Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN một vài BIỆN PHÁP TRONG VIỆC CHUẨN bị CHO TRẺ vào lớp 1 TRƯỜNG TIỂU học KIÊN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.63 KB, 14 trang )

MỘT VÀI BIỆN PHÁP TRONG VIỆC CHUẨN BỊ
CHO TRẺ VÀO LỚP MỘT
I Đặt vấn đề:
1. Cơ sở pháp lí
Theo Luật Giáocdục, Giáo dục mầm non có mục tiêu hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân cách cho trẻ mầm non và được chuẩn bị
cho trẻ vào lớp một. Kết quả chăm sóc, giáo dục của trường mẫu giáo,
phản ánh khi trẻ vào lớp một tiểu học và rõ nét nhất là giai đoạn đầu lớp
1.Nghiên cứu phân tích, đánh giá khả năng đầu lớp 1 qua các lĩnh vực:
phát triển nhận thức, phát triển ngơn ngữ, phát triển tình cảm xã hội giúp
chúng ta có cơ sở đề xuất những biện pháp tác động đến 3 môi trường
giáo dục (nhà trường, gia đình, xã hội) nhằm nâng cao hơn kết quả chuẩn
bị cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi vào lớp 1; đáp ứng tốt mục tiêu giáo dục
tiểu học mới theo tinh thần Nghị quyết 40/NQ-QH của Quốc hội về đổi
mới chương trình giáo dục phổ thơng, đồng thời góp phần làm rõ mối
quan hệ liên thơng giữa mục tiêu giáo dục mầm non với mục tiêu giáo
dục tiểu học cũng như vai trò của mục tiêu giáo dục mầm non với mục
tiêu giáo dục tiểu học theo tinh thần Luật giáo dục 2005.
Thực hiện Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 5 tháng 2 năm 2010
của Chính phủ về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi là điều kiện
thuận lợi cho việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
Trường mầm non là môi trường quan trọng để giúp trẻ có một tâm
thế sẵn sàng bước vào lớp 1. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ


phát triển toàn diện các lĩnh vực: phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ vào lớp 1, hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực
và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp
với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt
nền tảng cho việc học ở cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời.


2. Cơ sở thực tiển
Ở mẫu giáo, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi khi
lên tiểu học hoạt động chủ đạo là học, việc này gây nhiều khó khăn đối
với trẻ, nhất là tâm lí. Nếu tâm lí trẻ phát triển đúng hướng thì việc học
sẽ dể dàng hơn. Việc phát triền tâm lí giai đoạn này rất quan trọng, do đó
cần có sự hỗ trợ của người lớn.
Cuối độ tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu có ý thức thích độc lập, muốn tự
minh hành động, vì thế có những tình cảm như: ấm ức, khó chịu vì người
lớn khơng cịn thương u chăm sóc trẻ như trước, trẻ cảm thấy hụt hẵng
khi khơng cịn được người lớn giúp đở. Tâm lí xáo trộn, khiến trẻ có thể
vừa khóc vừa cười, thậm chí đang khóc rất to chuyển sang cười ngay, trẻ
lúc này cũng biết thắng thua, được mất. Các tình huống cụ thể có sức hấp
dẫn trẻ, trẻ rất thích được xem phim hoạt hình, múa rối, truyện tranh…
Trẻ rất nhạy cảm hay tủi thân, cũngng rất hoạt bát và hiếu động
khơng thích ngồi một chổ, chỉ thích được tự do chạy nhảy. Ở tuổi này
tình mẹ con, tình thương của người thân, cơ giáo liên quan đến nhu cầu
giao lưu của trẻ. Hiếu kỳ là bản tính tự nhiên giúp trẻ khám pha những


điều mới lạ xung quanh trẻ. Trẻ khám phá là cách tốt nhất để có kiến
thức, biết tư duy và đó là nền tảng của học vấn sau này.
Thơng qua các hoạt động thực tế của trẻ ở lức tuổi này như: hỏi
han, thăm dị, tìm hiểu, phát hiện cái mới và nhận thức cái mới. Cho nên
các bật cha mẹ, người lớn nên vui vẻ trả lời các câu hỏi của trẻ, chăm
chú theo dõi trẻ và không nên chỉ “ừ, hữ” cho qua chuyện. Nếu trẻ không
được thỏa mãn, khơng được nhận lời giải thích xác đáng thì ttrẻ sẽ mất đi
tính nhiệt tình tìm hiểu, khám phá hiện tượng sự vật xung quanh. Ở giai
đoạn này trẻ tưởng tượng phong phú, trẻ có thể dựa vào một truyện nào
đó để kể ra truyện khác thật sáng tạo, hay các sự kiện diễn ra hàng ngày
xung quanh trẻ, trẻ có thể hỏi những câu thật ngây ngơ, buồn cười…

Sự thay đổi giữa mơi trường gia đình và trường học có tác động
khơng nhỏ tới q trình phát triển tâm lí trẻ. Có thể nhận thấy một cách
rõ ràng về mặt cảm xúc, những trẻ ở lứa tuổi chuẩn bị vào lớp 1 còn phụ
thuộc nhiều vào người lớn. Khi đến trường đối diện với khung cảnh xa
lạ, nề nấp sinh hoạt mới, cô giáo và bạn bè mới thường để lại cho trẻ
những dấu ấn không dễ chịu chút nào và đó chính là nguồn ngun nhân
trẻ lo lắng.
Vì vậy chúng ta phải chuẩn bị thế nào để trẻ đạt hiệu quả cao trong
học tập ? Các bậc cha mẹ nên hiểu rắng, chuẩn bị cho trẻ bước vào lớp 1
là một nhiệm vụ lâu dài. Vì để bồi dưỡng trẻ có khả năng học tập, có thói
quen học tập và niềm thích thú với việc học cũng như khả năng tham gia
vào các hoạt động tập thể là cả một quá trình. Trẻ phải được thay đổi từ
việc lấy các hoạt động vui chơi ở lớp mẫu giáo là chính chuyển sang việc


tập trung vào học tập khi bước vào cuộc sống của học sinh tiểu học. Thế
nên cần phải chuẩn bị đầy đủ cho trẻ về các mặt như: thể chất, trí tuệ,
tâm lí, ngơn ngữ, các thói quen sinh hoạt sinh hoạt để trẻ có thể dể dàng
đón nhận những thay đổi mới trong cuộc sống.
II. Thực trạng:
1. Thuận lợi:
Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ
Giáo dục Đào tạo yêu cầu nội dung giáo dục mầm non:
Đảm bảo tính khoa học tính vừa sức và nguyên tắc đồng tâm phát
triển từ dễ đến khó, đảm bảo tính lien thơng giữa các độ tuổi, giữa nhà
trẻ, mẫu giáo và cấp tiểu học; thống nhất giữa nội dung giáo dục với
cuộc sống hiện thực, gắn với cuộc sống kinh nghiệm của trẻ, chuẩn bị
cho trẻ từng bước hòa nhập vào cuộc sống.
Phù hợp với sự pháp triển tâm sinh lí của trẻ em, hài hịa giữa ni
dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giúp trẻ phát triển cơ thể cân đối, khỏe

mạnh, nhanh nhẹn; cung cấp kỹ năng sống phù hợp; giúp trẻ em biết
kinh trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy giáo, cô giáo; thật
thà, mạnh dạn, tự tin và hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết,
thích đi học.
Mục tiêu Quyết định 239/QĐ-TTg ngày 9 tháng 2 năm 2010 của
Thủ tướng Chính phủ. Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi ở mọi vùng miền
được đến lớp để thực hiện chăm sóc giáo dục 2buổi/ngày, đủ một năm


học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt
và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng cho trẻ em vào lớp 1.
Cùng việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non Bộ ban hành
chương trình cho trẻ vùng khó tạo điều kiện cho giáo viên ở các vùng
đặc biệt khó khăn thực hiện việc chăm sóc giáo dục trẻ trong độ tuổi
mầm non và chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào lớp 1.
Cùng với quá trình phát kinh tế xã hội của đất nước, ý thức của
người dân được nâng lên việc đưa trẻ đến các trường mẫu giáo, mầm non
ngày càng nhiều càng thuận lợi hơn trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp
1 mà còn tổ chức các buổi tun truyền đạt hiêu quả.
2. Khó khăn:
Tâm lí trẻ rất sợ môi trường mới, thầy, cô lạ, trẻ dể nảy sinh cảm
giác sợ cái mới và sợ bị trơ trọi mơt mình. Thay đổi mơi trường, tâm lí
cũng thay đổi khiến trẻ dể bị sốc hay có phản ứng tự vệ hoặc thu mình lại
một gốc ngồi quan sát mọi người xung quanh.
Do cha mẹ thường yêu cầu trẻ quá cao: con cố gắng đạt điểm cao,
làm bài tập đầy đủ nếu không cô phạt, bạn bè trêu chọc.
Sự thay đổi đột ngột từ chơi sang học, trẻ không còn được tự do vui
chơi mà phải dậy từ sớm chuẩn bị đầy đủ cập sách và dụng cụ học tập
trước khi đến lớp. Đến trường phải tuân thủ theo nội quy của trường
khơng được nói chuyện riêng, ra chơi đúng giờ, vào học nghiêm túc. Các

bậc phụ huynh muốn con mình chăm ngoan nên gây áp lực với trẻ, bắt
trẻ phải tuân thủ hàng loạt nội quy, quy định của nhà trường của gia đình


gây ảnh hưởng nhiều đến tâm lí trẻ là cho trẻ vừa sợ vừa lo làm ảnh
hưởng xấu với cho việc học sau này.
Một số trẻ được học trước chương trình lớp 1 thì việc đưa trẻ đến
trường tiểu học không gây nhiều trở ngại. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này trẻ
thích được khám và tìm hiểu cái mới lạ, những điều chưa biết. Do đó
việc cung cấp khiến thức cho trẻ ở lớp 1 đã làm trẻ nhàm chán, khơng
chú ý, dần dần thói quen khơng chú ý được hình thành. Điều này ảnh
hưởng xấu đến khả năng tiếp thu, thói quen học tập của trẻ.
Các bậc phụ huynh có xu hướng bà trơng cháu, chị trơng em. Vì
khơng cần học xong chương trình mầm non trẻ vẩn vào được lớp 1, hay
gửi trẻ váo điểm giử trẻ gia đình nào đó để tiện đi làm mà khơng quan
tâm đến chế độ dinh dưỡng nhu cầu phát triển sức khỏe và trí tuệ cho trẻ.
Họ ln nghĩ rằng trẻ đến trường mầm non chỉ được múa hát vui chơi…
chứ khơng có các hoạt động giúp trẻ rèn luyện khả năng học tập ở bậc
tiểu học. Đa số trẻ không học ở các trường mẫu giáo, mầm non nên ngay
ngày đầu trẻ đến trường trẻ rất sợi bị bỏ rơi, sợ chổ đơng người mà lại có
rất nhiều người lạ, với bao nhiêu quy định, nào là đi học đúng giờ, ngồi
ngay ngắn nghe giảng, làm bài tập ở lớp, bài vế nhà… Trẻ khơng cịn
được tự do vui chơi như trước. Điều này làm trẻ sợ đến trường vào ngày
hơm sau và những ngày tiếp theo.
Trước những khó khăn đối với các bậc phụ huynh và nhiều áp lực
đối với trẻ khi trẻ vào học lớp 1. Để khắc phục vấn đề này, Tôi đề ra một
số biện pháp cụ thể yêu cầu giáo viên thực hiện để giúp các cháu tự tin
hơn cho những ngày đầu tiên bước váo lớp 1.



III.Giải pháp và kết quả:
Vào lớp 1 là bước ngoặt lớn trong cuộc đời của mỗi trẻ. Trẻ đang
từ cuộc sống khá thoải mái về thời gian cũng như tinh thần, bé chuyển
qua mơi trường mới địi hỏi “làm việc”một cách thật sự phải tập trung
chú ý trong một tiết học dài. Vào những tuần lễ đầu thật là khó với bé.
1.Giải pháp:
- Chuẩn bị sức khỏe cho trẻ: Không đơn thuần là sự chuẩn bị về
lượng chiều cao và trong lượng cơ thể mà còn sự chuẩn bị về chất, năng
lực làm việc bền bỉ, dẻo dai, có khả năng chống lại mệt mỏi của thần
kinh, cơ bắp, độ khéo léo của bàn tay, tính nhanh nhạy của các giác
quan. Sự dẻo dai, bền bỉ để không bị mệt mỏi khi trẻ học liên tục cả buổi,
cả ngày. Để có được những tư chất đó cần tạo một chế độ sinh hoạt, ăn
uống nghỉ ngơi, luyện tập… cho trẻ một cách khoa học và hợp lý cả về
mặt thời gian cũng như phù hợp với đặc điểm phát triển riêng của từng
trẻ. Giáo dục trẻ biết được các dinh dưỡng sự cần thiết của các chất dinh
dưỡng đối với cơ thể VD: ăn đu đủ có nhiều vitamin A giúp cho mắt
sáng và tốt cho hệ tiêu hóa; Rau xanh khơng những cung cấp nhiều
vitamin mà cịn rất hữu ích cho sự phát triển bộ não cho trẻ. Giáo viên và
cha mẹ trẻ có những hiểu biết về những nhu cầu của trẻtrong chế độ dinh
dưỡng và nguồn thực phẩm an, toàn bổ dưỡng, đáp ứng cùng với hương
vị thơm ngon sẽ khuyến khích trẻ ăn với và tiếp nhận đầy đủ các chất
dinh dưỡng cân đối và hợp lý.


Để có những phẩn chất đó cần tao cho trẻ chế độ sinh hoạt, ăn
uống, nghỉ ngơi, luyện tập cho trẻ một cách khoa học, hợp lí cả thời gian
cũng như phù hợp đặc điểm phát triển riêng của từng trẻ.
Chuẩn bị tâm lý cho trẻ: Hằng năm phòng mầm non có kế hoạch
mở các lớp tập huấn nâng cao kỹ năng tuyên truyền cho cán bộ, giáo
viên thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giúp phụ huynh hiểu rõ hơn sự

cần thiết rèn luyện tính tự giác, tích cực, tâm lí sẵn sàng đi học hơn là
yêu cầu trẻ phải có điểm 10 mỗi tháng.
Chỉ đạo Ban giám hiệu các trường mầm non, mẫu giáo tổ chức cho
trẻ mẫu giáo 5 tuổi được tham quan trường tiểu học ít nhất hai lần trong
năm, trẻ được tham quan phòng học, các phòng chức năng, sân chơi đặt
biệt là trẻ tham gia vào một giờ học cùng anh chị lớp 1. Đối với trẻ năm
tuổi chưa được đến trường mẫu giáo, nhà trường có kế hoạch tổ chức
tuyên truyền vận động các bậc cha mẹ dẫn trẻ đến trường tiểu học, trò
chuyện với trẻ về các họat động học tập của anh, chị trong gia đình và
người thân. Giúp trẻ hiểu được nhiệm vụ học tập ở trường tiểu học, cùng
trẻ xây dựng thời gian biểu cho cá nhân và cùng trẻ thực hiện hay động
viên trẻ thực hiện với các trẻ cùng tuổi ở trong xóm – Tạo cho trẻ có mối
quan hệ trong cộng đồng, giúp trẻ tham gia các hoạt động tập thể, tạo
tình huống cho trẻ trao đổi phân cơng nhiệm vụ cho từng thành viên,
khuyến khích tất cả trẻ cùng tham gia, cùng nhận xét sản phẩm làm ra.
Tạo cơ hội cho trẻ nhận kết quả của việc đã làm hướng khắc phục những
việc chưa làm được. Bằng những lời động viên của cô, của mẹ để trẻ có
kế hoạch tiếp theo sắp xếp khoa học hơn và sáng tạo hơn. Giáo viên, cha


mẹ trẻ phải là tấm gương trong thực hiện kế hoạch giúp trẻ hiểu được
những khó khăn và thuận lợi khi đến trường tiểu học.
Giáo viên và phụ huynh không gây áp lực cho trẻ mà phải nhẹ
nhàng, ân cần, gần gũi trẻ, tạo cho trẻ tâm lí mỗi ngày đến trường là một
niềm vui. Ngoài ra cũng cần khen trẻ, một lời khen, khuyến khích đúng
lúc có tác dụng tích cực giúp trẻ tự tin hơn khi đến trường.
Chuẩn ngôn ngữ cho trẻ : Đây là tiền đề quan trọng chuẩn bị tốt
cho trẻ vào lớp 1, không gây trở ngại việc hình thành và phát triển nhân
cách cho trẻ. Phụ huynh nên rèn luyện trẻ kỹ năng giao tiếp, ở trường
giáo viên mầm non cũng cần chú trọng phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Trong việc giao tiếp là việc nói tốt tiếng mẹ đẻ có thể nói là quan trọng
cho việc trẻ học đọc, học viết khi vào lớp 1. Thực tế cho thấy, trẻ muốn
giỏi các môn khác thì trước tiên phải giỏi mơn tiếng Việt. Ở trường mầm
non, giáo viên mở rộng vốn từ những gì gần gũi, thân yêu nhất cho trẻ,
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Ở nhà cha mẹ có thể ôn lại những
bài học đó cho con hoặc bằng những thực tiễn cuộc sống hằng ngày cha
mẹ giúp trẻ phát triển kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong cuộc sống. Nói
chuyện với con cắt nghĩa của từ cho con hiểu là sự chuẩn bị tốt cho việc
đọc, viết ở lớp 1của trẻ. Vì chúng ta biết “ngơn ngữ là phương tiện hình
thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Ngôn ngữ
là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, đồng thời ngơn
ngữ là cơng cụ giúp trẻ hịa nhập cơng đồng”. Cha mẹ phải tạo cho con
lòng tự tin, ý thức kỷ luật, hành vi văn minh ,tình thương với mọi người,
biết chăm sóc vật ni cây cảnh, thương u giúp đỡ mọi người và có ý


thức giữ gìn của cơng…Đó là những việc đơn giản nhưng thiết thực để
hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở bậc học tiếp theo. Không cho trẻ học
trước chương trình lớp 1 mà chỉ cho trẻ phát âm, tơ đúng 29 chữ cái
trong chương trình mẫu giáo, rèn luyện cơ tay, phối hợp các trò chơi vận
động giúp cho cơ thể dẻo dai và đôi tay kéo léo sau này.
Giáo dục cho trẻ có ý thức về bản thân như đặt các câu hỏi để khích
thích trẻ biểu lộ những suy nghĩ, cảm xúc của mình thơng qua tranh ảnh,
hình vẽ, thơ, truỵên. Khuyến khích trẻ tổ chức các trò chơi đặc biệt là trò
chơi phân vai theo chủ đề. Giáo dục trẻ có thói quen tự phục vụ bản thân.
Giúp trẻ tự lựa chọn và tự tham gia các hoạt động chơi nhằm phát
triển tính tự tin, tự lực và sáng tạo của trẻ.
Giúp trẻ ham học bằng cách thiết kế những hoạt động thú vị vui
nhộn, vừa sức cho trẻ như xếp hình, nấu ăn, gieo hạt và quan sát sự lớn
lên của cây.

Giáo dục trẻ ý thức chấp hành nội qui,qui định ở trường, ở lớp,
những nơi cơng cộng, chấp hành luật an tồn giao thơng.
Giáo dục trẻ ý thức và thái độ cư xử phù hợp đối với người thân
trong gia đình như ơng, bà, cha, mẹ, chú, bác, anh, chị em.
Giáo dục trẻ tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, cô giáo và
những người lớn khác trong trường mầm non giúp trẻ có những hiểu biết
về lớp 1, về các mối quan hệ giữa bạn bè, thầy cơ giáo từ đó kích thích
lịng mong mỏi, hào hứng được đến trường học hỏi của trẻ.
Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng giúp trẻ phát triển trí tuệ, tiếp
thu kiến thức học tập ở trường phổ thơng. Hình thành và phát triển kỹ


năng nghe, nói, tiền đọc, tiền viết cho trẻ là nền tảng để trẻ hiểu về thế
giới chữ viết và tiếp nhận nhiều tri thức mới.
Chuẩn bị đức tính, kỹ năng thói quen cần thiết: Các bậc phụ huynh
và giáo viên cần cân nhắc để có sự cân bằng trong cách quản lí trẻ ở lớp,
ở gia đình. Bên cạnh sự quan tâm lo lắng cũng cần cho trẻ quyền tự do
để trẻ có thể tự phát triiển được và cũng giúp trẻ nhanh nhẹn, hoạt bát,
lạc quan trong giao tiếp trong xã hội.
Đối với lớp 5 tuổi, giáo viên cần duy trì sổ nhật kí. Muốn trẻ phát
triển tồn diện thì giáo viên cần nắm rõ tính cách, sở thích của từng trẻ
để kịp thời điều chỉnh, bổ sung cho kế hoạch giáo dục tiếp theo. Ví dụ
rèn luyện tính kiên nhẫn cho trẻ thì cần ghi laị thời mà trẻ chờ đợi, ghi lại
quá trình hoạt động của trẻ vì trong việc thực hiện các bài tập rèn tính
kiên nhẫn thường thì giáo đưa ra giải thưởng theo ý trẻ thích, giao cho
bài tập khi hịan thành trẻ được nhận phần thưởng đó. Giám sát trẻ phải
hồn thành bài tập bằng chính năng lực của trẻ. Giáo viên cần khích lệ
trẻ bằng những lời khen đúng lúc và tặng cho trẻ phần thưởng đó. Điều
này giúp trẻ hào hứng hơn, tự tin hơn khi hoàn thành nhiệm vụ một cách
xuất sắc. Việc dạy trẻ biết chờ đợi rất có ích vì nó giúp trẻ hiểu được ý

nghĩa của thời gian, rèn tính nhẫn nại và cần cố gắng hồn thành tốt
nhiệm vụ mà người lớn giao.
Rèn tính tự tin cho trẻ: Giáo viên cần hiểu được mục đích chơi ở
trường mẫu giáo là “học mà chơi, chơi mà học để khi chuyển đến trường
tiểu học nhiệm vụ chính là “học tập”, không đặt nặng vấn đề điểm 10 mà
hãy trò chuyện với trẻ như người bạn giúp trẻ hiểu được trẻ đã lớn


“người lớn” điều này giúp trẻ tự tin, tự giải quyết mọi việc như ngươi lớn
và là học sinh tiểu học, tuyệt đối không được dung việc vào lớp 1 dọa nạt
trẻ tạo áp lực cho trẻ.
Rèn luyện cho trẻ tính tự lập: Tập cho trẻ thói quen tự phục vụ từ
hành động đế suy nghĩ VD: Chơi xong tự cất đơ chơi; Khi trẻ cảm thấy
trời nóng trẻ nghĩ đế việc bỏ nón, cởi bớt áo…Chúng ta ln ln chú ý
quan sát và tham gia cùng trẻ để trẻ tự tin hơn thực hiện mọi việc phục
vụ cho bản thân, giúp đỡ mọi người xung quanh và là điều kiện thích
ứng với cuộc sống sau này của trẻ. Nhà trường và gia đình cần phối hợp
chặt chẽ trong việc hình thành nhân cách cho trẻ, nên nhẫn nai trả lời các
câu hỏi của trẻ, đừng bao giờ trả lời rằng “ con còn nhỏ, lớn lên tự nhiên
con sẽ biết” trả lời hết các câu trẻ hỏi giúp trẻ bày tỏ suy nghĩ, tính tị mị
ham tìm hiểu của trẻ, trả lời trẻ tạo sự gần gũi với trẻ tạo hứng thú cho
trẻ quan sát mọi vật xung quanh và khả năng sáng tạo của trẻ sau này.
Ngoài những kỹ năng trẻ được rèn luyện trong trường mẫu giáo thì
cịn một số kỹ năng cần thiết chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1: trẻ biết chào hỏi
người lớn một cách lễ phép mà không chờ cha mẹ nhắc, trẻ biết cách tự
sắp xếp góc riêng của mình nếu bày ra thì phải dọn, trẻ biết làm chủ
được chính mình khi hịa nhập với mơi trường tập thể …
2. Kết quả:
Chuẩn bị tâm thế sẵn sàng cho trẻ vào lớp 1 là việc làm cần thiết,
địi hỏi sự kiên trì của giáo viên, phụ huynh và toàn xã quan tâm thực

hiện nghiêm túc. Giúp trẻ phát triển tốt cả về thể lực và trí tuệ. Vì thế
việc tun tryuền của cô giáo mầm non vô cùng quan trọng, giúp các bậc


cha mẹ có ý thức hơn trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. Ngoài việc
thực hiện tốt nhiệm vụ giáo còn phối hợp tốt với phụ huynh và cộng
động áp dụng các biện pháp phù hợp giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1.
Bằng các biên pháp trên tơi thấy rằng 100% trẻ đã có tâm lí sẵn sàng vào
lớp 1, giao tiếp tốt với các bạn học cùng lớp, cùng trường. Lễ phép với
người lớn, thương yêu giúp đỡ các em nhỏ, biết tập trung chú ý trong giờ
học, có các kỹ năng cần thiết giúp trẻ háo hức và tự tin trong những ngày
đầu vào lớp 1, thực hiện nhiện vụ học tập đạt hiệu quả hơn.
III. Bài học kinh nghiệm:
Để giúp trẻ bước vào trường tiểu học một các hiệu quả, cần chuẩn
bị toàn diện về thể lực, trí tuệ, giao tiếp, ứng xử và một số phẩm chất tâm
lí, kĩ năng cần thiết trong hoạt động học tập bằng các phương pháp phù
hợp với sự phát triển của trẻ, cùng với sự thống nhất với gia đình và
trường mầm non.
Việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một được tiến hành thường xuyên
liên tục, từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp thông qua trò chơi hay
các thao tác hấp dẫn mà trẻ yêu thích
Chuẩn bị cho trẻ học đọc, học viết, làm toán bằng cách kết hợp với
cha mẹ trẻ. Gơi ý những cách mà họ có thể giúp trẻ ở nhà bằng nhiều
hoạt động phù hợp với điều kiên của họ.
Tuyệt đối khơng nơn nóng áp đặt trẻ, ép trẻ học trước những gì trẻ
sẽ học một cách bài bản ở trường tiểu học sau này. Điều đó sẽ gây cho
trẻ những chán nản, chủ quan chểnh mảng dẫn đến mất hết hứng thú học


tập ngay từ những buổi học đầu, gây khơng ít khó khăn cho giáo viên

tiểu học trong việc khắc phục, uốn nắn những sai sầm mà trẻ mắc phải.
Tổ chức tập huấn công tác tuyên truyền cho giáo viên, mỏi giáo
viên là một tuyên truyền viên giỏi. Thực hiện công tác tuyên truyền trong
cộng đồng về việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, đặc biệt là chuẩn bị về tâm
lí và ngơn ngữ.
Kiên Giang, ngày 20 tháng 5
năm 2012
Người viết

Trần Ngọc Thạch

Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định 239/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về PCGDMN cho
trẻ 5 tuổi.
2. Thơng tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ
Giáo dục Đào tạo về thực hiện chương trình GDMN.



×