Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Luận văn thạc sỹ: Nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo ngắn hạn của viện nghiên cứu y học Đinh Tiên Hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.29 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG
LĨNH VỰC ĐÀO TẠO NGẮN HẠN CỦA VIỆN NGHIÊN
CỨU Y HỌC ĐINH TIÊN HOÀNG
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU HÀ
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN NGỌC ÁNH
MSHV: CH210798
HÀ NỘI - 2014
2
MỤC LỤC
Nhân tố kinh tế 29
Nhân tố chính trị và pháp luật 30
Nhân tố xã hội : 30
Nhân tố tự nhiên 31
Nhân tố công nghệ 31
Đối thủ cạnh tranh trong ngành 33
Nhà cung cấp 34
Đối thủ tiềm năng 35
Sức ép của sản phẩm thay thế 36
Nhân tố kinh tế 62
Nhân tố chính trị và pháp luật 63
Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng hoạt động dưới hệ thống luật pháp Việt Nam,
các quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam 63
Để được phép thành lập và tổ chức hoạt động, Viện đã được cơ quan chủ quản là Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cùng Bộ Khoa học và Công nghệ hướng
dẫn tận tình theo các điều khoản như: 63


Nghị định số 81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ 63
Thông tư số 02/2010/TT-BKHN ngày 18/03/2010 của Bộ Khoa học và Công nghệ 63
Qui định số 818/QĐ-LHHVN ngày 22/12/2011 của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam 63
Các hoạt động của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng đều được quy định rất rõ
trong giấy phép hoạt động do Bộ Khoa học và Công nghệ cấp. Bên cạnh đó, tất cả các
hoạt động của Viện đều tuân thủ theo các quy định, luật pháp của Chính phủ, của Bộ và
của Liên hiệp Hội 64
Tuy nhiên có một số vấn đề không chỉ đối với Viện mà rất nhiều doanh nghiệp quan tâm
hiện nay là hành lang pháp lý bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện nay còn yếu,
bởi vậy việc đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ đối với các phát minh, nghiên cứu và hoạt
động của Viện cũng cần được bảo đảm 64
Nhân tố xã hội : 64
Nhân tố công nghệ 65
Đối thủ cạnh tranh trong ngành, đối thủ tiềm năng 65
Nhà cung cấp 66
Hội nhập kinh tế đã giúp cho lĩnh vực y học được đón nhận nhiều nhà cung cấp trong và
ngoài nước. Thị trường máy móc, thiết bị, hóa chất trở thành một thị trường năng động,
thu hút được nhiều đơn vị đầu tư 66
Viện có nhiều cơ hội so sánh và lựa chọn doanh nghiệp có chất lượng tốt, phù hợp với
các nhu cầu hiện nay, lựa chọn được đơn vị cung cấp với các chế độ ưu đãi nhất, có thể
hợp tác để phát triển các dịch vụ mới 66
Tuy nhiên, cũng cần cẩn trọng đối với những nhà cung cấp không đảm bảo 66
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2013, cả nước có khoảng 60.737
doanh nghiệp phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Con số này như một hồi chuông
cảnh báo đối với các doanh nghiệp về những khốc liệt trong nền kinh tế thị trường
còn nhiều khó khăn: khủng hoảng kinh tế, khách hàng ngày càng đòi hỏi khắt khe

hơn, các doanh nghiệp buộc phải tìm cho mình những hướng đi nâng cao năng lực,
vị thế của mình để có thể tồn tại.
Kể từ ngày 11/01/2007 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150
của tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam không những đánh dấu bước phát
triển mạnh mẽ mà cùng với đó các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải chịu luật chơi
chung và chịu sức ép cạnh tranh không chỉ trong nước mà đặc biệt là các doanh
nghiệp ngoài nước xâm nhập thị trường. Một loạt những ký kết về xóa bỏ hàng rào
thuế quan, điều chỉnh các chính sách đối với hàng hóa nước ngoài đã tạo cho doanh
nghiệp trong và ngoài nước một sân chơi rộng lớn và công bằng. Các doanh nghiệp
nước ngoài không chỉ có kinh nghiệm, tiềm lực kinh tế mà họ còn có ưu thế về mọi
mặt, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn về tài chính,
năng lực quản lý, Điều này đặt cho các doanh nghiệp Việt Nam một thách thức
không hề nhỏ trước sức mạnh cạnh tranh đầy khốc liệt của thị trường, nếu như
không tự nâng cao năng lực cạnh tranh ắt hẳn các doanh nghiệp sẽ bị đánh bật khỏi
cuộc đua kinh tế thị trường.
Sau thời kỳ đổi mới, nên kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc, tăng trưởng bình
quân luôn đạt mức gần 7%, được xếp vào nhóm các nước có mức tăng trưởng kinh
tế thế giới, tuy nhiên không có nghĩa là sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam có
chỗ đứng trên trường quốc tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, cùng với sự
mở cửa nền kinh tế, Việt Nam không đứng ngoài số phận chung của kinh tế thế
giới. Những hậu quả nặng nề mà cuộc khủng hoảng kinh tế này để lại càng làm cho
khó khăn chồng chất khó khăn. Các doanh nghiệp trước phải đối mặt với sự cạnh
tranh toàn cầu hóa, nay còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn, việc rất
nhiều doanh nghiệp phá sản đã là một minh chứng rõ ràng cho thực tế thiếu năng
4
lực cạnh tranh ắt sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Hơn lúc nào hết, tăng cường khả năng
cạnh tranh là yếu tố then chốt giúp cho các doanh nghiệp có chỗ đứng và tồn tại
được. Nâng cao năng lực cạnh tranh chính là đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan,
phù hợp với quy luật cạnh tranh của thương trường cũng là phục vụ nhu cầu của
doanh nghiệp.

Là một doanh nghiệp ngoài quốc doanh, được thành lập trong giai đoạn hậu
khủng hoảng kinh tế chưa lâu, Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng đứng
chung với những khó khăn của nền kinh tế, cộng thêm những khó khăn riêng của
một doanh nghiệp còn nhiều non trẻ, Viện cần có những định hướng phát triển rõ
ràng để có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhận
thức rõ điều đó, Ban lãnh đạo Viện luôn tìm tòi và định hướng Viện đi theo con
đường riêng, tạo nên bản sắc văn hóa riêng, tạo sức cạnh tranh cho Viện có chỗ
đứng trong thị trường chật hẹp ở Việt Nam. Lĩnh vực đào tạo là một trong bốn
hướng đi chính: đào tạo, nghiên cứu, ngân hàng gene và thử nghiệm lâm sàng. Tuy
chỉ là một hướng đi, song đây là hoạt động tạo nguồn thu thường xuyên giúp cho
Viện củng cố được tài chính, tạo công việc và thu nhập ổn định cho Viện. Nhu cầu
cần đào tạo hiện nay ngày càng nâng cao đặc biệt là những yêu cầu cao, bên cạnh
đó nhiều tổ chức giáo dục trong và ngoài nước ngày một chuyên nghiệp, đáp ứng
được nhiều hơn nhu cầu của thị trường là những thách thức không hề nhỏ đối với
Viện nghiên cứu Đinh Tiên Hoàng. Nhận thấy rõ những vấn đề trên, trong khuôn
khổ nghiên cứu đề tài luận văn của mình, tôi mong muốn sẽ tìm hiểu thực trạng và
tìm ra hướng giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh cho Viện trong lĩnh vực
đào tạo, góp phần nhỏ bé của mình đối với sự nghiệp phát triển chung của Viện
trong đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo ngắn hạn của
Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng”
2. Tình hình nghiên cứu các đề tài có liên quan
Trên thế giới có 2 mô hình tác động mạnh mẽ nhất trong khoảng 2 thập kỷ gần
đây: xác định vị thế cạnh tranh mô hình kim cương của Micheal Porter vào những
năm 80 và quan điểm về nguồn lực những năm 90.
Micheal Porter cho rằng: Việc xây dựng công việc cho các nhà quản trị trong
tổ chức bắt nguồn từ việc phân tích các hoạt động khác nhau của doanh nghiệp. Mặt
5
khác ông cho rằng những ngành tăng trưởng nhanh luôn tồn tại nhu cầu lợi nhuận
cao và những ngành tăng trưởng thấp luôn chịu mức lợi nhuận thấp. Với quan điểm
của mình, Micheal Porter đã đưa ra 2 cách thức cạnh tranh cho doanh nghiệp là chi

phí thấp và khác biệt hóa. Chi phí thấp đạt được tính kinh tế nhờ quy mô, đơn giản
hóa quy trình sản xuất và đạt được thị phần nhất định. Trong khi đó khác biệt hóa
tạo cho khách hàng nhận thức sản phẩm có giá trị cao và duy nhất, khác biệt về:
hình ảnh thương hiệu, công nghệ, đặc tính, dịch vụ chăm sóc khách hàng, mạng lưới
phân phối. Ngoài 4 yếu tố chính: (1) chiến lược, cơ cấu, cạnh tranh ngành, (2) các
ngành hỗ trợ và liên quan, (3) các điều kiện về yếu tố sản xuất, (4) các điều kiện về
cầu thì ông cho rằng có thêm 2 yếu tố nữa có thể ảnh hưởng là cơ hội và chính phủ
Mô hình 5 lực lượng cạnh tranh của Porter cũng là một trong những phát kiến
tìm ra nguồn gốc cạnh tranh trong công nghiệp, từ đó đưa ra được cách thức để
giành giật lấy lợi thế cạnh tranh:
(1) Sự đe dọa của những đối thủ mới
(2) Tính sẵn có của các sản phẩm thay thế
(3) Lợi thế của những nhà cung cấp
(4) Lợi thế của người tiêu dùng
(5) Sự đối đầu mang tính cạnh tranh trong công nghiệp
Từ trước đến nay có rất nhiều các luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đề cập đến
vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh, ngoài các ngành sản xuất kinh doanh thì cũng
có rất nhiều ở ngành ngân hàng.
Lê Hồng Phong (2007) Nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng chính
sách xã hội Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội
Đoàn Đình Lâm (2006) Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTMCP ở TP
Hồ Chí Minh trong xu thế hội nhập. Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh
tế, Tp Hồ Chí Minh
Trần Thị Quỳnh Trang (2013) Nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực
xây lắp của công ty cổ phần thi công cơ giới và lắp máy dầu khí. Luận văn thạc sỹ,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện với mục đích sau:
- Xác định khung lý thuyết về năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo
ngắn hạn của một tổ chức.

- Đánh giá năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo ngắn hạn của Viện
6
nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Viện nghiên
cứu Y học Đinh Tiên Hoàng trong lĩnh vực đào tạo ngắn hạn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo ngắn
hạn của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
- Không gian:
Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng.
- Thời gian:
+ Số liệu thứ cấp: Số liệu từ cuối năm 2012 đến năm 2013
+ Số liệu sơ cấp: Điều tra, phỏng vấn thực hiện vào tháng 5 năm 2014
+ Giải pháp đề xuất đến năm 2016
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn số liệu
5.1.1 Nguồn số liệu sơ cấp: Phỏng vấn điều tra cán bộ quản lý, nhân viên
và các khách hàng của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng.
- Phỏng vấn điều tra: Xây dựng và phát phiếu điều tra trực tiếp đối với cán
bộ nhân viên và các khách hàng của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên
Hoàng.
- Quy mô mẫu điều tra:
+ Đối với cán bộ quản lý, nhân viên Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên
Hoàng: 5 người, trong đó 2 cán bộ quản lý, 3 nhân viên trực tiếp tham gia
vào lĩnh vực đào tạo ngắn hạn
+ Đối với các khách hàng của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng:
Tháng 5 năm 2014: 24 phiếu
- Phương pháp phân tích và xử lý số liệu: Sử dụng Excel để phân tích,
đánh giá, bảng tổng hợp
5.1.2 Nguồn số liệu thứ cấp:

- Tìm hiểu các số liệu của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng trong
lĩnh vực đào tạo ngắn hạn.
- Số liệu được công bố có liên quan của các tổ chức khác.
5.2 Quy trình nghiên cứu
Bước 1: Nghiên cứu lý thuyết về năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào
tạo y học ngắn hạn, từ đó xác định được khung lý thuyết nghiên cứu.
Bước 2: Khảo sát thực tế tại Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng:
thu thập số liệu thứ cấp
Bước 3: Điều tra, phỏng vấn cán bộ nhân viên và khách hàng về năng lực
cạnh tranh trong đào tạo ngắn hạn của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên
7
Hoàng, xử lý số liệu thông qua phần mềm Excel.
Bước 4:Phân tích, tổng hợp kết quả, đưa ra các đánh giá, nhận xét.
Bước 5:Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh đào tạo
ngắn hạn của Viện nghiên +cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo
y học ngắn hạn của một tổ chức
1.1 Cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức
1.1.1 Đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức
1.1.1.1 Khái niệm đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức.
1.1.1.2 Đặc điểm của lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức.
1.1.2 Cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức
1.1.2.1 Khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một
tổ chức.
1.1.2.2 Các phương thức cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn
1.2 Năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một
tổ chức

1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn
1.2.2 Tiêu chí đánh giá kết quả cạnh canh
1.2.2.1 Thị trường
1.2.2.2 Thị phần
1.2.2.3 Uy tín, thương hiệu đào tạo
1.2.2.4 Doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động đào tạo y học ngắn hạn
1.2.3 Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học
của một tổ chức
1.2.3.1 Nguồn nhân lực của tổ chức
1.2.3.2 Cơ sở vật chất, kỹ thuật của tổ chức
1.2.3.3 Quy trình và chương trình đạo tạo y học
1.2.3.4 Chính sách marketing của tổ chức
1.2.3.5 Liên kết đào tạo giữa các tổ chức
1.2.4 Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực
đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức.
1.2.4.1 Các yếu tố vĩ mô
1.2.4.2 Các yếu tố môi trường ngành
- Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y
họcngắn hạn của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
2.1 Tổng quan về Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
8
2.1.2 Tầm nhìn, sứ mệnh, chức năng, nhiệm vụ
2.1.3 Cơ cấu tổ chức
2.1.4 Kết quả hoạt động của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh trong đào tạo y học ngắn hạn của
Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
2.2.1 Kết quả đào tạo ngắn hạn của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
2.2.2 Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh trong đào tạo ngắn hạn của
Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng

2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng năng lực cạnh tranh trong đào tạo ngắn hạn của
Viện nghiên cứu y học Đinh Tiên Hoàng
2.2.3.1 Các yếu tố vĩ mô
2.2.3.2 Các yếu tố môi trường ngành
2.3 Đánh giá năng lực cạnh tranh trong đào tạo ngắn hạn của Viện
nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng.
2.3.1 Điểm mạnh
2.3.2 Điểm yếu và nguyên nhân
- Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh
vực đào tạo y học ngắn hạn của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
đến năm 2016
3.1 Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh trong đào tạo ngắn hạn
của Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
3.2 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đào tạo ngắn hạn của
Viện nghiên cứu Y học Đinh Tiên Hoàng
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG LĨNH
VỰC ĐÀO TẠO Y HỌC NGẮN HẠN CỦA MỘT TỔ CHỨC
1.1 Cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức
1.1.1 Đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức
1.1.1.1 Khái niệm đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức.
Đào tạo y học ngắn hạn là: dạy các kiến thức, kỹ năng thực hành, kỹ thuật
chuyên môn liên quan đến một lĩnh vực y sinh học, để người học lĩnh hội và nắm
vững những tri thức, kĩ năng, kỹ thuật một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người
đó có khả năng thực hiện tốt hơn trong công việc, học tập và nghiên cứu Khoa học,
Y học.
1.1.1.2 Đặc điểm của lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức.
- Các khóa đạo tạo tập trung chủ yếu về kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật trong
9
lĩnh vực Y sinh học.

- Chương trình đào tạo kết hợp giữa lý thuyết và hướng dẫn thực hành, giúp
cho học viên có thể vận dụng, sử dụng được lý thuyết vào thực tế học tập, nghiên
cứu và công việc của mình
- Thời gian diễn ra đào tạo thường không kéo dài:
Các khóa ngắn: từ 3 – 10 ngày
Các khóa dài: từ 1 – 3 tháng
1.1.2 Cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một tổ chức
1.1.2.1 Khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của
một tổ chức.
Cạnh tranh (Competition): Có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh khác
nhau, tùy thuộc vào lĩnh vực, ngành nghề cũng như hoàn cảnh. Cạnh tranh là thuật
ngữ gắn liền với nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường. Ở đó, người
sản xuất phải giải quyết cho được ba vấn đề lớn: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và
sản xuất như thế nào? Bất kỳ một sự biến động kinh tế, chính trị, xã hội nào đều
đem đến cho các nhà sản xuất, cung ứng những rủi ro đầy thách thức và những cơ
hội hết sức hấp dẫn dù là trước mắt hay tiềm năng. Môi trường kinh tế hiện đại luôn
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đối phó với các tình huống rủi ro và đồng thời
tạo điều kiện cho họ tìm hiểu thời cơ để đưa ra sản phẩm, dịch vụ mới để chiếm lĩnh
thị trường, thỏa mãn các nhu cầu của thị trường đòi hỏi để đạt mục đích của nhà sản
xuất là tìm kiếm lợi nhuận và tối đa hóa lợi nhuận.
Cho đến nay đã có nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng đưa ra những lý luận về
cạnh tranh, song chưa có một khái niệm thống nhất về cạnh tranh. Lý luận cạnh
tranh của Adam Smith; lý luận cạnh tranh của John Stuart Mill; lý luận cạnh tranh
của Darwin; hay lý luận cạnh tranh của C.Mác. Thời kỳ đầu, hoàng kim của cơ chế
thị trường, ông Adam Smith cho rằng: Cạnh tranh như là một "Bàn tay vô hình" để
điều khiển các hoạt động của các thành viên kinh tế trong xã hội. Theo quan điểm
của trường phái này thì cạnh tranh chủ yếu về giá, coi trọng về lý thuyết lợi thế so
sánh tuyệt đối. C.Mác đã so sánh, dẫn chứng và phân tích để đi đến khẳng định là:
Các chủ thể cạnh tranh chủ yếu là các nhà tư bản, họ tiến hành đọ sức về kỹ thuật,
kinh tế, xã hội để thực hiện tối đa hóa lợi ích. Xét ở góc độ quan hệ sản xuất, cạnh

10
tranh đẩy tới sự sáng tạo kỹ thuật, đổi mới tổ chức, nâng cao năng suất lao động làm
cho lực lượng sản xuất phát triển. Xét ở góc độ quan hệ sản xuất, cạnh tranh là biện
pháp và con đường cơ bản để từng nhà tư bản đơn lẻ thu được giá trị thặng dư hoặc
lợi nhuận độc quyền, để toàn bộ giai cấp tư sản cùng phân chia và chiếm hữu giá trị
thặng dư. Xét về góc độ xu thế lịch sử, cạnh tranh tăng lên sẽ đưa tới sự tích tụ tư
bản và tập trung sản xuất, từ đó đẩy CNTB từ giai đoạn tự do cạnh tranh bước vào
giai đoạn độc quyền.
Theo Đại từ điển tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên (NXB Văn
hoá- Thông tin, tr.258): “Cạnh tranh là ganh đua giữa những cá nhân, tập thể có
chức năng như nhau, nhằm giành phần hơn, phần thắng về mình.”
Theo Từ điển Thuật ngữ Kinh tế học (NXB Từ điển Bách khoa, Hà nội-
2001, tr.42), là “sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia.
Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không
phải ai cũng có thể giành được”.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, cạnh tranh được định nghĩa là hoạt động
ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh bị chi phối bởi quan hệ cung cầu, nhằm giành được các điều kiện sản xuất,
tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Theo Từ điển Kinh doanh (xuất bản ở Anh năm 1992) thì cạnh tranh trong cơ
chế thị trường là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành
giật tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hóa về phía mình”.
Theo hai nhà kinh tế Mỹ là PA Samuelson & W. Nordhaus, thì cạnh tranh là
sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng hoặc
thị trường.
Có nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh, song bản chất của cạnh tranh là
quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau nhằm đạt được mục tiêu
kinh tế của mình. Thông thường, các mục tiêu này là chiếm lĩnh thị trường, giành
lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất và khu vực thị trường có lợi nhất.
Mục đích cuối cùng của các chủ thế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích.

11
Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, còn đối với người tiêu dùng là lợi
ích tiêu dùng và tiện lợi. Cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của một
tổ chức cũng không nằm ngoài xu thế cạnh tranh chung của bản chất cạnh tranh là
quan hệ kinh tế nhằm đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của tổ chức. Thị
trường đào tạo cũng như các thị trường khác, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để
tranh giành khách hàng, để thu nhiều lợi nhuận diễn ra liên tục, gay go, quyết liệt.
Cùng với cạnh tranh là liên kết. Cạnh tranh càng mạnh thì liên kết càng phát triển.
Liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp mới, còn yếu về tiềm lực để tạo ra
sức mạnh cạnh tranh; liên kết giữa các doanh nghiệp có thế mạnh để hoàn hoãn,
cùng phát triển tránh gây thiệt hại cho nhau v.v… Liên kết còn diễn ra giữa các
doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn để tăng sức mạnh cho doanh nghiệp nhỏ, để
đảm bảo an toàn trong cạnh tranh và cũng để tăng thêm đồng minh cho doanh
nghiệp lớn. Ngoài ra việc liên kết giữa các doanh nghiệp cung ứng những mảng
khác nhau để hoàn thiện dịch vụ cũng giúp cho việc chuyên môn hóa, nâng cao
năng lực của từng doanh nghiệp, bổ sung những hạn chế của doanh nghiệp và cùng
nhau phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, kinh doanh gặp
nhiều khó khăn như hiện nay.
1.1.2.2 Các phương thức cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn
hạn
Cạnh tranh được xem xét dưới nhiều khía cạnh, hình thức khác nhau như:
Cạnh tranh tự do; cạnh tranh thuần túy; cạnh tranh hoàn hảo; cạnh tranh không hoàn
hảo; cạnh tranh lành mạnh; cạnh tranh không lành mạnh Các hình thức cạnh tranh
phụ thuộc vào tính chất của thị trường và bản chất của nền kinh tế.
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường cạnh tranh được chia thành 3 loại.
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Đặc trưng nổi bật là người
bán luôn muốn bán ở mức giá cao nhất, nhưng ngược lại người mua lại luôn muốn mua
ở mức giá thấp nhất. Hai trạng thái của cung và cầu gặp nhau hình thành giá cân bằng
thị trường, tức là mức giá mà cả người mua và người bán có thể chấp nhận được.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc

vào quan hệ cùng cầu trên thị trường. Nếu như người bán cung cấp một lượng hàng
hóa nhỏ hơn so với nhu cầu của thị trường thì người mua phải cạnh tranh để mua được
12
hàng hoá, dịch vụ mình cần, dẫn đến đẩy giá sản phẩm lên cao hơn. Điều này làm cho
người bán thu được khoản lợi nhuận cao hơn còn người mua thì bị thiệt.
- Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Ngược lại với cạnh tranh
giữa những người mua với nhau. Trong điều kiện người bán cung cấp một lượng
hàng hóa, dịch vụ lớn hơn so với nhu cầu thị trường dẫn đến người bán phải cạnh
tranh để giành lấy thị trường làm cho giá bán không ngừng giảm xuống. Kết quả
người mua thu được lợi, trong khi người bán bị thiệt, thậm chí những doanh nghiệp
thua cuộc phải rời bỏ khỏi thị trường.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh cạnh tranh được phân thành 3 loại.
- Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh giữa
nhiều người bán trên thị trờng trong đó không người nào có đủ ưu thế khống chế giá
cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem là như nhau về
chất lượng, mẫu mã. Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi không một người sản xuất nào
có thể tác động đến giá cả trên thị trường. Mỗi người sản xuất đều phải bán sản
phẩm của mình theo thị trường đã chấp nhận thông qua quan hệ cung - cầu. Cạnh
tranh hoàn hảo xảy ra khi có một số lớn doanh nghiệp nhỏ sản xuất một mặt hàng y
hệt nhau và sản lượng từng doanh nghiệp quá nhỏ không thể tác động đến giá cả thị
trường. Cạnh tranh hoàn hảo muốn tồn tại cần phải có các điều kiện:
- Tất cả các hãng kinh doanh trong ngành đó có quy mô tương đối nhỏ;
- Số lượng các hãng kinh doanh trong các ngành đó phải rất nhiều.
- Trong điều kiện như vậy không có công ty nào có đủ sức mạnh để có thể
ảnh hưởng đến giá cả của các sản phẩm của mình trên thị trường. Sản phẩm của các
hãng đưa ra trên thị trường giống nhau tới mức cả người sản xuất và người tiêu
dùng đều rất khó phân biệt.
- Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition): Là hình thức cạnh
tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau.
Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành

đựơc ưu thế trong cạnh tranh, người bán phải sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như:
Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh tranh
phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
13
- Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường chỉ có
một hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả của sản
phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào
quan hệ cung cầu.
Ngoài ra còn có nhiều hình thức cạnh tranh khác như: cạnh tranh lành mạnh,
cạnh tranh không lành mạnh, hợp pháp, bất hợp pháp Tuy nhiên ở đây chỉ xét đến
góc độ cạnh tranh một cách lành mạnh, tuân thủ đúng luật pháp trên thị trường.
1.2 Năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học ngắn hạn của
một tổ chức
1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo y học
ngắn hạn
Thuật ngữ năng lực cạnh tranh là một trong những khái niệm được sử dụng
rộng rãi đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới đã gây ra không it khó khăn cho các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp
phải nâng cao khả năng cạnh tranh, sức hút đối với khách hàng để có thể trụ vững
trên thị trường. Đứng trước những khó khăn đó, doanh nghiệp phải có những biện
pháp để duy trì và phát triển vị thế của mình trên thương trường. Cũng như cạnh
tranh thì cho tới nay vẫn chưa có một sự nhất trí đối với năng lực cạnh tranh giữa
các quan điểm, dù xuất phát từ góc độ nào thì năng lực cạnh tranh cũng liên quan
đến hai khía cạnh quan trọng là chiếm lĩnh được thị trường và lợi nhuận mang lại
cho doanh nghiệp.
Theo Michael E.Porter, năng lực cạnh tranh là khả năng duy trì và nâng cao
lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút
và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền
vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của

khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới năm 1997 (WEF) định nghĩa “Năng lực cạnh
tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở
các chính sách, thể hiện bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác”.
Theo thông tin mới nhất, OEDC đã đưa ra định nghĩa sau “Năng lực cạnh
tranh là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản
14
xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp, ngành, địa phương, các quốc gia và khu
vực phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sự thể hiện thực lực và lợi thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao. Năng lực canh tranh của doanh nghiệp
được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp và là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh
nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ được tính bằng các yếu tố
về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… mà nó còn gắn
liền với ưu thế về sản phẩm, chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị
trường để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với năng lực cạnh tranh, song có thể
đưa ra khái niệm chung về năng lực cạnh tranh là:”Năng lực cạnh tranh là khả năng
giành được thị phần trước các đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành, quốc
gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế”.
Năng lực cạnh tranh gồm các cấp độ sau: năng lực cạnh tranh cấp độ quốc
gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Năng lực cạnh tranh quốc gia: Nói đến năng lực cạnh tranh quốc gia tức là
nói đến năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế, nó là thực lực và lợi thế mà nền
kinh tế hay quốc gia có thể huy động được để duy trì và nâng cao vị thế của mình
trong các quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu được lợi ích kinh tế ngày càng cao.
Theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997: “Năng lực cạnh tranh
của một quốc gia là năng lực kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức

tăng trưởng cao trên các cơ sở chính sách, thể chế bền vững tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác”.
Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia là việc xây dựng môi trường cạnh
tranh kinh tế chung, đảm bảo việc phân bố có hiệu quả các nguồn lực để đạt và duy
trì mức tăng trưởng cao và bền vững, phát huy những nguồn lực và lợi thế của một
quốc gia. Năng lực cạnh tranh quốc gia có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá
15
trình tự điều chỉnh, đầu tư thu hút đầu tư, lựa chọn các nhà kinh doanh và các doanh
nghiệp theo tín hiệu thị trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác môi trường cạnh
tranh tốt sẽ tạo khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải thiện
tình trạng đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả mà
những vấn đề này lại ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh quốc gia, theo VEF
năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định bởi các nhân tố cơ bản sau:
- Mức độ hội nhập
- Chính phủ
- Tài chính tiền tệ
- Công nghệ
- Cơ sở hạ tầng
- Quản lý kinh doanh
- Lao động
- Thể chế
Michael Porter – nhà khoa học nổi tiếng của Mỹ từng là giáo sư trường
Harvard, cố vấn của nhiều công ty lớn, ông từng đưa những lý luận về cạnh tranh vào
nhưng cuốn sách nổi tiếng thế giới của mình và được sử dụng trong hầu hết các
chương trình đào tạo MBA của các nước như “Chiến lược cạnh tranh” xuất bản năm
1980, “Lợi thế cạnh tranh” băn 1985 và “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” năm 1990.
Ông đã đưa ra lý thuyết nổi tiếng là mô hình “Viên kim cương”, các yếu tố quyết
định trong mô hình là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, các
ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Ngoài ra,

còn có hai biến số bổ sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ, cơ hội kinh
doanh.
16
Hình 1.1 Các điều kiện quyết định lợi thế cạnh tranh
Nguồn: Theo M.Porter “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”, Tạp chí
“Harvard Business”, tháng 3-4/1990, trang 77
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa mà doanh nghiệp nào cũng nhằm đến thu
được lợi nhuận siêu ngạch. Năng lực canh tranh của doanh nghiệp được tạo ra từ
thực lực của doanh nghiệp và là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp. Năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ được tính bằng các yếu tố về công nghệ,
tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp,… mà nó còn gắn liền với ưu thế
về sản phẩm, chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường để khai thác
các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới; Được thể hiện ở chiến
lược kinh doanh thích hợp và hiệu quả kinh doanh từ khâu nắm bắt thông tin đến
khâu tổ chức sản xuất, cung cấp dịch vụ; từ đổi mới công nghệ đến phương pháp
quản lý, phục vụ; từ đổi mới mặt hàng, các loại hình dịch vụ đến công việc tiếp thị
quảng cáo
Trong khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp ta tiếp cận trên
các khía cạnh sau:
Một là: Trong bất kì điều kiện kinh tế nào, đặc biệt là nền kinh tế thị trường
Nhà
nước
Cơ hội
Chiến lược, cơ cấu và cạnh
tranh của xí nghiệp (Firm
strategy, structure and
rivalry)
Các đóng góp của yếu tố
sản xuất (Factor

endowments)
Các điều kiện về mức cầu
(Demand condition)
Các ngành hỗ trợ và liên
hệ
(Relate and supporting
industries)
17
cạnh tranh ngày càng gay gắt thì yêu cầu của khách hàng phải được xem là nhân tố
quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi yêu cầu của khách
hàng vừa là mục tiêu vừa là động lực của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp Doanh nghiệp đáp ứng càng cao nhu cầu của khách hàng thì sẽ có khả
năng chiếm lĩnh được thị trường và tạo ra lợi nhuận cao nhất.
Hai là: yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp chính là các yếu tố
nội hàm của doanh nghiệp bao gồm: khả năng về tài chính, chất lượng nguồn lao
động và uy tín của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là người chủ động trong mọi
hoạt động về tài chính thì mới có khả năng điều tiết trước mọi biến cố, thay đổi của
thị trường. Chất lượng nguồn lao động cũng là yếu tố quan trọng để tạo nên những
sản phẩm tốt, có chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Ngoài
ra giữ gìn uy tín của doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố giúp doanh
nghiệp tạo niềm tin với khách hàng và giữ vững được thị trường, tạo ra ưu thế cạnh
tranh so với đối thủ
Ba là: cần phải đánh giá một cách đúng đắn điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và
thách thức của doanh nghiệp để đưa ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
có hiệu quả tận dụng những lợi thế và hạn chế, khắc phục những khó khăn.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm thể
hiện qua việc đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về mặt chất lượng sản phẩm,
mẫu mã, giá cả, tính năng, sự khác biệt về thương hiệu, so với các sản phẩm cùng
loại. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong
đó một trong những yếu tố quan trọng là năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Ngược

lại năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng tạo nên năng lực cạnh tranh của sản
phẩm. Doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường, đồng nghĩa với sản phẩm của
doanh nghiệp có một sức hút, đáp ứng được nhu cầu về thương hiệu, hình ảnh.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi các yếu tố sau:
Nhóm yếu tố cấu thành giá bán sản phẩm: là tất cả các chi phí của doanh
nghiệp. Trên thị trường cạnh tranh, người mua có thể lựa chọn những sản phẩm
phù hợp với thị hiếu và túi tiền của mình, thị hiếu thì rất đa dạng, nhưng khả năng
18
thanh toán thì có hạn. Vì vậy giá cả chính là yếu tố cạnh tranh hữu hiệu trên thị
trường. Trong chiến lược phát triển thị trường của mỗi doanh nghiệp việc hoạch
định chính sách giá tốt là một trong những điểm mấu chốt cho sự thành công. Giá
cả là một trong những công cụ phân khúc giá thị trường rất hữu hiệu. Để tiếp cận
một phân khúc thị trường, doanh nghiệp cần nắm rõ nhu cầu của thị trường, có
những sản phẩm giá thấp bán rất chạy, song đối với những thị trường khó tính sản
phẩm giá thấp chưa hẳn đã có sức hút, trong khi đó những yếu tố ngoài giá lại
đáng quan tâm hơn.
Nhóm các yếu tố ngoài giá: chính là sự vượt trội về chất lượng sản phẩm,
mẫu mã và kiểu dáng sản phẩm, thương hiệu sản phẩm, các hình thức phân phối
và các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng. Xã hội ngày càng phát triển thì những
yếu tố ngoài giá sẽ dần thay thế các yếu tố cấu thành giá trong việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của sản phẩm. Ngày nay khi nền kinh tế thị trường mở cửa, việc
cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp dần thu hẹp và không còn hiệu quả khi
gần với chi phí sản phẩm. Việc tìm ra những ưu việt, lợi thế khác về giá sẽ giúp
cho sản phẩm tăng tính cạnh tranh, sức hút đối với khách hàng. Chế độ hậu mãi và
chăm sóc khách hàng sẽ không chỉ nâng cao khả năng cạnh tranh cho chỉ sản
phẩm đó mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và các sản phẩm
khác của doanh nghiệp đó.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
có mối quan hệ với nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm do năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp tạo ra (thông qua việc xây dựng phát triển thị trường), một doanh

nghiệp có thương hiệu và hình ảnh tốt, thì các sản phẩm mà họ sản xuất và cung cấp
cũng được mang thêm một giá trị vô hình, có một sức hút nào đó đối với khách
hàng. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được tạo nên bởi nhiều yếu tố trong
đó năng lực cạnh tranh của sản phẩm là một trong những nhân tố quan trọng.
1.2.2 Tiêu chí đánh giá kết quả cạnh canh
1.2.2.1 Thị trường
Yếu tố thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một doanh
nghiệp. Nếu tại một thị trường mà tất cả các yếu tố bên ngoài thuận lợi thì sức cạnh
19
tranh của doanh nghiệp cũng sẽ cao hơn trong điều kiện khắt khe. Ví dụ: trong
những năm gần đây, chính phủ đặt thuế cao đối với việc nhập khẩu ô tô việc này sẽ
giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài sẽ giảm năng lực cạnh tranh, trong khi đó
các doanh nghiệp trong nước sẽ tăng khả năng cạnh tranh.
Đối với thị trường đã có rất nhiều nhà cung cấp thì việc tham gia vào thị
trường sẽ là khó khăn, nhưng thị trường có ít người cung cấp và nhu cầu tiêu dùng
nhiều thì doanh nghiệp sẽ có khả năng cạnh tranh cao.
1.2.2.2 Thị phần
Thị phần
Thị phần của doanh nghiệp được tính dựa trên tỷ trọng giữa số sản phẩm hàng
hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp được cung ứng trên thị trường so với tổng số
sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ được cung ứng trên thị trường trong cùng một
khoảng thời gian nhất định. Hoặc là tỷ trọng được tính giữa doanh thu của doanh
nghiệp về một loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nào đó so với tổng doanh thu của
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đó trên toàn thị trường. Doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh cao đồng nghĩa với việc chiếm lĩnh được thị phần lớn trên thị trường.
Số sản phẩm, dịch vụ của DN trên thị trường
T (%) =
Tổng số sản phẩm, dịch vụ trên thị trường
Doanh thu của DN về 1 loại sản phẩm, dịch vụ trên thị trường
=

Tổng doanh thu của sản phẩm, dịch vụ trên thị trường
Thị phần là một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, nếu muốn giành và giữ
vững được thị phần của mình trên thị trường, doanh nghiệp phải phấn đấu và nỗ lực
không ngừng trong việc nghiên cứu cung cấp sản phẩm, dịch vụ đáp ứng yêu cầu
của thị trường, làm tốt công tác quảng bá maketting, đặc biệt phải duy trì đảm bảo
20
chất lượng chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ như đã cam kết.
Ví dụ điển hình như công ty P/S: Năm 1997, kem đánh răng P/S đã có mặt ở
Việt Nam trong khi trước đó đã có nhiều hãng cung cấp sản phẩm này. Tuy nhiên
ngay sau đó không lâu P/S đã chiếm khoảng 80% đến 90% thị phần kem đánh răng
ở nước ta. Điều này cho thấy P/S đã nghiên cứu và sản xuất được sản phẩm đáp ứng
được nhu cầu số đông khách hàng với giá cả cạnh tranh, nhờ vậy mà sức cạnh tranh
của P/S trên thị trường Việt Nam rất cao.
Cũng tương tự như ví dụ với P/S là Nokia và tập đoàn Viễn thông quân đội
Viettel. Các doanh nghiệp này đều bước vào thị trường trong khi đã có khá đông
các doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ tương tự, song với sản phẩm,
dịch vụ tốt cùng với những phương thức tiếp cận thị trường, chế độ chăm sóc khách
hàng, chính sách giá tốt đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường
Tiêu chí này phản ánh tình hình chiếm lĩnh và khà năng chi phối thị trường
của hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này khó xác định vì khó biết
chính xác được hết tình hình kinh doanh của tất cả các đối thủ cạnh tranh.
Tiêu chí so thị phần với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất(Ttc)
Doanh thu của doanh nghiệp
Ttc =
Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
Đây được cho là tiêu chí đơn giản và dễ tính hơn so với thị phần bởi đối thủ
cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường thì dễ xác định hơn tổng số doanh nghiệp trên
thị trường, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ lẻ lại càng khó thống kê, bên cạnh
đó các doanh nghiệp cạnh tranh mạnh thường có nhiều thông tin. Tuy nhiên khi tính
toán nếu không xác định tương đối chính xác doanh thu của đối thủ mạnh nhất thì

cũng dễ xảy ra những sai sót dẫn tới việc đưa ra những chiến lược, quyết định sai
lầm đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp và tức
thời đến khả năng cạnh tranh của chính doanh nghiệp.
Tiêu chí tỷ trọng thị phần tăng hàng năm(Tthn)
21
Thị phần năm sau
T(thn) =
Thị phần năm trước
Nếu kết quả dương tức là thị phần doanh nghiệp tăng lên đồng nghĩa với sức
cạnh tranh cũng tăng lên. Ngược lại kết quả âm tức là thị phần doanh nghiệp bị thu
hẹp lại, sức cạnh tranh cũng giảm xuống. Con số này phụ thuộc vào cách tính toán
thị phần nên rất có thể sẽ đưa ra con số không được chính xác. Dựa vào kết quả này
để đưa ra chiến lược mới cho sản phẩm, dịch vụ dựa trên nhu cầu của khách hàng.
1.2.2.3 Uy tín, thương hiệu đào tạo
Thương hiệu
Có rất nhiều quan điểm về thương hiệu nhưng theo Hiệp hội Maketting Hoa
kỳ “ Thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một
hình vẽ hoặc tổng hợp tất cả các yếu tố trên nhằm xác định một sản phẩm hoặc dịch
vụ của một ( hoặc một nhóm người ) và phân biệt sản phẩm dịch vụ đó với các đối
thủ cạnh tranh”.
Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của người tiêu dùng đối với sản
phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Thương hiệu là tài sản vô
hình của Doanh nghiệp. Chẳng hạn khi nói đến điện thoại người ta nghĩ ngay đến
Iphone, Nokia hay Samsung, hoặc khi nói đến Ôtô người ta sẽ nói ngay đến
Toyota…Tên của hàng hóa gắn liền với thương hiệu và trở thành một cụm từ dễ
nhớ và làm cho khách hàng nhớ đến doanh nghiệp và sản phẩm của họ.
Việc xây dựng được một thương hiệu là vấn đề đòi hỏi thời gian, khả năng tài
chính và ý chí không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cũng như
mong muốn của bất cứ doanh nghiệp nào trên thị trường. Năng lực cạnh tranh luôn
song hành với thương hiệu: thương hiệu không chỉ khẳng định được đẳng cấp, uy

tín của sản phẩm, dịch vụ, của doanh nghiệp mà nó còn là một loại giá trị vô hình
được cộng vào hàng hóa dịch vụ, tạo sức hút không hề nhỏ đối với khách hàng. Đối
với nhiều khách hàng, thương hiệu khẳng định được đẳng cấp của họ, hoặc khẳng
định được niềm tin và chất lượng của sản phẩm, dịch vụ
22
Thương hiệu mạnh giúp nâng cao uy tín doanh nghiệp tạo dựng lòng tin, lòng
trung thành của khách hàng đối với sản phẩm, đem lại lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp, giúp cho việc triển khuếch trương sản phẩm dễ dàng hơn. Không chỉ vậy,
thương hiệu mạnh còn giảm thiểu chi phí quảng cáo, thậm chí giúp cho sản phẩm,
dịch vụ tự định cho mình một mức giá, chống lại sự cạnh tranh khốc liệt về giá.
Hình ảnh của doanh nghiệp
Cũng giống như thương hiệu hình ảnh của doanh nghiệp rất quan trọng trong
cạnh tranh, nó giúp doanh nghiệp duy trì và giữ vững thị trường, chống sự lôi kéo
khách hàng của đối thủ cạnh tranh và hình ảnh của doanh nghiệp là một chỉ tiêu
quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ của
doanh nghiệp.
Giữ gìn hình ảnh đẹp của tổ chức, doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng là
cả một quá trình từ chất lượng, giá cả của sản phẩm dịch vụ đến khâu quảng bá, hậu
mãi và các chế độ chăm sóc khách hàng, Việc này không chỉ đòi hỏi đội ngũ lãnh
đạo, nhân viên mà là toàn bộ hệ thống, một công việc không hề dễ, nhưng khi đã
làm được thì sẽ tạo sức cạnh tranh rất lớn cho doanh nghiệp, tổ chức
1.2.2.4 Doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động đào tạo y học ngắn hạn
Trong các phương pháp tính toán để lượng hóa được hiệu quả sản xuất kinh
doanh người ta thường sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Đối với hoạt động đào
tạo y học ngắn hạn có thể sử dụng một số các chỉ tiêu sau để lượng hóa hiệu quả
hoạt động:
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận / Vốn kinh doanh = Lợi nhuận trước (hoặc sau
thuế)/ Vốn kinh doanh cho biết mức sinh lời của một đồng vốn bỏ ra từ đó đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn. Tỷ suất lợi nhuận cần bù đắp được chi phí cơ hội của việc sử
dụng vốn. Thông thường một đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ

nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác, hoặc ít nhất phải cao
lãi suất ngân hàng.
- Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận/ Doanh thu = Lợi nhuận trước (hoặc sau thuế)
23
/Doanh thu giúp Doanh nghiệp biết được trong một đồng doanh thu của Doanh
nghiệp được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Đồng thời có thể so sánh tỷ suất lợi nhuận giữa các năm để thấy được sự gia
tăng lợi nhuận một cách tổng quát. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp tương
đương hoặc cao hơn tỷ suất lợi nhuận của ngành thì doanh nghiệp đó được coi là có
năng lực cạnh tranh cao.
1.2.3 Các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực đào
tạo y học của một tổ chức
1.2.3.1 Nguồn nhân lực của tổ chức
Ngày nay, tất cả chúng ta đều biết rằng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, then
chốt, có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nói đến nguồn nhân lực của doanh nghiệp không chỉ nhắc tới Ban
lãnh đạo, các cấp quản lý mà một trong những nhân tố không thể thiếu, quyết định
tới thành bại của một tổ chức, một doanh nghiệp là đội ngũ cán bộ nhân viên:
a. Cán bộ quản trị cấp cao (ban giám đốc) là những người có vai trò
quan trọng trong việc xây dựng chiến lược, điều hành và quản lý mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào các
quyết định của họ: sản xuất, cung cấp cái gì, như thế nào và cho ai. Khi đánh giá bộ
máy lãnh đạo thường quan tâm đến các tiêu thức như kinh nghiệm lãnh đạo, trình
độ quản lý doanh nghiệp, phẩm chất kinh doanh và các mối quan hệ và xa hơn nữa
là khả năng xây dựng một tập thể đoàn kết, vững mạnh, thúc đẩy mọi người hết
mình cho công việc. Đội ngũ lãnh đạo sẽ là người vạch ra hướng đi, chiến lược,
chính sách, điều khiển và kiểm soát mọi hoạt động. Năng lực quản trị chiến lược
phản ánh khả năng phân tích thị trường và dự báo các xu hướng, nhu cầu của khách
hàng trong tương lai để có thể đưa ra định hướng phát triển sản phẩm, dịch vụ có
tính lâu dài cũng như đáp ứng được nhu cầu của thị trường, đem lại lợi nhuận cho

doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chỉ tiêu này còn thể hiện thông qua chiến lược phân
phối, quảng bá, mở rộng thị trường và quản trị rủi ro của Ban lãnh đạo.
b. Cán bộ quản trị cấp trung gian là những người đứng dưới quản trị viên
24
cao cấp và đứng trên quản trị viên cấp cơ sở. Chức năng của họ là thực hiện các kế
hoạch và chính sách của doanh nghiệp bằng cách phối hợp thực hiện các công việc
nhằm dẫn đến hoàn thành mục tiêu chung. Các cán bộ quản trị cấp trung gian vừa
thực hiện các chính sách, chiến lược của Ban lãnh đạo, vừa đề xuất ý kiến xây dựng
và quản lý lĩnh vực, nhân viên mà mình phụ trách. Để đánh giá năng lực trình độ
của đội ngũ cán bộ cấp này thường xem xét trên các mặt:
+ Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, thâm niên nghề nghiệp, tác
phong làm việc, sự am hiểu về kinh doanh và pháp luật.
+ Cơ cấu về các chuyên ngành đào tạo phân theo trình độ qua đó cho biết
trình độ chuyên môn hoá và khả năng đa dạng hóa của doanh nghiệp.
c. Đội ngũ cán bộ nhân viên: Đây là đội ngũ nòng cốt góp phần quan trọng
trong việc phát triển của doanh nghiệp. Họ là những người thực thi chiến lược,
chính sách của Ban lãnh đạo. Một tổ chức, một doanh nghiệp muốn lớn mạnh được
phải có những cán bộ giỏi chuyên môn và giỏi cả thực hành. Họ không chỉ là những
người đơn thuần thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao, mà chính họ là những
người trực tiếp tham gia trong toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất, cung cấp
dịch vụ, bởi vậy họ là người hiểu rõ nhất những ưu nhược điểm của sản phẩm dịch
vụ và đưa ra được những ý kiến phản hồi tốt nhất. Đội ngũ nhân viên ngoài việc
phải am hiểu sản phẩm dịch vụ, còn phải là người tư vấn, hỗ trợ kịp thời cho khách
hàng để mang đến sự hài lòng tốt nhất cho khách hàng. Chính họ cũng sẽ là những
phần tạo nên thương hiệu và hình ảnh cho doanh nghiệp.
1.2.3.2 Cơ sở vật chất, kỹ thuật của tổ chức
Năng lực tài chính: Có thể coi đây là một trong những yếu tố giúp nâng cao
năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Một tình hình tài chính lành mạnh, không
chỉ giúp cho doanh nghiệp có thể chiêu mộ lao động giỏi, tay nghề cao mà còn cho
phép doanh nghiệp mở rộng đầu tư, giảm giá thành sản phẩm, chống lại những thay đổi

bất lợi từ thị trường nâng cao sức cạnh tranh. Bên cạnh đó với tiềm lực tài chính dồi
dào, doanh nghiệp có thể tăng cường các hình thức PR, quảng cáo, các hoạt động xã
25

×