Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Luận văn thạc sỹ: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty TNHH Toàn Cầu Khải Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.48 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN HẬU CẦN
VŨ THỊ THANH HƯƠNG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM
HỮU HẠN TOÀN CẦU KHẢI MINH
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60 34 02 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Phan Duy Minh
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Vũ Thị Thanh Hương
CHỮ VIẾT TẮT
DN Doanh nghiệp
ĐTLĐ Đối tượng lao động
HQKD Hiệu quả kinh doanh
KD Kinh doanh
SLĐ Sức lao động
SXKD Sản xuất kinh doanh
TLLĐ Tư liệu lao động
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TSCĐ Tài sản cố định
TSLĐ Tài sản lưu động
VCĐ Vốn cố định


VCSH Vốn chủ sở hữu
VKD Vốn kinh doanh
VLĐ Vốn lưu động
XNK Xuất nhập khẩu
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN KINH
DOANH VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH
4
1.1. Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp 4
1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh 4
1.1.2. Vai trò của vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp 8
1.1.3. Phân loại vốn kinh doanh 9
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Doanh nghiệp 14
1.2.1. Khái niệm hiệu quả, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp
14
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của doanh nghiệp
18
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh trong doanh nghiệp
24
1.2.4. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 31
Kết luận Chương 1 33
Chương 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
TOÀN CẦU KHẢI MINH
34

2.1. Khái quát về công ty TNHH Toàn Cầu Khải Minh 34
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty 34
2.1.2. Những loại hình dịch vụ mà công ty cung cấp 35
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý 36
2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của
Công ty
38
2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty 42
2.2.1. Thực trạng quản lý vốn của Công ty 42
2.2.2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty 52
5
2.3. Đánh giá khái quát hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh 62
2.3.1. Những kết quả đạt được 62
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 64
Kết luận Chương 2 67
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN TOÀN CẦU KHẢI MINH
68
3.1. Định hướng phát triển của Công ty 68
3.1.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của Công ty
68
3.1.2. Định hướng của Công ty thời gian tới 69
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
Công ty
70
3.2.1. Chủ động trong công tác huy động và sử dụng vốn kinh
doanh
70

3.2.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định 73
3.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động 74
3.2.4. Các giải pháp khác 80
3.3. Kiến nghị 85
Kết luận Chương 3 87
KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp được coi là một tế bào
của nền kinh tế với nhiệm vụ là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho xã hội, từ đó đạt
được mục đích tối đa hóa lợi nhuận của mình. Để tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp buộc phải có một lượng vốn nhất
định. Như vậy vốn là điều kiện không thể thiếu cho việc hình thành và phát
triển của doanh nghiệp, mặt khác trong điều kiện của nền kinh tế hiện nay,
các doanh nghiệp đang tồn tại trong một môi trường cạnh tranh và hoàn toàn
tự chủ thì vấn đề vốn ngày càng trở nên quan trọng, nó quyết định sự thành
công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường.
Trong một nền kinh tế đang nóng như hiện nay, nhu cầu về vốn cho
nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp nói riêng là một vấn đề mang
tính cấp thiết và đòi hỏi sự quan tâm lớn của các doanh nghiệp và Nhà nước.
Nếu như doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả và không đảm bảo được nhu
cầu về vốn thì khó có thể tồn tại và phát triển được, ngay cả khi đó là một
doanh nghiệp Nhà nước. Ngược lại, khi đã đảm bảo được nhu cầu về vốn rồi
thì việc sử dụng làm sao cho hiệu quả cũng không phải là vấn đề đơn giản.
Trên thực tế khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường thì có nhiều
doanh nghiệp thích nghi được và kinh doanh hiệu quả, song bên cạnh đó

nhiều doanh nghiệp với sức ì lớn đã không có được sự thay đổi kịp thời dẫn
đến tình trạng thua lỗ, phá sản. Tuy nhiên một lý do phải kể đến và là một
trong những nguyên nhân chính là do công tác quản lý vốn kinh doanh của
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy vấn đề rất quan trọng đặt ra
với các doanh nghiệp
8
hiện nay là phải xác định và đáp ứng được đầy đủ nhu cầu về vốn và sử
dụng vốn đó sao cho có hiệu quả.
Xuất phát từ ý nghĩa to lớn của hiệu quả vốn kinh doanh đối với doanh
nghiệp, tác giả quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh của Công ty TNHH Toàn Cầu Khải Minh” để nghiên cứu cho luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý luận vốn và hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh, phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh tại Công ty TNHH Toàn Cầu Khải Minh, đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa, thu thập, tổng hợp, xử lý và sử dụng thông tin, tài liệu
phù hợp, kết hợp giữa lý luận, kiến thức khoa học quản lý kinh tế - tài chính
với thực tiễn để nhằm mục đích đề xuất được các giải pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn phù hợp và có tác dụng thiết thực đối với Công ty TNHH
Toàn Cầu Khải Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng
vốn
kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Phạm vi nghiên cứu là tại Công ty TNHH Toàn Cầu Khải Minh giai
đoạn 2011 – 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin để luận giải các vấn đề
liên quan; phương pháp thống kê, so sánh kết hợp với phương pháp tổng hợp,
9
phân tích tình hình thực tiễn, khảo sát thu thập tài liệu thực tế tại Công ty
TNHH Toàn Cầu Khải Minh.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung chính của luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vốn kinh doanh và hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Toàn Cầu Khải Minh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Toàn Cầu Khải Minh.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN KINH DOANH VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH
1.1. Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản: Sức lao động, đối
tượng lao động và tư liệu lao động để tạo ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Tuy nhiên muốn tiến hành được quá trình trên thì bất kỳ doanh nghiệp nào
cũng phải có một lượng tư bản nhất định để mua sắm các yếu tố đầu vào cần
thiết phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, lượng tư bản này được gọi là
vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh thường xuyên vận động và tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau trong các khâu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó có thể là

tiền, máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành
phẩm… khi kết thúc một vòng luân chuyển thì vốn kinh doanh lại trở về hình
thái tiền tệ. Như vậy, với số vốn ban đầu, nó không chỉ được bảo tồn mà còn
được tăng lên do hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi.
Như vậy vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm mục đích sinh lời.
Doanh nghiệp muốn phát triển được thì số tiền thu được do tiêu thụ các
sản phẩm phải đảm bảo bù đắp được toàn bộ các chi phí bỏ ra và có một phần
lợi nhuận, muốn vậy số tiền bỏ ra ban đầu phải được sử dụng một cách có
hiệu quả.
11
Quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện một
cách liên tục và không ngừng, tạo ra một vòng tuần hoàn và chu chuyển vốn.
K.Mark đã mô tả quá trình chu chuyển của tư bản theo mô hình sau:
T - H…SX…H’- T’
Vòng tuần hoàn của vốn được bắt đầu từ hình thái tiền tệ (T) chuyển
sang hình thái hàng hóa (H) ở các dạng TLLĐ và ĐTLĐ, qua quá trình sản
xuất vốn được biểu hiện dưới hình thái hàng hóa (H’) và cuối cùng lại trở về
hình thái tiền tệ (T’). Do sự luân chuyển không ngừng của vốn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tồn tại dưới nhiều hình thức
khách nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên vốn còn là biểu hiện của
những tài sản vô hình như: bằng sáng chế, phát minh, bản quyền tác giả, lợi
thế thương mại.
- Đặc trưng của vốn kinh doanh
+ Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản: Điều này có nghĩa vốn
là sự biểu hiện bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: Nhà
xưởng, máy móc, thiết bị, đất đai, bằng phát minh, sáng chế Với tư cách này
các tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng nó không bị mất
đi mà thu hồi được giá trị.

+ Vốn luôn vận động để sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng
tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để trở thành vốn thì đồng tiền phải được
đưa vào hoạt động kinh doanh để sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có
thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của
vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền. Đồng vốn đến điểm xuất phát mới với
giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên tắc đầu tư, sử dụng, bảo toàn và phát triển
vốn. Nói một cách khác, vốn kinh doanh trong quá trình tuần hoàn luôn có ở
giai đoạn của quá trình tái sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang
12
dạng khác. Các giai đoạn này được lặp đi lặp lại theo một chu kỳ, mà sau mỗi
chu kỳ vốn kinh doanh được đầu tư nhiều hơn. Chính yếu tố này đã tạo ra sự
phát triển của các doanh nghiệp theo quy luật tái sản xuất mở rộng.
+ Trong quá trình vận động vốn không tách rời chủ sở hữu: Mỗi đồng
vốn đều có chủ sở hữu nhất định, nghĩa là không có những đồng vốn vô chủ,
ở đâu có đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ có sự chi tiêu, lãng phí, kém hiêu quả. Ở
đây vẫn có sự phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, đó là hai quyền
năng khác nhau. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người sở hữu và người sử
dụng vốn có thể đồng nhất hay tách rời. Song, dù trường hợp nào đi chăng
nữa, người sở hữu vốn vẫn được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và phải được tôn
trọng quyền sở hữu vốn của mình. Có thể nói đây là một nguyên tắc cực kỳ
quan trọng trong việc huy động, quản lý và sử dụng vốn. Nó cho phép huy
động được vốn nhàn rỗi trong dân cư vào sản xuất kinh doanh, đồng thời quản
lý và sử dụng vốn có hiệu quả. Nhận thức được đặc trưng này sẽ giúp doanh
nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng: Muốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, vốn phải được tập
trung thành một lượng đủ lớn để mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu
cho sản xuất và chủ động trong các phương án sản xuất kinh doanh. Muốn
làm được điều đó, các doanh nghiệp không chỉ khai thác các tiềm năng về vốn
của mình, mà phải tìm cách thu hút vốn từ nhiều nguồn khác như phát hành

cổ phiếu, góp vốn liên doanh liên kết
+ Vốn có giá trị về mặt thời gian: Một đồng hôm nay có giá trị hơn giá
trị đồng tiền ngày hôm sau, do giá trị của đồng tiền chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố như: đầu tư, rủi ro, lạm phát, chính trị Trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, vấn đề này không được xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước đã tạo ra sự ổn
định của đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế
13
thị trường cần phải xem xét về yếu tố thời gian của đồng vốn, bởi do ảnh
hưởng sự biến động của giá cả thị trường, lạm phát nên sức mua của đồng
tiền ở các thời điểm là khác nhau.
+ Vốn là loại hàng hoá đặc biệt: Những người sẵn có vốn có thể đưa
vốn vào thị trường, còn những người cần vốn thì vay. Nghĩa là những người
đi vay được quyền sử dụng vốn của người cho vay. Người đi vay phải mất
một khoản tiền trả cho người vay. Đây là một khoản chi phí sử dụng vốn mà
người đi vay phải trả cho người cho vay, hay nói cách khác chính là giá của
quyền sử dụng vốn. Khác với các loại hàng hoá thông thường khác, “hàng hoá
vốn” khi bán đi sẽ không mất quyền sử hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong
một thời gian nhất định. Việc mua bán này diễn ra trên thị trường tài chính,
giá mua bán tuân theo quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường.
+ Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền
của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô
hình như: Vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền, phát
minh sáng chế, bí quyết công nghệ Cùng với sự phát triển của kinh tế thị
trường thì khoa học kỹ thuật, công nghệ cũng phát triển mạnh mẽ. Điều này
làm cho tài sản vô hình ngày càng đa dạng phong phú, đóng góp một phần
không nhỏ trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Từ những đặc trưng trên cho phép ta phân biệt giữa tiền và vốn: một số
quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp và vốn. Vốn kinh doanh được sử dụng cho
hoạt động sản xuất kinh doanh tức là cho mục đích tích luỹ chứ không phải
mục đích tiêu dùng như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh

được ứng ra cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh và phải được thu về khi chu
kỳ kinh doanh kết thúc. Và lại được ứng cho chu kỳ tiếp theo. Vì vậy, kinh
doanh không thể “tiêu dùng” như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Mất
vốn kinh doanh đồng nghĩa với nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Ngoài ra, muốn
14
có vốn thì phải có tiền song có tiền chưa hẳn là đã có vốn. Tiền được coi là vốn
phải thoả mãn những điều kiện sau:
- Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hóa nhất định. Nói cách
khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
- Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ để
tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Khi có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời.
Điều kiện 1 và 2 được coi là điều kiện ràng buộc, điều kiện cần để trở
thành vốn, điều kiện 3 được coi là đặc trưng cơ bản nhất của vốn. Nếu tiền
không vận động thì đó là đồng tiền “chết”, còn vận động mà không nhằm mục
đích sinh lời thì cũng không phải là vốn.
Từ những phân tích trên có thể nêu khái niệm tổng quát về vốn kinh
doanh như sau:
“Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời.”
1.1.2. Vai trò của vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, vấn đề toàn cầu hoá về phát triển công nghệ, thông tin Việt Nam
muốn tham gia vào quá trình toàn cầu hoá thì cũng sẽ phải đối mặt với những
vấn đề mà thế giơí đang phải đối mặt. Vì vậy, việc các doanh nghiệp Việt
Nam có đủ khả năng cạnh tranh và hội nhập hay không còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: Yếu tố về vốn, trình độ máy móc thiết bị, công nghệ, năng
lực đội ngũ cán bộ, tỷ suất lợi nhuận trên vốn trong đó, vốn và hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp có vai trò

đặc biệt quan trọng. Vốn là tiền đề cho sự ra đời của doanh nghiệp, là cơ sở
để doanh nghiệp mở rộng quy mô SXKD, tạo công ăn việc làm cho người lao
15
động, tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị sản xuất kinh doanh.
Nếu thiếu vốn thì qúa trình SXKD của doanh nghiệp sẽ bị ngưng trệ, đồng
thời kéo theo hàng loạt các tác động tiêu cực khác đến bản thân doanh nghiệp
và đời sống của người lao động. Vai trò của vốn được thể hiện rõ nét trên các
mặt sau:
- Về mặt pháp lý: Một doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện
đầu tiên là doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định mà lượng vốn này
tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định, khi đó địa vị pháp lý của doanh
nghiệp mới được xác lập. Trong trường hợp quá trình SXKD, vốn doanh
nghiệp không đạt được điều kiện của pháp luật quy định thì hoạt động SXKD
đó sẽ bị chấm dứt như: phá sản hoặc sáp nhập doanh nghiệp. Như vậy, có thể
xem vốn là một trong những cơ sở quan trọng để đảm bảo sự tồn tại tư cách
pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.
- Về mặt kinh tế: Trong hoạt động SXKD, vốn là một trong những yếu
tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nó không những đảm
bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ để phục vụ
cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động SXKD được diễn ra
thường xuyên và liên tục. Vốn bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh
được diễn ra liên tục, giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên
thị trường, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - một nền kinh tế phát triển theo
xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập. Ngoài ra, vốn còn là một trong những điều
kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao động,
nguồn hàng hoá, mở rộng, phát triển trên thị trường, mở rộng lưu thông và
tiêu thụ hàng hoá, là chất keo dính kết quá trình và quan hệ kinh tế, là dầu bôi
trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động. Trong quá trình SXKD, vốn tham gia vào
tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ và cuối cùng nó lại trở về hình thái
ban đầu là tiền tệ. Như vậy, sự luân chuyển vốn giúp doanh nghiệp thực hiện

được hoạt động tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của mình.
16
1.1.3. Phân loại vốn kinh doanh
Trong quá trình SXKD, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư,
nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả lương nhân viên Đó là chi
phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được mục tiêu kinh doanh. Nhưng vấn đề
đặt ra là chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên, liên tục gắn liền với
quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn một cách tối đa nhằm đạt mục tiêu kinh doanh
lớn nhất. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí,
hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí ở từng khâu sản xuất và toàn doanh
nghiệp, cần phải tiến hành phân loại vốn. Phân loại vốn có tác dụng kiểm tra,
phân tích quá trình phát sinh những loại chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra
để tiến hành SXKD. Có nhiều cách phân loại vốn, tuỳ thuộc vào mỗi góc độ
khác nhau ta có các cách phân loại vốn khác nhau.
1.1.3.1. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn
Theo tiêu thức phân loại này, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được
chia thành hai nguồn: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
- Vốn chủ sở hữu:
Là toàn bộ giá trị vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số
vốn này không phải là một khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết
thanh toán. Tùy theo loại hình doanh nghiệp vốn chủ sở hữu được hình thành
từ các nguồn vốn khác nhau. Bao gồm:
+ Vốn pháp định: là số vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp
do pháp luật quy định đối với những ngành cụ thể. Đối với doanh nghiệp Nhà
nước, nguồn vốn này do Ngân sách Nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân
sách Nhà nước như: các khoản chênh lệch tăng giá, làm tăng giá trị tài sản,
tiền vốn trong doanh nghiệp, các khoản phải nộp nhưng được để lại cho
doanh nghiệp.
17

+ Vốn bổ sung: là vốn chủ yếu do doanh nghiệp được lấy một phần từ
lợi nhuận để lại doanh nghiệp. Nó được thực hiện dưới hình thức lấy một
phần từ quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Ngoài ra đối với doanh
nghiệp Nhà nước, còn được để lại toàn bộ số khấu hao cơ bản tài sản cố định
để đầu tư, thay thế đổi mới tài sản cố định. Đây là nguồn tự tài trợ cho nhu
cầu vốn của doanh nghiệp.
- Nợ phải trả:
Là khoản vốn đầu tư được hình thành từ nguồn vốn vay, chiếm dụng từ
các đơn vị cá nhân, sau một thời gian nhất định Doanh nghiệp phải hoàn trả
cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Vốn vay có thể sử dụng hai nguồn chính:
Vay của các tổ chức tài chính và phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì mức độ rủi ro càng cao,
nhưng để phục vụ SXKD thì đây là một nguồn vốn cần thiết, mức độ huy
động tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp và tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp.
Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn trên
để đảm bảo cho nhu cầu Vốn kinh doanh của doanh nghiệp, để kết hợp hai
nguồn vốn này phụ thuộc vào ngành mà doanh nghiệp hoạt động cũng như
quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh
tế cũng như tình hình thực tế tại doanh nghiệp.
1.1.3.2. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn
Theo căn cứ này vốn của doanh nghiệp bao gồm hai loại là vốn lưu
động và vốn cố định.
- Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền của TSCĐ, TSCĐ dùng trong
kinh doanh, tham gia hoàn toàn vào quá trình SXKD nhưng về mặt giá trị thì
chỉ có thể thu hồi dần sau nhiều chu kỳ SXKD.
18
VCĐ biểu hiện dưới hai hình thái:
+ Hình thái hiện vật: Đó là toàn bộ TSCĐ dùng trong SXKD của các
doanh nghiệp. Nó bao gồm nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ

+ Hình thái tiền tệ: Đó là toàn bộ TSCĐ chưa khấu hao và vốn khấu
hao khi chưa được sử dụng để sản xuất TSCĐ, là bộ phận VCĐ đã hoàn thành
vòng luân chuyển và trở về hình thái tiền tệ ban đầu.
- Vốn lưu động: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động của doanh
nghiệp. VLĐ tham gia hoàn toàn vào quá trình kinh doanh và giá trị có thể trở
lại hình thái ban đầu sau mỗi vòng chu chuyển của hàng hoá. Nó là bộ phận
của vốn sản xuất, bao gồm giá trị nguyên liệu, vật liệu , tiền lương Những
giá trị này được hoàn lại hoàn toàn cho chủ doanh nghiệp sau khi đã bán hàng
hoá.Trong quá trình sản xuất, bộ phận giá trị SLĐ biểu hiện dưới hình thức
tiền lương đã bị người lao động hao phí nhưng được tái hiện trong giá trị mới
của sản phẩm, còn giá trị nguyên, nhiên vật liệu được chuyển toàn bộ vào sản
phẩm trong chu kỳ SXKD đó. Vốn lưu động ứng với loại hình doanh nghiệp
khác nhau thì khác nhau. Đối với doanh nghiệp thương mại thì VLĐ bao
gồm: VLĐ định mức và VLĐ không định mức. Trong đó:
+ VLĐ định mức: Là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động SXKD
của các doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hóa và vốn
phi hàng hoá để phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
+ VLĐ không định mức: Là số VLĐ có thể phát sinh trong quá trình
kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính toán định mức được như tiền gửi
ngân hàng, thanh toán tạm ứng Đối với doanh nghiệp sản xuất, VLĐ bao
gồm: giá trị vật tư, nguyên nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ là đầu vào cho
quá trình SXKD của doanh nghiệp.
Không những thế, tỷ trọng, thành phần, cơ cấu của các loại vốn này
trong các doanh nghiệp khác nhau cũng khác nhau. Nếu như trong doanh
19
nghiệp thương mại tỷ trọng của loại vốn này chiếm chủ yếu trong nguồn vốn
kinh doanh thì trong doanh nghiệp sản xuất tỷ trọng VCĐ lại chiếm chủ yếu.
Trong hai loại vốn này, VCĐ có đặc điểm chu chuyển chậm hơn VLĐ. Trong
khi VCĐ chu chuyển được một vòng thì VLĐ đã chu chuyển được nhiều vòng.
Việc phân chia theo cách thức này giúp cho các doanh nghiệp thấy

được tỷ trọng, cơ cấu từng loại vốn. Từ đó, doanh nghiệp chọn cho mình một
cơ cấu vốn phù hợp.
1.1.3.3. Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn
Theo tiêu thức này, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành hai
nguồn: nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
+ Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn mang tính chất lâu dài và ổn
định mà doanh nghiệp có thể sử dụng, nguồn này được dùng cho việc hình
thành tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho doanh nghiệp, nguồn vốn
thường xuyên bao gồm nguồn vốn riêng và các khoản vay dài hạn.
+ Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng cho nhu cầu vốn có tính chất tạm thời, bất
thường phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Tài sản = Tài sản lưu động + Tài sản cố định
Nguồn vốn = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Trong đó:
Vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn
Vốn thường xuyên = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xem xét,
huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng
đầy đủ, kịp thời vốn sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của doanh nghiệp.
20
1.1.3.4. Căn cứ vào phạm vi huy động và sử dụng vốn
Theo cách phân loại này, vốn kinh doanh được chia thành nguồn vốn
bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Việc doanh nghiệp huy động sử
dụng nguồn vốn bên trong có ưu điểm là doanh nghiệp được quyền tự chủ sử
dụng vốn cho sự phát triển của mình mà không phải chi phí cho việc sử dụng
vốn. Tuy nhiên, cũng chính vì lợi thế về việc không phải trả chi phí khi sử

dụng vốn bên trong dẫn đến việc doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả.
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh
nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh. Loại nguồn vốn này bao gồm: Vốn vay
ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu, nợ người bán
và các khoản nợ khác
Ưu điểm của nguồn vốn này là tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu tài
chính linh động hơn. Nếu doanh nghiệp đạt được mức doanh lợi cao hơn chi
phí sử dụng vốn càng nhiều thì việc huy động vốn từ bên ngoài nhiều sẽ giúp
cho doanh nghiệp phát triển mạnh hơn.
Nhược điểm: doanh nghiệp phải trả lợi tức tiền vay và hoàn trả vay
đúng thời hạn, nếu doanh nghiệp sử dụng vốn sản xuất kinh doanh kém hiệu
quả thì khoản nợ phải trả trở thành gánh nặng và doanh nghiệp phải chịu rủi
ro lớn.
Như vậy xuất phát từ những ưu nhược điểm trên ta thấy việc sử dụng
kết hợp nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài một cách hợp lý sẽ đem
lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh tế cao và rủi ro là thấp nhất.
21
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của
doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm hiệu quả
Để làm rõ khái niệm hiệu quả sử dụng Vốn kinh doanh, cần tìm hiểu
khái niệm hiệu quả. Có nhiều quan niệm khác nhau về hiệu quả.
Thứ nhất, theo Đại từ điển tiếng Việt thì: "Hiệu quả là kết quả đích
thực". Khái niệm này đã coi kết quả đồng nghĩa với hiệu quả. Trong đó, "kết
quả là đại lượng tuyệt đối có được sau một thời kỳ, không cho phép so sánh
với chi phí bỏ ra”.
Thứ hai, từ góc độ doanh nghiệp, một số tác giả cho rằng: "Hiệu quả
được thể hiện bằng tỷ số giữa đầu ra và đầu vào". Hạn chế của quan niệm

này là nghiêng về mặt đặc trưng kinh tế kỹ thuật và coi hiệu quả đồng nhất
với năng suất. Trong đó "năng suất là hiệu quả của lao động trong quá trình
sản xuất, làm việc, được đo bằng số lượng sản phẩm hay khối lượng công
việc làm ra được trong một đơn vị nhất định".
Thứ ba, từ góc độ nền kinh tế, Brandley R. Schiller cho rằng: hiệu quả
có nghĩa là "thu được nhiều nhất từ cái mà chúng ta có". Ngược lại với hiệu
quả là phi hiệu quả. Hạn chế của định nghĩa là khó xác định mặt lượng của
hiệu quả và không so sánh được hiệu quả của các doanh nghiệp với nhau.
Theo giáo trình Hiệu quả và quản lý Nhà nước: "Hiệu quả là thuật ngữ
dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu hoạt động của
chủ thể và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó trong những điều kiện nhất
định”. Nói cách khác, hiệu quả là đại lượng tương đối, phản ánh mối quan hệ
so sánh giữa đầu ra và đầu vào xét dưới góc độ giá trị.
Nếu ký hiệu: - K: kết quả nhận được theo hướng mục tiêu,
22
- C: chi phí bỏ ra,
- H: hiệu quả,
Thì: - Hiệu quả tuyệt đối: H = K - C
- Hiệu quả tương đối: H = K/C
Kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong kinh
doanh càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì càng có lợi bấy nhiêu.
Ý nghĩa của hiệu quả:
- Một là, hiệu quả phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của
chủ thể kinh tế để đạt được lợi ích cao nhất với chi phí thấp nhất.
- Hai là, hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn
các phương án hành động.
1.2.1.2. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Mục tiêu đầu tiên và cũng là mục tiêu cuối cùng của một DN khi tiến
hành hoạt động KD là tối đa hoá lợi nhuận hay nói cách khác là tối đa hoá giá
trị DN. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi DN phải tìm các biện pháp nhằm

khai thác và sử dụng một cách triệt để những nguồn lực bên trong và ngoài
DN. Chính vì vậy vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VKD phải được DN đặt
lên hàng đầu, mang tính quyết định đối với quá trình KD của DN.
Từ đó có thể hiểu: "Hiệu quả sử dụng vốn là đại lượng so sánh giữa
kết quả đạt được với số vốn bỏ ra để đạt được kết quả đó, trong những điều
kiện nhất định".
- Xét về mặt định lượng: Hiệu quả sử dụng VKD biểu hiện ở mối tương
quan giữa kết quả thu được và chi phí (vốn) bỏ ra. Người ta chỉ thu được hiệu
quả khi kết quả đầu ra lớn hơn chi phí (vốn) đầu vào. Hiệu quả càng lớn,
chênh lệch này càng cao.
23
- Xét về mặt định tính: Hiệu quả sử dụng VKD cao biểu hiện sự cố
gắng nỗ lực, trình độ quản lý của mỗi khâu, mỗi bộ phận trong DN, sự gắn bó
của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và
mục tiêu chính trị - xã hội.
Để hiểu rõ bản chất của hiệu quả sử dụng vốn, cần phân biệt hiệu quả
sử dụng VKD với HQKD.
"Hiệu quả kinh doanh là đại lượng so sánh giữa kết quả với chi phí về
nguồn lực. Nó phản ánh trình độ sử dụng nguồn nhân tài, vật lực của doanh
nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi
phí thấp nhất".
Xét về phạm vi: HQKD bao hàm hiệu quả sử dụng VKD. Hiệu quả sử
dụng VKD chỉ phản ánh hiệu quả của một nhân tố tác động đến HQKD.
- Xét về chỉ tiêu đánh giá: Chỉ tiêu tổng hợp của HQKD là đại lượng so
sánh giữa tổng hợp kết quả thu được với tổng chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu tổng hợp
của hiệu quả sử dụng vốn là đại lượng so sánh giữa kết quả thu được với số
vốn tạo ra nó.
Như vậy, hiệu quả sử dụng VKD là một mặt của hiệu quả kinh doanh
nhưng không phải là hiệu quả kinh doanh.
- Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng VKD trong nền kinh tế

chỉ huy
Trong thời kỳ bao cấp, các nhà quản lý ít quan tâm đến hiệu quả sử
dụng vốn, họ cho rằng vốn không phải là yếu tố cơ bản của sản xuất, không
thể sinh lời, không quan tâm đến tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn. Các nhà
quản lý luôn quan tâm đến các chỉ tiêu pháp lệnh về mặt hiện vật như: mức độ
thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh, sự tiết kiệm chi phí trong giá thành sản
phẩm, khối lượng giá trị sử dụng mà doanh nghiệp cung cấp cho nền kinh tế
Đây chính là sự lẫn lộn giữa chỉ tiêu kết quả với chỉ tiêu hiệu quả vì kết quả
24
là đại lượng tuyệt đối có được sau một thời kỳ, không cho phép so sánh với
chi phí bỏ ra.
- Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng VKD trong nền kinh tế thị trường
Đối với DN hoạt động trong cơ chế thị trường, vai trò và bản chất của
VKD được các nhà kinh tế nhìn nhận, đề cập một cách đầy đủ hơn, VKD
được coi là một trong những nhân tố tạo ra giá trị thặng dư. Tuy nhiên, khi đi
vào nghiên cứu các tiêu chuẩn về hiệu quả sử dụng VKD theo cơ chế thị
trường, lại có nhiều cách đánh giá và đưa ra các tiêu chuẩn khác nhau.
Kết quả lợi ích tạo ra do sử dụng VKD phải thỏa mãn ba yêu cầu: Một
là, đáp ứng được lợi ích của DN; hai là kết quả có được phải phù hợp với
mục tiêu kinh doanh; ba là góp phần nâng cao được lợi ích của nền kinh tế.
Ba yêu cầu này là bắt buộc, bất kỳ một DN nào KD mang lại nhiều lợi
nhuận cho mình mà không phù hợp với mục tiêu KD, hoặc làm tổn hại đến lợi
ích chung của nền kinh tế xã hội, sẽ không được phép tồn tại. Ngược lại, nếu
hoạt động đem lại lợi ích cho nền kinh tế, còn bản thân nó bị thua thiệt, lỗ vốn
sẽ làm cho nó bị phá sản.
Kết quả tạo ra do việc sử dụng VKD phải là kết quả phù hợp với lợi ích
doanh nghiệp và lợi ích kinh tế xã hội.
Chỉ số chi phí trong chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VKD phải thỏa mãn
được hai yêu cầu: Một là, tối thiểu được số VKD; hai là, tối thiểu về thời gian
sử dụng VKD.

Thực tế cho thấy, với cùng một kết quả như nhau mà sử dụng một
lượng vốn ít hơn nhưng kéo dài thời gian sử dụng thì việc sử dụng số vốn đó
chưa hẳn đã có hiệu quả.
Từ sự phân tích trên có thể khái niệm: Tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng
VKD là sự tối đa hóa kết quả lợi ích và tối thiểu hóa số vốn và thời gian sử
dụng trong một giới hạn về nguồn nhân lực, vật lực.
25

×