Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục học sinh bằng hình thức kỷ luật tích cực trường tiểu học đa phươc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.73 KB, 10 trang )

1

MÔ TẢ GIẢI PHÁP

Tên sáng kiến: Một số biện pháp giáo dục học sinh bằng hình thức kỷ
luật tích cực.
Mã số:
1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Những năm gần đây, thông qua đài phát thanh, báo chí cũng như thực tế
giảng dạy, có một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận rằng còn đó một bộ phận
giáo viên vẫn áp dụng nhiều hình thức kỷ luật đối với học sinh của mình chưa
phù hợp. Tuy chỉ là “con sâu làm sầu nồi canh” song vẫn gây ra những bất bình
trong xã hội. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng trên?
Có nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản nhất là giáo viên còn nóng vội, thiếu
kinh nghiệm, áp lực công việc, gia đình,… Và còn rất nhiều lí do khác nữa để họ
tiếp tục duy trì cách giáo dục học sinh bằng cách “thương cho roi cho vọt”.
Chính những điều này đã tạo nên nhiều điều “nhức nhối” trong ngành giáo dục
mà lẽ ra không nên có.
Vậy kỷ luật là gì? Kỷ luật là biện pháp thực hiện nhằm thay đổi hành vi
tiêu cực ở trẻ. Kỷ luật có 2 loại: kỷ luật tiêu cực và kỷ luật tích cực.
- Giáo dục học sinh bằng biện pháp kỉ luật tiêu cực là áp dụng những hình
thức xúc phạm thân thể và tinh thần của học sinh như: đánh vào tay, quỳ gối,
chửi bới, mỉa mai, bỏ mặc hoặc xa lánh các em
- Giáo dục học sinh bằng biện pháp kỷ luật tích cực là giáo dục học sinh
theo nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của học sinh, không làm tổn thương đến thể
xác và tinh thần, giáo dục phù hợp với tâm sinh lí của học sinh.
Vấn đề cấp thiết hiện nay đang đặt ra là người giáo viên phải nghiên cứu,
tìm tòi những biện pháp kỷ luật tích cực hơn để giáo dục học sinh.
+ Ưu điểm của giải pháp:
- Những hình thức kỷ luật này đáp ứng được yêu cầu của phương pháp giáo
dục mới, đáp ứng được những quy định của ngành, của điều lệ nhà trường về


cách giáo dục học sinh, phù hợp với thực tiễn dạy học. Giúp người giáo viên
nâng cao uy tính, đạo đức người thầy trong xã hội nói chung và trong lòng từng
học sinh nói riêng.
- Giúp giáo viên vận dụng vào việc giáo dục học sinh theo hướng tích cực,
tạo mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên và học sinh, giữa giáo viên với phụ
huynh học sinh, giữa nhà trường và xã hội. Góp phần vào việc thay thế hình
thức giáo dục theo lối cũ bằng những hình thức giáo dục theo hướng tích cực
hơn.
- Đề tài còn cung cấp một số kinh nghiệm để áp dụng các hình thức kỷ luật
tích cực đã nêu đạt hiệu quả cao nhất. Một số kinh nghiệm giúp giáo viên tự tin
đứng trên bục giảng với tâm lý thoải mái, nhẹ nhàng; rèn tính nhẫn nại, bao
dung. Từ đó, không ngừng phấn đấu, rèn luyện để góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục học sinh.
- Tạo cho học sinh học tập trên lớp với sự hứng thú, thân thiện, vui tươi,
nhẹ nhàng. Phát huy khả năng tự nhận thức, tự làm chủ bản thân của học sinh.
+ Khuyết điểm của giải pháp:
2

- Trong thực tế vẫn còn một bộ phận giáo viên giảng dạy trên lớp theo hướng
rất nghiêm khắc, mệnh lệnh và áp đặt. Đây là một trong những nguyên nhân
chính làm giảm sự hứng thú học tập của học sinh, làm hạn chế khả năng sáng
tạo của các em.
- Để áp dụng các biện pháp này thành công giáo viên cần nhiều thời gian, sự
kiên trì, nhẫn nại để tự điều chỉnh bản thân mình và để giáo dục học sinh.
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Với mong muốn góp phần vào việc tìm kiếm những biện pháp giáo dục,
những hình thức kỷ luật tích cực giúp cho giáo viên vận dụng trong quá trình
giáo dục học sinh của mình. Góp phần tạo cho học sinh một môi trường học tập
thân thiện, tích cực, lành mạnh và từ đó giúp nâng cao chất lượng học tập cho

học sinh chính là mục đích khi tôi thực hiện đề tài này.
2.2. Điểm mới của giải pháp:
Kết quả nghiên cứu của đề tài mang tính chất mới mẻ vì đây là lĩnh vực
tương đối mới, trong thực tế có rất ít đề tài đề cập đến.
Đề tài nêu bật được sự khác nhau của những hình thức kỉ luật không tích cực
và những hình thức kỉ luật tích cực cũng như kết quả mà chúng mang lại.
Đề tài là sự tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm và chắt lọc về các biện pháp giáo
dục học sinh bằng hình thức kỷ luật tích cực từ hoạt động thực tiễn, nhằm đúc
kết thành một số kinh nghiệm trong giáo dục học sinh mang lại hiệu quả thiết
thực nhất. Các giải pháp được đề cập cụ thể, rõ ràng, dễ áp dụng vào thực tế.
Đề tài còn nêu được một số kinh nghiệm giúp giáo viên áp dụng những hình
thức kỉ luật đã nêu một cách hiệu quả.
Giúp giáo viên thay đổi hình thức xử lý những sai phạm của học sinh theo
hướng tích cực và kích thích giáo viên luôn tìm tòi sáng tạo trong công tác giảng
dạy và chủ nhiệm; kết hợp vận dụng công nghệ thông tin trong báo cáo kết quả
học tập, thành tích, hạn chế,…. của học sinh thông qua tin nhắn từ mạng điện
thoại.
Phần kiến nghị đối với nhà trường cụ thể và thiết thực, dễ thực hiện.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần thiết thực trong việc đổi mới
phương pháp giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
2.3. Giải pháp đã thực hiện:
* Giải pháp kỹ thuật: Giáo viên vận dụng kỹ thuật, nghệ thuật trong giao
tiếp. Giao tiếp với lãnh đạo trường, trình bày khả năng vận dụng của sáng kiến
kinh nghiệm. Giao tiếp với phụ huynh học sinh, giao tiếp với học sinh trong hoạt
động tập thể và trong giảng dạy. Giao tiếp với các đồng nghiệp để trình bày và
tham khảo ý kiến những việc sẽ thực hiện.
- Kỹ thuật trong giáo dục và trong dạy học, giúp từng đối tượng học sinh tiếp
thu một cách tích cực, chủ động và sáng tạo những nội dung mà giáo viên muốn
truyền tải.
* Giải pháp quản lý: Xây dựng kế hoạch để tổ chức thực hiện các biện pháp

đã đề ra, kiểm tra việc thực hiện. Trên cơ sở đó nhận định, đánh giá kết quả đạt
được trong từng thời gian. Kịp thời động viên, tuyên dương những tiến bộ,
3

những thành tích đạt được của học sinh. Rút ra những khó khăn, hạn chế và tìm
hướng khắc phục.
* Giải pháp tác nghiệp: Tổ chức tốt các phong trào thi đua ở lớp như:
“Bông hoa điểm 10”, “ Đôi bạn cùng tiến”, “ Tổ tự quản giỏi”,……
Thông qua dự giờ, thao giảng, thông qua các cuộc họp chuyện môn trao đổi
với các đồng nghiệp để đánh giá mức độ thực hiện các biện pháp đã nêu ở các
đơn vị lớp cùng áp dụng đề tài.
* Giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật: Giáo viên tăng cường nghiên cứu
việc ứng dụng công nghệ thông tin để áp dụng vào các tiết dạy, nghiên cứu cải
tiến đồ dùng dạy học sẵn có và tự làm thêm đồ dùng dạy học mới để kích thích
niềm hứng thú say mê cho học sinh trong từng tiết học.
Sử dụng công nghệ thông tin như tin nhắn, thông báo kết quả đạt được hay
hạn chế những khó khăn học sinh gặp phải. Giáo viên kịp thời phối hợp cùng gia
đình để giúp đỡ các em.
Các giải pháp trên được đan xen vận dụng vào việc tổ chức thực hiện cụ thể
bằng những biện pháp như sau:
2.3.1. Những biện pháp đầu tiên dành cho giáo viên :
* Thay đổi nhận thức
Muốn giáo dục các em học sinh bằng những biện pháp tích cực thì bản
thân phải thường xuyên tự nhắc nhở mình rằng trừng phạt học sinh là một sự xúc
phạm tội lỗi, là vi phạm Luật giáo dục, dạy học không chỉ là dạy kiến thức mà
còn là dạy người.
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi non nớt không có khả năng suy xét
đúng sai và không có ý thức kỉ luật tự giác. Thầy cô giáo chính là người giúp các
em biết phân biệt chuyện gì nên – chuyện gì không nên chứ không phải cứ dọa
nạt “Em phải thế nọ, thế kia” mà không cần giải thích “Vì sao ?”

* Suy nghĩ sâu sắc về nghề dạy học, khơi gọi lòng yêu thích công việc
của mình và yêu thương học sinh: Hãy luôn nghĩ rằng, được đứng trên bục
giảng để dạy bảo mấy mươi em nhỏ là một điều hạnh phúc lớn lao chứ không
chỉ giản đơn là trách nhiệm. Hãy dùng 5 – 10 phút để nhắm mắt lại và tưởng
tượng những mái đầu trẻ thơ ngồi dưới lớp kia mai này sẽ trở thành những bác
sĩ, kĩ sư, hay đơn giản hơn là trở thành một người công dân tốt cho xã hội. Số
lượng này sẽ là rất lớn nếu mình giảng dạy đúng phương pháp và thật lòng, tận
tâm với các em. Lầm lỗi của các em hôm nay chỉ vì các em còn nhỏ dạy. Có
như vậy ta càng yêu thích công việc, càng yêu thương học trò nhiều hơn. Tình
cảm tốt đẹp đó giúp ta không ngừng tìm tòi những biện pháp giáo dục hiệu quả
hơn để giúp học sinh tiến bộ thay vì luôn trách phạt các em.
* Tự đặt mình vào hoàn cảnh của học sinh:
Một học sinh lơ là trong giờ học, GV gọi em trả lời câu hỏi,
em không trả lời được
Cách cư xử 1:
- Đứng đó!
- Ai trả lời?
- Nhắc lại!
- Xòe tay ra! (đánh vào tay)
Cách cư xử 2:
- Ai có thể giúp bạn nào?
- Em nhắc lại đi!
- Em trả lời được rồi đó!
- Em nhớ tập trung vào bài học
4

- Ngồi xuống! nhé!
Nếu là HS, bản thân ta sẽ muốn học với giáo viên nào? Vì sao? Hãy đặt
mình vào vị trí của học sinh thì chúng ta sẽ kiềm chế được cái giận của bản thân
và có cách ứng xử hợp lí nhất.

* Gác lại những ưu phiền khi tiếp xúc học sinh, tự tạo niềm vui cho
bản thân: Cuộc sống ai cũng có những muộn phiền nhưng học sinh không phải
là đối tượng cho giáo viên trút bực dọc. Khi gặp những tình huống có thể tạo nên
sự nóng giận hãy ra khỏi lớp, uống một ngụm nước hoặc hít thở thật sâu và nghĩ
về việc khác.
Tự tạo niềm vui cho bản thân giúp chúng ta tự tin hơn, thoải mái hơn khi
tiếp xúc học sinh. Một số thói quen thư giản hiệu quả như nghe nhạc, chăm sóc
mình, ăn mặc đẹp ta sẽ thấy yêu đời hơn và sẽ dễ thông cảm cho những lỗi lầm
của học sinh hơn.
* Tạo không khí học tập sinh động: Lớp học được trang trí đẹp, tiết học
sinh động, vui tươi, mới lạ sẽ làm cho thầy trò gắn bó hơn. Học sinh hoạt động
tích cực, hứng thú học tập. Các em sẽ ngoan hơn. Ngược lại, các em sẽ nhàm
chán và ưa nghịch phá trong giờ học.
* Dành thời gian để suy nghĩ về bản thân, về cách đối xử với học sinh,
rút ra những bài học bổ ích trong việc giáo dục học sinh: Sau mỗi ngày dạy
hãy nhín chút thời gian ngẫm nghĩ lại cách cư xử hôm nay của mình trên lớp.
Cái nào tốt thì tiếp tục, cái nào chưa tốt thì sẽ tự điều chỉnh ở buổi dạy tiếp theo.
Bài học được rút ra từ thực tế làm việc của bản thân là bài học quý giá nhất.
* Đừng tiếc lời khen với học sinh: Hãy dành thời gian chiêm ngưỡng nét
mặt rạng ngời, ánh mắt long lanh của những học sinh khi được khen chúng ta sẽ
không bao giờ tiếc những lời khen dành cho trẻ. Đó là những gì các em cần. Và
đây chính là động lực giúp các em nhanh tiến bộ hơn.
* Luôn mạnh dạn tìm kiếm sự giúp đỡ từ mọi người: Giao tiếp với học
sinh là một nghệ thuật, mà nghệ thuật đó đòi hỏi người giáo viên phải học hỏi
thật nhiều qua những người có kinh nghiệm. Khi gặp khó khăn hãy mạnh dạn
hỏi ý kiến tư vấn của nhiều đồng nghiệp qua đó ta sẽ thu nhận được những kinh
nghiệm quý báu.
2.3.2. Một số biện pháp kỉ luật tích cực áp dụng tại lớp học:
2.3.2.1. Những biện pháp thay đổi cách cư xử trong lớp học:
* Hộp thư vui:

Giáo viên tự tạo một thùng thư nhỏ đặt trên lớp, các em có vấn đề gì chia
sẻ sẽ viết vào giấy rồi bỏ vào. Giáo viên nên khuyến khích các bạn cán bộ lớp
viết thư khen những bạn học yếu, những bạn viết chữ chưa đẹp, những bạn hay
nghịch phá… khi các bạn này có biểu hiện tiến bộ. Cuối tuần vào giờ sinh hoạt
lớp, giáo viên mở thùng thư và đọc cho cả lớp nghe. (Lưu ý: nếu những vấn đề
học sinh chia sẻ là riêng tư thì giáo viên trao đổi riêng với các em)
*Phiếu khen:
Việc khen ngợi, động viên đặc biệt quan trọng đối với học sinh cá biệt hay
những học sinh vô kỉ luật trong lớp. Hãy tìm cơ hội để khen ngợi các em.
Giáo viên chuẩn bị mẫu phiếu khen để sẵn trên lớp, khi nhận thấy những
em học sinh có sự chuyển biến tích cực sẽ ghi vài dòng nhận xét, động viên rồi
5

trao cho các em. Các em sẽ rất hãnh diện với các bạn từ đó sẽ có động lực thúc
đẩy các em cố gắng nhiều hơn. Tuy nhiên, giáo viên không nên lạm dụng phiếu
khen mà mất tác dụng.
*Gửi tin nhắn về nhà: Khi học sinh có những biểu hiện chuyển biến rõ rệt
theo hướng tích cực, giáo viên viết một tin nhắn, chỉ cần vài dòng động viên,
khen gợi, cảm ơn sự hợp tác của phụ huynh trong thời gian qua để gởi về cho
cha mẹ các em. Biện pháp này vừa nhanh vừa tiện lợi.
* Ý nghĩa của những biện pháp trên: Dựa trên cơ sở động viên, khuyến
khích, nêu gương,… nhằm thúc đẩy học sinh có thái độ cư xử, hành vi đúng.
Ngoài việc giáo viên khen ngợi học sinh, còn có sự hợp tác của bạn bè và cha
mẹ của các em.
2.3.2.2. Những biện pháp quan tâm đến những khó khăn của học sinh:
* Tổ chức trò chơi công nhận đặc điểm tốt của học sinh:
Thông qua các bài dạy, giáo viên nên nghiên cứu lồng vào những trò chơi
nhỏ. Những trò chơi này vừa giúp củng cố nội dung bài học và cũng thông qua
quá trình tham gia trò chơi của học sinh, giáo viên phát hiện những điểm tốt của
các em để tuyên dương, khen ngợi trước lớp.

Chẳng hạn, trong trò chơi môn Toán thì tìm ra bạn tính nhanh nhất, bạn
tính cẩn thận nhất, …Hoặc trong môn Tiếng Việt thì khen bạn có giọng đọc
truyền cảm nhất, bạn có vốn từ ngữ phong phú nhất, …Biện pháp này giúp học
sinh tăng thêm lòng tự tin với bản thân và khuyến khích các em nhìn nhận những
mặt tích cực của các bạn khác.
Trong lớp, giáo viên có thể tập hợp học sinh thành các nhóm theo năng
khiếu hoặc sở thích như: hát, vẽ, thể thao,…. Ngoài nội dung chương trình giảng
dạy, giáo viên có thể sử dụng những kỹ năng, vốn sống của bản thân để giúp các
em phát huy sở trường của mình. Có thể tổ chức các cuộc thi phạm vi nhỏ trong
lớp để các thành viên trong nhóm thi với nhau. Có như thế các em sẽ thêm yêu
quý thầy (cô) và sẽ yêu thích đến lớp, đến trường nhiều thêm.
* Đặt mình vào vai trò người học: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên
phải cố gắng kiềm chế không thể hiện thái độ nóng nảy, căng thẳng trước học
sinh. Nên lắng nghe xem xét vấn đề từ học sinh, giúp học sinh làm rõ vấn đề và
cùng các em tìm cách giải quyết.
Ý nghĩa
: Biện pháp này giúp học sinh hiểu khi xem xét một vấn đề là xem
xét nhiều khía cạnh, đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để xem xét sự việc
và giải quyết. Giúp học sinh thấy được trách nhiệm của mình. Giúp trẻ biết lắng
nghe, thông cảm chia sẻ, tôn trọng người khác để xem xét sự việc và giải quyết.
* Tổ chức điều tra:
Nếu có điều kiện, mỗi năm vào cuối học kì 1 và cuối năm, giáo viên thực
hiện khảo sát học sinh, phụ huynh học sinh của mình bằng phiếu điều tra.
+ Đối với học sinh: chỉ cần vài câu hỏi để học sinh bộc lộ cảm xúc của
mình chẳng hạn:
- Điều em yêu thích nhất và không yêu thích nhất ở lớp của mình là gì?
- Có khó khăn gì làm ảnh hưởng đến việc học của em?
- Em có hài lòng với cách cư xử của thầy (cô) đối với em không? …
6


+ Đối với phụ huynh học sinh: vào cuộc họp phụ huynh học sinh cuối
học kỳ 1 và cuối năm học, giáo viên có thể dùng phiếu khảo sát để thu nhận sự
phản hồi từ phía gia đình học sinh về sự tiến bộ của con em họ về học tập, về
hạnh kiểm, về cách cư xử của các em đối với mọi người xung quanh, …. Tùy
theo điều kiện cụ thể từng lớp học mà giáo viên đề ra hệ thống câu hỏi trong
phiếu khảo sát cho phù hợp.
Đây chính là những minh chứng cho những kết quả giáo dục mà giáo viên
đạt được trong thời gian qua và cũng chính là cơ sở thiết thực để giáo viên điều
chỉnh, bổ sung phương pháp giáo dục phù hợp hơn cho học sinh.
Ý nghĩa:
Hoạt động này tạo cơ hội cho học sinh, phụ huynh học sinh bày
tỏ mức độ những nhu cầu, những mặt đạt được và chưa đạt được của các em.
Giúp giáo viên hiểu về học sinh của mình nhiều hơn. Từ đó giáo viên có thể tự
điều chỉnh để tạo điều kiện học tập tốt nhất cho các em.
2.3.2.3. Biện pháp tăng cường sự tham gia của học sinh trong quá trình
dạy – học:
Vào đầu năm học, giáo viên thông qua nội quy của trường, lớp. Đây là
những nội quy cơ bản. Dựa vào thực tế của lớp giáo viên chia nhóm cho các
nhóm thảo luận tự bổ sung những quy định cụ thể hơn cho lớp. Quy định chế độ
thưởng và xử phạt. Chọn học sinh viết chữ đẹp nhất viết và trang trí nội quy lớp.
Việc giúp các em thực hiện nội quy mà có phần đóng góp, xây dựng của
chính các em luôn dễ hơn và mang lại hiệu quả cao hơn.
2.3.2.4. Biện pháp tổ chức, xây dựng tập thể lớp:
Một tập thể lớp tốt là môi trường lí tưởng để học sinh học tập và phát triển
nhân cách. Một tập thể tốt là học sinh phải biết tôn trọng, yêu thương, giúp đỡ
nhau, đoàn kết, biết cách giải quyết xung đột không bằng bạo lực
Để xây dựng một tập thể tốt giáo viên cần:
- Biết tôn trọng người ít tuổi hơn mình: Học sinh luôn kính trọng những
người tôn trọng chúng. Các em sẽ quan tâm đến người khác nếu biết rằng các em
cũng được mọi người quan tâm.

- Gần gũi, chân thành trong giao tiếp: Hãy dành thời gian trò chuyện với
học sinh. Càng hiểu các em thì quá trình giáo dục các em càng có hiệu quả.
- Làm gương trong cách cư xử: Học sinh học và làm theo những gì em
thấy từ cuộc sống và những người xung quanh. Giáo viên dùng bạo lực các em
sẽ làm theo. Giáo viên cư xử nhẹ nhàng, khoan dung, độ lượng, kiên trì, nhẫn nại
thì học sinh sẽ học theo cách cư xử đó.
2.3.2.5. Những hình thức xử phạt tích cực:
Khi học sinh phạm lỗi ta có thể sử dụng các hình thức xử phạt tích cực
như:
* Dừng học tập để học sinh tự kiểm điểm bản thân: Những học sinh hay
mắc sai phạm thường không có thời gian yên tĩnh để suy nghĩ về việc mình làm.
Chẳng hạn lớp có học sinh đánh nhau với bạn. Giáo viên có thể cho em tạm
dừng việc học, ngồi yên lặng một mình để giảm căng thẳng và viết ra giấy câu
trả lời một số câu hỏi của cô giáo như: Em đã là gì? Có thể giải quyết chuyện đó
theo cách nào khác không? Từ đó, ta sẽ biết hướng để giúp các em tự điều
chỉnh lại hành vi của bàn thân.
7

* Tước bỏ đặc quyền: Khi học sinh ngoan sẽ được tham gia những hoạt
động mà các em yêu thích. Khi các em mắc lỗi những đặc quyền đó sẽ bị hủy bỏ
cho đến khi em tiến bộ hơn. Các em nghịch phá, năng động rất sợ hình thức xử
phạt này. Bởi lẽ với các em không gì khổ sở hơn việc phải ngồi im nhìn các bạn
mình chơi đùa. Vì thế các em sẽ cố gắng để không phạm lỗi nữa.
* Phiếu báo cáo sai phạm: Đối với học sinh cá biệt, phụ huynh ít quan
tâm, chúng ta sẽ làm phiếu báo cáo hàng ngày hoặc hàng tuần. Nội dung của báo
cáo là những sai phạm mà học sinh vướng phải và việc cần nhờ sự hỗ trợ của gia
đình. Phụ huynh sẽ xem và kí tên vào phiếu rồi gửi lại cho giáo viên. Biện pháp
này hiệu quả với các học sinh hay mắc lỗi như không học bài, không làm bài tập
về nhà, quên mang dụng cụ học tập. Nếu trong vài ngày liên tiếp học sinh không
mắc lỗi nữa thì sẽ ngừng việc gửi báo cáo. Để biện pháp này có hiệu quả hơn

nữa là khi học sinh tiến bộ rõ rệt giáo viên có thể gửi một vài câu khen ngợi về
nhà. Làm như vậy cả phụ huynh và học sinh đều cảm thấy rất vui và sự hợp tác
của gia đình học sinh sẽ ngày một tăng lên.
2.3.2.6. Để vận dụng các biện pháp trên đạt hiệu quả, một số vấn đề
giáo viên cần lưu ý:
- Đừng thực hiện một lúc quá nhiều biện pháp, hãy thực hiện từng bước
một, tùy hoàn cảnh thực tế của lớp mình mà lựa chọn biện pháp phù hợp, tuy
“chậm” nhưng “sâu”, hiệu quả sẽ cao hơn.
- Có tấm lòng yêu nghề, hiểu ý nghĩa của việc giáo dục học sinh, yêu học
sinh bằng tấm lòng của người mẹ, người thầy. Người giáo viên cần có tính kiên
trì, nhẫn nại và tận tình, tận tâm.
- Biết điều chỉnh mình để điều chỉnh học sinh: vì trong cuộc sống không
có ai luôn luôn đúng, cho nên người giáo viên cần thường xuyên tự điều chỉnh
những sai sót của chính mình thì mới đủ khả năng giúp học sinh từng bước hoàn
thiện nhân cách của các em.
- Giáo viên cần có năng lực sư phạm tốt, khả năng vận dụng phương pháp
dạy học mới cao, để từ đó có sự linh hoạt giáo dục phù hợp với từng đối
tượng học sinh, có khả năng tìm ra giải pháp xử lí các tình huống xảy ra trong
giảng dạy một cách tốt nhất.
- Có thủ thuật tinh tế: Để giáo dục học sinh có hiệu quả, người giáo viên
cố gắng rèn cho mình một khả năng nhạy bén nào đó như: tính khôi hài, hát hay,
kể chuyện thu hút, ứng xử linh hoạt, Để trong một lúc nào đó, khi tiếp xúc với
học sinh, thay vì mắng phạt các em thì ta sẽ dẫn dắt trẻ đi vào một trật tự kỉ luật
mà trẻ không hề hay biết và tự nguyện làm theo.
2.3.2.7. Những kiến nghị đề xuất đối với lãnh đạo trường:
Hiện nay, tình trạng trừng phạt thân thể vẫn còn là phương pháp giáo
dục con cái của không ít gia đình. Nếu như nhà trường có thể tạo thêm điều kiện
xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa phụ huynh với giáo viên của trường bằng
việc tổ chức hội thảo (theo chuyên đề) hoặc các buổi tọa đàm để mọi người có
thể tự do nêu ý kiến của mình trong những buổi họp mặt thân thiện ấy. Đồng

thời qua đó, nhà trường có thể tuyên truyền để họ có thể nắm bắt một cách đúng
đắn những phương pháp giáo dục học sinh hiện nay cũng như lợi ích của chúng.
Ví dụ một số chuyên đề thiết thực như:
8

+ Những quan điểm mới về giáo dục kỷ luật
+ Những điều cha mẹ nên làm và không nên làm
+ Những sai lầm trong việc giáo dục con cái
+ Làm gì để trẻ học tốt hơn
- Vào dịp 20/11, trường có thể tổ chức hội thi thuyết trình về đề tài xoay
quanh vấn đề những phương pháp tích cực để giáo dục học sinh hoặc thi “Ứng
xử sư phạm” nhằm giải quyết các tình huống xảy ra trong thực tế giáo dục học
sinh.
3. Khả năng ứng dụng, triển khai:
Sáng kiến đã được Ban giám hiệu triển khai vận dụng cho toàn trường.
Những biện pháp đề cập trong đề tài đã, đang và sẽ tiếp tục được sử dụng tại đơn
vị để chứng minh cho tính khoa học và thực tiễn của đề tài.
Nếu có điều kiện để triển khai rộng rãi, kết quả nghiên cứu của đề tài có
thể sử dụng với đối tượng là học sinh của toàn khối tiểu học và có thể phù hợp
với những điều kiện của từng trường cụ thể, không phân biệt trình độ học sinh,
không phân biệt vùng miền. Ngoài ra, đề tài sẽ có đóng góp tích cực trong việc
chuyển biến suy nghĩ, nhận thức của giáo viên quá trình giáo dục học sinh. Kích
thích ở giáo viên trong việc tìm tòi thêm nhiều biện pháp giáo dục học sinh bằng
hình thức kỷ luật tích cực. Đây sẽ là nền tảng vững chắc góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục một cách toàn diện.
4. Hiệu quả của việc áp dụng những hình thức kỉ luật tích cực đã nêu:
Đề tài được thực hiện bắt đầu từ năm học 2011 – 2012, qua quá trình áp
dụng trong lớp, trong tổ, người thực hiện đề tài đã chắc lọc, điều chỉnh, bổ sung
thêm nhiều ý mới theo từng năm. Năm học 2012 -2013, nội dung đề tài đã được
triển khai và được tập thể giáo viên của trường vận dụng. Một số kết quả đạt

được như sau:
* Đối với học sinh:
- Về hạnh kiểm, học sinh luôn thực hiện tốt 5 nhiệm vụ trong tiêu chí xếp
loại hạnh kiểm cho học sinh. Kết quả hạnh kiểm luôn đạt 100%.
- Các em luôn có cơ hội chia sẻ, bày tỏ cảm xúc với giáo viên, luôn được
quan tâm, lắng nghe ý kiến. Các em tích cực, mạnh dạn hơn trong học tập, tự tin
trước đám đông, biết phát huy khả năng của mình trong mọi lĩnh vực.
- Các em cư xử hòa nhã, thân thiện với nhau hơn. Và trong giờ sinh hoạt
lớp, nhiều học sinh đã mạnh dạn nhận khuyết điểm như “ Thưa cô! Điều em
không hài lòng nhất trong tuần qua là em đã vi phạm về đồng phục của trường
làm lớp bị trừ điểm thi đua. Em hứa sẽ không như vậy nữa” . Khi nghe những
lời nói này từ học sinh của mình, tôi biết mình đang đi đúng hướng.
- Các vi phạm nội quy ngày càng giảm. Bảng xếp hạng thi đua lớp về nền
nếp thường xuyên đạt hạng nhất. Đặc biệt, liên tục 3 năm liền lớp đạt giải nhất
trong phong trào thi đua xây dựng lớp có “Nền nếp tốt” và phong trào thi đua
“ Bông hoa điểm 10”.
- Học sinh tự tin, năng động, sáng tạo hơn trong các phong trào và hoạt
động ngoại khóa. Đặc biệt, đa số học sinh trong lớp của tác giả sáng kiến là
thành viên trong các đội thi năng khiếu và các hoạt động ngoại khóa của trường,
9

các em luôn năng động, tự tin, sáng tạo để đóng góp cho nhà trường luôn đạt
thành tích dẫn đầu của huyện và đạt nhiều giải cao cấp tỉnh. Cụ thể:
* Năm học 2011 – 2012:
Tham dự hội thi Violimpic môn Toán đạt 5 giải (2 giải Nhì, 2 giải Ba, 1 giải
Khuyến khích).
Tham dự hội thi Violimpic môn Tiếng Anh đạt 10 giải (3 giải Nhì, 2 giải Ba,
5 giải Khuyến khích).
Tham dự hội thi “Viết đúng – viết đẹp” đạt 9 giải (2 giải nhất, 1 giải 2, 2
giải Ba, 4 giải Khuyến khích).

Tham dự hội thi Tin học trẻ đạt 1 giải Khuyến khích.
* Năm học 2012 – 2013:
Tham dự hội thi “Tuyên truyền măng non và phòng chống suy dinh dưỡng”
(đạt giải 2 cấp tỉnh)
Tham dự hội thi “Tìm hiểu An toàn giao thông cấp Tiểu học” (đạt 1 giải
Nhất cấp huyện, giải Nhất toàn đoàn huyện, 1 giải Ba cấp tỉnh)
Tham dự hội thi “Kể chuyện sách hè” (đạt 2 giải Nhất cấp huyện, 1 giải Ba
cấp tỉnh)
Tham dự hội thi “Tiếng hát hoa phượng đỏ” (đạt 2 giải A, 2 giải B, 1 giải
năng khiếu)
Tham dự hội thi Violimpic môn Toán đạt 11 giải (3 giải Ba, 8 giải Khuyến
khích).
Tham dự hội thi Violimpic môn Tiếng Anh đạt 9 giải (2 giải Nhì, 4 giải Ba,
3 giải Khuyến khích). Tham dự hội thi Tin học trẻ đạt 1 giải Ba.
- Về học lực:
* Năm học 2011-2012:
* Kết quả cuối năm:
Học sinh khá + giỏi: 469/530 (88.5%)
Học sinh trung bình: 56/530 (10.6%)
Học sinh yếu: 5/530 (0.9%)
* Năm học 2012-2013:
* Kết quả cuối năm:
Học sinh khá + giỏi: 474/537 (88.3%)
Học sinh trung bình: 55/537 (10.2%)
Học sinh yếu: 8/537 (1.5%)
(Tỉ lệ học sinh yếu tăng do tăng số lượng học sinh khuyết tật)
*Đối với giáo viên:
- Đề tài đã được Ban giám hiệu triển khai và chỉ đạo cho giáo viên vận
dụng song song trong quá trình thực hiện 5 nội dung của phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện – học sinh tích cực” tại đơn vị.

- Không chỉ học sinh mà thông qua khảo sát, trao đổi với giáo viên thì
từng giáo viên cho biết áp dụng các biện pháp kỷ luật tích cực, học sinh ngày
càng năng động, tự tin và rất sáng tạo. Cũng như học sinh, họ cũng có cảm giác
“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” vì tư tưởng thoải mái, nhẹ nhàng. Công
tác giảng dạy ngày càng chất lượng.
10

- Bản thân người viết sáng kiến thường được mời thao giảng cho đơn vị
trường, cho các đơn vị cụm và thao giảng cho Phòng giáo dục, dạy các tiết dạy
có nội dung lồng ghép – tích hợp với hình thức lớp học tích cực, phát huy khả
năng tự chủ, sáng tạo cho học sinh (trong 2 năm học 2011-2012, 2012-2013
thực hiện thao giảng 5 tiết).
- Giảm được áp lực quản lý lớp học vì học sinh hiểu và tự giác chấp hành
kỷ luật. Từ đó giáo viên được học sinh tin tưởng, tôn trọng. Xây dựng được mối
quan hệ thân thiện giữa thầy và trò. Nâng cao hiệu quả quản lý lớp học, nâng
cao chất lượng giáo dục
- Phụ huynh các em bắt đầu có quan tâm thiết thực đến việc học của các
em và rất tin tưởng giáo viên. Được sự đồng tình của gia đình học sinh và xã
hội. Công tác xã hội hóa giáo dục ngày càng hiệu quả.
- Biện pháp giáo dục học sinh bằng cách trừng phạt thân thể từng bước
được thay thế bằng phương pháp khác phù hợp hơn và hiệu quả hơn. Tâm lí khi
bước lên lớp nhẹ nhàng, thoải mái nên giáo viên ít chịu áp lực nhiều từ phía
công việc. Lớp học sinh động, vui vẻ hơn. Chất lượng giáo dục cũng vì thế mà
được nâng lên.
*Đối với nhà trường:
Đề tài đã được Ban giám hiệu chọn triển khai, vận dụng tại đơn vị, một số
kết quả đạt được:
- Từ năm 2011-2013 đơn vị trường không còn trường hợp giáo viên vi
phạm vào nội dung xúc phạm thân thể, danh dự, nhân phẩm của học sinh.
- Nhà trường luôn được chấm điểm đạt loại xuất sắc trong phong trào thi

đua “Trường học thân thiện – học sinh tích cực”. Trường luôn được xếp vào một
trong những đơn vị tiêu biểu trong các phong trào thi đua của huyện, của ngành.
- Nhà trường trở thành môi trường học tập thân thiện, an toàn, tạo được
niềm tin đối với phụ huynh, đối với xã hội. Qua khảo sát phụ huynh cho biết họ
nhận thấy các em học sinh thực sự có cảm giác “Mỗi ngày đến trường là một
ngày vui” nên rất ủng hộ nhà trường trong các hoạt động giáo dục. Công tác xã
hội hóa giáo dục ngày càng thuận lợi.
5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu:
Đề tài đã được triển khai trong đơn vị và đã được tập thể cán bộ giáo viên
của trường trực tiếp áp dụng. Theo phản hồi, kết quả thu được đúng như mục
đích nghiên cứu của đề tài đã đề ra.

Đa Phước Hội, ngày 15 tháng 0 8 năm 2013

Dương Thị Mộng Tuyết
Trường Tiểu học Đa Phước Hội, huyện
Mỏ Cày Nam
Giáo viên

8,6đ

×