chủ động các loài
VTB giàu dinh dưỡng làm thức ăn sống cho ấu trùng ngao từ khi ấp trứng đến giai
đoạn chân bò đã nâng tỷ lệ sống sót của ấu trùng từ dưới 10% lên trên 25%.
Bảng 3.3. Mật độ và tỉ lệ sống của ấu trùng ngao Bến tre ở các giai đoạn khác
nhau khi sử dụng các loài VTB với mật độ khác nhau làm thức ăn sống
Ghi chú: (+): có sử dụng
3.3.1.3. Sử dụng bón phân gây màu nước trong ao: Năm 2008, trại NTTS Cửu Dung
đã thay thế nguồn thức ăn là các VTB được nuôi trồng theo quy trình công nghệ của
chúng tôi chuyển giao bằng cách bón phân để gây màu nước trong ao. Bón phân gây
nước màu xanh trong ao là phương pháp bổ sung phân chuồng và nước biển tự nhiên
vào bể nuôi trong thời gian 5-10 ngày để quần thể tảo tự nhiên có sẵn trong nước
biển được phát triển. Sau đó, sử dụng hỗn hợp này cho ấu trùng ngao ăn trực tiếp.
Kết quả thu được cho thấy tỷ lệ sống sót của ấu trùng ngao đạt dưới 25%, thấp hơn
so với sử dụng hỗn hợp sinh khối 5 loài VTB nói trên.
3.3.1.4. Sử dụng hỗn hợp sinh khối VTB I. galbana HP1, N. oculata HP2 và C.
gracilis làm thức ăn sống cho ấu trùng ngao Bến tre được thực hiện trong năm 2009

và 2010. Quy trình phối trộn các loài VTB phù hợp với giai đoạn phát triển của ấu
trùng; cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho ấu trùng nuôi đã nâng được tỷ lệ sống
Thời
gian
(ngày)
Giai
đoạn
sinh
trƣởng
Mật độ
Ấu
trùng
Thành phần các loài vi tảo biển
Mật độ
tảo
tổng số
(x10
4
tb
/mL)
Tỉ lệ
sống
(%)
C.
gracilis
C.
vulgaris
I.
galbana
N.

oculata
T.
convolutae
1
Phân
cắt
15-
20ct/mL
0
0
0
0
0
0
95
2 - 4
Ấu
trùng
chữ D
10-
20ct/mL
0
0
+
+
0
15 - 20
65
5 - 7
Ấu

trùng
chữ D
10-
15ct/mL
+
+
+
+
0
30
50
8-10
Ấu
trùng
đỉnh vỏ
(Umbo)
3- 5
ct/cm
2

+
+
+
+
+
25
>30
11-
40


Ấu
trùng
chân bò
(Spat)
1-2
ct/cm
2

+
+
+
+
+
30
>25
16

sót của ấu trùng ngao từ dưới 25% năm 2008 (tương ứng với 1 cá thể/cm
2
) lên trên
70% (2-8 cá thể/cm
2
) năm 2009, lên trên 75% (9-20 cá thể/cm
2
) và đặc biệt có thể
lên tới 90% (57-86 cá thể/cm
2
) ở năm 2010 (Bảng 3.4).
Bảng 3.4. Mật độ cá thể và tỉ lệ sống sót của ấu trùng ngao Bến tre thu đƣợc
trong các năm 2008-2010

Đợt thí
nghiệm
Loại thức ăn
Mật độ cá thể
/cm
2
(ct/cm
2
)
Tỷ lệ sống
sót (%)
2008
Bón phân gây màu nước trong ao
1
<25
2009
Kết hợp hỗn hợp sinh khối chủng I.
galbana HP1, N. oculata HP2 và C.
gracilis
1-8
>70
2010
Kết hợp hỗn hợp sinh khối chủng I.
galbana HP1, N. oculata HP2 và C.
gracilis
9 -20
>75

3.3.2. Sử dụng sinh khối VTB làm thức ăn sống trong nuôi vỗ hầu Thái bình
dương (Crassostrea gigas Thunberg, 1793)

3.3.2.1. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến tăng trưởng chiều dài của
hầu TBD: Trong suốt thời gian thí nghiệm, chiều dài của vỏ hầu không tăng lên và
không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê sinh học (P>0,05) giữa các lô thí nghiệm
(từ 8,5-8,8 cm). Điều này có thể là do ở giai đoạn này kích thước hầu tăng rất chậm
và chúng chỉ tích lũy chất dinh dưỡng để chuẩn bị cho quá trình thành thục sinh dục.
3.3.2.2. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến tăng trưởng khối lượng của
hầu: Các loại thức ăn khác nhau có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng khối lượng;
Cụ thể khối lượng ở lô 2 (cho ăn I. galbana HP1, N. oculata HP2 và S. mangrovei
PQ6) đạt 94,82 ± 7,12 gram. Tiếp đến là lô 3 (ăn I. galbana HP1, N. oculata HP2)
đạt 90,5 ± 9,2 gram và thấp nhất là lô 1 (ăn tảo được bơm từ nước biển tự nhiên) đạt
88,81 ± 9,67

gram.
3.3.2.3. Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến độ béo của hầu: Độ béo của
hầu tăng theo thời gian nuôi và cao nhất là ở lô 2 > lô 3 > lô 1 và sự sai khác này có
ý nghĩa về mặt thống kê sinh học (P<0,05). Độ béo ở lô 2 (cho ăn I. galbana HP1,
N. oculata HP2 và S. mangrovei PQ6) đạt 14,2 ± 1,30%. Tiếp đến là lô 3 (ăn I.
galbana HP1, N. oculata HP2) đạt 13,7 ± 0,85% và thấp nhất là lô 1 (ăn tảo được
bơm từ nước biển tự nhiên) đạt 12,9 ± 1,03%.
3.3.2.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau đến tỷ lệ thành thục
của hầu TBD: Tỷ lệ thành thục sinh dục tỷ lệ thuận với độ béo của hầu. Tỷ lệ thành
thục thấp nhất ở lô 1 (53,3%) sau đó đến lô 3 (60,0%) và cao nhất ở lô 2 (70,0%).
Kết quả nghiên cứu thu được nêu trên cho phép khẳng định sinh khối hỗn hợp 2
chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 kết hợp với S. mangrovei PQ6 cho kết quả
thành thục tốt nhất trong nuôi vỗ hầu TBD, tiếp theo là lô cho ăn sinh khối hỗn hợp
2 chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 và thấp nhất là ở lô cho ăn bằng tảo bơm
từ nước biển tự nhiên.
17

3.3.2.5. Các chỉ số thành thục sinh dục của hầu TBD: Các đặc trưng của 4 giai đoạn

phát triển tuyến sinh dục hầu TBD có sử dụng VTB quang tự dưỡng và dị dưỡng
làm thức ăn đã được quan sát trong thời gian nghiên cứu.
3.3.2.6. Kết quả phân tích thành phần dinh dưỡng và kim loại nặng của hầu TBD:
Hầu TBD rất giầu dinh dưỡng với hàm lượng protein chiếm từ 43,93±0,40% đến
52,69±0,63% sinh khối tươi nhưng sự sai khác không có ý nghĩa giữa các lô thí
nghiệm (P>0,05). Ngoài ra, chúng rất giàu các khoáng đa và vi lượng. Hàm lượng
các kim loại nặng như As, Cd, Hg và Pb ở cả 3 lô đều ở dưới mức cho phép đối với
các sản phẩm động vật thân mềm hai mảnh vỏ theo QCVN8-1:2011/BYT.
Kết quả phân tích thành phần axít béo của hầu TBD: hàm lượng lipit tổng số ở lô 2
và lô 3 đạt 0,50; 0,51% SKT, tăng 2 và 4% tương ứng so với lô 1. Hàm lượng SFA ở
lô 2, lô 3 đạt 26,19% và 26,34% so với TFA, tăng 6,48 và 7,1% tương ứng so với lô
1. Hàm lượng PUFAs ở lô 2, lô 3 đạt 73,81% và 73,66% so với TFA, giảm 2,12 và
2,32%, tương ứng so với lô 1. Hàm lượng DHA ở lô 2 và lô 3 đạt 13,01±0,39 và
12,08±0,36% so với TFA, tăng 17,5 và 9,06%, tương ứng so với lô 1. Hàm lượng
EPA ở lô 2, lô 3 đạt 11,52±0,34% và 11,50±0,32% so với TFA, tăng 0,46 và 0,26%,
tương ứng so với lô 1. (Bảng 3.5).
Bảng 3.5. Hàm lƣợng lipit tổng số và thành phần các axít béo của hầu Thái
bình dƣơng trong các lô thí nghiệm sau 3 tháng nuôi

STT
Axít béo
Tên khoa học
Hàm lƣợng axít béo
(% so với axít béo tổng số)



Lô 1
Lô 2
Lô 3

1
C4: 0

4,15 ±0,12
1,72±0,05
1,63±0,04
2
C10: 0

0,52±0,01
-
-
3
C12: 0

0,66±0,01
-
-
4
C14: 0
Axít myristic
1,48±0,04
1,84±0,05
1,70±0,05
5
C15: 1n – 5

0,89±0,02
1,13±0,03
-

6
C16: 0
Axít palmitic
11,50±0,34
15,00±0,45
16,26±0,48
7
C16: 1n – 7
Axít palmitoleic
0,84±0,02
0,71±0,02
-
8
C16: 1n – 9

0,83±0,02
-
-
9
C18 : 0

6,29±0,18
7,63±0,22
6,76±0,20
10
C18: 1n – 7

5,98±0,17
6,66±0,19
8,02±0,24

11
C18: 2n – 6 –c

0,58±0,01
-
-
12
C20: 1n – 9

4,62±0,13
5,13±0,15
4,54±0,13
13
C20: 1n – 7

2,84±0,08
3,43±0,10
3,40±0,10
14
C20: 4n – 6
AA
9,46±0,28
10,69±0,32
12,46±0,37
15
C20: 5n – 3
EPA
11,47±0,34
11,52±0,34
11,50±0,32

16
C22: 1n- 9

10,76±0,32
9,74±0,29
9,78±0,29
17
C22: 4n – 6

9,41±0,28
3,88±0,11
2,78±0,08
18
C22: 3n – 3

1,99±0,05
2,06±0,06
2,46±0,07
19
C22: 5n – 6
DPA
2,06±0,06
3,09±0,09
4,54±0,13
18

20
C22: 5n – 3
DPA
2,60±0,07

2,750±0,08
2,11±0,06
21
C22: 6n - 3
DHA
11,07±0,33
13,01±0,39
12,08±0,36
(SFAs)

24,60
26,19
26,34
(PUFAs)

75,40
73,81
73,66
% Lipit tổng số
(sinh khối tươi)

0,49
0,50
0,51
Ghi chú: - không phát hiện, mỗi lô thí nghiệm được lặp lại 3 lần (n=3)
Như vậy, hầu TBD được nuôi vỗ bằng hỗn hợp tảo quang tự duỡng (I.
galbana HP1và N. oculata HP2) kết hợp với tảo dị dưỡng S. mangrovei PQ6 (lô 2)
và hỗn hợp tảo quang tự dưỡng (lô 3) có hàm lượng lipit, EPA, DHA đạt 0,50%
SKT; 11,52±0,34 và 13,01±0,39% so với TFA; 0,50% SKT; 11,50±0,32% và
12,08±0,36% so với TFA, tương ứng, cao hơn so với ở lô đối chứng (lô 1) chỉ được

ăn các loài vi tảo bơm từ nước biển tự nhiên (là 0,49% SKT; 11,47±0,34;
11,07±0,33% so với TFA, tương ứng).
3.3.3. Sử dụng sinh khối vi tảo biển làm thức ăn sống cho tu hài bố mẹ (Lutraria
rhyncheana Jonas, 1844)
3.3.3.1. Ảnh hưởng của chất lượng thức ăn lên tăng trưởng của tu hài bố mẹ: Sau 15
ngày nuôi vỗ tu hài bố mẹ ăn với các chế độ ăn khác nhau đã cho thấy có sự khác
biệt về kích thước và trọng lượng của tu hài bố mẹ ở lô ĐC (ăn tảo được bơm từ
nước biển tự nhiên), lô TN1 (ăn I. galbana HP1 và N. oculata HP2) và TN2 (ăn hỗn
hợp I. galbana HP1, N. oculata HP2 và S. mangrovei PQ6). Kết quả cho thấy trọng
lượng, chiều dài, chiều rộng và chiều dầy của tu hài bố mẹ ở lô TN2 tăng 63,79;
10,37; 11,41 và 11,94%, tương ứng, so với lô TN1 và sự sai khác này có ý nghĩa
thống kê (P<0,05), còn lô ĐC và TN1 không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê
(P>0,05). Kết quả này cho thấy việc sử dụng thức ăn kết hợp giữa sinh khối VTB dị
dưỡng S. mangrovei PQ6 với 2 chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 có hiệu quả
cao hơn so với tu hài bố mẹ chỉ sử dụng nguồn thức ăn là các loài VTB quang tự
dưỡng truyền thống.
3.3.3.2. Phân tích thành phần dinh dưỡng và kim loại nặng của tu hài bố mẹ: Hàm
lượng protein của tu hài bố mẹ ở lô TN2 (đạt 43,98% sinh khối tươi) cao hơn lô TN1
(đạt 41,93% sinh khối tươi) là 5% và ĐC (đạt 40,12% sinh khối tươi) là 9,6%.
Thành phần các khoáng đa lượng và vi lượng ở lô TN2 cao hơn so với lô TN1 và
ĐC khoảng 10% và 5-40%, tương ứng. Hàm lượng các kim loại nặng ở cả 3 lô đều ở
dưới mức cho phép đối với các sản phẩm động vật thân mềm hai mảnh vỏ theo
QCVN8-1:2011/BYT.
Hàm lượng lipit tổng số và thành phần các axít béo: Hàm lượng lipít tổng số ở lô
TN2, TN1 là 0,55% và 0,5% sinh khối tươi tăng 11,46 và 10% so với lô ĐC (đạt
0,48% sinh khối tươi). Hàm lượng SFAs ở lô TN2 và TN1 đạt 48,95%; 64,15% so
với TFA, giảm 26,44 và 3,60% tương ứng so với lô ĐC (64,55% so với TFA). Trong
khi đó, hàm lượng MUFA + PUFAs ở lô TN2 tăng so với lô TN1 và ĐC là 43,43%
và 44,00%, tương ứng; tỷ lệ MUFA + PUFAs/ SFA ở lô ĐC, TN1, TN2 là 0,53;
0,55 và 1,04, tương ứng. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy rõ ở lô TN2 có hàm lượng

PUFAs như ALA, GLA, AA, DPA cao hơn so với lô TN1 và lô ĐC và sự sai khác
19

này có ý nghĩa thống kê sinh học (P<0,05). Ngoài ra, tỉ lệ sống sót của ấu trùng tu
hài ở lô TN2 cao hơn 20-30% và 35% so với lô TN1 và ĐC, tương ứng (Bảng 3.6).

Bảng 3.6. Thành phần axít béo của tu hài bố mẹ ở các lô đối chứng và thí
nghiệm (% so với TFA)

STT
Axít béo
Tên khoa học
Hàm lƣợng các axít béo
(% so với TFA)
ĐC
TN1
TN2
1
C10:0

22,130,66
23,490,70
5,930,17
2
C12:0

3,810,11
2,470,07
1,640,04
3

C14:0
Axít myristic
3,300,09
3,350,10
2,50,07
4
C15:1n-5

-
-
1,690,05
5
C16:0
Axít palmitic
15,910,47
15,860,47
15,580,46
6
C16:1n-7
Axít palmitoleic
4,120,12
4,350,13
4,20,12
7
C17:0

-
-
1,970,05
8

C17:1n-7

-
-
1,490,04
9
C18:0

9,120,27
9,320,27
11,60,34
10
C18:1n-9
Axít oleic
8,520,25
8,090,24
11,360,34
11
C18:1n-7

3,510,10
3,430,10
5,270,15
12
C18:2n-6

6,070,18
6,150,18
-
13

C18:3n-3
ALA
1,890,05
1,950,05
2,430,07
14
C18:3n-6
GLA
-
-
3,210,09
15
C19:0

-
-
2,880,08
16
C19:1n-9

-
-
5,420,16
18
C20:1n-9

2,070,06
2,430,07
2,420,07
19

C20:3n-6

0,700,02
0,710,02
-
20
C20:4n-6
AA
2,860,08
2,950,09
5,190,15
21
C22:0
Axít docosanoic
10,280,30
9,660,28
5,250,15
22
C22:3n-3

1,67,05
1,680,05
1,730,05
23
C22:5n-6
DPA
1,020,03
1,010,03
-
24

C24:0

-
-
1,600,04
25
C22:5n-3
DPA
3,020,09
3,090,09
6,640,20
26
Loại khác


0,010,003
-
SFAs

64,55
64,15
48,95
MUFA và PUFAs

35,45
35,84
51,05
Lipit tổng số
(% so với sinh khối
tươi)


0,48
0,5
0,55

Ghi chú: - không phát hiện, mỗi lô được lặp lại 2 lần (n=2)
20

CHƢƠNG 4: BÀN LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Hiện nay, nhu cầu sử dụng sinh khối VTB I. galbana và N. oculata làm thức
ăn sống trong các trại NTTS ở Việt Nam là rất lớn. Do vậy, để có thể chủ động sinh
khối của 2 loài nói trên đáp ứng nhu cầu của các trại sản xuất giống thủy sản thì việc
phân lập được các chủng giống VTB bản địa giàu dinh dưỡng, có khả năng nuôi
trồng ở quy mô lớn là rất cần thiết.
Trong năm 2008-2009, chúng tôi đã phân lập được 3 chủng Isochrysis spp. và
3 chủng Nannochloropsis spp. từ các vùng biển Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định
và Nha Trang. Theo khóa phân loại của loài I. galabana do Parke, (1949) công bố
thì tế bào của loài này có dạng đơn bào, có hình elip hoặc hình cầu, màu nâu vàng,
có 2 roi bằng nhau, dài 7 µm, có khả năng chuyển động hoặc đứng yên với chiều
dài 5-6 µm, chiều rộng 2-4 µm và dày 2-4 µm. Dựa trên các nghiên cứu về đặc điểm
hình thái cho thấy các chủng Isochrysis spp. có đặc điểm phù hợp với khóa phân loại
do Parke (1949) công bố và chúng được sơ bộ định tên khoa học thuộc loài
Isochrysis galabana Parke 1949. Tương tự, 3 chủng Nannochloropsis spp. phân lập
từ vùng biển nêu trên có đặc điểm hình thái hoàn toàn phù hợp với khóa phân loại
của loài N. oculata do Hibberd, (1981) công bố như tế bào thường ở dạng đơn bào,
hình cầu hoặc hình trứng, màu xanh với kích thước 1,5 - 6 μm. Vì vậy, dựa trên các
đặc điểm hình thái quan sát được dưới kính LM và SEM, chúng tôi sơ bộ xác định 3
chủng nêu trên thuộc loài Nanochloropsis oculata (Droop) Hibberd, 1981.
Các chủng giống Isochrysis spp. và Nannochloropsis spp. sau khi phân lập đã
được lưu giữ ở nhiệt độ phòng (trên môi trường thạch có 1,2% agar và lỏng F/2; có

5-7mL dịch tảo/ống nghiệm; MĐTB là 0,5-0,7 triệu tb/mL đối với chủng Isochrysis
spp. và 2,0-5,0 triệu tb/mL đối với chủng Nannochloropsis spp.; CĐAS yếu <60
µmol/m
2
.s; nhiệt độ 15-20
0
C; chu kỳ cấy chuyển 1-2 tháng/1 lần; giữ mẫu đã được
cấy chuyển ở 3 thế hệ liên tiếp). Tuy nhiên, lưu giữ vi tảo ở điều kiện nêu trên mặc
dù có rất nhiều thuận tiện song cũng có nhiều bất lợi như dễ nhiễm tạp; tốn công sức
và môi trường nuôi cho việc cấy chuyển; dễ mất và thoái hóa giống. Vì vậy, để khắc
phục những hạn chế nêu trên, chúng tôi đã bảo quản chủng Isochrysis sp. HP1 và
Nannochloropsis sp. HP2 ở nhiệt độ thấp (-80ºC) có sử dụng 10% DMSO (Tzovenis
et al., 2004). Bảo quản ở -80ºC là kỹ thuật phổ biến được áp dụng trong hầu hết các
ngân hàng giống trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì việc lưu giữ và bảo quản
chủng giống ở -80
0
C mới chỉ có ở vi sinh vật, động vật, chưa có trên đối tượng vi
tảo. Bảo quản ở -80ºC có sự hỗ trợ của chất bảo quản DMSO – chất có ưu điểm
thẩm thấu qua màng tế bào nhanh hơn nhưng cũng dễ dàng bị loại bỏ ra khỏi tế bào
hơn so với glycerol và các chất bảo quản khác, góp phần làm giảm khả năng lây
nhiễm và bùng phát của vi khuẩn trong quá trình nuôi cấy. Ngoài ra, mẫu được đưa
xuống nhiệt độ thấp bằng phương pháp làm lạnh hai bước với ưu điểm tế bào tảo
được đưa xuống nhiệt độ thấp một cách từ từ theo một chương trình đã được lập sẵn,
bảo đảm tế bào được nguyên vẹn, không bị tổn thương do bị sốc nhiệt đột ngột. Tuy
nhiên, giá thành của thiết bị điều khiển nhiệt độ này khá đắt và do tế bào được bảo
quản trong nitơ lỏng nên phải bổ sung nitơ thường xuyên. Vì vậy, chi phí cho việc
bảo quản này rất tốn kém. Trong điều kiện Việt Nam, chúng tôi đã đưa mẫu từ nhiệt
độ phòng tới nhiệt độ cần bảo quản (-80°C) nhờ sử dụng isopropanol có tác dụng
giảm nhiệt độ một cách từ từ với tốc độ giảm trung bình 1C/phút. Sau 2-3 giờ, mẫu
được lấy ra khỏi dung dịch isopropanol và bảo quản ở -80°C. Với kỹ thuật này,

chúng tôi đã tiết kiệm được chi phí lưu giữ giống, đồng thời nâng được tỷ lệ sống sót
của chủng Nannochloropsis sp. HP2 lưu giữ ở -80C đạt 62,45% tương tự như kết
21

quả của Mori và cs., (2002). Đối với chủng Isochrysis sp. HP1, do không có thành tế
bào mà chỉ có màng plasma bao bọc nên tế bào rất dễ bị vỡ khi có sự chênh lệch về
nhiệt độ trong quá trình bảo quản (Zhu et al., 1997). Tỷ lệ sống sót của chủng
Isochrysis sp. HP1 lưu giữ ở - 80°C cũng chỉ đạt 7,3%, tương tự như công bố của
Cafiavate và Lubirin (1995). Do vậy, chúng tôi khuyến cáo không nên bảo quản loài
Isochrysis spp. ở -80°C và -20C với 10% DMSO mà chỉ nên bảo quản loài VTB
này ở nhiệt độ phòng (trong môi trường lỏng và thạch nghiêng hay thạch ẩm).
Trong số 6 chủng vi tảo phân lập được, chúng tôi đã lựa chọn được chủng
Isochrysis sp. HP1 và Nannochloropsis sp. HP2 tiềm năng để định tên khoa học
bằng sinh học phân tử và nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm sinh học, công nghệ nuôi
cũng như sử dụng sinh khối của các chủng này làm thức ăn sống cho một số đối
tượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Dựa trên các đặc điểm hình thái và kết quả đọc và so
sánh trình tự nucleotide của 1 phần gen 18S rRNA, chúng tôi đã định tên được
chủng HP1 và HP2 thuộc loài Isochrysis galbana Parke 1949 và Nannochloropsis
oculata (Droop) Hibberd 1981. Trình tự đoạn gen 18S rRNA của các chủng này đã
được đăng ký trên trên Genbank với mã số FJ536744 và GU220364, tương ứng.
Hai chủng HP1 và HP2 đã được nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm sinh học như
môi trường nuôi, nồng độ muối, nhiệt độ, ánh sáng và pH. Đối với chủng HP1 môi
trường F/2 là phù hợp nhất để nuôi trồng trong điều kiện phòng thí nghiệm. Kết quả
này cũng tương tự với các nghiên cứu của Cái Ngọc Bảo Anh (2010), Lê Thị Hương
và Võ Hành (2012) đã công bố. Kết quả nghiên cứu về điều kiện thích hợp về độ
mặn, nhiệt độ, CĐAS, pH đối với chủng I. galbana HP1 là 30‰, 25
0
C,
100mol/m
2

.s, pH 7, tương ứng là hoàn toàn phù hợp với công bố của tác giả Liu và
Lin, (2001); Liu và cs., (2013). Kết quả phân tích thành phần các axít béo của chủng
HP1 phù hợp công bố của Lin và cs., (2007), hàm lượng DHA và EPA cao nhất đạt
14,7±0,8 và 1,7±0,2% so với TFA ở pha cân bằng sớm (khi tảo được nuôi trong môi
trường có sử dụng N-NO
3
) và giảm dần ở pha cân bằng muộn (đạt 13,6±1,4 và
1,5±0,1% so với TFA, tương ứng). Các axít béo chủ yếu của chủng HP1 phù hợp
với nghiên cứu của các tác giả Grima và cs., (1994), Sukenik và Wahnon (1991) với
hàm lượng DHA cao chiếm 14,7±0,8%, EPA - 1,7±0,2% và DPA - 2,7±0,2% so với
TFA. Chủng HP1 ngoài hàm lượng DHA cao còn có hàm lượng PUFAs cao (từ
30,7-48,2% so với TFA), tỷ lệ n-3 và n-6 PUFA từ 4,5-5,69 tùy thuộc vào pha sinh
trưởng, hàm lượng protein cao, giàu khoáng đa và vi lượng; hàm lượng các kim loại
nặng nằm dưới ngưỡng cho phép sử dụng cho thấy sinh khối chủng VTB này làm
thức ăn sống rất phù hợp cho các đối tượng NTTS, đặc biệt là cho động vật thân
mềm hai mảnh vỏ. Các kết quả này phù hợp với công bố của Lin và cs., (2007);
Parnet và cs., (2003).
Tương tự chúng tôi cũng xác định được điều kiện nuôi cấy tối ưu chủng N.
oculata HP2 ở điều kiện phòng thí nghiệm: môi trường dinh dưỡng Erd, độ mặn
30‰, nhiệt độ 25-30
0
C, cường độ ánh sáng là 100 μmol/m
2
.s, pH 7. Thời điểm thu
hoạch sinh khối của các chủng này có giá trị dinh dưỡng cao nhất ở pha cân bằng
sớm. Các kết quả nghiên cứu thu được nêu trên đối với chủng HP2 hoàn toàn phù
hợp với công bố của các tác giả Campana-Torres và cs., (2012); Cái Ngọc Bảo Anh
(2010); Cho và cs., (2007); Hu và Gao (2006); Wahidin và cs., (2013).
Trong điều kiện thí nghiệm của chúng tôi, chủng HP2 có hàm lượng PUFAs
và EPA thay đổi từ 44,10 đến 53,48% và 20,5±1,10 đến 24,70 ±1,42 % so với TFA,

tương ứng, tùy thuộc vào pha sinh trưởng của tảo và hoàn toàn phù hợp với công bố
của Fabregas và cs., (2004); Hu và Gao (2004) nhưng lại thấp hơn so với công bố
22

của Das và cs., (2011) (EPA đạt 42,9 – 44,39% so với TFA khi chủng
Nannochloropsis sp. được nuôi cấy 2 pha trong hệ thống kín). Các axít béo chiếm
ưu thế của chủng HP2 gồm C14:0, C16:0, C18:1n-9; C18:3n-3, C20:4n-6 và
C20:5n-3 phù hợp công bố của Das và cs., (2011). Hàm lượng C16:1n-7 của chủng
HP2 đạt 2,94 - 5,67% so với TFA lại thấp hơn so với công bố của các tác giả nêu
trên trong khí hàm lượng các axít béo khác như C18:1n-9 và C18:3n-3 đạt 7,99 -
10,12%, 15,92 - 22,65% so với TFA, tương ứng, lại cao hơn so với công bố của Das
và cs., (2011). Đây có thể được xem là đặc trưng về thành phần axit béo của chủng
HP2 phân lập ở Việt Nam.
Chủng HP2 rất giàu dinh dưỡng với hàm lượng protein, hydratcabon và lipit
đạt 8,20 ±0,64; 34,77 ±2,30; 18,72 ±1,74 % SKK, tương ứng. Chúng tôi nhận thấy
hàm lượng protein và hydratcacbon luôn tỉ lệ nghịch với nhau. Theo Hu và Gao
(2003) hàm lượng protein và hydratcacbon của chủng Nannochloropsis sp. đạt 44 và
11% SKK, tương ứng. Như vậy, ngoài việc sinh khối rất giàu khoáng đa và vi lượng,
chủng HP2 còn có hàm lượng PUFAs và EPA thay đổi từ 44,1 đến 53,48% và
20,5±1,10 đến 24,70 ±1,42 % so với TFA, tương ứng, tỉ lệ n-3/n-6 dao động từ 4,42
đến 4,74 tùy thuộc vào các pha sinh trưởng khác nhau; hàm lượng các kim loại nặng
(Cd, Pb, As, Hg) của chủng này phù hợp với tiêu chuẩn quy định làm thức ăn cho
các đối tượng thủy hải sản theo QCVN8-1:2011/BYT. Chính vì vậy, sinh khối tảo
chủng HP2 là nguồn thức ăn rất phù hợp cho các đối tượng NTTS đặc biệt là các
loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ.
Để so sánh khả năng chống chịu với các điều kiện bất lợi của hai chủng bản
địa I. galbana HP1 và N. oculata HP2 phân lập từ vùng biển Hải Phòng (Việt Nam)
so với chủng nhập ngoại (Singapore), chúng tôi đã nghiên cứu tính chống chịu của
các chủng này dưới điều kiện môi trường nuôi bất lợi như nhiệt độ, ánh sáng, nồng
độ muối và pH ở các vùng cực trị. Chủng bản địa N. oculata HP2 có tính chống chịu

với điều kiện môi trường bất lợi (được xử lý ở điều kiện cực đoan như: 11 và 55
0
C;
500 µmol/m
2
.s; nồng độ muối 2 và 70‰) cao hơn so với chủng LB2164 của
Singapore trong khi khả năng nêu trên chưa được thể hiện rõ ở chủng bản địa I.
galbana HP1 so với chủng LB2307 của Singapore. Điều này cũng cho thấy I.
galbana không phải là loài có khả năng thích nghi với sự biến động rộng của môi
trường nuôi. Vì vậy, để có thể đánh giá ưu thế của loài bản địa I. galbana so với các
chủng có nguồn gốc nhập ngoại, cần phải có những nghiên cứu tiếp tục cũng như xét
đến những đặc điểm sinh học khác nữa của chúng. Sự khác biệt giữa hai loài I.
galbana và N. oculata nêu trên có thể là do đặc điểm di truyền của từng loài và điều
này cũng được Saudi-Helis và cs., (1994) lưu ý. Kết quả nghiên cứu thu được nêu
trên cho thấy việc phân lập và lựa chọn được các loài VTB bản địa, thích nghi với
biến động rộng của khí hậu sẽ cho phép nhân nhanh sinh khối tảo cũng như nuôi
trồng ở quy mô lớn, cung cấp sinh khối VTB cho các mục đích sử dụng khác nhau ở
Việt Nam.
Trong điều kiện phòng thí nghiệm và pilot, quy trình công nghệ nuôi I.
galbana HP1 và N. oculata HP2 đã được thiết lập. Tùy thuộc vào cấp độ nuôi, môi
trường dinh dưỡng với giá thành thấp; điều kiện nhiệt độ, độ mặn, CĐAS, MĐTB
ban đầu, thời gian đạt MĐTB cực đại cũng đã được giới thiệu đối với 2 chủng HP1
và HP2. Với quy trình công nghệ nêu trên, sinh khối 2 chủng HP1 và HP2 có thể
bảo đảm chủ động cung cấp cho các đối tượng nuôi ở các trại NTTS. So với công
nghệ nuôi trồng 2 loài I. galbana và N. oculata do Ugwu cs., (2008); Su cs., (2011)
và Olofsson cs., (2012) công bố thì quy trình công nghệ nuôi trồng hai chủng HP1
23

và HP2 của chúng tôi có hiệu quả cao với năng suất và chất lượng sinh khối vi tảo
tốt, rất thích hợp với điều kiện Việt Nam.

Cho tới nay, việc nuôi trồng tảo trong các HTNK ở Việt Nam còn khá mới
mẻ. Hiện nay, hầu hết các HTNK dạng ống thường sử dụng hệ thống bơm tuần hoàn
khép kín (Briassoulis et al., 2010), đây là một trong những nguyên nhân gây ra hiện
tượng chênh lệch nhiệt độ giữa trong và ngoài HTNK do vậy đều phải sử dụng hệ
thống làm mát; điều này đã làm tăng giá thành lắp đặt HTNK và hạn chế khả năng
mở rộng hệ thống. HTNK dạng ống tự thiết kế của chúng tôi không sử dụng bơm mà
chỉ dùng máy nén khí và nâng bình chứa tảo lên cao để tạo lực đẩy giúp dịch tảo
luân chuyển tuần hoàn trong hệ thống theo dòng chảy rối với hệ số Renol > 4000,
vừa có tác dụng phân tán oxy trong dịch nuôi mà không gây tổn thương đến tế bào
tảo so với việc sử dụng bơm cơ học cũng như hạn chế tối đa tế bào tảo lắng xuống
đáy ống và bám dính. Ngoài ra, do không sử dụng bơm để đẩy khí nên hầu như
không gây nên sự chênh lệch nhiệt độ ở trong hệ thống nuôi và ngoài môi trường,
điều này rất thuận lợi cho việc nâng cấp hệ thống nuôi lên quy mô lớn hơn, không
cần hệ thống làm mát đi kèm, giúp làm giảm giá thành sản phẩm. Nhờ sử dụng
HTNK dạng ống nói trên, chúng tôi đã nuôi thành công chủng N. oculata HP2 đạt
MĐTB cao (197,2 triệu tb/mL) sau 23 ngày nuôi cấy. Sinh khối thu hoạch trong hệ
thống này không bị tạp nhiễm, tảo luôn trong trạng thái huyền phù và năng suất ổn
định, giúp chủ động cung cấp giống sơ cấp cho các cơ sở sản xuất giống.
Sinh khối VTB quang tự dưỡng (I. galbana HP1 và N. oculata HP2) và dị
dưỡng (S. mangrovei PQ6) đã được kết hợp sử dụng thành công làm thức ăn tươi
sống cho một số đối tượng động vật thân mềm hai mảnh vỏ như ngao Bến tre, hầu
Thái bình dương và tu hài bố mẹ, đã nâng cao tỉ lệ thành thục, rút ngắn thời gian
chuyển giai đoạn và nâng cao được tỉ lệ sống sót của ấu trùng nuôi, không gây ô
nhiễm môi trường, phù hợp với các công bố của Ngô Anh Tuấn và cs., (2007),
Byung cs., (1988); Trần Thế Mưu và Vũ Văn Sáng (2013). Các kết quả này đã góp
phần quan trọng trong việc sản xuất giống thủy sản sạch bệnh, chất lượng cao và
thúc đẩy nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN


1. Đã phân lập được 3 mẫu Isochrysis spp. và 3 mẫu Nannochloropsis spp. ở
các vùng biển Hải Phòng, Nam Định, Quảng Ninh và Nha Trang - Khánh Hòa năm
2008-2009. Sáu mẫu nêu trên được lưu giữ và bảo quản ở nhiệt độ phòng; đã bảo
quản thành công mẫu Nannochloropsis sp. HP2 ở - 80ºC có sử dụng 10% DMSO
với tỉ lệ sống sót đạt 62,45%.
2. Đã định tên khoa học 2 chủng Isochrysis sp. HP1 và Nannochloropsis sp.
HP2 phân lập được từ vùng biển Hải Phòng thuộc loài Isochrysis galbana Parke
1949 và Nannochloropsis oculata (Droop) Hibberd 1981. Trình tự nucleotide của
đoạn gen 18S rRNA của 2 chủng nêu trên đã được đăng ký trên Genbank với mã số
FJ536744 và GU220364, tương ứng.
Xác định được điều kiện nuôi cấy tối ưu chủng I. galbana HP1 và N. oculata
HP2 ở điều kiện phòng thí nghiệm: môi trường dinh dưỡng F/2 (đối với chủng HP1)
và Erd (chủng HP2), độ mặn 30‰, nhiệt độ 25C (chủng HP1) và 25-30
0
C (chủng
HP2), cường độ ánh sáng là 100 μmol/m
2
/s, pH 7. Thời điểm thu hoạch sinh khối
của các chủng này có giá trị dinh dưỡng cao nhất ở pha cân bằng sớm.
24

Chủng bản địa N. oculata HP2 có tính chống chịu với điều kiện môi trường
bất lợi (được xử lý ở điều kiện cực đoan như: 11 và 55
0
C; 500 µmol/m
2
/s; nồng độ
muối 2 và 70‰) cao hơn so với chủng LB2164 của Singapore trong khi đó khả năng
nêu trên chưa được thể hiện rõ ở chủng bản địa I. galbana HP1 so với chủng

LB2307 của Singapore.
3. Đã phát triển được công nghệ nuôi trồng 2 chủng I. galbana HP1 và N.
oculata HP2 ở quy mô phòng thí nghiệm và pilot. Đã thiết kế và sử dụng thành công
hệ thống nuôi kín dạng ống với dung tích 20-26 L (không dùng bơm chỉ dùng máy
nén khí và nâng bình chứa tảo lên cao để tạo lực đẩy cho dòng chảy trong hệ thống
kín) để nuôi chủng N. oculata HP2 đạt mật độ tế bào rất cao (197,2 triệu tb/mL) sau
23 ngày nuôi cấy.
4. Sinh khối 2 chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 rất giàu dinh dưỡng,
đặc biệt là các axit béo. Chủng HP1 có hàm lượng PUFAs và DHA chiếm 30,70-
48,20% và 8,30-14,70% so với axit béo tổng số, tương ứng. Còn chủng HP2 có hàm
lượng PUFAs và EPA chiếm 44,10-53,48% và 20,50-24,70% so với axit béo tổng
số, tương ứng. Sinh khối tươi của hai chủng này sử dụng tốt làm thức ăn sống cho
nhuyễn thể hai mảnh vỏ.
5. Bước đầu sử dụng thành công sinh khối I. galbana HP1, N. oculata HP2 và
Schizochytrium mangrovei PQ6 trong nuôi động vật thân mềm hai mảnh vỏ:
+ Đã sử dụng sinh khối hỗn hợp vi tảo biển quang tự dưỡng I. galbana HP1,
N. oculata HP2 với Chaetoceros gracilis, Tetraselmis convolutae, Chlorella
vulgaris làm thức ăn sống cho ấu trùng ngao Bến tre, nâng tỷ lệ sống sót của ấu
trùng ngao (trong giai đoạn 0-40 ngày tuổi) từ dưới 10% lên đến trên 75%.
+ Hàm lượng DHA của hầu Thái bình dương được nuôi vỗ bằng hỗn hợp I.
galbana HP1 và N. oculata HP2 với tảo dị dưỡng S. mangrovei PQ6 (lô 2); hỗn hợp
chủng I. galbana HP1 và N. oculata HP2 (lô 3) tăng 17,5% và 9,06% so với cho ăn
bằng các loài vi tảo có trong nước biển tự nhiên (lô 1). Hàm lượng EPA của hầu
Thái bình dương ở lô 2 và lô 3 tăng 0,46 và 0,26% so với lô 1.
+ Khối lượng, chiều dài, chiều rộng và chiều dầy của tu hài bố mẹ sử dụng
thức ăn kết hợp sinh khối S. mangrovei PQ6 với 2 chủng I. galbana HP1 và N.
oculata HP2 (lô TN2) tăng 63,79; 10,37; 11,41 và 11,94%, tương ứng so với lô TN1
(chỉ ăn I. galbana HP1 và N. oculata HP2) với sự sai khác có ý nghĩa thống kê sinh
học (P<0,05). Hàm lượng protein, lipit, MUFA + PUFAs của tu hài bố mẹ; tỷ lệ
sống sót của ấu trùng tu hài ở lô TN2 đều cao hơn so với lô TN1 và đối chứng (sử

dụng vi tảo có trong nước biển tự nhiên). Lô TN2 có hàm lượng PUFAs như ALA,
GLA, AA và DPA cao hơn so với lô TN1 và lô ĐC (P<0,05).

KIẾN NGHỊ

+ Cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sinh trưởng
và chất lượng sinh khối của vi tảo biển I. galbana HP1 trong hệ thống nuôi kín tự
tạo (20 lít) và nâng cấp hệ thống kín lên 50, 100, 1000 lít nhằm góp phần cung cấp
chủ động tảo giống cho sản xuất giống thủy sản ở các trại nuôi trồng thủy sản;
+ Cần nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn việc sử dụng phối hợp sinh khối vi tảo biển
quang tự dưỡng gồm I. galbana HP1 và N. oculata HP2 với vi tảo biển dị dưỡng S.
mangrovei PQ6 để làm thức ăn sống cho ấu trùng các loài cá biển nhằm nâng cao
giá trị của các sản phẩm thủy sản phục vụ nhu cầu của thị trường ngày càng cao.

×