Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TÓM tắt LUẬN văn xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.99 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Gia đình là một xã hội thu nhỏ, là mỗi tế bào làm nên xã hội lớn. Gia đình tốt thì xã
hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Nằm trong mối tương quan chặt chẽ đó, gia
đình có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ ở tầm vi mô mà cả vĩ mô. Sự phát triển lành
mạnh của gia đình là nền móng cho sự phát triển bền vững của một quốc gia, của toàn nhân
loại.
Gia đình cùng với việc thực hiện những chức năng của nó là cơ sở để xây dựng đất
nước vững mạnh và phát triển về kinh tế, văn hóa – xã hội, giáo dục và con người. Để thực
hiện tốt những chức năng trên, thì yêu cầu tất yếu phải là một gia đình tốt mà thể hiện trong
đó là những mối quan hệ tích cực, lành mạnh.
Gia đình tồn tại và phát triển được thể hiện thông qua các mối quan hệ có sự tác động,
ảnh hưởng qua lại với nhau. Trong đó, mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ xuất hiện đầu
tiên và chi phối sâu sắc đến những mối quan hệ xuất hiện tiếp theo đó.
Một mối quan hệ vợ chồng lành mạnh, hòa thuận sẽ tạo điều kiện thuận lợi để có một
gia đình bền vững, hạnh phúc. Ngược lại, một mối quan hệ xung đột, bất đồng sẽ kéo theo
đó là những hệ lụy không chỉ cho riêng họ mà còn ảnh hưởng đến mọi thành viên, rộng hơn
là mang lại cả những hệ lụy cho xã hội.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả, XĐTL giữa vợ và chồng để lại nhiều hậu
quả: mang lại những tổn thương tâm lý cho con trẻ về mặt nhận thức, hành vi như tự ti, mặc
cảm, lo hãi, xuất hiện những hành vi chống đối…Bên cạnh đó, khiến mối quan hệ vợ chồng
trở nên căng thẳng, kém hạnh phúc.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Hôn nhân và gia đình luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của thời đại. Từ nghiên cứu
của Lê Thi (1997 – vấn đề ly hôn, nguyên nhân và xu hướng vận động) đã cho thấy ở thời
điểm đó, quan niệm về ly hôn đã cởi mở hơn. Như vậy, đã từ lâu (1997) chúng ta không còn
cái nhìn quá khắt khe đối với vấn đề này, bên cạnh việc nhận thức về mặt tiêu cực, là nhận
thức về những mặt tích cực của ly hôn – đó là cách giải phóng con người khi cuộc sống hôn
nhân trở thành nơi giam cầm của những cặp vợ chồng không thể hàn gắn bởi những xung


đột. Như vậy, ly hôn đôi khi lại là một giải pháp tốt. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ này tăng cao thì lại
trở thành con số báo động cho sự phát triển thiếu bền vững của gia đình nói riêng và của xã
hội nói chung.
Theo thống kê của ngành tòa án cho thấy, nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ thì năm
2005 đã tăng lên 65.929 vụ; đến năm 2010, con số này lên tới 126.325 vụ. Còn theo một
công trình nghiên cứu xã hội học của Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa (trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn TP HCM): tỉ lệ ly hôn so với kết hôn ở Việt Nam là 31% - 40%, tức là
cứ 3 cặp kết hôn lại có 1 cặp ly hôn – một con số không thể tin nổi nhưng lại là sự thật.
Từ một số nghiên cứu cho biết những nguyên nhân dẫn đến ly hôn trong đó mâu thuẫn
về lối sống là nguyên nhân hàng đầu (27,7%), ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực

1

1


gia đình (6,7%), sức khỏe (2,2%), do xa cách lâu ngày (1,3%). Dù là những nguyên nhân
nào thì nó cũng trở thành vấn đề hay yếu tố dẫn đến những xung đột tâm lý giữa vợ và
chồng. XĐTL là ngòi nổ kích hoạt sự tan rã của gia đình.
Những con số trên cho thấy, xã hội đang có nguy cơ phải đối mặt với sự phát triển kém
bền vững ảnh hưởng từ sự phát triển không lành mạnh của gia đình. Vì vậy, làm sao để giảm
thiểu XĐTL giữa vợ và chồng? làm sao để giảm thiểu tỉ lệ ly hôn? là bài toán cần được giải
đáp không chỉ của xã hội mà còn là của mỗi cá nhân. Đặc biệt là đối với tầng lớp trí thức những người có vị trí quan trọng và quyết định trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội thì việc đi đầu trong vấn đề xây dựng gia đình hạnh phúc càng phải được ý
thức hơn ai hết.
Với mong muốn tìm hiểu thực trạng XĐTL giữa vợ và chồng trong các gia đình trí
thức, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm giảm thiểu những hệ lụy do XĐ mang lại
chúng tôi lựa chọn đề tài " Xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức trên địa
bàn Thành phố Hà Nội” để nghiên cứu.


2. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra thực trạng biểu hiện XĐTL giữa vợ và chồng ở các mặt nhận thức, cảm xúc và
hành vi; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến XĐTL giữa vợ và chồng. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số biện pháp tác động nhằm góp phần giảm thiểu XĐTL giữa vợ và chồng trong
các gia đình trí thức tại Tp. Hà Nội.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Điều tra trên 163 khách thể trí thức đã xây dựng gia đình trên địa bàn Tp. Hà Nội.

4. Giả thuyết khoa học

5.

6.



4.1. XĐTL giữa vợ và chồng thể hiện ở các mặt nhận thức, cảm xúc và hành vi. Trong
đó XĐTL biểu hiện ở mặt nhận thức là cao hơn cả.
4.2. Số lượng biểu hiện XĐTL có mối liên hệ với mức độ XĐTL giữa vợ và chồng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về XĐTL giữa vợ và chồng trong các gia đình trí thức;
các cách thức giải quyết XĐ và các yếu tố ảnh hưởng đến XĐTL giữa vợ và chồng.
5.2. Nghiên cứu thực trạng XĐTL giữa vợ và chồng trong các gia đình trí thức trên địa
bàn Tp. Hà Nội. Phân tích những yếu tố tác động đến XĐTL giữa vợ và chồng.
5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế và giải quyết XĐTL giữa vợ và chồng.
Giới hạn nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về XĐTL theo góc độ liên cá nhân chứ không nghiên cứu XĐTL bên
trong mỗi cá nhân.
XĐ có thể thể hiện hai mặt: tích cực hoặc tiêu cực. Trong khuôn khổ đề tài chúng tôi tập
trung vào mặt tiêu cực.

2

2


• Đề tài tập trung nghiên cứu khía cạnh cảm xúc và hành vi được thể hiện khi diễn ra XĐ và
cách thức giải quyết XĐ của vợ/ chồng trí thức.
6.2. Khách thể và địa bàn nghiên cứu
Chúng tôi không nghiên cứu theo cặp vợ chồng mà nghiên cứu ngẫu nhiên những
người vợ hoặc chồng trí thức đang chung sống với người bạn đời trên địa bàn Tp. Hà Nội.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

-

Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp quan sát
Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phân tích dữ liệu
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị. Đề tài được cấu trúc 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong các gia đình trí
thức.

Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong các
gia đình trí thức trên địa bàn thành phố Hà Nội.

3

3


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT TÂM LÝ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG CÁC
GIA ĐÌNH TRÍ THỨC
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu nước ngoài
1.1.1.1. Hướng nghiên cứu thứ nhất: Nghiên cứu về XĐ và XĐTL
Các nghiên cứu về XĐ và XĐTL của các nhà xã hội học, tâm lý học, triết học, văn hóa
học của các nước đều cho thấy: XĐ là điều tất yếu, không thể tách rời trong tồn tại xã hội;
nó mang lại ảnh hưởng trực tiếp tới xã hội (nhóm, tập thể) nói chung và mỗi cá nhân nói
riêng; để ổn định và phát triển thì những XĐ này phải được giải quyết nếu không sẽ dẫn đến
sự mất cân bằng và những ảnh hưởng tiêu cực đến bầu không khí tâm lý tập thể cũng như
trạng thái tâm lý cá nhân, thậm chí dẫn đến sự tan rã nhóm.
1.1.1.2. Hướng nghiên cứu thứ hai: nghiên cứu về XĐTL giữa vợ và chồng
Nghiên cứu về XĐTL giữa vợ và chồng, các tác giả như Harville Hendrix (1997),
Jacques Gauthier (2000), John Gray (2003), Fincham (2003), Maurice Porot (2004), Szilagy
Vilmos (2005), Knuds S. Larsen và Lê Văn Hảo (2010) đề cập đến những nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến XĐTL, cũng như sự ảnh hưởng của nó đến các thành viên trong gia đình, bên
cạnh đó là những nghiên cứu về cách thức giải quyết và can thiệp XĐTL giữa vợ và chồng.
Một số tác giả nghiên cứu về cách thức giải quyết và can thiệp XĐTL giữa vợ và
chồng như: D.Dich – May – e và D. Cac – Xơn (1989); Harriet Goldhor Lerner (1997); Erik
J. Van Slyke (2004); John Gottman và Nan Silver (2013).


1.1.2. Những nghiên cứu trong nước
1.1.2.1. Hướng nghiên cứu thứ nhất: Nghiên cứu về XĐ và XĐTL
Các nghiên cứu của các tác giả Việt Nam như: Trần Trọng Thủy (1987); Ngô Công
Hoàn (1993) ; Nguyễn Khắc Viện (1994) ; Nguyễn Đình Xuân (1997) ; Đỗ Hạnh Nga
(2005, 2007) đã cho thấy nguyên nhân dẫn đến XĐ, XĐTL và ảnh hưởng của nó đến cá
nhân và tập thể có XĐ. Bên cạnh đó là các loại XĐ, biểu hiện và các giai đoạn của XĐ và
XĐTL.

1.1.2.2. Hướng nghiên cứu thứ hai: nghiên cứu về XĐTL giữa vợ và chồng
Ở Việt Nam, vấn đề XĐTL giữa vợ và chồng cũng được rất nhiều tác giả quan tâm,
nghiên cứu, khai thác các khía cạnh như nguyên nhân, biểu hiện, mức độ XĐTL giữa vợ và
chồng và sự ảnh hưởng của XĐTL đến các thành viên trong gia đình.
Nguyên nhân: Tác giả Hồ Ngọc Đại (1991) cho rằng XĐ xuất phát từ sự mâu thuẫn
giữa ý thức cá nhân và ý thức vợ chồng, sự không ăn khớp giữa hai khái niệm gia đình và cá
nhân; Tác giả Nguyễn Đình Xuân (1997) cho rằng chính những ham muốn của con người đã
làm nảy sinh XĐ; Tác giả Cao Huyền Nga (2001) đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến
XĐTL giữa vợ và chồng đó là: Ngoại tình, đời sống kinh tế khó khăn, thiếu kĩ năng giao
tiếp ứng xử, thiếu tôn trọng, thiếu tin tưởng vào nhau, sự khác biệt giữa hai vợ chồng.
Mức độ và giai đoạn XĐTL: Tác giả Nguyễn Đình Mạnh (2007) đưa ra bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1 – Xuất hiện nguyên nhân sâu xa gây ta quá trình XĐ; giai đoạn 2 – Tình huống

4

4


XĐ xuất hiện; giai đoạn 3 – XĐ bùng nổ; giai đoạn 4 – Giải quyết XĐ. Ba mức độ: Mức độ
1 – Có sự không phù hợp về quan điểm, nhu cầu, khí chất, tính cách, hành vi…giữa hai
người; mức độ 2 – Có sự khác biệt lớn về quan điểm, nhu cầu, khí chất, tính cách, hành vi…

giữa hai người; mức độ 3 (mức độ XĐ cao nhất) – Có sự đối lập về quan điểm, nhu cầu, khí
chất, tính cách, hành vi…giữa hai người.
Ảnh hưởng của XĐTL: Tác giả Văn Thị Kim Cúc (2003) cho rằng XĐ tạo nên các
căng thẳng trong mối quan hệ gia đình; sự bất an cho những đứa trẻ; để lại những hệ quả là
sự phát triển lệch lạch của những thành viên.
1.2.

Một số vấn đề lý luận về xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức
1.2.1. Gia đình trí thức
1.2.1.1. Gia đình
Gia đình là một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc
quan hệ nghĩa dưỡng, cùng chung sống với nhau và phải có những quy định, quy chế giữa
các thành viên, có ngân sách chung và thực hiện các chức năng: Duy trì nòi giống; chăm
sóc, bảo vệ; giáo dục; chức năng kinh tế; chức năng thỏa mãn và đảm bảo sự cân bằng tâm
lý.

1.2.1.2. Trí thức
Trí thức là những người có trình độ học vấn cao (từ bậc đại học trở lên) phục vụ trực
tiếp cho hoạt động nghề nghiệp; có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo.
Từ việc tìm hiểu về định nghĩa gia đình và định nghĩa trí thức, chúng tôi hiểu về gia
đình trí thức như sau: Gia đình trí thức là gia đình mà tối thiểu có vợ và chồng đều là
những người có trình độ học vấn từ bậc đại học, có khả năng tư duy độc lập và sáng tạo
trọng hoạt động nghề nghiệp.
1.2.2. Xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức
1.2.2.1. Xung đột
XĐ là sự bất đồng quan điểm, sự va chạm, mâu thuẫn ở mức độ cao giữa những chủ
thể có mối quan hệ qua lại với nhau.

1.2.2.2. Xung đột tâm lý
XĐTL là sự bất đồng, va chạm, mâu thuẫn ở mức độ cao giữa các chủ thể có mối quan

hệ tác động qua lại lẫn nhau; biểu hiện qua nhận thức, trạng thái cảm xúc và hành vi theo xu
hướng phá hủy mối quan hệ.
1.2.2.3. Xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
XĐTL giữa vợ và chồng là sự bất đồng, va chạm, mâu thuẫn ở mức độ cao giữa người
vợ và người chồng trong quá trình chung sống với nhau; được bộc lộ qua nhận thức, trạng
thái cảm xúc và hành vi theo hướng phá hủy mối quan hệ vợ chồng.
Trên cơ sở hiểu về định nghĩa XĐTL giữa hai vợ chồng và định nghĩa về gia đình trí
thức, chúng tôi hiểu về XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức như sau: XĐTL giữa
vợ và chồng trong gia đình trí thức là sự bất đồng, va chạm, mâu thuẫn ở mức độ cao giữa
vợ và chồng đều là người trí thức trong quá trình chung sống với nhau; được bộc lộ qua
nhận thức, trạng thái cảm xúc và hành vi theo xu hướng phá hủy mối quan hệ vợ chồng.

5

5


1.2.3. Các biểu hiện và các mức độ xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong các gia đình trí
thức
1.2.3.1. Các biểu hiện xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
Các biểu hiện xung đột tâm lý ở mặt nhận thức: Trong cuộc sống gia đình, sự khác biệt
và mâu thuẫn trong nhận thức giữa vợ và chồng đối với một số vấn đề như: Vấn đề tiền bạc;
vấn đề trong quan hệ nội – ngoại; vấn đề trong quan hệ xã hội; vấn đề trong giao tiếp, ứng
xử; vấn đề về chăm sóc và giáo dục con; vấn đề về công việc – sự nghiệp; vấn đề liên quan
đến tình dục…
Các biểu hiện xung đột tâm lý ở mặt cảm xúc: Biểu hiện cảm xúc và thường thể hiện
rõ theo 2 xu hướng tích cực và tiêu cực, trong khuôn khổ luận văn chúng tôi chỉ tìm hiểu
những biểu hiện cảm xúc (cảm xúc và cảm xúc kèm hành vi) theo xu hướng tiêu cực như:
Cảm thấy bực tức, bối rối với người bạn đời; cảm thấy ngạc nhiên vì không hiểu sao người
bạn đời lại như vậy; tức lộn ruột, nghẹn cổ vì người bạn đời; bực tức đi ra chỗ khác khi có

bất đồng; giận dữ đe dọa nếu còn tái phạm; cảm thấy có khoảng cách với người bạn đời;
cảm thấy coi thường, kinh bỉ người bạn đời; cảm thấy thiếu tin tưởng vào người bạn đời; tỏ
ra không quan tâm, lạnh lùng; coi như không có mặt của người bạn đời.
Các biểu hiện xung đột tâm lý ở mặt hành vi gồm hành vi ngôn ngữ và hành vi phi
ngôn ngữ. Hành vi ngôn ngữ như: Dùng từ ngữ thiếu tôn trọng, không lịch sự để nói
chuyện; xưng hô thiếu tôn trọng (ví dụ: mày, tao…); chì chiết, nói dai, nói nhiều; chửi thề/
chửi đổng; chê bai học vấn/ khả năng kiếm tiền; gọi người bạn đời là “đồ ngu”, “đồ khốn
nạn”; nói với người bạn đời là “đã lấy nhầm người”, “hối hận vì đã cưới”; nhiếc móc/ chê
bai khả năng tình dục/ nhu cầu tình dục; bàn bạc đến chuyện ly thân/ ly hôn. Hành vi phi
ngôn ngữ như: Chống tay/ khoanh tay nhìn trừng trừng vào bạn đời; quăng, ném, đập phá
đồ đạc; quăng, ném đồ đạc vào người bạn đời; cấu, véo người bạn đời; tát người bạn đời;
dùng tay, chân đấm, đá người bạn đời; dùng đồ vật nào đó để đánh người bạn đời.
1.2.3.2. Các mức độ xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
XĐTL được chia thành 5 mức độ: Mức độ 1: Có sự không phù hợp rất ít; Mức độ 2:
Có sự bất đồng; Mức độ 3: Có sự mâu thuẫn; Mức độ 4: Có sự đối lập; Mức độ 5: Có sự đối
kháng – XĐ bùng nổ mạnh mẽ, sâu sắc.

1.2.4. Cách thức giải quyết xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức
Để giải quyết XĐTL giữa vợ và chồng có 6 cách sau đây: Hợp tác, tập trung giải quyết
vấn đề; tìm kiếm sự trợ giúp; bản thân chủ động bộc lộ; lảng tránh; chấp nhận chịu đựng;
cách giải quyết tiêu cực.
1.3.

Các yếu tố ảnh hưởng đến xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong các gia đình trí
thức
1.3.1. Các yếu tố chủ quan: Tình yêu vợ chồng; sự hài lòng với đời sống hôn nhân, gia đình; văn
hóa ứng xử giữa vợ và chồng.
1.3.2. Các yếu tố khách quan: Gia đình nội ngoại; công việc.
Tiểu kết chương 1
Từ việc nghiên cứu các tài liệu về XĐTL chúng tôi hiểu rằng:


6

6


XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức là sự bất đồng, va chạm, mâu thuẫn ở
mức độ cao giữa vợ và chồng đều là người trí thức trong quá trình chung sống với nhau;
được bộc lộ qua nhận thức, trạng thái cảm xúc và hành vi theo xu hướng phá hủy mối quan
hệ vợ chồng.
XĐTL xuất phát từ sự khác nhau, bất đồng, mâu thuẫn trong nhận thức dẫn đến xuất
hiện, thể hiện những trạng thái cảm xúc và hành vi khác nhau. Như vậy XĐTL được biểu
hiện ở 3 mặt: nhận thức; cảm xúc; hành vi.
XĐTL giữa vợ và chồng trí thức được chia thành 5 mức độ: Có sự không phù hợp rất
ít; có sự bất đồng; có sự mâu thuẫn; có sự đối lập; có sự đối kháng – XĐ bùng nổ mạnh mẽ,
sâu sắc.
Có 2 xu hướng giải quyết XĐTL giữa vợ và chồng trí thức đó là: Xu hướng tích cực;
xu hường tiêu cực gồm 6 cách giải quyết: Hợp tác, tập trung giải quyết vấn đề; tìm kiếm sự
trợ giúp; chủ động bộc lộ bản thân; lảng tránh; chấp nhận, chịu đựng; cách giải quyết tiêu
cực.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng cuộc hôn nhân nói chung và XĐTL giữa
vợ và chồng trí thức nói riêng. Trong luận văn này, chúng tôi tìm hiểu 5 yếu tố: Tình yêu vợ
chồng; sự hài lòng; văn hóa ứng xử giữa vợ và chồng; gia đình nội – ngoại hai bên; công
việc.

7

7



CHƯƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vài nét về địa bàn và mẫu nghiên cứu
TP. Hà Nội là Thủ Đô, là trung tâm kinh tế và chính trị của cả nước. Khách thể trong
nghiên cứu là những đối tượng sinh sống và làm việc tại khu vực trung tâm Hà Nội. Đây là
khu vực có đời sống hiện đại, mang nhịp sống đô thị.
Những người sinh sống ở TP. Hà Nội phần lớn là ở các tỉnh thành khác di cư đến để
làm ăn, lập nghiệp. Người gốc Hà Nội còn rất ít. Sự đa dạng từ những vùng đất đã mang đến
sự đa dạng về văn hóa của mỗi con người ở thành phố này. Điều này mang đến sự khác biệt,
đa dạng về văn hóa trong gia đình khi họ kết hôn.
 Mẫu nghiên cứu
Bảng 2.1. Phân bố mẫu nghiên cứu
TỔNG
Giới tính
Nghề
nghiệp
Nhóm tuổi
Trình độ
học vấn

Nam

68

Nữ

95

Hoạt động giảng dạy


75

Hoạt động quản lý hành chính nhà nước, xã
hội

88

<30

85

30 ≤ tuổi ≤ 39

78

Đại học

83

Thạc sĩ

80

163

163

163
163


2.2. Tổ chức nghiên cứu
Việc tổ chức nghiên cứu được tiến hành qua 3 giai đoạn như sau: Giai đoạn nghiên cứu
lý luận; giai đoạn khảo sát thực tiễn; giai đoạn viết và hoàn thành luận văn.
2.3. Các phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Thông qua nghiên cứu tài liệu chúng tôi xây dựng cơ sở lý luận, quan điểm chủ đạo
của luận văn, xác lập cơ sở để xây dựng bảng điều tra về vấn đề nghiên cứu.
2.3.2. Phương pháp chuyên gia
Từ việc xin ý kiến chuyên gia để xây dựng cơ sở lý luận của luận văn; xây dựng bảng
hỏi; xây dựng phiếu phỏng vấn sâu; kĩ thuật phân tích dữ liệu.
2.3.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Dùng phương pháp này để có thể điều tra thu thập thông tin trên diện rộng về nội
dung nghiên cứu của đề tài.

8

8


2.3.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhằm thu thập, bổ sung và lý giải cho những dữ
liệu định lượng thu được ở bảng hỏi. Bên cạnh đó có thể giúp thu thập được những thông tin
mới mà bảng hỏi chưa có.
2.3.5. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát nhằm nắm bắt được thái độ, cảm xúc của khách thể
được bộc lộ một cách chân thực nhất.
2.3.6. Phương pháp phân tích dữ liệu
Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu định tính đối với những dữ liệu thu
được từ các câu hỏi mở và các trường hợp phỏng vấn sâu.
Phương pháp phân tích dữ liệu định lượng đối với kết quả thu được từ bảng hỏi thông

qua sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 22.0.
Tiểu kết chương 2
Để thực hiện nghiên cứu XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức trên địa bàn
TP. Hà Nội, chúng tôi tổ chức nghiên cứu theo quy trình gồm ba giai đoạn và sử dụng phối
hợp các phương pháp như: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phỏng vấn sâu; điều tra bằng
bảng hỏi; quan sát; phân tích dữ liệu, trong đó phương pháp chính là điều tra bằng bảng hỏi.
Với dữ liệu thu được từ các câu hỏi đóng ở bảng hỏi, chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS
phiên bản 22.0 để phân tích số liệu thu được.

9

9


CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG
XUNG ĐỘT TÂM LÝ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
TRONG CÁC GIA ĐÌNH TRÍ THỨC TRÊN ĐỊA BÀN TP HÀ NỘI
3.1.

Thực trạng xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong các gia đình trí thức trên địa bàn
thành phố Hà Nội
3.1.1. Các mặt biểu hiện của xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong các gia đình trí thức
Chúng tôi nghiên cứu XĐTL giữa vợ và chồng được thể hiện ở 3 mặt: nhận thức; cảm
xúc; hành vi, trung bình mức biểu hiện của các mặt trên được thể hiện dưới biểu đồ sau:

Biểu đồ 3.1. Các mặt biểu hiện XĐTL giữa vợ và chồng
Biểu đồ trên cho ta thấy: Đại bộ phận gia đình trí thức có đời sống gia đình hòa thuận.
XĐ được thể hiện chủ yếu ở mặt nhận thức, cảm xúc (thuộc mức hiếm khi) và nhìn chung
không có XĐ thể hiện ở mặt hành vi, điều này cho thấy sự phù hợp với đặc điểm của đối

tượng trí thức.
3.1.1.1. Xung đột tâm lý thể hiện ở mặt nhận thức trong các gia đình trí thức
Bảng 3.1. XĐTL thể hiện ở mặt nhận thức
STT
Các lĩnh vực
ĐTB
ĐLC
1

Vấn đề tiền bạc

2.42

0.78

2

Vấn đề quan hệ nội – ngoại

1.97

1.00

3

Vấn đề trong quan hệ xã hội

2.22

0.76


4

Vấn đề trong giáo dục, chăm sóc con cái

2.02

0.83

5

Vấn đề về ứng xử giao tiếp giữa vợ và chồng

2.51

0.88

6

Vấn đề liên quan đến quan hệ tình dục

1.92

1.05

7

Vấn đề sự nghiệp – học vấn

1.58


0.74

2.09

0.61

Trung bình của 7 vấn đề

Kết quả bảng 3.1 cho thấy XĐTL ở mặt nhận thức diễn ra ở mức hiếm khi (ĐTB =
2.09), với ĐLC = 0.62 sẽ có gia đình trí thức không có XĐ, bên cạnh đó XĐ ở mức thỉnh
thoảng và thường xuyên chiếm tỉ lệ rất ít. Trong đó, XĐ nhận thức về vấn đề giao tiếp ứng
xử giữa vợ chồng trí thức xảy ra với tần số cao nhất và cũng có mức độ ảnh hưởng đến hạnh
phúc gia đình cao nhất so với các lĩnh còn lại (ĐTB = 5.19 – mức khá ảnh hưởng); nhìn
chung không có XĐ trong quan niệm về vấn đề sự nghiệp – học vấn và đây cũng là lĩnh vực
XĐ không gây ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.
3.1.1.2. Xung đột tâm lý thể hiện ở mặt cảm xúc trong các gia đình trí thức

10

10


Chúng tôi nghiên cứu biểu hiện cảm xúc của vợ chồng trong gia đình trí thức khi có
XĐTL diễn ra ở hai khía cạnh: biểu hiện cảm xúc và biểu hiện cảm xúc kèm hành vi kết quả
nghiên cứu như sau:
 Thứ nhất: Biểu hiện cảm xúc
Bảng 3.2. XĐTL biểu hiện ở mặt cảm xúc
STT
Biểu hiện cảm xúc

ĐTB
ĐLC
1
Cảm thấy bực tức, bức bối với người bạn đời
3.31
0.94
Cảm thấy ngạc nhiên không hiểu tại sao bạn đời lại
2
2.42
0.90
cư xử như vậy
Cảm thấy nổi nóng, khó chịu với mọi thứ xung
3
2.71
0.93
quanh
4
Cảm thấy tức lộn ruột, nghẹn cổ vì người bạn đời
1.81
0.87
5
Cảm thấy bị tổn thương vì người bạn đời
1.60
0.68
Trung bình của 5 cảm xúc
2.37
0.68
Kết quả nghiên cứu bảng 3.2 cho thấy, nhìn chung XĐTL biểu hiện ở mặt cảm xúc
xuất hiện ở mức hiếm khi (ĐTB = 2.37), với ĐLC = 0.68 cho thấy, có những gia đình trí
thức gần như không có những biểu hiện cảm xúc tiêu cực nhưng cũng có gia đình xuất hiện

ở mức thỉnh thoảng và thường xuyên. Trong đó, biểu hiện “cảm thấy bực tức, bức bối với
người bạn đời” xuất hiện với tần số nhiều nhất (ĐTB = 3.31 – thuộc mức thỉnh thoảng).
Nhìn chung không xuất hiện biểu hiện cảm xúc “cảm thấy tổn thương vì người bạn đời”.
 Thứ hai: Biểu hiện cảm xúc kèm hành vi
Ngoài ra, khi XĐTL giữa vợ và chồng nảy sinh còn xuất hiện những biểu hiện cảm
xúc đi kèm hành vi như sau:

11

11


STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Bảng 3.3. XĐTL biểu hiện ở mặt cảm xúc kèm hành vi
Biểu hiện cảm xúc kèm hành vi
ĐTB
Cảm thấy coi thường người bạn đời

1.41
Cảm thấy thiếu tin tưởng bạn đời
1.46
Cảm thấy có khoảng cách với bạn đời
1.67
Không muốn gần gũi về mặt tình dục
1.96
Hét lên với bạn đời
1.79
Tức giận đóng sầm cửa lại hoặc cố ý gây tiếng động
2.12
mạnh
Bực tức bỏ đi chỗ khác
2.46
Tức giận phá hỏng đồ bạn đời yêu thích
1.30
Giận dữ đe dọa nếu tái phạm sẽ không tha thứ
1.49
Tỏ ra không quan tâm, lạnh lùng
2.31
Không muốn nhìn thấy mặt bạn đời
1.33
Nói cay nghiệt “đã lấy nhầm người”/ “hối hận vì đã
1.47
cưới”
Trung bình của 12 biểu hiện
1.73

ĐLC
0.86

0.75
0.99
1.11
1.00
1.00
1.12
0.54
0.86
1.05
0.77
1.06
0.66

Kết quả bảng 3.3 cho thấy, biểu hiện cảm xúc đi kèm hành vi ở các gia đình trí thức
hầu như không xuất hiện khi xảy ra XĐ (ĐTB = 1.73). So với biểu hiện ở mặt cảm xúc
(ĐTB = 2.37) thì biểu hiện cảm xúc kèm hành vi cũng ít hơn hẳn. Điều này cho thấy, khi có
XĐTL, người vợ/ chồng trong gia đình trí thức ít có biểu hiện hành vi tiêu cực khi đang có
những cảm xúc tiêu cực.
3.1.1.3. Xung đột tâm lý thể hiện ở mặt hành vi trong các gia đình trí thức
Chúng tôi nghiên cứu XĐ biểu hiện ở mặt hành vi trên hai khía cạnh: Hành vi ngôn
ngữ; hành vi phi ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu được thể hiện như sau:

12

12


 Thứ nhất: Biểu hiện hành vi ngôn ngữ
Bảng 3.4. XĐTL giữa vợ chồng trí thức biểu hiện qua hành vi ngôn ngữ
STT

Biểu hiện hành vi ngôn ngữ
ĐTB
ĐLC
1
Dùng từ ngữ thiếu tôn trọng, lịch sự
1.54
1.08
2
Xưng hô thiếu tôn trọng
1.62
1.03
3
Chì chiết, nói dai, nói nhiều
1.90
0.99
4
Gọi bạn đời là “đồ ngu”, “đồ khốn”
1.27
0.76
5
Bàn đến chuyện ly thân
1.43
0.88
6
Nhắc lại lỗi lầm
1.88
0.86
7
Nhiếc móc, chê bài khả năng tình dục/ nhu cầu tình 1.21
0.65

dục
8
Chê bai học vấn
1.15
0.45
9
Chê khả năng kiếm tiền
1.22
0.52
10
Nói trống không
2.11
1.30
11
Chửi thề. Chửi đổng
1.42
0.87
Trung bình của các biểu hiện
1.52
0.69
Kết quả bảng 3.4 cho thấy, nhìn chung XĐTL trong các gia đình trí thức hầu như
không có biểu hiện qua hành vi ngôn ngữ (ĐTB = 1.52), với ĐLC = 0.69 cho thấy vẫn có
một số gia đình xuất hiện biểu hiện này ở mức hiếm khi và một bộ phận rất ít xuất hiện ở
mức thỉnh thoảng (10.4%) và thường xuyên (1.8%). Trong đó, các biểu hiện: nói trống
không; chì chiết, nói dai, nói nhiều; nhắc lại lỗi lầm xuất hiện ở tấn xuất hiếm khi với độ
lệch chuẩn khá lớn.
 Thứ hai: Biểu hiện hành vi phi ngôn ngữ
XĐTL trong gia đình trí thức còn xuất hiện những biểu hiện hành vi phi ngôn ngữ sau:
Bảng 3.5. Biểu hiện hành vi phi ngôn ngữ trong XĐTL
của gia đình trí thức

STT
1
2
3
4
5
6
7

Biểu hiện hành vi phi ngôn ngữ
Quăng ném, đập phá đồ đạc
Quăng, ném đồ đạc vào người bạn đời
Dùng vật để đánh bạn đời
Dùng tay, chân đấm đá bạn đời
Cấu véo bạn đời
Chống tay/ khoanh tay nhìn trừng trừng bạn đời
Tát người bạn đời
Trung bình của các biểu hiện

ĐTB
1.49
1.21
1.18
1.21
1.16
1.44
1.30
1.28

ĐLC

0.74
0.49
0.51
0.53
0.40
0.66
0.46
0.37

Kết quả bảng 3.5 cho thấy, XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức không xuất
hiện hành vi phi ngôn ngữ (ĐTB = 1.28). Với ĐLC = 0.37 cho thấy có một bộ phận gia đình
xuất hiện biểu hiện này ở mức hiếm khi.
3.1.1.4. Số lượng biểu hiện xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
Trong quá trình XĐTL giữa vợ chồng các biểu hiện diễn ra không nhiều (ĐTB = 6.45
biểu hiện) nhưng khá đa dạng và phong phú, với ĐLC = 6.88 cho thấy sự chênh lệch khá

13

13


lớn về số lượng biểu hiện XĐ, có gia đình không xảy ra biểu hiện, nếu có thì những biểu
hiện chỉ xuất hiện ở mức hiếm khi; nhưng có những gia đình có đến 12 hoặc 13 biểu hiện.
Trong đó, trung bình có 4.68 biểu hiện cảm xúc khi xảy ra XĐTL giữa vợ và chồng. Với
ĐLC = 4.038 cho thấy có gia đình chỉ xuất hiện 1 đến 2 cảm xúc, nhưng cũng có những gia
đình khi XĐ xuất hiện từ 9 đến 10 loại cảm xúc. Số lượng biểu hiện ở mặt hành vi là rất ít
(ĐTB = 1.77).
3.1.1.5. Mối quan hệ của các biểu hiện xung đột tâm lý
 Mối tương quan giữa các mặt nhận thức, cảm xúc và hành vi
Có sự tương quan thuận và tương đối chặt giữa các mặt thể hiện trong XĐTL giữa vợ

và chồng trí thức. Trong đó, biểu hiện cảm xúc khi có XĐTL có tương quan thuận và rất
mạnh với biểu hiện hành vi khi có XĐTL (r = 0.82). Nghĩa là XĐTL ở mặt cảm xúc càng
cao thì sẽ làm cho biểu hiện ở mặt hành vi càng lớn.
 Mối quan hệ với các đặc điểm nhân khẩu – xã hội
Nhìn chung mức sống càng giảm thì mức độ XĐ biểu hiện ở mặt hành vi càng tăng,
điều này cho thấy kinh tế thiếu hụt là một trong những nguyên nhân dẫn đến mẫu thuẫn, XĐ
trong các gia đình trí thức.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai giới tính về mức độ biểu hiện XĐ, nhưng
kết quả nghiên cứu cho ta thấy có sự khác biệt về mặt số liệu giữa hai nhóm giới tính như
sau: Trong nhóm biểu hiện hành vi, nhìn chung nam giới có mức độ thể hiện cao hơn nữ
giới; nhóm nữ giới lại có mức độ biểu hiện ở mặt cảm xúc cao hơn so với nam giới. Về số
lượng biểu hiện: Nam giới có số lượng biểu hiện ở mặt hành vi nhiều hơn nữ giới và nữ giới
có số lượng biểu hiện cảm xúc nhiều hơn nam giới.
3.1.2. Cách thức giải quyết xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức trên địa
bàn thành phố Hà Nội
3.1.2.1. Các cách giải quyết xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
 Hợp tác và tập trung để giải quyết vấn đề
Bảng 3.6. Cách thức hợp tác, tập trung để giải quyết vấn đề
STT
Cách giải quyết
ĐTB
ĐLC
1
Tìm hiểu nguyên nhân
3.56
0.98
2
Nói chuyện cởi mở với nhau
3.71
0.97

3
Cùng nhau bàn bạc, thảo luận về vấn đề
3.86
1.04
Tự mình phân tích phải trái để thay đổi ứng xử cho
4
4.07
1.14
phù hợp
5
Tự đọc sách báo để tìm cách giải quyết
2.82
0.80
6
Sử dụng tình dục để hòa giải
2.04
0.96
Trung bình chung
3.34
0.67
Kết quả bảng 3.6 cho thấy, nhìn chung các gia đình trí thức thỉnh thoảng (ĐTB = 3.34)
sử dụng nhóm cách thức này để giải quyết. Với ĐLC = 0.67 cho thấy không có gia đình nào
thuộc mức hoàn toàn không sử dụng nhóm giải phải pháp này và phần lớn gia đình trí thức
sử dụng giải pháp này ở mức độ thường xuyên.
 Tìm kiếm sự trợ giúp để giải quyết vấn đề

14

14



Nhìn chung các cặp vợ chồng trí thức không sử dụng cách thức giải quyết này. Có thể
do trí thức là những người có năng lực độc lập cao trong việc giải quyết vấn đề. Với ĐLC =
0.55 cho thấy vẫn có gia đình sử dụng ở mức thỉnh thoảng và thường xuyên.
 Bản thân chủ động bộc lộ với bạn đời
 Bảng 3.7. Cách thức bản thân chủ động bộc lộ với bạn đời
STT
Cách giải quyết
ĐTB
ĐLC
1
Tôi nói về cảm xúc của tôi khi tôi và bạn đời có XĐ
2.15
1.02
Tôi chủ động nói với người bạn đời vấn đề mình
2
1.72
0.94
nhận thấy chưa đúng, chưa được ở bản thân
Tôi chủ động bày tỏ sự ghi nhận về những điều
3
2.19
1.08
đúng/hợp lý của bạn đời
Tôi chủ động ngừng cuộc tranh luận với thái độ tôn
4
2.34
1.15
trọng người bạn đời
5

Tôi chủ động nói lời xin lỗi
2.62
1.29
Trung bình chung
2.21
0.99
Kết quả bảng 3.7 cho thấy, nhìn chung nhóm cách thức giải quyết này được vợ chồng
trí thức sử dụng ở mức hiếm khi (ĐTB = 2.21) với ĐLC = 0.99 cho thấy có sự phân hóa cao
về mức độ sử dụng, tức sẽ có gia đình không sử dụng phương pháp này và cũng có một bộ
phận tương đối lớn gia đình sử dụng phương pháp này ở mức thỉnh thoảng (20.9%) và
thường xuyên (13.5%).
 Lảng tránh vấn đề
Kết quả nghiên cứu cho thấy vợ chồng trong gia đình trí thức sử dụng cách thức lảng
tránh ở mức hiếm khi (ĐTB = 1.93), với ĐLC = 0.66 và kết quả phân tích dữ liệu cho thấy:
Có 48.8% gia đình không sử dụng cách thức lảng tránh; có 30.2% gia đình sử dụng cách
thức giải quyết này ở mức hiếm khi và 21% gia đình thỉnh thoảng sử dụng cách thức lảng
tránh để giải quyết vấn đề.
 Chấp nhận chịu đựng
Vợ chồng trí thức hiếm khi chấp nhận, chịu dựng khi có XĐTL xảy ra (ĐTB = 1.89),
tuy nhiên với ĐLC = 0.81 cho thấy vẫn có gia đình sử dụng ở mức thỉnh thoảng (11%) và
thường xuyên (8%).

15

15


 Cách giải quyết tiêu cực
Bảng 3.8. Cách giải quyết tiêu cực
STT

1
2
3
4
5
6
7
8
9

Cách giải quyết
Một mình, buồn bã không liên lạc với ai
Tự hành hạ, trách móc bản thân bất hạnh vì kết hôn
với người như vậy
Không chia sẻ với ai, tự gặm nhấm nỗi buồn
Mở lời với giọng điệu gay gắt, chỉ trích, phê phán
người kia
Không tìm hiểu nguyên nhân gây bất đồng
Không lắng nghe khi bạn đời giải thích
Tự viết đơn ly hôn và ký sẵn
Dọa sẽ ly hôn nếu không theo ý mình
Tôi đòi sống ly thân
Trung bình chung

ĐTB
1.55

ĐLC
1.02


1.56

1.04

1.74

1.16

2.06

1.13

1.96
1.95
1.39
1.37
1.43
1.66

0.91
1.08
0.93
0.90
0.91
0.78

Kết quả bảng số liệu cho thấy, cách giải quyết tiêu cực không được các trí thức lựa
chọn để giải quyết xung đột, với tần số thấp nhất trong 6 cách giải quyết (ĐTB = 1.66). Với
ĐLC = 0.78 cho thấy sự phân hóa khá lớn, có những gia đình trí thức không sử dụng cách
thức này nhưng cũng có bộ phận gia đình sử dụng ở mức thỉnh thoảng (5.5%) và thường

xuyên (7.4%).
3.1.2.2. Mối liên hệ giữa các cách thức giải quyết xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trí thức trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
 So sánh các cách thức giải quyết xung đột tâm lý
Bảng 3.9. Các cách giải quyết XĐTL
STT
Cách giải quyết
ĐTB
ĐLC
1
Hợp tác tập trung giải quyết vấn đề
3.34
0.67
2
Tìm kiến sự trợ giúp
1.78
0.55
3
Chủ động bộc lộ bản thân
2.21
0.99
4
Lảng tránh vấn đề
1.92
0.66
5
Chấp nhận chịu đựng
1.88
0.81
6

Giải quyết tiêu cực
1.67
0.78
Kết quả bảng 3.9 cho thấy: Vợ chồng trong gia đình trí thức sử dụng nhóm cách thức
“hợp tác tập trung giải quyết vấn đề” nhiều nhất ở mức độ thỉnh thoảng (ĐTB = 3.34),
nhóm cách thức “giải quyết tiêu cực” không được sử dụng (ĐTB = 1.67). Hiếm khi sử dụng
các cách thức giải quyết còn lại.
 Mối liên hệ giữa cách thức giải quyết với đặc điểm nhân khẩu – xã hội
Kiểm định T – test cho thấy dưới lát cắt giới tính, có sự khác nhau có ý nghĩa trong các
cách thức giải quyết: Tìm kiếm sự trợ giúp; chấp nhận, chịu đựng; giải quyết tiêu cực. Trong
đó, cách thức “tìm kiếm sự trợ giúp” và “giải quyết tiêu cực” được nữ giới sử dụng nhiều
hơn nam giới; cách thức “chấp nhận chịu đựng” nam giới sử dụng nhiều hơn nữ giới.

16

16




3.2.
3.2.1.

3.2.1.1.

3.2.1.2.

3.2.1.3.

Kết quả cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai độ tuổi trong cách thức giải

quyết “chủ động bộc lộ bản thân” và “chấp nhận chịu đựng”. Trong đó, độ tuổi dưới 30 sử
dụng cách thức “chủ động bộc lộ bản thân” nhiều hơn và độ tuổi từ 30 đến 39 sử dụng cách
thức chấp nhận, chịu đựng nhiều hơn độ tuổi dưới 30.
Dưới lát cắt trình độ học vấn, có sự khác biệt có ý nghĩa về mức độ sử dụng cách thức
“chủ động bộc lộ bản thân”; “chấp nhận, chịu đựng”; “lảng tránh”; “giải quyết tiêu cực”.
Trong đó, trình độ học vấn cao – thạc sĩ thì mức độ sử dụng cách thức “chủ động bộc lộ”
nhiều hơn so với trình độ học vấn đại học. Những cách thức còn lại thì những trí thức có
trình độ học vấn đại học lại có mức độ sử dụng cao hơn.
Dưới lát cắt nghề nghiệp, trí thức tham gia hoạt động giảng dạy có mức độ sử dụng
cách thức “chủ động bộc lộ” nhiều hơn so với trí thức tham gia hoạt động quản lý nhà nước,
xã hội. Những cách thức còn lại thì những trí thức tham gia hoạt động quản lý nhà nước, xã
hội có mức độ sử dụng cao hơn.
Dưới lát cắt mức sống, mức độ sử dụng cách thức “bản thân chủ động bộc lộ” giảm
dần theo chiều giảm xuống của mức sống trong gia đình trí thức. Ngược lại, mức độ sử
dụng các cách thức “chấp nhận, chịu đựng”; “lảng tránh”; “giải quyết tiêu cực” lại giảm
theo chiều tăng lên của mức sống trong gia đình trí thức.
Tương quan giữa các cách thức giải quyết với các biến số XĐTL
Có sự tương quan giữa các cách thức giải quyết XĐTL với các biến số XĐTL. Không
có sự tương quan giữa cách thức “tập trung giải quyết” với “biểu hiện hành vi” (p = 0.01)
.Trong các cách giải quyết, nổi bật có cách thức “giải quyết tiêu cực” có tương quan thuận
và chặt với các biến số XĐTL. Cách thức “tập trung giải quyết vấn đề” có tương quan
nghịch và yếu với các biến số mức độ XĐTL; biểu hiện cảm xúc và số lượng biểu hiện.
Các yếu tố ảnh hưởng đến xung đột tâm lý giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức
trên địa bàn thành phố Hà Nội
Mối quan hệ giữa các yếu tố với mức độ xung đột tâm lý
Mối quan hệ giữa cảm nhận chủ quan về hạnh phúc hôn nhân với mức độ xung đột
Có sự tương quan nghịch và khá chặt giữa cảm nhận chủ quan về hạnh phúc trong hôn
nhân với các biến số XĐTL. Như vậy, có thể nói trong cuộc sống hôn nhân gia đình, người
vợ/ chồng càng cảm nhận mình hạnh phúc thì càng giảm thiểu mức độ xung đột, và giảm
thiểu các biểu hiện nếu có XĐ xảy ra.

Mối quan hệ giữa các biến số xung đột tâm lý với mức độ xung đột tâm lý
Mức độ XĐTL có mối tương quan thuận và rất chặt với các biến số: Số lượng biểu
hiện (r = 0.95); biểu hiện cảm xúc (r = 0.92); biểu hiện hành vi (r = 0.92). Tương quan khá
chặt với số lĩnh vực xung đột (r = 0.61). Như vậy, mức độ XĐ càng cao thì số lượng biểu
hiện càng nhiều, mức độ thể hiện của các biểu hiện cảm xúc và hành vi càng lớn.
Mối quan hệ giữa các yếu tố với mức độ xung đột tâm lý
Có sự tương quan nghịch ở mức ít chặt giữa mức độ XĐTL với các yếu tố: Tình yêu
vợ chồng (r = -0.47); yếu tố hài lòng (r = 0.59); yếu tố văn hóa ứng xử (r = -0.48); yếu tố gia
đình nội ngoại (r = -0.41). Trong đó, mức độ XĐTL có sự tương quan chặt nhất với yếu tố
hài lòng. Không có sự tương quan với yếu tố công việc (sigα > 0.01).

17

17


3.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố đến mức độ xung đột tâm lý
3.2.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
- Yếu tố tình yêu: Trong cuộc sống hôn nhân, đa số các trí thức luôn có tình yêu với nhau. Rất
hiếm trí thức đến với nhau mà không có tình yêu hoặc ít có tình yêu.
Yếu tố sự hài lòng: Nhìn chung sự hài lòng của trí thức về cuộc sống gia đình ở mức
hài lòng nhiều. Trong đó, yếu tố thuộc về hai vợ chồng có sự hài lòng nhiều hơn hai yếu tố
còn lại (Hài lòng về cuộc hôn nhân: ĐTB = 3.94). Tuy nhiên đây cũng là yếu tố có độ lệch
chuẩn cao hơn cả ĐLC = 0.8 cho thấy cũng có những trí thức ít hài lòng về cuộc hôn của
mình.
- Yếu tố văn hóa ứng xử: Phần lớn các cặp vợ chồng trong gia đình trí thức ứng xử theo kiểu
tôn trọng (ĐTB = 3.80) và kiểu chia sẻ (ĐTB = 3.68). Ứng xử kiểu lãng mãn lịch sự chỉ ở
mức hiếm khi (ĐTB = 2.86).
- Yếu tố gia đình nội ngoại: Nhìn chung các gia đình trí thức có được nhiều sự thuận lợi từ
phía hai bên gia đình nội – ngoại (ĐTB = 4.29), với ĐLC = 0.75 cho thấy cũng có gia đình

trí thức mà mức thuận lợi đạt tối đa nhưng cũng có gia đình chỉ được ở mức ít.
- Yếu tố công việc: Với ĐTB = 1.90 cho thấy, tính chất công việc không thuận lợi của trí thức
ở mức thấp. Với ĐLC = 0.70 và số liệu thu được cho thấy cũng có gia đình có tính chất
công việc không thuận lợi ở mức tương đối cao và cao (19%) và đây có thể là yếu tố ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống gia đình.
3.2.2.2. Sự ảnh hưởng của các yếu tố đến mức độ xung đột tâm lý
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của các yếu tố đến mức độ XĐTL
Mức độ XĐTL
Biến độc lập
1. Số lượng biểu hiện
2. Sự hài lòng
3. Văn hóa ứng xử
4. Tình yêu vợ chồng
5. Gia đình nội ngoại
6. Tính chất công việc
Ghi chú:



Β

0.895
0.348
0.231
0.224
0.169
Không dự báo

0.946
-0.590

-0.481
-0.473
-0.411
Không dự báo

R²: Độ thích hợp của mô hình
Β: Trọng số bêta đã chuẩn hóa; dấu (-) thể hiện sự ảnh hưởng
không thuận chiều; dấu (+) thể hiện sự ảnh hưởng thuận chiều
Kết quả bảng 3.31 cho thấy yếu tố tính chất công việc không có ý nghĩa dự báo cho
mức độ XĐTL (với sigα = 0.724)
Các yếu tố còn lại, mức độ dự báo cao nhất thuộc về yếu tố “số lượng biểu hiện” và có
sự ảnh hưởng thuận chiều với mức độ XĐTL (R² = 0.895, có thể nói 89.5% sự biến đổi mức
độ XĐTL được giải thích bằng sự biến đổi về số lượng biểu hiện khi có XĐ; Β = 0.946 ).
Mức độ dự báo cao thứ hai thuộc về yếu tố “Sự hài lòng”. Yếu tố “Gia đình nội ngoại” có
mức độ dự báo thấp nhất (R² = 0.169).

18

18


3.3.
3.3.1.
3.3.2.

3.3.2.1.
3.3.2.2.
3.3.2.3.
3.3.2.4.
3.3.2.5.


Các biện pháp nhằm phòng ngừa hoặc giảm thiểu xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
trong gia đình trí thức
Nguyên tắc đề xuất biện pháp
Một số biện pháp được đề xuất
Nâng cao nhận thức về giá trị của gia đình, vị trí, vai trò của các thành viên
Nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan đến xung đột tâm lý giữa vợ và chồng
Hình thành các kĩ năng giao tiếp, ứng xử; giải quyết xung đột tâm lý
Nuôi dưỡng tình yêu vợ chồng
Tham vấn hôn nhân gia đình
Tiểu kết chương 3
Trong gia đình trí thức, XĐ giữa vợ và chồng được thể hiện ở ba mặt nhận thức, cảm
xúc và hành vi. Trong đó thể hiện ở mặt nhận thức là cao hơn cả, tuy nhiên chỉ có mức độ ít
ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Khi XĐ, các trí thức chủ yếu biểu hiện về mặt cảm xúc
nhiều hơn hành vi và nhìn chung không xuất hiện biểu hiện hành vi phi ngôn ngữ khi có XĐ
giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, với độ lệch chuẩn tương ứng thì vẫn có gia đình xuất hiện
những hành vi bạo lực như “tát”, “quăng ném đồ đạc vào người bạn đời” hay “đấm, đá, cấu,
véo”… đây là những hành vi mang tính dự báo xấu cho mối quan hệ vợ chồng. Dưới lát cắt
mức sống của gia đình trí thức, không có sự khác biệt về mức độ biểu hiện ở mặt cảm xúc;
nhưng có sự khác biệt về mức độ biểu hiện ở mặt hành vi giữa các mức sống khác nhau –
mức độ biểu hiện ở mặt hành vi sẽ tăng lên theo chiều giảm đi của mức sống.
Trong 6 cách giải quyết XĐ, “hợp tác, tập trung để giải quyết vấn đề” là cách thức
được các gia đình trí thức sử dụng nhiều hơn cả. Không có sự khác biệt giữa nam và nữ
trong việc sử dụng cách thức “hợp tác, tập trung giải quyết vấn đề”; “bản thân chủ động bộc
lộ” và”lảng tránh”. Có sự khác biệt giữa nam và nữ trong việc sử dụng cách thức giải quyết
sau: Nam giới sử dụng cách thức “chấp nhận, chịu đựng” nhiều hơn nữ giới; nữ sử dụng
cách thức “tìm kiếm trợ giúp” và “giải quyết tiêu cực” nhiều hơn nam giới. Cách thức “hợp
tác, tập trung giải quyết vấn đề” và “chủ động bộc lộ” có mối tương quan nghịch với mức
độ XĐTL, các cách thức còn còn lại có tương quan thuận với mức độ XĐTL, trong đó cách
thức “giải quyết tiêu cực” có tương quan nghịch ở mức độ chặt nhất.

XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức có mối quan hệ với nhiều yếu tố:
Những yếu tố “cảm nhận chủ quan về hạnh phúc”, “sự hài lòng về đời sống gia đình”, “văn
hóa ứng xử giữa vợ chồng”, “gia đình nội ngoại”, “tình yêu vợ chồng” có tương quan
nghịch với mức độ XĐTL, trong đó yếu tố “cảm nhận chủ quan về hạnh phúc” có mức
tương quan khá mạnh, các yếu tố còn lại tương quan ở mức ít mạnh. Các yếu tố thuộc về
biến số XĐTL như: số lượng biểu hiện, số lĩnh vực XĐ, mức độ biểu hiện về mặt hành vi và
cảm xúc có tương quan thuận và rất mạnh với mức độ XĐTL giữa vợ và chồng. Yếu tố công
việc không có tương quan với mức độ XĐTL.
XĐTL giữa vợ và chồng chịu sự ảnh hưởng, chi phối bởi nhiều yếu tố như đã nêu ở
trên, trong đó số lượng biểu hiện có mức dự báo cao nhất với trọng số khá lớn và thuận
chiều đối với mức độ XĐTL. Yếu tố “hài lòng” có mức độ dự báo cao thứ hai và không
thuận chiều với mức độ XĐTL. Yếu tố “gia đình nội ngoại” có mức độ dự báo thấp nhất với

19

19


sự ảnh hưởng không thuận chiều với mức độ XĐTL. Yếu tố “công việc” không cố ý nghĩa
dự báo cho mức độ XĐTL giữa vợ và chồng.
Để ngăn ngừa và giảm thiểu XĐTL vợ chồng trong các gia đình trí thức, trong khuôn
khổ luận văn chúng tôi đề xuất 5 biện pháp: Nâng cao nhận thức về các vấn đề liên quan
đến XĐTL giữa vợ và chồng; nâng cao nhận thức về giá trị của gia đình, vị trí, vai trò của
các thành viên; hình thành các kĩ năng giao tiếp, ứng xử; giải quyết XĐTL; nuôi dưỡng tình
yêu vợ chồng; tham vấn hôn nhân gia đình.

20

20



KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua việc nghiên cứu lý luận và điều tra thực tiễn, chúng tôi có một số kết luận như
sau:
XĐTL là hiện tượng diễn ra khá phổ biến trong các gia đình nói chung và gia đình trí
thức nói riêng. XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức được hiểu: Là sự bất đồng,
va chạm, mâu thuẫn ở mức độ cao giữa người vợ và người chồng trong quá trình chung
sống với nhau; được bộc lộ qua nhận thức, trạng thái cảm xúc và hành vi theo hướng phá
hủy mối quan hệ vợ chồng.
XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức ở địa bàn TP. Hà Nội chỉ diễn ra ở mức
hiếm khi. XĐ được biểu hiện chủ yếu ở mặt cảm xúc, không xuất hiện các biểu hiện ở mặt
hành vi. Khi xảy ra XĐ, các trí thức chủ yếu có biểu hiện “im lặng để giữ được bình tĩnh” ở
mức thỉnh thoảng. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có các biểu hiện như “nhắc lại lỗi lầm”, “chì
chiết, nói dai, nói nhiều”, hay “nói trống không”… ở mức hiếm khi.
Khi xảy ra XĐ, gia đình trí thức thường sử dụng 6 cách giải quyết sau: Hợp tác, tập
trung giải quyết vấn đề; bản thân chủ động bộc lộ với bạn đời; tìm kiếm sự trợ giúp; lảng
tránh; chấp nhận chịu đựng; giải quyết tiêu cực. Trong đó, cách thức chủ yếu được gia đình
trí thức sử dụng là “hợp tác tập trung giải quyết vấn đề” ở mức thỉnh thoảng, cách thức “giải
quyết tiêu cực” được sử dụng ít nhất và ở mức hiếm khi.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ XĐTL: Sự hài lòng với cuộc sống gia đình;
tình yêu vợ chồng; văn hóa ứng xử giữa hai vợ chồng; yếu tố gia đình nội ngoại hai bên; số
lượng biểu hiện. Trong đó, số lượng biểu hiện có sự dự báo cao nhất đến mức độ XĐTL
giữa vợ và chồng – trong XĐ càng ít biểu hiện thì mức độ XĐ càng thấp và ngược lại. Yếu
tố hai bên gia đình nội – ngoại có tính dự báo thấp nhất. Tính chất công việc không có ý
nghĩa dự báo cho mức độ XĐTL. Như vậy, để có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, bớt đi
những XĐ thì mỗi người cần phải biết hài lòng về cuộc sống của mình, nuôi dưỡng tình yêu
vợ chồng, phải có văn hóa ứng xử lành mạnh, có được những thuận lợi từ phía hai bên gia
đình nội ngoại và đặc biệt trong XĐ cần biết kiềm chế, kiểm soát cảm xúc để hạn chế bộc lộ
những cảm xúc và hành vi tiêu cực.

Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi đề xuất 5 biện pháp: Nâng cao nhận thức về các
vấn đề liên quan đến XĐTL giữa vợ và chồng; nâng cao nhận thức về giá trị của gia đình, vị
trí, vai trò của các thành viên; hình thành các kĩ năng giao tiếp, ứng xử; giải quyết XĐTL;
nuôi dưỡng tình yêu vợ chồng; tham vấn hôn nhân gia đình.
Như vậy, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Đề tài đã chứng minh được giả thuyết
nghiên cứu; làm rõ các biểu hiện trong XĐ; các cách giải quyết XĐ; yếu tố ảnh hưởng đến
XĐTL giữa vợ và chồng trong gia đình trí thức.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với các cơ quan, tổ chức nơi các trí thức làm việc
Tổ chức các chương trình tọa đàm, các buổi chia sẻ về các vấn đề liên quan đến gia
đình.

21

21


2.2.

2.3.

Tổ chức các hoạt động giải trí đòi hỏi sự tham gia của toàn thể gia đình như các cuộc
thi; chuyến du lịch nhằm tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình.
Đưa ra những chính sách để khuyến khích xây dựng gia đình văn hóa như tuyên
dương, khen thưởng…
Xây dựng dịch vụ hỗ trợ tâm lý tại cơ quan nhằm đảm bảo đời sống tinh thần khỏe
mạnh cho nhân viên.
Đối với dịch vụ tâm lý
Xây dựng, quảng bá hình ảnh của dịch vụ, đồng thời tạo dựng niềm tin với mọi người.
Các nhà tâm lý cần xây dựng hình ảnh cá nhân để tạo dựng uy tín, niềm tin. Song song

với đó luôn là rèn luyện phẩm chất, năng lực để có thể mang đến chất lượng dịch vụ tốt nhất
cho khách hàng
Đối với người vợ/ chồng
Tham gia các lớp học tiền hôn nhân trước khi kết hôn/ trong độ tuổi kết hôn.
Tìm hiểu văn hóa gia đình hai bên trước khi lựa chọn bạn đời và trước khi kết hôn.
Tham gia các khóa tập huấn, đào tạo dành cho hôn nhân gia đình, làm cha, làm mẹ, kĩ
năng gia tiếp ứng xử, kĩ năng kiểm soát cảm xúc…
Tham gia các buổi nói chuyện, chia sẻ về gia đình; hạnh phúc gia đình; cách thức
phòng ngừa; giải quyết XĐ trong gia đình…
Học cách hài lòng với cuộc sống và luôn hâm nóng, làm mới tình yêu vợ chồng.

22

22



×