Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

skkn sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dậy học lịch sử việt nam giai đoạn 1919-1975 ở các trường trung học phổ thông bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.07 KB, 51 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH BẮC GIANG
TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG

BÁO CÁO KẾT QUẢ THỰC HIỆN
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

SỬ DỤNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1919 - 1975
Ở CÁC TRƯỜNG THPT TỈNH BẮC GIANG

Tên đề tài:

Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Thu Thủy
Cơ quan chủ trì: Trường THPT Chuyên Bắc Giang
Thời gian thực hiện đề tài: Tháng 2 đến tháng 11 năm 2014

Bắc Giang tháng 11 năm 2014


I. KHÁI QUÁT, NHỮNG THÔNG TIN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
a. Cơ sở lý luận:
Trong xu thế hội nhập thế giới hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa, giáo
dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho thế hệ trẻ được chú trọng. Nghị quyết
Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi bàn về công tác giáo dục đã chỉ
rõ, phải “...lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo
dục cơng dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa
dân tộc; ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ đất nước...” (Văn
kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII)


Lịch sử địa phương là một bộ phận hữu cơ của LSDT, bất cứ một sự kiện
nào của lịch sử dân tộc đều diễn ra ở một địa phương cụ thể với thời gian,
không gian nhất định. Tùy quy mơ, tính chất phản ánh mà sự kiện ảnh hưởng
đến phạm vi của từng địa phương, cả nước và thậm chí mang tầm thế giới. Tri
thức LSĐP là một bộ phận hợp thành, là một biểu hiện cụ thể và phong phú
của tri thức LSDT. Nó chứng minh sự phát triển hợp quy luật của mỗi địa
phương trong sự phát triển chung của cả nước. Như vậy khơng có nghĩa tri
thức LSVN chỉ là phép cộng đơn giản tri thức lịch sử các địa phương mà việc
nhận thức LSVN phải được hình thành trên nền tảng hệ thống tri thức LSĐP
đa dạng đã được tổng hợp, khái quát ở mức độ cao. Do đó, việc dạy học
LSVN và LSĐP có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Xuất phát từ những nhận thức đó, có thể khẳng định rằng việc sử dụng tài
liệu LSĐP trong dạy học LSVN là cần thiết ở nhà trường phổ thông, có ý nghĩa
lớn, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn “Những chất liệu lịch
sử địa phương sẽ làm cho bài học về lịch sử dân tộc, thậm chí cả lịch sử thế giới
thêm sống động, cụ thể và thực hơn, tạo nên những xúc cảm thật của HS hoặc
thầy giáo trong mỗi bài học lịch sử”. Bởi vì, sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy
học LSVN giúp HS có sự hình dung đa dạng về q khứ, tạo được biểu tượng
sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó các em có thể dễ
1


dàng lĩnh hội các thuật ngữ, hình thành các khái niệm lịch sử, nắm được những
kết luận khoa học mang tính khái qt. Mặt khác, nó cịn có tác dụng trong việc
giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cho HS. Mỗi sự kiện LSĐP đều gắn liền
với tên đất, tên người cụ thể, gần gũi với cuộc sống, qua đó mà gợi ở các em
niềm tự hào, lịng biết ơn, góp phần bồi dưỡng tình u q hương, đây cũng là
cội nguồn của lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Trong dạy học LSVN, việc sử
dụng các nguồn tài liệu lịch sử dịa phương còn giúp HS thấy được mối quan hệ
giữa cái chung, cái riêng; cái phổ biến, cái đặc thù... Qua đó góp phần phát triển

tư duy cho HS.
b. Cơ sở thực tiễn
Việc sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSVN ở các trường phổ thông
hiện nay, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng vẫn cịn nhiều hạn chế, ví như: tài liệu
LSĐP sưu tầm, lưu giữ trong các trường phổ thơng nghèo nàn. Nếu có sử dụng
cũng chỉ dừng ở mức độ minh họa, làm rõ thêm các sự kiện chứ chưa xem đây là
nguồn kiến thức cần phải có trong mỗi bài giảng. Kiến thức LSĐP chỉ được sử
dụng trong các tiết LSĐP theo quy định của chương trình. Vì vậy, chưa nâng
cao chất lượng giáo dục bộ môn lịch sử, chưa tạo ra mối gắn kết tình cảm, xác
định trách nhiệm của HS đối với q hương.
Ngun nhân của tình hình đó có nhiều; song chủ yếu là do GV chưa xem
việc sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT là cần thiết, còn lúng túng trong
xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, thời lượng và mức độ vận dụng vào việc
dạy học từng bài cụ thể. Vì vậy, khi dạy học LSDT sẽ khó tận dụng được sự
phong phú, tính đa dạng của các nguồn tài liệu LSĐP để hiểu rõ hơn LSDT. Vấn
đề đặt ra là làm thế nào để HS có hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về LSDT, lịch sử của
mảnh đất, con người nơi các em sinh ra, lớn lên? Làm sao để khi tiến hành bài
giảng, GV có thể kết hợp một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo giữa tri thức LSĐP
với LSDT? Đây là một yêu cầu cần chú ý trong dạy học LSDT hiện nay.
Bắc Giang là vùng đất có bề dày lịch sử. Kể từ khi Thục Phán sáng lập
nước Âu Lạc, Kế tục nước Văn Lang của các vua Hùng, Bắc Giang đã xuất hiện
trên bản đồ đất nước. Trải qua các biến cố và thăng trầm của lịch sử, con người
2


trên mảnh đất này đều thể hiện phẩm chất tài hoa, thông minh mà vẫn khiêm
nhường, lịch lãm. Là “phên dậu” (lời Nguyễn Trãi), là một trong “tứ trấn” trọng
yếu của đất nước, chính vì vậy miền đất này là nơi ngăn chặn, là chiến trường
của các cuộc chiến đấu của quân và dân nước ta chống lại những cuộc xâm lăng
của các triều đại phong kiến phương Bắc.

Từ giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược, bọn vua quan nhà
Nguyễn ươn hèn đầu hàng dâng nước ta cho thực dân Pháp.
Nước mất, nhưng nhân dân Bắc Giang không đầu hàng địch. Nhiều cuộc
khởi nghĩa liên tiếp nổ ra chống lại thực dân Pháp mà điển hình nhất, tập trung
nhất là cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế
kéo dài ngót 30 năm. Sau thất bại của khởi nghĩa Yên Thế, phong trào đấu tranh
của nhân dân Bắc Giang chống ách thống trị của thực dân Pháp có lúc âm ỉ, có
lúc bùng lên tập hợp xung quanh tổ chức Việt Nam dân quốc của Nguyễn Khắc
Nhu, rồi Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Cũng lúc này ánh
sáng chủ nghĩa Mác – Lênin do đồng chí Nguyễn Ái Quốc (tức chủ tịch Hồ Chí
Minh) tuyên truyền về đã xuyên qua những lớp mây mù dọi tới Bắc Giang. Tại
thị xã Phủ Lạng Thương đã có những thanh niên tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin
khá sớm và tại Thùng Đấu (thị xã Phủ Lạng Thương), Chi hội Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên đầu tiên của tỉnh ra đời.
Sau một thời gian thoái trào, phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh
đạo đã lan rộng và phát triển mạnh mẽ ra nhiều địa phương trong nước và trong
tỉnh. Đến đầu những năm 40 của thế kỉ XX, ở Bắc Giang, An toàn khu (ATK)
của Trung ương Đảng trên đất Hiệp Hịa, Phú Bình, Phổ n đã được thành lập,
là trung tâm phong trào cách mạng của tỉnh, là sự tin tưởng của của Trung ương
Đảng đối với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám, quân và dân Bắc Giang đã góp phần vào việc đập tan ách thống trị
của chủ nghĩa thực dân Pháp, chấm dứt chế độ phong kiến, mở ra kỉ nguyên độc
lập tự do cho Tổ quốc.
Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám 1945 giành thắng lợi, tồn thể dân tộc ta
nói chung và nhân dân Bắc Giang nói riêng lại phải tiến hành hai cuộc kháng
3


chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ cứu nước (1954 -1975) để bảo vệ nền
độc lập. Trong hai cuộc kháng chiến này, Bắc Giang đều góp phần tích cực vào

thắng lợi chung của dân tộc. Vì thế, sử dụng tài liệu LSĐP Bắc Giang trong dạy
học LSVN không chỉ là việc làm nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở Bắc
Giang mà cịn làm sáng tỏ những đóng góp của nhân dân Bắc Giang vào sự
nghiệp chung. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ - những
chủ nhân tương lai của nước nhà. Vấn đề đặt ra là xác định tiêu chí để chọn hệ
thống tài liệu lịch sử Bắc Giang, sử dụng trong dạy học LSVN sao cho có hiệu
quả. Đây là điều mà chúng tôi phải quan tâm giải quyết trong khuôn khổ đề tài.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Sử dụng tài liệu lịch sử địa phương
trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1975 ở trường Trung học phổ
thông tỉnh Bắc Giang” làm đề tài nghiên cứu.

2- Mục tiêu nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài;
a. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi xác định rõ mục tiêu cần đạt như sau:
- Khẳng định vai trò và ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy
học LSVN ở trường phổ thông,
- Khai thác, sử dụng tài liệu lịch sử Bắc Giang trong dạy học LSVN giai
đoạn (1919 - 1975) ở trường THPT.
- Đề xuất các biện pháp sư phạm có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả dạy học ở trường THPT Bắc Giang.
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu lý luận về vấn đề sử dụng tài liệu lịch sử nói chung, tài liệu
LSĐP nói riêng có liên quan và tình hình thực tiễn làm nền tảng cho việc giải
quyết vấn đề mà đề tài đặt ra.
- Tìm hiểu chương trình, nội dung SGK Lịch sử lớp 12 (phần LSVN (1919
- 1975) và LSĐP Bắc Giang xác định những nội dung LSĐP có thể và cần sử
dụng trong dạy học LSDT.
4



- Dựa vào nội dung bài học, tài liệu khai thác, đối tượng và điều kiện dạy
học để đề xuất những biện pháp sư phạm theo hướng phát huy tính tích cực nhận
thức của HS trong việc tổ chức dạy học trên lớp cũng như ngoài giờ học .
- Qua thực nghiệm khẳng định hiệu quả sư phạm của các biện pháp đã đề
xuất, từ đó rút ra những kết luận về tính khả thi của các biện pháp được tiến
hành.
b. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu đề tài có ý nghĩa hết sức quan trọng về khoa học và thực tiễn.
Về khoa học: Góp phần làm phong phú thêm lý luận về sử dụng tài liệu LSĐP
trong dạy học lịch sử nói chung và việc sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSVN
nói riêng. Đây là một trong những yêu cầu về mặt sư phạm cần thiết cho việc nâng
cao chất lượng dạy học lịch sử ở trường THPT.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần giúp GV phổ thông
vận dụng vào thực tiễn dạy học lịch sử để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện của đề tài
a. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSVN giai đoạn (1919 1975) ở trường THPT tỉnh Bắc Giang.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong quá trình LSVN
(1919 - 1975).
- Trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ giữa các sự kiện lớn của LSDT được
đề cập trong SGK với các sự kiện LSĐP, đề tài không nghiên cứu tài liệu lịch sử
địa phương như một nguồn sử liệu trong nghiên cứu lịch sử dân tộc hay ở góc độ
sử liệu học mà là nguồn tài liệu phục vụ cho việc dạy học LSDT. Trong khuôn
khổ đề tài, chúng tôi xác định nguồn tài liệu LSĐP (giới hạn ở nguồn tài liệu
thành văn) cần thiết và đề xuất hướng sử dụng trong dạy học LSVN (trong bài
nội khoá và hoạt động ngoại khoá) cho học sinh THPT ở Bắc Giang. Từ việc xử
lý kết quả thực nghiệm sư phạm, chúng tôi đề xuất một số biện pháp mang tính
5



khả thi trong việc sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử dân
tộc.
c. Thời gian thực hiện của đề tài
Đề tài được thực hiện trong 10 tháng (từ tháng 2 năm 2014 đến tháng 11
năm 2014)

4. Nội dung nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu lý luận về vấn đề sử dụng tài liệu lịch sử nói chung, tài liệu
LSĐP nói riêng có liên quan và tình hình thực tiễn làm nền tảng cho việc giải
quyết vấn đề mà đề tài đặt ra.
- Tìm hiểu chương trình, nội dung SGK Lịch sử lớp 12 (phần LSVN 1919
- 1975) và LSĐP Bắc Giang, xác định những nội dung LSĐP có thể và cần sử
dụng trong dạy học LSDT.
- Dựa vào nội dung bài học, tài liệu khai thác, đối tượng và điều kiện dạy
học để đề xuất những biện pháp sư phạm theo hướng phát huy tính tích cực nhận
thức của HS trong việc tổ chức dạy học trên lớp cũng như ngoài giờ học .

5. Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu đề tài
- Cơ sở phương pháp luận:
Cơ sở phương pháp luận của đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước về
giáo dục phổ thông, đặc biệt là quan điểm về giáo dục lịch sử, thông qua nghiên
cứu và giảng dạy lịch sử.
- Để thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
+ Nghiên cứu lý luận: nghiên cứu các tác phẩm của các tác gia kinh điển,
của Hồ Chí Minh bàn về công tác giáo dục ở trường phổ thông; các cơng trình
của các nhà lý luận khoa học giáo dục, các chuyên gia về lĩnh vực giáo dục lịch
sử, về LSĐP, LSVN, chương trình, nội dung SGK và các vấn đề có liên quan

đến phạm vi đề tài.
6


+ Tiến hành điều tra cơ bản: Thông qua nhiều cách khác nhau: dự giờ, quan
sát, điều tra xã hội học, trao đổi với những người quản lý chuyên môn ở các sở
Giáo dục - Đào tạo, đối với GV, HS trong các trường THPT ở Bắc Giang. Trên
cơ sở đó, chúng tơi sẽ xử lý số liệu, phân tích để phác thảo thực trạng việc sử
dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSVN giai đoạn (1919 - 1975) ở trường
THPT, đây là cơ sở để chúng tôi đề xuất các biện pháp sư phạm thích hợp.
+ Nghiên cứu nội dung LSVN giai đoạn 1919 - 1975 trong SGK và tài liệu
lịch sử Bắc Giang tương ứng, có thể, cần thiết sử dụng trong dạy học LSVN giai
đoạn (1919 - 1975) ở trường THPT.
+ Soạn giáo án và tiến hành thực nghiệm trong các trường THPT ở Bắc
Giang để kiểm tra giả thiết và hiệu quả của các biện pháp sư phạm đã đề xuất.

II. TỔ CHỨC TRIỂN KHAI VÀ QUẢN LÝ THỰC HIỆN ĐỀ
TÀI
Đề tài được tổ chức thực hiện theo đúng trình tự thời gian quy định. Chủ
nhiệm đề tài đã phân công cộng sự thực hiện các chuyên đề theo đúng kế hoạch
đặt ra. Đề tài của chúng tơi gồm có 3 chun đề tương ứng với 3 chương của đề
tài, như sau:
- Chuyên đề 1: Vấn đề sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học
lịch sử Việt Nam ở trường THPT tỉnh Bắc Giang – Lý luận và thực tiễn.
- Chuyên đề 2: Khai thác tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử
Việt Nam giai đoạn 1919 – 1975 ở trường THPT tỉnh Bắc Giang.
- Chuyên đề 3: Các biện pháp sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong
dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 – 1975 ở trường THPT tỉnh Bắc
Giang.


7


III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƯỜNG THPT - LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TÀI LIỆU LỊCH SỬ
ĐỊA PHƯƠNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƯỜNG
THPT
1.1.1. Quan niệm về tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử Việt
Nam ở trường Trung học phổ thông.
Tài liệu LSĐP phản ánh các mặt khác nhau trong đời sống quá khứ ở các khu
vực, vùng, miền. Tài liệu LSĐP rất phong phú đa dạng. Do giới hạn của đề tài,
chúng tôi chủ yếu sưu tầm, khai thác và sử dụng nguồn tài liệu lịch sử thành văn ở
địa phương bao gồm: Lịch sử Đảng bộ; Các văn bản gốc của chính quyền Đảng
bộ, các đồn thể quần chúng ở địa phương qua các thời kỳ lịch sử (Chủ trương,
chính sách, chỉ thị của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, biên bản tổng kết một trận
đánh, ...); Sách báo viết về Bắc Giang như: Di tích Bắc Giang, Bác Hồ với Bắc
Giang, Bắc Giang với Bác Hồ.
Nguồn tài liệu trên, nếu GV làm tốt công tác sưu tầm, lựa chọn và có biện
pháp sử dụng hợp lý cho mỗi hình thức dạy học lịch sử sẽ góp phần vào việc
thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu nói chung, tài liệu lịch sử
địa phương nói riêng trong dạy học lịch sử Việt Nam
Lịch sử quá khứ bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội; vì vậy, nghiên cứu
và dạy học lịch sử dân tộc, cần thiết phải sử dụng nhiều loại tài liệu khác nhau
(trong đó có tài liệu LSĐP). Tài liệu LSĐP nếu sử dụng tốt trong dạy học LSDT
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học trên cả 3 mặt: nhận thức; giáo dục
và kĩ năng.

1.1.3. Những yêu cầu sư phạm đối với việc sử dụng tài liệu lịch sử địa
phương trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường Trung học phổ thông
8


Sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT trước hết phải xuất phát từ mục
tiêu giáo dục
Tuân thủ các yêu cầu về mặt phương pháp luận:
- Phải đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng.
- Chú trọng đến phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, nhưng trước hết
phải chú trọng đến phương pháp lịch sử - phương pháp phù hợp nhất đối với
việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử
Phải đảm bảo những yêu cầu về phương pháp dạy học:
- Đảm bảo tính cơ bản, điển hình.
- Phù hợp tâm lý lứa tuổi, đảm bảo tính vừa sức và phù hợp với thực tiễn dạy
học hiện nay.
- Quán triệt phương hướng đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường
phổ thơng.
1.2. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI LIỆU LSĐP TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƯỜNG THPT TỈNH BẮC GIANG.
1.2.1. Vấn đề sử dụng tài liệu lịch sử địa phương ở trường Trung học
phổ thơng nói chung và trường Trung học phổ thơng ở Bắc Giang nói riêng.
Trong phần này, chúng tơi tìm hiểu:
- Vấn đề giảng dạy các tiết lịch sử địa phương trong nhà trường phổ thông từ
sau Cách mạng tháng Tám - 1945 đến nay.
- Vấn đề sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học lịch sử dân tộc ở trường phổ
thông từ sau cách mạng tháng Tám - 1945 đến nay.
- Sơ lược vấn đề sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học LSDT ở
trường THPT tỉnh Bắc Giang.
1.2.2. Thực tiễn sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử

Việt Nam giai đoạn 1919 - 1975 ở trường Trung học phổ thơng tỉnh Bắc Giang.
Để có được nhận xét khách quan, khoa học về thực trạng sử dụng tài liệu
LSĐP trong dạy học LSVN (1919 - 1975) ở trường THPT hiện nay, chúng tôi
tiến hành điều tra cơ bản đối với giáo viên (thông qua hệ thống phiếu điều tra) ở
các trường THPT ở trong tỉnh. Tiến hành trao đổi với các cán bộ quản lý chuyên
9


môn của các sở Giáo dục - Đào tạo cũng như tham khảo ý kiến của đồng nghiệp
ở các trường THPT tỉnh Bắc Giang.
Công việc này được thực hiện theo các nguyên tắc điều tra xã hội học. Kết
quả điều tra cho thấy:
- Hầu hết giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng tài liệu
LSĐP nhằm nâng cao hiệu quả dạy học LSDT.
- Tuy GV có sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT nhưng chưa xem đó
là việc làm thường xun, cịn lúng túng trong việc sưu tầm, lựa chọn, sử dụng
trong giảng dạy. Đa số GV chưa đầu tư nhiều thời gian, công sức, chưa chú
trọng sử dụng tài liệu LSĐP để tổ chức các hoạt động ngoại khóa và ra bài tập
cho học sinh.
- Đa số HS ít hứng thú với việc học tập bộ môn lịch sử, điều này do nhiều
nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.
- Việc học ở nhà, HS chỉ thuộc lòng những điều đã được thầy cho ghi chép ở
trên lớp, GV ít hướng dẫn sưu tầm, tìm hiểu LSĐP thơng qua hệ thống bài tập,
các hoạt động ngoại khóa... nên hiểu biết của các em về LSĐP còn hạn chế.
1.2.3. Định hướng giải quyết việc sử dụng tài liệu lịch sử địa phương
trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1975
Trên cơ sở lý luận và kết quả điều tra và việc rút ra kết luận sơ bộ của thực
trạng sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT nói chung, phần LSDT 1919 1975 nói riêng ở trường THPT tỉnh Bắc Giang, đây sẽ là cơ sở để định hướng
cho chúng tôi khi giải quyết nội dung trong khuôn khổ đề tài:
Thứ nhất, phải nhận thức đúng mối quan hệ giữa việc nhận thức LSĐP với

LSDT. Lịch sử địa phương phải được xem là một bộ phận hữu cơ, có quan hệ
mật thiết với LSDT. Sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT, GV cần quán
triệt các nguyên tắc của phương pháp luận sử học và phương pháp dạy học bộ
môn.
Thứ hai, GV phổ thông cần hiểu rõ tầm quan trọng, ý nghĩa của việc sử
dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSVN giai đoạn 1919 - 1975.
10


Thứ ba, lựa chọn và sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT phải quán
triệt phương hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay ở trường THPT.
Thứ tư, trên cơ sở tài liệu LSĐP đã được lựa chọn, chúng tôi sẽ tiến hành
thực nghiệm sư phạm. Qua xử lý kết quả kiểm tra, để xem xét tính khả thi. Căn
cứ vào kết quả, chúng tôi sẽ đề xuất các biện pháp, cách thức sử dụng nguồn tài
liệu LSĐP trong dạy học LSDT một cách có hiệu quả.
Thứ năm, phải chú trọng việc tạo điều kiện, phương tiện để thực hiện tốt
việc sử dụng tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT.
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi sẽ
tiến hành lựa chọn nội dung tài liệu LSĐP dự định sử dụng trong dạy học
LSVN. Trên cơ sở kết quả TNSP, chúng tôi sẽ rút ra những kết luận, khái quát
lý luận về các biện pháp sử dụng tài liệu LSĐP có tính khả thi trong dạy học
LSDT.

11


CHƯƠNG II
KHAI THÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1919 - 1975
Ở TRƯỜNG THPT TỈNH BẮC GIANG

Việc sử dụng tài liệu LSĐP để dạy học LSDT đòi hỏi phải xác định nội
dung tài liệu cho phù hợp với các khóa trình, chương, bài. Do giới hạn của đề
tài, chúng tôi tập trung vào những tài liệu LSĐP Bắc Giang liên quan đến việc
dạy học LSDT giai đoạn 1919 - 1975. Từ đó, sẽ khái quát những vấn đề chung
về khai thác tài liệu LSĐP trong dạy học LSDT. Ở đây, chúng tôi khai thác
chương trình lịch sử lớp 12 ban cơ bản để giải quyết những vấn đề sau đây:
- Nội dung phần LSVN (1919 - 1975) cần phải sử dụng tài liệu LSĐP
trong dạy học.
- Khai thác và xác định nội dung tài liệu lịch sử Bắc Giang để dạy học
phần LSVN (1919 - 1975)

2 1. Mục tiêu, nội dung cơ bản của Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 1975 ở trường Trung học phổ thông.
2.1.1. Mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông
Mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông là“...nhằm giúp cho HS có
những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới; góp phần
hình thành ở HS thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước,
truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái
độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội”(16, tr. 5)
Để đạt được mục tiêu ấy, nội dung phần LSVN 1919 - 1975, là những sự
kiện lịch sử tiêu biểu, phác họa các bước phát triển chủ yếu của LSDT qua các thời
kỳ. Trong học tập, HS cần nắm được mối liên hệ giữa LSĐP, LSDT và lịch sử thế
giới; nhận thức vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử; nêu rõ
nguyên nhân và động lực tạo ra các chuyển biến lịch sử, quy luật vận động của lịch
12


sử...Qua đó, mà hình thành cho HS những kỹ năng học tập cần thiết như biết xem
xét các sự kiện lịch sử trong các quan hệ không gian, thời gian; biết cách làm việc
với SGK, các nguồn sử liệu (trong đó có tài liệu LSĐP); phát triển các thao tác tư
duy cần thiết đối với việc học tập lịch sử như: so sánh, tổng hợp, phân tích, vận

dụng kiến thức để đặt vấn đề, để vận dụng kiến thức đã học vào thực tế đời sống và
tiếp thu kiến thức mới...Mặt khác, thơng qua việc dạy học khóa trình lịch sử nói
trên, GV bồi dưỡng cho HS tình cảm, tư tưởng, thái độ đúng đắn, như tình yêu quê
hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, biết trân trọng quá khứ và truyền thống tốt
đẹp của dân tộc; niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào CNXH, vào sự thắng lợi
trong công cuộc đổi mới; những phẩm chất cần thiết cho công dân, như thái độ,
trách nhiệm đối với cộng đồng, tơn trọng pháp luật, đồn kết dân tộc...

2.1.2. Nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1975 ở
trường Trung học phổ thông
Phần LSVN (1919 - 1975) trong SGK lịch sử lớp 12, gồm 04 chương với
12 bài (từ bài 12 đến bài 23). Cụ thể:
Chương I: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930
Chương II: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945
Chương III: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954
Chương IV: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919 - 1975 có vị trí vơ cùng quan trọng trong
chương trình mơn Lịch sử ở trường THPT. Đây là giai đoạn đầy biến động, thử
thách cam go của LSDT. Nhìn chung, khóa trình này đã đề cập đến những nội
dung lớn sau đây:
Thứ nhất, tình hình Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các phong
trào dân tộc dân chủ theo khuynh hướng tư sản, vô sản và sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930)
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, mặc dù là nước thắng trận nhưng Pháp
phải chịu những thiệt hại hết sức nặng nề. Để bù đắp thiệt hại và khơi phục địa
vị của mình trong thế giới tư bản, Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần
13


thứ hai ở Việt Nam và Đông Dương. So với cuộc khai thác lần thứ nhất, cuộc

khai thác lần này, Pháp đã đẩy mạnh quy mô, tốc độ, thay đổi hướng đầu tư để
thu lợi cao nhất ở thuộc địa. Bên cạnh các chính sách về kinh tế, chúng thi hành
chính sách cai trị về chính trị - văn hóa - giáo dục hết sức thâm độc nhằm để
khống chế, nơ dịch nhân dân ta. Chính sách khai thác của Pháp đã làm cho cơ
cấu xã hội Việt Nam bị phân hóa sâu sắc. Bên cạnh các giai cấp cũ, các giai cấp
mới đã ra đời không ngừng trưởng thành và tìm cách bước lên vũ đài chính trị.
Trước chính sách cai trị hà khắc của thực dân phong kiến, ở trong nước đã
bùng lên các cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhiều giai cấp, tầng lớp với nhiều
khuynh hướng chính trị khác nhau. Cũng lúc này, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được
con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người
tích cực truyền bá vào trong nước, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và
tổ chức cho sự ra đời của Đảng về sau. Trước sự hình thành của các tổ chức cách
mạng trong năm 1929 và sự thất bại của Việt Nam Quốc dân Đảng, sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam (đầu năm 1930) đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về
đường lối, về sự lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Từ đây, Đảng ta bắt tay
lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ hai, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1945)
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933, đã tác động đến hầu hết
các nước trong thế giới tư bản. Pháp tìm cách trút gánh nặng khủng hoảng lên
đầu nhân dân thuộc địa, trong đó có Việt Nam, làm cho đời sống nhân dân ta hết
sức cơ cực, khó khăn. Mặt khác, sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, Pháp đẩy
mạnh khủng bố trắng làm cho đời sống chính trị hết sức ngột ngạt. Vừa mới
thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo phong trào 1930 - 1931, mà đỉnh cao là Xô viết
Nghệ Tĩnh. Dù cuối cùng thất bại, nhưng đây có thể xem là cuộc diễn tập đầu
tiên của Đảng và quần chúng; bởi vì, phong trào đã để lại cho Đảng nhiều bài
học kinh nghiệm quý báu cho cách mạng Việt Nam, như: xác định sự lãnh đạo
của Đảng, xây dựng liên minh công nông, xác địnhđối tương cách mạng, giành
và giữ chính quyền... Sau thất bại của phong trào, trong những năm 1932 - 1935,
14



ta kiên trì đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ phong trào; ra sức khôi phục tổ
chức, cơ sở Đảng trong và ngoài nước, tiếp tục tập dượt quần chúng đấu tranh và
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất được tiến hành tại Ma Cao - Trung Quốc
(3/1935)
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa phát xít ở
một số nước, đe dọa an ninh toàn cầu. Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản đã kêu gọi
thành lập mặt trận nhân dân ở các nước để tập trung mũi nhọn chống chủ nghĩa
phát xít và nguy cơ chiến tranh đế quốc. Cũng lúc này, Mặt trận nhân dân do Đảng
Cộng sản Pháp làm nòng cốt lên nắm quyền ở Pháp, hứa thi hành một số cải cách
có lợi cho thuộc địa. ở trong nước, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
tiếp tục đề nặng lên đầu dân chúng Việt Nam, yêu cầu cải thiện đời sống đặt ra bức
thiết. Mặt khác, với chính sách tiến bộ của Mặt trận nhân dân Pháp, nhiều tù chính
trị được ân xá, tìm cách hoạt động trở lại. Trước tình hình đó, Đảng ta đã thay đổi
chủ trương, khẩu hiệu, mục tiêu trước mắt, phương pháp đấu tranh phù hợp nên đã
dấy lên một phong trào đấu tranh rộng lớn trong Cuộc vận động dân chủ. Nhưng,
từ cuối năm 1938, khi Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp thiên sang hữu, bọn
phản động Pháp bắt đầu phản công cách mạng. Cuộc vận động dân chủ bị thu hẹp
dần và chấm dứt. Mặc dù vậy, có thể xem đây là cuộc diễn tập thứ hai, chuẩn bị
cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám về sau.
Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ ở châu Âu, Pari thất thủ
(6/1940). Nhật đẩy mạnh xâm lược Trung Quốc, áp sát biện giới Việt Trung.
Trước tình hình đó, Hội nghị TƯ lần thứ 6 (11/1939) đã quyết định chuyển
hướng đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thành lập Mặt trận dân tộc
thống nhất phản đế Đông Dương. Với chủ trương mới của Đảng, đã làm bùng nổ
cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Đô Lương, là những phát súng
đầu tiên báo hiệu thời kỳ tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Tháng
9/1940, Nhật nhảy vào Đơng Dương, gây sức ép đẩy nhân dân ta vào tình cảnh
“một cổ hai trịng”.
Ngày 28/1/1941, trước sự chuyển biến tình hình trong nước và quốc tế,

Nguyễn ái Quốc về nước và triệu tập Hội nghị TƯ lần thứ 8 (5/1941), tiếp tục
15


đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thành lập Mặt trận Việt Minh. Từ
đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tổ chức, tập hợp lực lượng của Mặt trận Việt
Minh, nhân dân ta tích cực chuẩn bị về mọi mặt tiến tới tổng khởi nghĩa. Sau khi
Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), cao trào kháng Nhật cứu nước bùng lên mạnh
mẽ, làm cho thời cơ nhanh chóng chín muồi. Trước chuyển biến của cục diện
chiến tranh thế giới, nhất là khi có tin Nhật tuyên bố đầu hàng, bọn tay sai hoang
mang, Đảng ta đã phát động Tổng khởi nghĩa giành được chính quyền trên phạm
vi cả nước, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945).
Thứ ba, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, nước ta đứng trước mn vàn khó
khăn xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trong tình hình thù trong, giặc ngồi,
thiên tai, đói kém. Với thiện chí hịa bình, chủ trương “hịa để tiến”, Đảng và
nhà nước ta đã chấp nhận ký với Pháp Hiệp định sơ bộ (6/3/1946), Tạm ước
(14/9/1946) nhưng chúng nuôi dã tâm cướp nước ta lần thứ hai. Vì vậy, cuộc
kháng chiến tồn quốc đã bùng nổ. Sau khi hồn thành nhiệm vụ kìm chân địch
trong đô thị, cả nước chuyển vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài.
Trong hoàn cảnh kháng chiến, ta vẫn nỗ lực xây dựng hậu phương vững mạnh,
từng bước đập tan mọi âm mưu của Pháp. Quân dân ta đã giành nhiều thắng lợi
quyết định, có tác dụng thúc đẩy kháng chiến, như chiến dịch Việt Bắc Thu
Đông 1947, chiến dịch Biên Giới Thu Đông 1950, Các chiến dịch trong những
năm 1951 - 1953; Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh
cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954). Pháp phải ký Hiệp định
Giơnevơ (7 - 1954) lập lại hoà bình ở Đơng Dương. Cuộc kháng chiến chống
Pháp và can thiệp Mỹ của nhân dân ta đã giành thắng lợi.
Thứ tư, Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam(1954 - 1975).

Từ 1954 - 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền với 2 chế độ
chính trị khác nhau. Miền Bắc bắt tay vào khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh, tiến hành cải cách ruộng đất, xây dựng CNXH. Trong quá trình đó,
miền Bắc đã phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh phá hoại, nỗ lực xây dựng
16


và bảo vệ miền Bắc XHCN và chi viện có hiệu quả cho chiến trường miền Nam.
Trong khi đó, ở miền Nam, do âm mưu của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngơ
Đình Diệm, chúng tìm cách phá hoại Hiệp định, cho lập quốc gia riêng từ vĩ
tuyến 17 trở vào, gây nên tình trạng chia cắt. Nhưng nhân dân miền Nam, được
sự chi viện sức người, sức của từ miền Bắc đã từng bước đập tan các chiến lược
chiến tranh xâm lược của Mỹ và tay sai, như Chiến tranh đơn phương, Chiến
tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh. Mỹ phải ngồi vào
bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Pari - 1973, rút quân về nước. “Mỹ cút”,
nhưng “Ngụy chưa nhào”, toàn Đảng, toàn dân hai miền Nam Bắc tiếp tục chiến
đấu để hoàn thành thống nhất đất nước. Bằng đấu tranh anh dũng, sáng tạo của
nhân dân cả nước, ngày 30/4/1975, chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi,
giang sơn thu về một mối. Từ đây, cả nước bước vào thời kỳ chung tay xây
dựng CNXH.
Trên đây là những nội dung cơ bản mà HS lớp 12 khi học phần lịch sử Việt
Nam từ năm 1919 đến năm 1975 cần phải nắm vững.
2.2. Khai thác tài liệu lịch sử địa phương để dạy học Lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1919 - 1975 ở trường Trung học phổ thông tỉnh Bắc Giang.
Để có nguồn tài liệu LSĐP hợp lý, phát huy tác dụng trong dạy học, cần
phải định tiêu chí khi lựa chọn tài liệu, đó là:
Việc lựa chọn tài liệu phải tuân thủ các nguyên tắc về tính Đảng, tính khoa
học. GV cần phải đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - phải, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng. Phải xử lý mối quan hệ giữa phương
pháp lịch sử, phương pháp lơ gích khi lựa chọn các sự kiện để vừa cụ thể hoá

các sự kiện hiện tượng lịch sử, vừa giúp hiểu được bản chất lịch sử.
- Phải sử dụng các tài liệu LSĐP phù hợp với nội dung, yêu cầu của
chương trình, SGK. Khi lựa chọn tài liệu phải căn cứ vào nội dung SGK, phải
suy nghĩ xem tài liệu đó sử dụng trong dạy học sự kiện LSDT nào, sử dụng
trong giờ học nội khố hay ngoại khố, thậm chí là sử dụng cho bài nội khoá
trên lớp hay tại thực địa. Khi dạy học những sự kiện LSDT nêu trên, GV sử
dụng tài liệu LSĐP Bắc Giang để giúp HS hiểu sâu sắc, cụ thể hơn. Đồng thời,
17


nhận thức tốt hơn LSĐP về các sự kiện này. Sử dụng tài liệu LSĐP (ở đây là tài
liệu lịch sử Bắc Giang) trong mỗi bài học dân tộc nên chiếm tỷ lệ nhỏ, phù hợp
với nội dung bài học, với sự tham gia tích cực của HS về sưu tầm, sử dụng tài
liệu.
Trên cơ sở đó, trong phạm vi của đề tài, chúng tôi lựa chọn một số tư liệu
LSĐP khi giảng dạy trong từng bài cụ thể như sau :

Bài 12 (SGK Lịch sử 12- Ban cơ bản)
Khi giảng về sự phân hóa các giai cấp trong xã hội Việt Nam sau chiến
tranh, SGK nêu rõ ngoài các giai cấp, tầng lớp cũ, xã hội Việt Nam đã hình
thành các giai cấp mới . Khi dạy học phần này cho HS Bắc Giang, GV phải sử
dụng tài liệu LSĐP giúp các em thấy được nét riêng của Bắc Giang. Đó là : Bộ
máy quản lý các làng xã ở Bắc Giang dưới thời phong kiến được thực dân Pháp
duy trì và tìm mọi cách để nắm chặt hơn, biến bọn lý dịch, hương chức thành
những tên tay sai phục vụ đắc lực của bọn thống trị. Thông qua bộ máy hào lý
này, bọn thực dân tiếp tục huy động sự đóng góp của các làng xã theo phương
thức truyền thống của chế độ phong kiến như thuế đinh, thuế điền, binh
dịch…nhưng với mức độ khắc nghiệt hơn và những thủ đoạn thâm hiểm hơn.
Sưu cao, thuế nặng, phu phen tạp dịch, thiên tai lũ lụt làm cho đời sống người
nơng dân vơ cùng cực khổ. Tên tồn quyền Đờ lanétxăng cũng phải thú nhận :

‘‘ …chính mắt tơi trông thấy con đường Phủ Lạng Thương nhiều lãng xã tan tác
và những di tích của những đồng ruộng mênh mông bị bỏ hoang thành ao
vũng’’.
Thông qua những tư liệu ấy, GV giúp HS nhận thức được của cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp có ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống của
nhân dân, người dân Bắc Giang đói nghèo thiếu thốn về vật chất, lạc hậu, u tối
về văn hoá tinh thần. Từ trong tối tăm và cảnh sống ngục tù ấy, nhiều người con
yêu quý của quê hương Bắc Giang đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, quyết chí
dấn thân vào con đường cách mạng để giành độc lập cho Tổ quốc, quê hương.
18


Bài 13. (SGK Lịch sử 12- Ban cơ bản)
Khi nói đến Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và sự thành lập 3 tổ
chức cộng sản trong năm 1929, ngoài những vấn đề chung, GV có thể sử dụng
tài liệu LSĐP để nói về ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin rọi tới Bắc Giang
và những cơ sở cách mạng đầu tiên được thành lập. Tháng 6/1925, Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập. Đầu năm 1927, tổ chức này đã bắt
mối vào tầng lớp thanh niên học sinh Bắc Giang. Một số thanh niên tiêu biểu
của tỉnh đã được cử đi dự lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng dạy.
Đầu năm 1928, ở Thùng Đấu ( Phủ Lạng Thương), Chi hội Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên đầu tiên của Bắc Giang ra đời. Cuối năm 1928, Chi hội
ấp Tam Sơn (phủ Lạng Giang) thành lập. Ngoài hai Chi hội trên đây, tại làng
Thổ Hà và làng Đạo Ngạn (huyện Việt Yên), mỗi làng có một hội viên ghép với
Chi hội của tỉnh Bắc Ninh. Hội còn tuyên truyền được hàng trăm quần chúng
cảm tình ở Phủ Lạng Thương. Tháng 9 năm 1928, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên ở Bắc Kỳ đề ra chủ trương ‘‘vơ sản hố’’. Thực hiện chủ
trương này, một số hội viên của Bắc Giang đã được cử đi lao động ở các nhà
máy, hầm mỏ trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Mẫn đi ‘‘vơ sản hố’’ ở mỏ

than Mạo Khê (Quảng Ninh).
Khi Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập (6/1929), một số hội viên của
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên như Nguyễn Văn Mẫn, Dương Văn
Phái…đã được kết nạp vào Đơng Dương Cộng sản Đảng, đó là những đảng
viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Bắc Giang.
Tháng 8/1929, Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Bắc Giang và Bắc
Ninh thành lập. Đây là một mốc quan trọng trong phong trào cách mạng tỉnh.
Tuy nhiên, cuối năm 1929, do sự phản bội của một số phần tử, phong trào
cách mạng Bắc Giang bị địch khủng bố khốc liệt. hầu hết cơ sở bị địch phá vỡ,
cán bộ sa vào tay địch, một số mất liên lạc. Cuộc khủng bố này của kẻ thù đã
gây tổn thất rất nặng nề cho phong trào cách mạng trong Tỉnh. Từ đầu năm
1930, phong trào cách mạng Bắc Giang tạm thời thoái trào.
19


Qua những tư liệu LSĐP trên, HS có thể giải thích tại sao từ đầu năm 1930
phong trào cách mạng Bắc Giang tạm thời thối trào? HS giải thích được mối
quan hệ giữa LSDT và LSĐP.

Bài 15. (SGK Lịch sử 12- Ban cơ bản)
Tài liệu lịch sử Bắc Giang nói về sự kiện xảy ra ở đây vào thời kỳ này có
nhiều. Nhưng cần chọn một số tài liệu nói về sự chuyển biến của tình hình thế
giới, về Mặt trận nhân dân Pháp (1936) lên cầm quyền, ban bố một số chính
sách có lợi cho cách mạng thuộc địa như ân xá chính trị phạm, cử phái đồn
sang điều tra tình hình thuộc địa và hứa thi hành một số cải cách về luật lao
động. Những chính sách trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi
tự do dân chủ, cải thiện đời sống, tạo cơ hội cho nhiều cán bộ đảng viên thoát
khỏi cảnh tù đày nhanh chóng tìm cách hoạt động trở lại.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng của tỉnh Bắc Giang sau một
thời gian lắng xuống, nay bắt đầu phục hồi. Từ cuối năm 1936, các đảng viên

cộng sản của tỉnh Bắc Giang từ các nhà tù đế quốc lần lượt trở về được tập hợp
lại ở Phủ Lạng Thương.
Những tài liệu trên, khi dạy học, GV có thể dùng để thông báo và đặt câu
hỏi giúp HS hiểu được với chính sách tích cực của Chính phủ Mặt trận Nhân
dân Pháp, một số tù chính trị đã có cơ hội trở về với hàng ngũ của mình, đây là
điều hết sức thuận lợi và họ trở thành những hạt nhân nòng cốt cho việc lãnh đạo
cách mạng về sau.
Đầu năm 1937, tỉnh ta cử một đoàn đại biểu về Hà Nội tham gia cuộc mít
tinh đón Gơđa. Nhân dân Bắc Giang đã qun góp ủng hộ cuộc đình công của
công nhân nhà máy sợi Nam Định, nhà máy chai Hải Phịng…Phong trào qun
tiền ủng hộ các báo chí tiến bộ như Dân chúng, Tin tức, Lao động…đều là
những cuộc đấu tranh hợp pháp, sôi nổi, thu hút hàng nghìn quần chúng tham
gia.

20


Thắng lợi của cuộc vận động dân chủ ở Bắc Giang đã nâng cao ảnh hưởng
của Đảng và góp phần vào việc xây dựng phong trào quần chúng chuẩn bị cho
thời kỳ vận động giải phóng dân tộc trong những năm 1939 - 1945.

Bài 16. (SGK Lịch sử 12- Ban cơ bản)
Tháng 9 năm 1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, bọn phản
động Pháp ở Đông Dương trở mặt khủng bố, đàn áp phong trào cách mạng.
Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thư VI (11/1939), xách định mục tiêu
chiến lược của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, giải
phóng các dân tộc Đơng Dương, làm cho Đơng Dương hồn toàn độc lập. Hội
nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương…Sự chuyển hướng này đã tác động mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam
nói chung và cách mạng Bắc Giang nói riêng.

GV hướng dẫn HS tìm hiểu tư liệu LSĐP, qua đó HS hiểu sâu sắc hơn mối
quan hệ giữa LSĐP và LSDT. Các tổ chức cách mạng ở tỉnh ta đã nhanh chóng
chuyển sang hoạt động với hình thức, nội dung phù hợp như: nông dân phản đế,
thanh niên phản đế…
Đầu năm 1940, phong trào cách mạng Bắc Giang đã hình thành trên ba khu
vực:
- Khu vực Hiệp Hoà và 1 phần Phổ n, Phú Bình (Thái Ngun) gồm
các làng Hồng Liên, Vân Xuyên, Lạc Yên, Thanh Vân, Đồng Áng, Ca
Sơn Hạ, Thù Lâm, ấp Ba Huyện, với nòng cốt là Chi bộ Hoàng Vân.
- Khu vực phủ Lạng Thương và các làng Hương Gián, An Tràng, Đào
Tràng (Lạng Giang), nòng cốt là Chi phủ Lạng Thương.
- Khu vực phố Lục Nam và làng Đại Tứ, Thép Thượng, nòng cốt là Chi
bộ phủ Đại Từ.
Ngày 27 tháng 9 năm 1940, nhân dân châu Bắc Sơn (Lạng Sơn), dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã vùng lên khởi nghĩa và giành chính quyền
và tiến hành chiến tranh du kích.
21


Thực hiện chủ trương của Trung ương, Ban cán sự tỉnh Bắc Giang đã phát
động phong trào ủng hộ du kích Bắc Sơn, Nhân dân các huyện Hiệp Hồ, Phú
Bình, Hiệp Hồ, Phủ Lạng Thương đã qun góp quần áo, lương thực, thuốc
chữa bệnh,… ủng hộ du kích Bắc Sơn.
Ngày 27 tháng 9 năm 1943, tại đình làng Thanh Vân (Hiệp Hồ), cán bộ
phụ trách huyện tổ chức mít tinh kỉ niệm lần thứ ba ngày khởi nghĩa Bắc Sơn
(27-9-1940 - 27-9-2943) có trên một trăm người tham dự. Tại cuộc mít tinh, cán
bộ Việt Minh đã lên diễn thuyết, nêu bật tinh thần chiến đấu dũng cảm của các
chiến sĩ Bắc Sơn và hơ hào quần chúng nhanh chóng gia nhập Mặt trận Việt
Minh, sắm sửa vũ khí, luyện tập quân sự, chuẩn bi lực lượng đón thời cơ khởi
nghĩa.

Đầu năm 1944, Ban Thường vụ Trung ương và Xứ uỷ chủ trương xây dựng
Khu an toàn ở hai bên sơng Cầu gồm cả ba huyện : Hiệp Hồ, Phổ n, Thái
Bình. Có những xóm nhà nào cũng có cơ sở cách mạng. Lực lượng tự vệ chiến
đấu đã được xây dựng ở nhiều làng…
Đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm Đông Dương. Đảng
ta ra chỉ thị ‘‘ Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta’’, phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước. Nhân dân Bắc Giang đã nổi dạy phá hàng chục
kho thóc của địch như Chàng (Việt n), Gió (Hiệp Hồ), Bến Lò (Lục Ngạn),
Nhã Nam (Yên Thế)…
Giữa tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, Đảng ta đã phát lệnh tổng khởi
nghĩa trong toàn quốc. Ngay khi chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa nhưng
trên cơ sở vận dụng chỉ thị ‘‘ Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta’’ của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, nhân dân Bắc Giang đã nổi dậy khởi
nghĩa giành chính quyền.
Để làm rõ khơng khí Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Bắc Giang, GV
có thể hướng dẫn cho HS tham khảo thêm đoạn tư liệu:
Khoảng 4 giờ sáng ngày 18-8-1945, hai đồng chí Hồ Cơng Dự và Ninh
Văn Phan cùng một đội khoảng 6, 7 người trang bị dao găm, súng ngắn xuất
phát từ đình làng Song Khê vượt cầu sơng Thương vào tỉnh Lỵ, đột nhập vào
22


dinh tỉnh trưởng lúc 6 giờ sáng, Vốn đã hoang mang, lại ở tình thế khơng thể
chống cự được, tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Đĩnh phải đầu hàng, nộp toàn bộ vũ
khí và ra lệnh cho viên chánh án bảo an giao trại bảo an binh cho Việt Minh.
Lực lượng bảo vệ chiếm trại bảo an binh, thu được gần 200 khẩu súng. Viên
chánh án bảo an và số đông bảo an binh xin gia nhập lực lượng vũ trang cách
mạng.
Qua đoạn tư liệu đó, kết hợp với LSDT học sinh có thể rút ra một số đặc
điểm của cách mạng tháng Tám năm 1945, chuẩn bị lâu dài, nắm bắt thời cơ,

hành động kịp thời để giành thắng lợi. Từ đó, HS liên hệ bản thân cần phải làm
gì để đạt được kết quả cao nhất trong học tập.

Bài 17. (SGK Lịch sử 12 - Ban cơ bản)
Khi giảng dạy nội dung tình hình hước ta sau Cách mạng tháng Tám và
những chủ trương của Đảng, giáo viên có thể sử dụng những tư liệu lịch sử địa
phương để học sinh hiểu rõ hơn tình hình Bắc Giang trong những ngày đầu sau
Cách mạng tháng Tám.
Đầu tháng 9/1945, quân Trung Hoa Dân quốc lũ lượt kéo qua Bắc Giang
và đóng lại ở tỉnh ta 2000 tên. Tỉnh uỷ đã đề ra chủ trương: đối với quân Trung
Hoa Dân quốc phải cố gắng nhân nhượng, nhưng kiên quyết đấu tranh giữ vững
chủ quyền dân tộc, đối với bọn tay sai của chúng thì thẳng tay trừng trị, triệt để
phân hố nội bộ kẻ thù…Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, chính quyền tỉnh đã
tổ chức “ đón tiếp” quân Trung Hoa Dân quốc khá chu đáo. Những cuộc đón
tiếp thực chất là những cuộc mít tinh biểu dương sức mạnh của quần chúng, làm
tăng thêm thanh thế của chính quyền cách mạng.
Khơng có cớ để gây rối, qn đội Trung Hoa Dân quốc buộc phải quan
hệ ngoại giao với chính quyền ta, nhưng với thái độ rất hách dịch, Quân Tưởng
đóng ở Bắc Giang với bọn Việt Nam Quốc dân Đảng và thổ phỉ đã cơng khai đã
kich chính quyền ta, vu khống và nói xấu Mặt trận Việt Minh, gây rối loạn trật
tự trong nhân dân.
23


Việc cứu đói của Bắc Giang được tiến hành khẩn trương và tình trạng chết
đói nhanh chóng chấm dứt. Nhân dân phấn khởi, càng tăng cường đoàn kết,
hăng hái tham gia kháng chiến, kiến quốc.
Thực hiện Sắc lệnh trên, từ ngày 17 đến 29-9-1945, ở tỉnh ta “Tuần lễ
vàng” và “Quỹ độc lập” được chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh tổ
chức phát động rộng rãi trong nhân dân. Cán bộ của tỉnh được cử về các địa

phương tuyên truyền vận động nhân dân tự nguyện ủng hộ Chính phủ để xây
dựng và bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiều hình thức tổ chức qun
góp được nhân dân tích cực hưởng ứng. Nhiều người góp cả những chiếc vịng,
khun tai, nhẫn vàng, vật kỉ niệm quý nhất của đời mình cho cách mạng. Nhân
dân xã Song Vân (Yên Thế nay thuộc Tân Yên ) góp 5 đồng cân vàng, 20 cân
bạc trắng; Tân Dĩnh (Lạng Giang) góp 4,5 lạng vàng, Hồng An (Hiệp Hồ)
góp một số khuyên vàng, xà tích và một số mâm thau bạc trắng. Ngồi ra nhân
dân cịn góp hàng tấn đồng gồm nhiều mâm thau, nồi, đỉnh, chuông, tượng đồng
đen, v.v.. Ở một số nơi, nhân dân dùng kiệu rước vàng, bạc,…đến trụ sở Uỷ ban
nhân dân cách mạng để ủng hộ Chính phủ.
Với đoạn tư liệu đó, GV gợi mở để HS suy nghĩ về truyền thống của Bắc
Giang nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung, trách nhiệm của bản thân trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Bài 18. (SGK Lịch sử 12- Ban cơ bản)
Trước những hành động khiêu khích của Pháp ở Hải phòng (11/1946), Hà
Nội (12/1946), trong hai ngày 18 và 19/12/1946, Thường vụ TƯ Đảng đã họp
quyết định phát động tồn quốc kháng chiến và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ra
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Để cụ thể hóa sự kiện này ở Bắc Giang, cần
sử dụng tài liệu LSĐP giúp HS hiểu rằng, Bắc Giang là địa bàn quan trọng
trong cuộc chiến đấu kìm chân địch trong đô thị. Ngay từ đầu, quân dân Bắc
Giang đã anh dũng chiến đấu, xông pha dưới làn mưa đạn, bất chấp cái chết để
giữ thành phố. Đây là những hình ảnh đẹp, tác động khơng nhỏ đến tình cảm
HS.
24


×