Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG dạy vàhọc TIẾNG VIỆT CHO học SINH dân tộc bậc TRUNG học cơsở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.78 KB, 19 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐỀ TÀI
(Ngữ văn THCS)
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY VÀ HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH ĐAN LAI BẬC
TRUNG HỌC CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CON CUÔNG
NGƯỜI THỰC HIỆN: Võ Như Hùng
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: Phòng GD&ĐT Con Cuông
Số điện thoại: 0919.569.890
Con Cuông, tháng 4 năm 2011
1
A. Đặt vấn đề
- Một số vấn đề chung về nguồn gốc, tên gọi, tập quán về dân tộc Đan Lai.
- Về văn hóa, tộc người Đan Lai ít thấy có bản sắc riêng, có một sự đan
xen giữa một ít của dân tộc này một ít của dân tộc kia. Trang phục họ mặc giống
người kinh, nhà ở lại giống người Thái; ma chay, cưới hỏi có sự lai tạp giữa phong
tục của dân tộc kinh, dân tộc Thái và cả dân tộc Mường. Đặc biệt là việc lấy vợ lấy
chồng của người Đan Lai (do tộc người này thường ở cách biệt, họ lại ít giao
lưu…) nên trai gái thường kết hôn với nhau ở trong một bản, cận huyết thống đây
là nguyên nhân chính dẫn đến tộc người Đan Lai đang ở trong tình trạng giống nòi
bị suy kiệt dần.
- Một điểm đáng lưu ý nữa của người Đan Lai là tiếng nói, tiếng nói của
người Đan Lai có nhiều âm gần giống với cách phát âm của người kinh, đây phải
chăng là một minh chứng để các nhà nghiên cứu đi đến kết luận: Tộc người Đan
Lai có nguồn gốc từ miền Hoa Quân thuộc huyện Thanh Chương chăng ? Sau đây
là một số thống kê cho thấy điều đó:
Tiếng Kinh Tiếng Đan Lai Tiếng Thái
Đi chơi Ti yến Pay học
Về Viề Mưa
Uống rượu Nhổ liệu Kin lậu


Uống nước Nhổ đác Kin nậm
Ăn cơm Ăn cờm Kin khầu
- Ngày 19/12/2006 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án bảo tồn và
phát triển bền vững tộc người Đan Lai, với tổng kinh phí hơn 93 tỷ đồng nhằm
tăng cường đầu tư sở hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục và đào tạo tại các vùng
đồng bào Đan lai sinh sống tạo điều kiện giúp bà con mở rộng giao lưu, phát triển
kinh tế, văn hóa giáo dục.
- Trong quá trình thực hiện Đề án “Bảo tồn và phát triển bền vững tộc
người Đan Lai” đã đem đến một số kết quả nhất định: Đời sống kinh tế của người
Đan Lai được cải thiện; đời sống tinh thần ngày càng được nâng cao; một số khu
vực định cư của người Đan Lai được thành lập ở xã Môn Sơn, xã Thạch Ngàn. Tuy
nhiên, khoảng cách trình độ dân trí, về kinh tế giữa tộc người Đan Lai với cộng
đồng các dân tộc khác trong vùng đang là một vấn đề được cả xã hội quan tâm
trong đó có giáo dục. Từ thực tế chất lượng giảng dạy và học tập tiếng Việt cho
học sinh Đan Lai, một vấn đề được đặt ra đó là: Làm thế nào để nâng cao được
chất lượng dạy và học cho học sinh dân tộc thiểu số nói chung và học sinh Đan Lai
nói riêng. Từ đó chúng tôi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp để nâng cao chất
2
lượng dạy và học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai bậc THCS” để góp phần giải
quyết một số vấn đề của thực trạng dạy và học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai.
Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này chúng tôi xuất phát từ những cơ sở
khoa học sau:
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Trên cơ sở các văn bản, các đề án, một số chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu
số được Chính phủ đã phê duyệt vào ngày 19/12/2006. Đặc biệt là QĐ 2123/QĐ-
TTg ngày 22/11/2010 V/v phê duyệt Đề án phát triển giáo dục cho các tộc đặc biệt
ít người.
1.2. Trên cơ sở một số lý luận về phương pháp dạy học, tâm lý học, khoa
học giáo dục.

1.3. Những đặc điểm tâm, sinh lý, phong tục tập quán của đồng bào dân
tộc Đan lai.
2. Cơ sở thực tế.
2.1. Xuất phát từ nhu cầu sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp của tộc người
Đan Lai.
2.2. Từ thực tế giảng dạy và học tập ở các cơ sở giáo dục có học sinh Đan
lai trên điạ bàn huyện Con Cuông.
Khi thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp điều tra.
2. Phương pháp thống kê.
3. Phương pháp Hội thảo, dạy thể nghiệm.
4. Phương pháp khảo sát.
B. MỘT SỐ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT CỦA
GIÁO VIÊN VÀ VIỆC HỌC TIẾNG VIỆT CỦA HỌC SINH ĐAN LAI
I. Thực trạng dạy tiếng Việt cho học sinh Đan lai.
1. Công tác quản lý ở những trường có học sinh Đan Lai.
Do có ít nhất ba dân tộc cùng nhau học tập trong một môi trường vì thế
đội ngũ quản lý gặp nhiều khó khăn trong việc sắp xếp đội ngũ giáo viên như thế
nào cho phù hợp với việc giáo dục học sinh nói chung và dạy tiếng Việt cho học
sinh Đan Lai nói riêng. Đội ngũ cán bộ quản lý các trường học có học sinh Đan Lai
chưa thực sự chủ động trong việc tham mưu xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm
trang thiết bị, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học phục vụ cho việc dạy và học; chưa
thực sự chủ động xây dựng kế hoạch từng tháng, từng kỳ, từng năm học và kế
hoạch lâu dài để nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai.
3
2. Đội ngũ giáo viên ở những trường học có học sinh Đan Lai.
Đội ngũ giáo viên ở những trường học có học sinh Đan Lai có tỷ lệ đạt
chuẩn và trên chuẩn cao (95,89% đạt chuẩn và trên chuẩn), trong đó giáo viên
người kinh, chiếm tỷ lệ cao, các giáo viên thuộc dân tộc Đan Lai chiếm tỷ lệ thấp
(chỉ có 2/146 chiếm tỷ lệ 1,36%) những giáo viên này có chuyên môn Sinh-Hóa.

Hầu hết đội ngũ giáo viên đều không biết tiếng Đan Lai, ít hiểu về phong tục, tập
quán, tâm lý của tộc người Đan Lai từ đó trong quá trình giảng dạy và học tập xảy
ra sự bất đồng ngôn ngữ, không có sự hiểu biết để chia sẻ cùng nhau.
Bảng thống kê đội ngũ cán bộ, giáo viên thuộc 5 trường có học sinh
Đan Lai
Tổng
Trình độ ĐT DT Biết tiếng
DT
TC CĐ ĐH Thạc
sỹ
Kinh Thái Đan
Lai
DT
khác
Thái Đan
Lai
146 2 36 108 0 92 51 2 1 63 10
3. Đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra đánh giá
Đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra đánh giá được xem như
là sự sống còn của nền giáo dục nước nhà nhưng có một điều cũng cần được nói
đến, sự đổi mới đó đang trên cơ sở và áp dụng cho mặt bằng chung toàn quốc, cho
nên dẫn đến tình trạng áp dụng cho đối tượng học trò này thì hiệu quả đạt được sẽ
cao, áp dụng với đối tượng học trò khác kết quả lại đạt được thì ngược lại. Các
thầy cô giáo dạy ở những trường có học sinh Đan Lai việc áp dụng đổi mới
phương pháp giảng dạy, đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh bước đầu đã có những
kết quả nhưng nhìn chung họ vẫn chưa quan tâm đến đối tượng là học sinh Đan
Lai; Việc tổ chức dạy học chưa thực sự quan tâm đến đối tượng nên hiệu quả của
việc dạy học nói chung và dạy tiếng Việt cho học sinh Đan Lai chưa cao.
4. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Chưa thực sự phù hợp với sở thích, đặc điểm tâm lý của các em học sinh

Đan lai cho nên không thu hút được các em tham gia vào các hoạt động này dẫn
đến các em ít có được môi trường tiếng Việt để giao lưu, học tập.
II. Chất lượng học tiếng Việt của học sinh Đan Lai.
1. Học sinh Đan Lai trước khi vào nhà trường THCS tỷ lệ biết sử dụng
tiếng việt và sử dụng tiếng Việt thành thạo chiếm tỷ lệ thấp. Có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân lớn nhất đó là: khi học ở Mầm non và Tiểu học môi
trường tiếng Việt của các em rất hạn chế, các em giao tiếp tiếng Việt với thầy cô và
bạn bè rất ít (chỉ vào thời gian trên lớp). Trong sinh hoạt cộng đồng và gia đình,
mọi người giao tiếp với nhau chỉ bằng tiếng mẹ đẻ nên khả năng nghe, nói, đọc,
viết của các em rất yếu.
4
2. Học sinh Đan Lai học tiếng Việt như là học ngoại ngữ. Dù rằng khi
bước vào trường THCS, các em đã được học tiếng Việt ở các trường Mầm non, các
trường Tiểu học nhưng do môi trường giao tiếp tiếng Việt hạn chế, khả năng tiếp
thu chậm và rất nhiều lý do khác nữa khiến các em gặp khó khăn khi phát âm, khi
dùng từ, khi tạo lập câu, đoạn văn, văn bản. Qua thực tế giảng dạy và qua khảo sát
chúng tôi thấy học sinh Đan Lai thường mắc các lỗi sau khi sử dụng tiếng Việt:
2.1. Lỗi về nói, đọc, viết: Tốc độ nói và đọc tiếng Việt chậm, phát âm
không rõ ràng, thường phát âm sai các phụ âm s/x, l/đ, tr/t, l/nh, r/l, từ việc phát âm
sai dẫn đến khi viết các em học sinh Đan Lai thường viết sai chính tả các phụ âm
này.
Ví dụ:
Tiếng việt Phát âm của học sinh
Đan Lai
Chính tả của học sinh
Đan Lai
Soạn văn Xoạn văn Xoạn văn
Sừng sững Xừng xững Xừng xững
Chân trời Chân tời Chân tời
Nhanh Lanh Lanh

Con gái Con mái Con mái
Nằm ngủ Lằm ngủ Lằm ngủ
Ăn cơm Ăng cờm Ăng cờm
Dân tộc Dan toọt Dan toọt
Học sinh Đan Lai khi nói hoặc khi đọc thường thiếu đi một số âm ở một
số vần, vì thế dẫn đến hiện tượng người khác tham gia đối thoại khó hiểu hoặc
không hiểu các em nói gì.
Ví dụ:
Tiếng Việt Phát âm của học sinh
Đan Lai
Chính tả của học sinh
Đan Lai
Sản xuất Sản xút Sản xút
Đêm Khuya Đêm khuyê Khuyê
Huấn luyện Huấn luỵn Huấn luỵn
2.2. Trong quá trình giao tiếp học sinh Đan Lai thường sử dụng một số từ
“thừa” vào trong lời thoại khiến cho câu thoại của các em trở nên vô nghĩa, khó
hiểu. Ví dụ:
5
Với các câu hỏi: Em có biết không? Em có học bài không? Học sinh dân
tộc Thái, dân tộc Kinh thường có chung câu trả lời
- Thưa thầy (cô) em không biết!
- Thưa thầy (cô) em chưa học bài!
Nhưng học sinh Đan Lai trả lời:
- Em không được biết!
- Em không được học!
Khi sử dụng danh từ để chỉ ai đó đang nói một điều gì, hay làm một điều gì,
các em thường dùng kèm đại từ “Nó” đằng sau đó. Ví dụ:
- Cán bộ (nó) vận động.
- Thầy giáo (nó) dạy.

- Cha ta nó (đang) làm.
2.3. Trong quá trình giao tiếp và tạo lập văn bản học sinh Đan Lai thường
có thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ ở trong một số trường hợp thường gặp như sau:
Tiếng Việt Đan Lai
Bản em rất xa Bản em ngai ngái
Cán bộ vào thăm bản em Cán bộ ti lòn bản em ( ti lòn có nghĩa là
đi vào thăm hoặc đi đến thăm)
Trong năm học 2009-2010 chúng tôi đã tiến hành khảo sát 153 học sinh Đan
Lai thuộc các trường THCS Môn Sơn, THCS Lục Dạ, THCS Châu Khê, THCS
Lạng Khê, THCS Thạch Ngàn ở các lớp 6, 7, 8, 9 cho kết quả như sau:
Tổng số
học sinh
Lỗi thường gặp
Lỗi phát
âm
Lỗi chính tả Lỗi dùng từ Lỗi viết câu
sai
Lỗi diễn đạt
153 62.93% 89.65% 91.65% 91% 97,32%
Kết quả môn Ngữ văn của học sinh Đan Lai năm học 2009-2010:
Tổng
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL Tỷ
lệ
SL TL SL TL SL TL SL TL
153 0 0% 7 4,57% 43 28.10% 86 56.20% 17 11.11%
6
Với thực trạng trên, đòi hỏi các cấp quản lý giáo dục, người trực tiếp
giảng dạy và cả xã hội phải nghiên cứu, đề ra các gải pháp để nâng cao chất lượng

giáo dục nói chung và chất lượng dạy, học môn tiếng Việt cho học sinh dân tộc
Đan Lai nói riêng.
C. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC
TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH ĐAN LAI
I. Mục tiêu của các giải pháp.
1. Mục tiêu chung: Trên cơ sở các giải pháp để giúp các trường làm tốt công
tác tham mưu với cấp ủy chính quyền các cấp có những chủ trương chính sách phù
hợp, kịp thời góp phần nâng cao trình độ sử dụng tiếng Việt cho học sinh Đan lai;
Tác động vào nhận thức của các cấp quản lý giáo dục (Cấp phòng và các đơn vị
trường học), làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ giáo viên từ đó áp dụng có
hiệu quả các phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng học tiếng Việt của học sinh
Đan Lai nói riêng; Nâng cao kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt cho học sinh
Đan Lai góp phần xóa khoảng cách về trình độ sử dụng tiếng Việt giữa học sinh
Đan Lai với học sinh Kinh, Thái và các dân tộc khác.
2. Mục tiêu cụ thể:
Nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai theo hướng:
2.1. Luyện phát âm để khắc phục các lỗi phát âm của học sinh.
2.2. Khắc phụ các lỗi chính tả học sinh thường gặp.
2.3. Khắc phục các lỗi dùng từ, qua đó góp phần làm giàu vốn từ cho học
sinh
2.4. Khắc phục các lỗi về câu, lỗi diễn đạt; qua đó giúp học sinh biết tạo lập
các văn bản như: Biết làm bài tập làm văn, biết viết một số đơn từ…
2.5. Có thể nhận diện được một số biện pháp nghệ thuật từ đó giúp các em
bước đầu biết cảm nhận một số văn bản nghệ thuật.
II. Các giải pháp
1. Tạo môi trường tiếng Việt.
1.1. Lựa chọn mô hình bố trí, sắp xếp lớp học hợp lý.
Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi thấy rằng các trường học trên địa bàn chủ
yếu có 3 đối tượng học sinh thuộc các dân tộc: Kinh, Thái, Đan Lai trong số các

em học sinh thuộc 3 dân tộc này học sinh Đan Lai khả năng sử dụng tiếng Việt yếu
nhất chính vì thế việc lựa chọn mô hình bố trí học sinh để tạo môi trường tiếng
Việt là hết sức quan trọng. Các phương án được đưa ra để lựa chọn là:
Mô hình thứ nhất: Học sinh Kinh + Học sinh Thái + Học sinh Đan Lai;
Mô hình thứ 2: Học sinh Kinh + Học sinh Đan Lai;
7
Mô hình thứ 3: Học sinh Thái + Học sinh Đan Lai.
Trong 3 mô hình biên chế lớp học này, chúng tôi thấy mô hình thứ 2 trong
lớp học có 2 đối tượng học sinh Kinh + học sinh Đan Lai tạo được môi trường
tiếng Việt tốt nhất vì: Trong quá trình giao tiếp với các bạn trong lớp, các em sẽ
phải thường xuyên sử dụng tiếng Việt; Giáo viên sẽ thuận lợi trong việc phân công
học sinh Kinh giúp đỡ học sinh Đan Lai trong quá trình học tiếng Việt nói riêng và
các môn học khác nói chung; Giáo viên có điều kiện sử dụng hiệu quả song ngữ
tiếng Việt và tiếng Đan Lai để giao tiếp và giảng dạy.
1.2. Tạo môi trường tiếng Việt bằng cách tổ chức tốt mô hình bán trú dân
nuôi.
Tổ chức tốt mô hình bán trú dân nuôi trước hết sẽ hạn chế được học sinh bỏ
học, vì các em học sinh Đan lai thường ở xa trường, muốn đến trường các em phải
vượt qua khe suối, đồi núi, đèo dốc, nếu không làm tốt mô hình này sẽ không thu
hút được các em đến trường.
Tổ chức tốt các hoạt động cho học sinh ở tại các ký túc xá bằng nhiều hình
thức: Tổ chức đọc các loại báo trước giờ các em học bài vào buổi tối; Tăng cường
mua sắm các phương tiện nghe nhìn cho ký túc xá như Ti vi, Ra đi ô… để các em
có điều kiện tiếp xúc và được nghe, được xem các chương trình trên đài phát
thanh, trên truyền hình; Tổ chức cho các em nội trú các hoạt động ngoài giờ học
như: Văn nghệ, Thể thao để tạo điều kiện cho các em cơ hội giao lưu, gặp gỡ và
đây cũng môi trường để các em sử dụng tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp.
1.3. Tạo môi trường tiếng Việt bằng hình thức tổ chức tốt các hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Để tạo điều kiện cho học sinh Đan Lai có điều kiện tiếp xúc với các bạn

trong trường và ngoài trường, dần dần xoá mặc cảm, tự ti, ngại giao tiếp, chúng tôi
đã tập trung chỉ đạo các nhà trường làm tốt các hoạt động sau đây:
Tổ chức tốt các trò chơi dân gian theo tiêu chí của phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” của Bộ GD&ĐT theo hướng lựa
chọn trò chơi phù hợp (trong đó ưu tiên lựa chọn các trò chơi dân gian của người
Đan Lai) để tổ chức cho học sinh cả 3 dân tộc Kinh, Thái, Đan Lai tham gia. Hoạt
động này được giao cho Đoàn, Đội tổ chức theo cách thức nếu là trò chơi có tính
tập thể thành phần tham gia thực hiện phải có học sinh Đan Lai + Học sinh Thái +
Học sinh Kinh, yêu cầu khi trao đổi, bàn bạc trong nhóm chơi phải sử dụng tiếng
Việt.
Bên cạnh tổ chức cho học sinh tham gia các trò chơi, các hoạt động thể dục
thể thao, các trường thường xuyên tổ chức các câu lạc bộ, câu lạc bộ Lịch sử, câu
lạc bộ ngoại ngữ, câu lạc bộ “ Em yêu tiếng Việt” những Câu lạc bộ này đã giúp
các em tăng cường sự giao thiếp, tăng cường vốn tiếng Việt, kỹ năng sử dụng tiếng
Việt và khả năng hợp tác nhóm
8
2. Công tác quản lý chỉ đạo ở những trường có học sinh Đan Lai.
2.1. Công tác bố trí giáo viên.
Để việc nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai đạt hiệu
quả cao, chúng tôi xác định việc bố trí giáo viên làm công tác chủ nhiệm và giảng
dạy môn Ngữ văn ở những lớp có học sinh Đan Lai là hết sức quan trọng; Ưu tiên
bố trí giáo viên chủ nhiệm, giáo viên dạy môn Ngữ văn ở các lớp có học sinh Đan
Lai (nhất là những lớp đầu cấp) là những giáo viên tâm huyết, tận tâm với học
sinh, hiểu phong tục tập, tập quán, tâm lý của tộc người Đan lai và đặc biệt là sử
dụng được tiếng Đan Lai trong giao tiếp và giảng dạy.
Bố trí xen kẽ giữa những giáo viên có kinh nghiệm lâu năm giảng dạy ở địa
bàn có tộc người Đan Lai sinh sống kết hợp giáo viên trẻ mới ra trường, giáo viên
miền xuôi lên công tác ở miền núi vào giảng dạy ở những lớp có học sinh Đan Lai
nhằm khắc phục việc bất đồng ngôn ngữ, khoảng cách về phong tục tập quán giữa
giáo viên và học sinh. Làm tốt nhiệm vụ này đã tạo nên sự vào cuộc của tất cả các

thành viên trong hội sư phạm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tiếng Việt; Có vậy
mới xây dựng được ý thức dạy tiếng Việt không còn là nhiệm vụ của riêng giáo
viên dạy môn Ngữ văn mà trở thành nhiệm vụ chung của tập thể sư phạm của nhà
trường.
2.2. Đổi mới công tác kiểm tra đánh giá việc dạy tiếng Việt của giáo viên.
Bên cạnh các hình thức kiểm tra mang tính truyền thống như: Dự giờ thăm
lớp, kiểm tra qua khảo sát học sinh, kiểm tra việc thực hiện các quy định chuyên
môn, chúng tôi cho rằng cần phải có cái nhìn thật thấu đáo khi đánh giá giáo viên
dạy những lớp có học sinh Đan Lai thông qua việc dự giờ và chuẩn bị giáo án. Lâu
nay việc đánh giá, xếp loại giờ dạy của giáo viên đang được thực hiện trên cơ sở
những quy định có tính khuôn mẫu, quan niệm này đã làm ảnh hưởng phần nào
đến tính sáng tạo của giáo viên trong quá trình soạn và giảng dạy. Chúng tôi
khuyến khích những tiết dạy Ngữ văn có tính đột phá trong việc lựa chọn phương
pháp truyền thụ kiến thức kỹ năng phù hợp với học sinh Đan Lai để làm sao vừa
đảm bảo đạt chuẩn kiến thức kỹ năng vừa đảm bảo việc học sinh Đan Lai ngày
càng được rèn luyện nhiều hơn và ngày càng tiến bộ hơn trong quá trình sử dụng
tiếng Việt.
2.3. Chỉ đạo công tác thực hiện phân phối chương trình
Phân phối chương trình đã có sự điều chỉnh, nhưng khi áp dụng vào giảng
dạy ở các địa bàn có học sinh dân tộc nói chung và học sinh Đan Lai nói riêng còn
gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục vấn đề này, chúng tôi chỉ đạo theo hướng:
Nhóm, tổ chuyên môn trên cơ sở phân phối chương trình xác định những bài dài,
bài khó cho từng tuần, từng tháng, từng học kỳ và cả năm học để định hướng cách
dạy, thống nhất việc tách tiết, giãn tiết như thế nào cho phù hợp với trình độ đối
tượng học sinh. Để tránh tùy tiện, hoạt động này phải được thực hiện trên cơ sở đã
có sự thống nhất sau khi thảo luận ở các buổi sinh hoạt chuyên môn.
9
2.4. Phân công quản lý và kèm cặp, phụ đạo cho học sinh.
Như đã trên chúng tôi đã đưa ra giải pháp xây dựng mô hình bán trú cho
học sinh Đan Lai, với đặc điểm tâm lý, sinh lý, tập quán lứa tuổi của học sinh

THCS một vấn đề đặt ra đó là việc quản lý chăm sóc các em như thế nào? Với lợi
thế những trường có học sinh Đan Lai đều có giáo viên người dân tộc trong đó có 2
giáo viên người dân tộc Đan Lai, công việc quản lý, chăm sóc hướng dẫn các em
ăn, ở, sinh hoạt được giao cho giáo viên người dân tộc Thái và dân tộc Đan Lai.
Những giáo viên được giao quản lý các em học sinh phải là những giáo viên có
tinh thần trách nhiệm, có tình yêu thương học trò, có khả năng giao tiếp với học
sinh bằng tiếng Đan Lai, có sự am hiểu phong tục, tập quán của tộc người Đan Lai.
Làm tốt được nhiệm vụ tổ chức cho các em ăn, ở, sinh hoạt…ở khu nội trú sẽ dần
dần thay đổi được những hạn chế của các em trong việc giao tiếp, trong việc học
tập, trong sinh hoạt…Chúng tôi cho rằng từng bước thay đổi những hạn chế đó sẽ
tạo đà cho các em học tiếng Việt ngày càng tốt hơn.
Công tác phân công giáo viên kèm cặp, giúp đỡ học sinh Đan Lai. Ngay từ
đầu năm học các trường phải tổ chức khảo sát để phân loại chất lượng học sinh,
sau khi có kết quả phân loại chất lượng học sinh nhà trường có kế hoạch phân công
phân công giáo viên kèm cặp, giúp đỡ học sinh. Bên cạnh phụ đạo ở trường theo
kế hoạch của nhà trường, còn có một biện pháp đạt hiệu quả tương đối tốt đó là
phân công giáo viên kèm cặp ở nhà, để thực hiện giải pháp này các trường đã vận
động giáo viên toàn trường tham gia. Hình thức kèm cặp giúp đỡ này được thực
hiện: Vừa kèm cặp các em học tiếng Việt và các môn học khác vừa giúp đỡ các em
về sách vở, quần áo…
Cách thức phụ đạo, bồi dưỡng cũng được thay đổi, các tiết dạy chính khóa
giáo viên trên cơ sở phân phối chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng để dạy cho
các em những kiến thức và kỹ năng cần thiết, những tiết dạy phụ đạo chúng tôi
quan niệm và chỉ đạo học sinh cần gì giáo viên dạy cái đó, tránh tình trạng học
sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo giáo viên lại dạy các kỹ năng khác. Chúng tôi
chỉ đạo việc sửa lỗi phát âm, lỗi chính tả được tập trung thực hiện ở các lớp 6,7;
Sửa lỗi lỗi dùng từ, đặt câu, diễn đạt và tạo lập các văn bản đơn giản được tập
trung thực hiện ở các lớp 7,8,9. Việc sửa những lỗi trong quá trình sử dụng tiếng
Việt cho học sinh Đan Lai là một công việc hết sức khó khăn. Có giáo viên đã ví
von “dạy sửa lỗi phát âm cho học sinh Đan lai giống như uốn một một cây tre cong

đã già cho thẳng lại”. Để công việc khó khăn vất vả này đi đến những kết quả nhất
định, chúng tôi cho rằng cần nhận được sự quan tâm của các cấp quản lý cả về vật
chất lẫn tinh thần, sau đó phải thắp lên được ngọn lửa tình yêu thương, tinh thần
trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo đối với các em học sinh tộc người Đan Lai.
3. Công tác bồi dưỡng giáo viên để nâng cao trình độ hiểu biết về tộc
người Đan Lai.
Bên cạnh các chuyên đề về bồi dưỡng giáo viên hàng năm do Bộ
GD&ĐT, Sở GD&ĐT tổ chức, chúng tôi còn có những chuyên đề, hội thảo nhằm
10
nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết về tộc người Đan Lai cho giáo viên. Động
viên, vận động, tổ chức cho giáo viên học tiếng Đan Lai thông qua các hình thức:
Tổ chức cho giáo viên học tiếng Đan Lai do giáo viên người Đan Lai dạy; Giáo
viên học tiếng Đan Lai trong quá trình giao tiếp với học sinh; Giáo viên học tiếng
Đan Lai trong quá trình đi vận động học sinh, đi tuyên truyền chủ trương đường lối
chính sách; đi làm công tác phổ cập, dạy bổ túc văn hóa.
Để dạy tiếng Việt cho học sinh Đan Lai có hiệu quả, việc biết, hiểu phong
tục tập quán, những nét văn hóa của tộc người Đan Lai là hết sức quan trọng, để
tạo được sự gần gũi, thông cảm chia sẻ, chúng tôi thấy rằng giáo viên cần có một
vốn hiểu biết nhất định muốn có được điều đó bên cạnh sự tự giác học hỏi của giáo
viên, chúng tôi định hướng cho các đơn vị tổ chức cho giáo viên đến với bản làng
của người Đan lai để tận mắt thấy được những nét sinh hoạt đời thường nhất để tự
tìm hiểu phong tục tập quán và các nét sinh hoạt của họ.
4. Chỉ đạo đổi mới cách dạy theo hướng phù hợp với đối tượng học sinh.
4.1. Đổi mới cách dạy môn Ngữ văn cho học sinh Đan Lai.
Trên cơ sở các phương pháp dạy học tích cực đã được áp dụng, chúng tôi
thấy cần phải có sự đổi mới phương pháp dạy môn Ngữ văn Đan Lai theo hướng:
Trên cơ sở chuẩn kiến thức, kỹ năng giáo viên phải có phương pháp truyền thụ
càng đơn giản, càng cụ thể các em càng dễ tiếp thu, gắn kiến thức trong sách giáo
khoa vào cuộc sống thực tế của các em. Để rèn luyện và phát huy tính độc lập suy
nghĩ, khắc phục tâm lý rụt rè, ngại nói lên những suy nghĩ của các em học sinh.

Giáo viên trong quá trình giảng dạy phải đặc biệt chú trọng đến cho học sinh thực
hành và phải tạo ra cho học sinh những tình huống để các em tham gia đối thoại.
Thông thường dạy đối tượng học sinh Đan Lai giáo viên thường ngại cho học sinh
thực hành vì mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị hệ thống câu hỏi, bài tập và tổ
chức cho học sinh thực hành. Để khắc phục tình trạng này chúng tôi chỉ đạo giáo
viên cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp với mọi đối tượng học sinh, để đối
tượng học sinh nào cũng có thể tham gia vào đối thoại trên lớp, tham gia việc thực
hành trên lớp.
Tăng cường việc tổ chức thảo luận nhóm: Tổ chức cho các em tham gia
thảo luận và trình bày kết quả của nhóm sẽ không thực hiện như cách lâu nay giáo
viên vẫn thường áp dụng; Giải pháp chúng tôi đưa ra là: Một nhóm phải có 2 đối
tượng học sinh trong đó có học sinh Đan Lai, giáo viên sẽ yêu học sinh Đan Lai
luân phiên nhau trình bày kết quả của cả nhóm, nếu không trình bày được hoặc
trình bày không hết kết quả của nhóm, giáo viên tiếp tục gọi em khác, cách làm
này có thể lúc đầu sẽ gặp khó khăn và mất thời gian nhưng đây là cách tổ chức mà
tất cả các em trong nhóm đều phải làm việc và đều có cơ hội trình bày trước thầy
giáo và trước tập thể lớp điều mình và cả nhóm suy nghĩ.
4.2. Áp dụng hiệu quả phương pháp trực quan, sử dụng song ngữ trong quá
trình giảng dạy.
11
Đặc điểm của học sinh Đan Lai thường dùng những hình ảnh trực quan để
diễn tả những điều mà các em muốn nói, nắm bắt được đặc điểm tâm lý này, chúng
tôi quan niệm tiết dạy Ngữ văn giáo viên càng sử dụng có hiệu quả phương pháp
trực quan để các em quan sát, lắng nghe thì tính hiệu quả trong các tiết dạy văn bản
và tiếng Việt càng cao. Ví dụ: Dạy văn bản “Cô Tô”, các em học sinh Đan Lai
chưa bao giờ đến biển mà giáo viên cứ cố gắng tái hiện cảnh biển một cách trừu
tượng thông qua lời giảng thì chắc chắn rằng biển trong văn bản các em học sẽ
không khác gì cảnh bến sông quê hay ao làng nơi các em sống. Nếu dạy bài này
giáo viên kết hợp giảng từ ngữ và sử dụng máy chiếu tái hiện các hình ảnh của
biển trong cảnh “Mặt trời mọc trên biển” và một số cảnh khác để minh họa thì lời

giảng của giáo viên sẽ trở nên sinh động hơn đối với học sinh và các em sẽ hình
dung được phần nào đó khung cảnh của đảo, của biển cả trong những thời khắc
khác nhau; Hay khi dạy bài “Ca Huế trên sông Hương” giáo viên sử dụng máy
chiếu để cho học sinh thấy cảnh sông Hương, cảnh ca Huế trên sông Hương và
những làn điệu dân ca Huế, bài dạy sẽ trở nên sinh động và hấp dẫn các em hơn.
Chúng tôi khuyến khích giáo viên dạy tiếng Việt cho học sinh Đan Lai theo
phương pháp dạy tiếng Anh, bằng cách vừa sử dụng trực quan, vừa sử dụng băng
đĩa, vừa sử dụng song ngữ, đặc biệt là sử dụng song ngữ để dạy tiếng Việt cho học
sinh Đan Lai là một cách dạy hết sức cần thiết và đạt hiệu quả cao. Giáo viên sử
dụng song ngữ để đặt câu hỏi, để giải nghĩa những từ khó, để giải thích các khái
niệm
Ví dụ: Khi gặp các ngữ liệu trừu tượng, khó hiểu nếu giáo viên cứ giải
nghĩa bằng tiếng Việt thì học sinh rất khó hiểu, chỉ cần giáo viên vận dụng vốn
tiếng bản địa (Tiếng Đan Lai) để phiên âm sau đó giảng nghĩa thì các em sẽ nắm
bắt được một cách nhanh chóng hơn. Sau đây là một số ngữ liệu được phiên âm
trong quá trình dạy tiếng việt lớp 6.
Ngữ liệu trong sách giáo
khoa
Phiên âm tiếng Đan Lai
Nghĩa của ngữ liệu
(Dựa vào từ điển tiếng
Việt xuất bản năm 1992)
Sức trẻ Con nít mới bó xa chưa
nệ
Tuổi thanh xuân tràn đầy
sức sống
Khán giả Quân ấy đin Người xem biểu diễn
Qúi báu Đồ cổ cổ Có giá trị lớn, đáng được
coi trọng
12

Yêu thương Ưng nhau
Có tình cảm gắn bó tha
thiết và sự quan tâm hết
lòng
Với những ngữ liệu có ý nghĩa trừu tượng như thế, chúng ta khẳng định
rằng nếu không dùng song ngữ thì các em học sinh sẽ không hiểu hết được ý nghĩa
của một số từ của tiếng Việt.
Một vấn đề cần đổi phải đổi mới nữa trong phương pháp giảng dạy phân
môn tiếng Việt cho học sinh Đan Lai đó là sử dụng ngữ liệu và lựa chọn ngữ liệu
trong các tiết dạy tiếng Việt. Ngữ liệu trong sách giáo khoa tiếng Việt nhìn chung
đã đáp ứng được các vấn đề :
- Giúp học sinh hình thành các khái niệm.
- Hình thành và rèn luyện các kỹ năng.
- Tích hợp các kiến thức trong cùng phân môn, trong cùng bộ môn và các
môn học khác.
Nhưng có những ngữ liệu sách giáo khoa đang sử dụng quá xa với thực tế
cuộc sống của các em học sinh, chúng ta có thể thay thế bằng những ngữ liệu gần
gũi với các em hơn. Điều mà chúng tôi muốn khi đưa ra ý tưởng này trong quá
trình giảng dạy đó là:
- Tránh tình trạng tất cả các ngữ liệu trong sách giáo khoa đã được giải quyết
hết trong một tiết dạy.
- Lựa chọn được các ngữ liệu gần gũi với cuộc sống thực tế của các em.
- Nâng cao hiệu quả tích hợp giữa kiến thức trong sách giáo khoa với kiến
thức thực tế gần gũi với cuộc sống của các em (đây là một biện pháp để góp phần
đưa kiến thức văn chương trở về với cuộc sống, tăng thêm vốn sống cho học sinh).
5. Làm thay đổi cách học tiếng Việt cho học sinh.
Học sinh Đan lai thường thiếu sự chủ động, sáng tạo trong việc học tập
cũng như trong công việc. Vì thế để thay đổi cách học của học sinh Đan Lai trước
hết phải làm các em thích học môn Ngữ văn đây là một việc làm không thể một
sớm một chiều đem lại kết quả mà đòi hỏi các nhà quản lý, những giáo viên trực

tiếp giảng dạy kiên trì và thực sự có tình yêu thương, tinh thần trách nhiệm với học
sinh. Muốn vậy, phải làm cho các em không còn mặc cảm, không còn tâm lý tự ti,
các em phải được quan tâm, giúp đỡ để tạo không khí bình đẳng, hòa nhập trong
nhà trường. Có nhiều biện pháp có thể làm thay đổi cách học tiếng Việt của học
sinh, nhưng qua thực tế chúng tôi thấy có một số biện pháp sau có hiệu quả cao:
5.1. Như ở trên chúng tôi đã đề cập, giáo viên dạy tiếng Việt cho học Đan
Lai có thể vận dụng phương pháp dạy ngoại ngữ, nếu vậy cũng có thể hướng dẫn
các em học tiếng Việt theo cách học ngoại ngữ. Học sinh luyện phát âm để khắc
phục lỗi phát âm do thói quen bằng cách các em lắng nghe cách phát âm của thầy
13
giáo, cô giáo, các bạn để phát âm theo từ đó các em tiến tới luyện đọc; Học từ mới,
hiểu nghĩa từ mới qua việc đọc sách, báo, qua các phương tiện thông tin khác để
làm giàu vốn từ, có làm tốt hai nội dung này thì các em mới có thể tiếp cận để tìm
hiểu văn bản và tạo câu tiến tới tạo lập văn bản đơn giản.
5.2. Tổ chức các cuộc thi bằng nhiều hình thức có thể là một viết một bài
văn, một bức thư về những chủ đề được xác định như: Chủ đề về thầy cô nhân
ngày 20/11, chủ đề về mẹ nhân ngày 8/3…để các em rèn luyện khả năng dùng từ,
khả năng tạo lập văn bản. Tổ chức cho các em học sinh thi đọc diễn cảm mỗi năm
1 lần.
5.3. Phát động các em học sinh sưu tầm tục ngữ, ca dao, truyện dân gian, các
làn điệu dân ca của tộc người Đan Lai, hướng dẫn các em phiên âm ra tiếng Việt.
Tổ chức cho các em đọc, hát, kể những tác phẩm dân gian các em sưu tầm được ở
một số buổi phụ đạo, bồi dưỡng, ở một số buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp.
6. Công tác xã hội hoá giáo dục.
Để nâng cao chất lượng dạy và học tiếng việt cho học sinh Đan Lai một giải
pháp cần phải thực hiện có hiệu quả đó là công tác xã hội hoá giáo dục.
6.1 Vận động các tổ chức xã hội và cá nhân ủng hộ vật chất để nâng cao đời
sồng vật chất và tinh thần cho các em học sinh Đan Lai.
6.2 Vận động giáo và học sinh ủng hộ sách vở, quần áo để góp phần đảm
bảo việc các em học sinh Đan Lai đủ sách vở, đủ quần áo để đến trường.

6.3. Tham mưu với cấp uỷ chính quyền địa phương phát huy có hiệu quả hệ
thống truyền thanh ở các thôn bản, vận động nhân dân sử dụng nhiều hơn nữa tiếng
Việt trong sinh hoạt cộng đồng và trong sinh hoạt gia đình.
Để khảo nghiệm về tính cấp thiết và tính khả thi của một số biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai đã đề xuất, chúng tôi
đã lấy ý kiến đánh giá của cán bộ quản lý và GV ở trường các trường có học sinh
Đan Lai, cán bộ và phụ huynh học sinh thông qua các phiếu điều tra mở.
Kết quả thu được như sau (xem bảng tổng hợp):
Tổng số phiếu: 90.
Tổng số phiếu trả lời: 90.
Bảng phiếu thăm dò tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp đã
đề ra.
TT Tên biện pháp
Tính cấp thiết %
Tính khả thi
%
14
Rất
cần
thiết
Cần
thiết
Không
cần
thiết
Khả
thi
Không
khả thi
1 Tạo môi trường tiếng Việt.

55% 45% 0% 100% 0%
2
Công tác quản lý, chỉ đạo ở những
trường có học sinh Đan Lai.
61% 39% 0% 100% 0%
3
Công tác bồi dưỡng giáo viên để
nâng cao trình độ hiểu biết về tộc
người Đan Lai.
67% 33% 0% 100% 0%
4
Chỉ đạo đổi mới cách dạy, theo
hướng phù hợp với đối tượng học
sinh.
55% 45% 0% 85% 15%
5
Làm thay đổi cách học tiếng Việt
cho học sinh.
50,25
%
47,75
%
0% 99% 1%
6 Làm tốt công tác xã hội hoá giáo
dục
51% 49% 0% 90% 10%
Kết quả điều tra cho thấy:
- Về tính cấp thiết của biện pháp:
Nội dung trả lời: “ không cần” không có phiếu nào tỷ lệ 0%.
Nội dung: “rất cần” và “cần” có 100% ý kiến.Trong đó số phiếu trả lời “rất cần”

là trên 50%.
Như vậy các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt cho học
sinh Đan Lai là rất cần thiết.
- Về tính khả thi của biện pháp:
Xét về tính khả thi của các biện pháp, thì đa số ý kiến cho rằng: Các biện pháp
đề ra trong đề tài là có tính khả thi. Có từ 85% đến 100% số ý kiến đánh giá cao về
tính khả thi của các biện pháp mà đề tài đề xuất. Các chỉ số 1%, 10%, 15% ý kiến
chưa tán thành về tính khả thi của các biện pháp chứng tỏ rằng: Trong quá trình
thực hiện các biện pháp này cần có sự điều chỉnh và đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của
15
các nhà trường và sự phối hợp của các cấp lãnh đạo trong và ngoài ngành
GD&ĐT.
Qua phân tích ở trên, chúng ta thấy: “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai” được đề xuất trong đề tài là rất
cần thiết và phù hợp với việc quản lý chỉ đạo, dạy, học tiếng Việt trong các đơn vị
trường học có học sinh người dân tộc Đan Lai. Kết quả khảo nghiệm bước đầu cho
phép khẳng định tính đúng đắn của giả thuyết nghiên cứu; đồng thời bước đầu xác
nhận là các nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu của đề tài đã được thực hiện đầy đủ.
Sau một một thời gian áp dụng các giải pháp, kết quả thu được ở 5 trường
THCS Môn Sơn, THCS Lục Dạ, THCS Châu Khê, THCS Thạch Ngàn, THCS
Lạng Khê như sau:
Bảng thống kê chất lượng môn Ngữ văn của học sinh Đan Lai năm học
2010-2011:
Tổng
số
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL Tỷ lệ SL TL SL TL SL TL SL TL
153 1 0.65% 13 8.49% 65 42.48% 61 39,86% 13 8.49%
So sánh kết quả học tập môn Ngữ văn của năm học 2009-2010 (kết quả năm
2009-2010 đã nêu ở phần thực trạng) với năm học 2010-2011 chúng ta thấy:

Sau một thời gian áp dụng các giải pháp, chất lượng môn Ngữ văn của các
em học sinh Đan Lai đã có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ xếp loại giỏi tăng 0.65%;
Tỷ lệ xếp loại khá tăng 3.92%; Tỷ lệ xếp loại TB tăng 14,38%; Tỷ lệ xếp loại yếu
giảm 16.34%, Tỷ lệ xếp loại kém giảm 2.62%. Với kết quả này đã cho thấy tín
hiệu đáng để cho ta lạc quan nếu đội ngũ quản lý, đội ngũ giáo viên, các bậc phụ
huynh, cấp uỷ chính quyền các cấp và các lực lượng xã hội khác vào cuộc tích cực
hơn nữa thì khoảng cách về kỹ năng sử dụng tiếng Việt giữa học sinh Đan Lai với
các em học sinh của các dân tộc khác ngày càng thu hẹp lại.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, chúng tôi đã rút ra được một số
kết luận sau:
1.1.Con Cuông là một huyện miền núi cao, có nhiều dân tộc sinh sống trong
đó có dân tộc Đan Lai. Người Đan Lai thường sống ở đầu nguồn các con sông
hoặc khe suối là những nơi thuộc đại bàn đi lại khó khăn, đời sống kinh tế gặp. Tộc
16
người Đan Lai có trình độ dân trí thấp nhất so với các dân tộc khác trong vùng; họ
có những phong tục tập, quán lạc hậu. Người Đan Lai thường có tâm lý e dè, ngại
tiếp xúc vì thế trong quá trình tổ chức trường lớp, tổ chức cho học sinh Đan Lai
học tập tiếng Việt đang gặp nhiều khó khăn.
1.2. Nhận thức được muốn nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh dân
tộc thiểu số nói chung và học sinh Đan Lai nói riêng thì phải nâng cao chất lượng
dạy và học tiếng Việt cho các em. Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục nhưng tiếng Việt cũng lại là một trở ngại lớn cho các em
trong quá trình học tập và giao tiếp; từ thực trạng của việc dạy và học tiếng Việt
cho học sinh Đan Lai, phòng GD&ĐT, chuyên môn THCS đã chỉ đạo và tổ chức
tập huấn chuẩn kiến thức kỹ năng môn Ngữ văn, chỉ đạo các trường tổ chức hội
thảo, chuyên đề về đổi mới phương pháp; về dạy học tích cực; về các giải pháp dạy
và học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai cùng với các chuyên đề, hội thảo là những
tiết dạy thể nghiệm với mục đích tìm ra được các giải pháp phù hợp để từng bước

nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt cho học sinh Đan lai.
1.3. Để chất lượng dạy, học tiếng Việt cho các em học sinh Đan Lai ngày
càng chuyển biến tích cực, qua thực tế của công tác quản lý và giảng dạy chúng tôi
đã rút ra được một số giải pháp mang đặc thù riêng dành cho tộc người Đan Lai
trên địa bàn huyện Con Cuông:
- Tạo môi trường tiếng Việt hợp lý, lôi cuốn các em học sinh Đan Lai.
- Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo ở những trường có học sinh Đan Lai.
- Thực hiện tốt công tác bồi dưỡng giáo viên để nâng cao trình độ hiểu biết
và tiếng nói của tộc người Đan Lai.
- Chỉ đạo đổi mới cách dạy, theo hướng phù hợp với đối tượng học sinh.
- Làm thay đổi cách học tiếng Việt cho học sinh Đan Lai.
- Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục.
Với điều kiện thời gian có hạn, vốn hiểu biết về tộc người Đan Lai đang còn
hết sức hạn chế, nhất là khả năng của bản thân không thể đáp ứng được hết những
mong muốn trong ý tưởng. Những hạn chế trong khi thực hiện đề tài là điều không
thể tránh khỏi, chúng tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến góp ý để đề tài được
bổ sung sửa chữa ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục cho học sinh dân tộc nói chung và chất lượng dạy – học tiếng Việt
cho học sinh Đan Lai nói riêng. Nhân dịp này, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc
tới thầy giáo Nguyễn Hữu Quyền Chuyên viên Sở GD&ĐT tỉnh Nghệ An, Lãnh
đạo phòng GD&ĐT Con Cuông, Ban giám hiệu, giáo viên môn Ngữ văn các
trường THCS Môn Sơn, THCS Châu Khê, THCS Lục Dạ, THCS Lạng Khê, THCS
Thạch Ngàn đã động viên, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài.
17
Tác giả

Võ Như Hùng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Tham luận của trường THCS Châu Khê tại Hội thảo “ Dạy tiếng Việt cho
học sinh dân tộc thiểu số” tại Quỳ hợp.
2 Tham luận của trường THCS Châu Khê tại Hội thảo “ Dạy tiếng Việt cho
học sinh dân tộc Đan Lai” tại Môn Sơn, Con Cuông.
3 Tham luận của trường THCS Môn Sơn tại Hội thảo “Dạy tiếng Việt cho
học sinh dân tộc Đan Lai” tại Môn Sơn, Con Cuông.
4 Tham luận của trường THCS Lục Dạ tại Hội thảo “Dạy tiếng Việt cho học
sinh dân tộc Đan Lai” tại Môn Sơn, Con Cuông.
5 Tham luận của trường THCS Lạng Khê tại Hội thảo “Dạy tiếng Việt cho
học sinh dân tộc Đan Lai” tại Môn Sơn, Con Cuông.
6 Tham luận của trường THCS Thạch Ngàn tại Hội thảo “Dạy tiếng Việt cho
học sinh dân tộc Đan Lai” tại Môn Sơn, Con Cuông.
7 Đề án “Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người Đan Lai” ngày
19/12/2006.

8 QĐ 2123/QĐ-TTg ngày 22/11/2010 V/v phê duyệt Đề án “Phát triển giáo
dục cho các tộc đặc biệt ít người”.
18
19

×