Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

luận văn tốt nghiệp thực trạng sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình” qua khảo sát tại thôn đồng vang xã kim long huyện tam dương tỉnh vĩnh phúc,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.03 KB, 88 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong lịch sử phát triển xã hội, loài người đã biết đến chế độ mẫu hệ,
lúc đó quyền lực trong dòng tộc thuộc về người phũ nữ. Xã hội phát triển,
thay đổi, chế độ mẫu hệ dần bị thu hẹp lại và được thay thế bằng chế độ
phụ hệ, từ đó quyền lực thuộc về nam giới. Và trong sự phát triển, chính
nhờ sự mạnh mẽ về thể chất, sự cứng rắn về tinh thần của người đàn ông đã
góp phần củng cố cho địa vị thống trị của họ. Thế những, xã hội dần có
nhiều sự thay đổi, sức mạnh về thể chất không còn chiếm ưu thế tuyệt đối
nữa mà đồng thời xã hội cần những công dân có trí tuệ, có sức mạnh tư
duy, đó là những đặc điểm mà phụ nữ không hề thua kém nam giới.Trong
những năm gần đây trên thế giới, vai trò và vị trí của người phụ nữ được
nâng lên kể. Phụ nữ đã có quyền bình đẳng so với nam giới. Họ được tự do
học hành, được tham gia vào các hoạt động của xã hội theo khả năng của
mình, có được quyền bỏ phiếu, ứng cử
Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 2002, hàng
năm nền kinh tế toàn cầu đã bỏ qua khoảng 11 tỉ USD Mỹ từ thu nhập của
phụ nữ do họ làm những công việc gia đình mà không được tính công.
Thực tế, vô hình chung, công việc gia đình được coi như là nhiệm vụ riêng
của người phụ nữ, đó là những “lao động không công”, không được trả
lương và không được xã hội ghi nhận. Sự bất bình đẳng này tồn tại ở mức
độ này hay mức độ khác và không ngoại trừ một quốc gia nào.
Tại Việt Nam, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế - xã hội chuyển
từ tự cung, tự cấp, kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường sản xuất hàng
hóa nhiều thành phần có sự quản lí của nhà nước, theo hướng xã hội chủ
nghĩa. Điều đó có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến hoạt động kinh tế và đời
sống xã hội nói chung. Nhờ có sự chuyển biến định hướng đúng đắn có tính
1
chiến lược của Đảng và Nhà nước, đời sống nhân dân được cải thiện, nâng
cao hơn. Cơ chế thị trường đi sâu vào mọi khía cạnh của đời sống, các mối
quan hệ của con người đang có sự thay đổi lớn. Mối quan hệ giữa các thành


viên trong gia đình cũng chịu những sự tác động từ sự thay đổi đó.
Gia đình vốn được coi là hạt nhân cơ bản của xã hội. Nghị quyết hội
nghị Trung ương V đã đặt vấn đề gia đình ở một tầm quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng văn hóa và phát triển về mọi mặt của đất nước. Đó là
“Phải giữ gìn và phát huy những những đạo đức tốt đẹp vốn có của gia đình
Việt Nam nhằm tạo ra một lối sống lành mạnh, coi trọng xây dựng gia đình
văn hóa và xây dựng mối quan hệ khăng khít gia đình, nhà trường và xã
hội”. Trong đó, mục tiêu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta là tăng
cường sự tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội
của phụ nữ nhằm nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữ trong gia đình
nói riêng và ngoài xã hội nói chung. Theo chỉ thị 37/CT-TW ngày 16-05-
1994 khẳng định: “Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình
đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng
cao địa vị cho phụ nữ.” Tuy nhiên, bản thân xã hội của nước ta với các yếu
tố truyền thống, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo vẫn là một nhân tố đáng kể
tác động trực tiếp đến quan niệm và hành vi ứng xử của người dân trong
cuộc sống. Các chuẩn mực xã hội và những lễ giáo phong kiến khiến cho
người phụ nữ luôn bị ràng buộc trong gia đình, rơi vào địa vị phụ thuộc,
luôn sống bó hẹp trong “tam tòng tứ đức” và có thân phận thấp hèn, không
được bình đẳng với nam giới. Nhiều nơi phụ nữ bị đối xử bất công, luôn bị
lép vế, lao động cực nhọc, thức khuya dậy sớm, không có tiếng nói trong
gia đình, không được tham gia vào các công việc trong xã hội. Quan niệm
trọng nam khinh nữ và tư tưởng coi thường phụ nữ vẫn còn đang tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau. Chế độ gia trưởng và sự bất bình đẳng
2
thường là những nguyên nhân dẫn đến sự phụ thuộc trong cuộc sống gia
đình của người phụ nữ.
Bình đẳng giới là một đòi hỏi cấp thiết và thiết thực nhằm đem lại sự
giải phóng cho phụ nữ, tạo cho họ có nhiều cơ hội cùng nam giơi tham gia

hoạt động xã hội, có được vị trí và chỗ đứng cá nhân ở ngoài xã hội và bên
trong gia đình. Sự phân công lao động hợp lý các công việc trong gia đình
không những là chìa khóa để đảm bảo cho sự ổn định bền chặt, êm ấm của
gia đình, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của cả nam giới và nữ
giới về mọi mặt xã hội. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, bất
kỳ sự phân biệt đối xử nào về giới cũng đều cản trở sự phát triển bền vững,
tạo nên xung đột xã hội. Vì vậy, vấn đề bình đẳng giới mang ý nghĩa hết
sức sâu sắc về kinh tế, văn hóa, chính trị.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài về “ Thực trạng sự phân công lao
động giữa vợ và chồng trong gia đình” qua khảo sát tại thôn Đồng Vang -
xã Kim Long - huyện Tam Dương - tỉnh Vĩnh Phúc, để thấy được quan
niệm của người dân nới đây về sự phân công lao động giữa vợ và chồng
trong gia đình. Từ đó thấy rõ vai trò lao động của người phụ nữ trong gia
đình, bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới diễn ra như thế nào nhằm
góp phần để có cái nhìn đúng hơn về người phụ nữ. Thêm nữa, nó còn đề
ra những biện pháp và khuyến nghị để nâng cao hơn vai trò của người phụ
nữ, phát huy hết tiềm năng của người phụ nữ góp phần xây dựng một xã
hội ngày càng công bằng văn minh.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
Tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà
nước” (Engels, 1884) đã mô tả sự phân công lao động theo giới gắn liền
với các kiểu hôn nhân và gia đình, các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
khác nhau. “Giới tính thứ hai” (Simone De Beauvoir, 1949) đã giải thích
3
các nguyên nhân dẫn đến “địa vị hạng hai” của phụ nữ và lên tiếng đấu
tranh nhằm xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng nam – nữ trên thế giới. “Sự
huyền bí của nữ tính” (Betty Friedan, 1963) đã chỉ ra sự khốn khổ và thất
vọng của người phụ nữ nội trợ khi họ bị phụ thuộc vào nam giới. “Vai trò
của phụ nữ trong phát triển kinh tế” (Boserup, 1970) đã xác định một cách
có hệ thông và ở phạm vi thế giới sự phân công lao động giữa vợ và

chồng trong nền kinh tế nông nghiệp “Phân công lao động theo giới
trong gia đình nông dân” (Lê Ngọc Văn, 1997) đã chỉ ra mô hình phân
công lao động theo giới ở khu vực nông thôn trong thời kỳ kinh tế thị
trường. Vũ Tuấn Huy và Deborah S. Carr với nghiên cứu: “Phân công lao
động nội trợ trong gia đình” (2000) đã khẳng định sự bất bình đẳng trong
phân công lao động nội trợ - nơi phụ nữ đảm nhận chủ yếu. Các tác giả
cũng chỉ ra sự tác động của các yếu tố nghề nghiệp, việc làm, số con, định
hướng tâm thế nghề nghiệp có liên quan đến văn hóa và xã hội hóa. Cuốn
sách: “Xu hướng gia đình ngày nay” (Vũ Mạnh Lợi, 2004) đã đưa ra mô
hình phân công lao động giữa vợ và chồng theo chu trình hôn nhân và tập
trung vào việc so sánh mô hình đó. Mô hình đó chỉ ra rằng việc nội trợ
trong gia đình là việc của hầu hết phụ nữ trong giai đoạn đầu của cuộc
hôn nhân, việc tham gia vào công việc nội trợ của nam giới có xu hướng
tăng lên trong giai đoạn tiếp theo của cuộc sống gia đình.
Tóm lại, từ khi có sự xuất hiện của sự phân công lao động theo giới đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên mỗi công
trình nghiên cứu, mỗi đề tài khoa học lại nghiên cứu ở mỗi khía cạnh khác
nhau của vấn đề. Để góp phần vào công cuộc nghiên cứu này, đề tài “Sự
phân công lao động giữa vợ và chồng ở huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh
Phúc” được nghiên cứu trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu của các tác giả đi trước hy vọng sẽ góp phần nào cho lĩnh vực
nghiên cứu về phân công lao động theo giới ở Việt Nam.
4
Thế giới ngày nay tốt đẹp hơn so với khi bắt đầu bước vào thế kỷ 20.
Tuy mù chữ, nạn bệnh tật và bạo lực vẫn còn gây đau khổ cho rất nhiều
người trên thế giới nhưng cũng đã có nhiều tiến bộ- sự phổ cập của giáo
dục và tình trạng biết đọc biết viết, những tiến bộ trong khoa học và y
họcdã loại trừ hoặc kiểm soát được nhiều dịch bệnh, sự trao đổi thông tin
tự do hơn trên khắp thế giới đã khiến những kẻ đi áp bức phải trả giá đắt
hơn nếu muốn áp bức người khác.

Một tiến bộ khác nữa là phụ nữ có tiếng nói hơn trong cuộc sống cá
nhân cũng như ngoài cộng đồng. Trong thế kỷ 20, phụ nữ đã có quyền bỏ
phiếu và nắm giữ các vị trí dân cử ở hầu hết các nước - cho dù nhiều khi
chỉ là trên nguyên tắc. Với tư cách là người lao động, họ được pháp luật
dành cho sự bảo vệ đặc biệt khi những điều luật đó được xem là cần thiết.
Họ ngày càng có nhiều khả năng tiếp cận đến dịch vụ y tế và giáo dục. Họ
đang tập hợp nhau lại một cách hữu hiệu cả ở trong nước và quốc tế- để
xác định quyền của phụ nữ như những quyền con người và việc đưa vấn
đề giới vào quá trình hoạch định chính sách phát triển.
Đổi mới kinh tế ở Việt Nam những năm qua đã tác động mạnh mẽ tới
cơ cấu và sự phân công lao động nam- nữ trong gia đình. Quy mô gia đình
đang có xu hướng hạt nhân hoá nhưng các yêu cầu xã hội đối với chức
năng gia đình lại tăng lên. Gia đình vừa phải đảm bảo đời sống vật chất
(chức năng kinh tế) và tinh thần (chức năng duy trì tình cảm) cho các
thành viên của mình, vừa phải tích cực tham gia các hoạt động kinh tế xã
hội của cộng đồng. Vai trò của gia đình trong việc tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập và lành mạnh hoá các quan hệ xã hội luôn được nhấn mạnh
trong các văn bản, đánh giá và các nghiên cứu chính thức của các cá nhân
và tổ chức.
Nghiên cứu sự phân công lao động theo giới trong gia đình vùng nông
thôn thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước sẽ giúp chúng ta
5
nắm bắt được sự biến đổi của gia đình, của kinh tế hộ, sự biến đổi khuôn
mẫu gia đình truyền thống đến hiện đại.
Các khu vực nông thôn nằm giữa khu thành thị và nông thôn nên
những biến đổi về kinh tế và văn hoá ở đây phức tạp và nhiều chiều hơn
các khu vực khác. Sự biến đổi đó tác động đến sự phân công lao
độngtrong các gia đình làm thay đổi mối quan hệ xã hội trong đó có mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là mối quan hệ giới.
Vai trò của người phụ nữ bước đầu được chú trọng nhiều hơn trong các đề

tài nghiên cứu về gia đình và phụ nữ. Có thể kể ra một số bài viết và đề tài
sau:
- “Đưa vấn đề giới vào phát triển thông qua sự bình đẳng giới vế
quyền, nguồn lực và tiếng nói” (Báo cáo nghiên cứu chính sách của ngân
hàng Thế giới, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội 2001). Báo cáo nhằm
mục đích nâng cao sự hiểu biết về mối quan hệ giữa vấn đề giới, chính
sách công và sự phát triển góp phần thúc đẩy sự bình đẳng giới. Báo cáo
đề xuất một chiến lược 3 phần để nâng cao sự bình đẳng giới. Báo cáo đề
cập đến việc phá vỡ sự phân công lao động cứng nhắc theo giới thông qua
việc tiếp cận các nguồn lực về kinh tế và chính sách xã hội.
- “Phụ nữ và nam giới và cải cách kinh tế ở nông thôn” được nghiên
cứu bởi trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình vào năm 1995. Đề tài đã
đề cập đến sự phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân trong
quá trình chuyển đổi nền kinh tế cũng như các vấn đề xã hội đặt ra xung
quanh mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với tính công bằng và sự bình
đẳng giới từ sự phân công lao động đó.
- Giáo sư Lê Thi, “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt
Nam” trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ lại khẳng định mục tiêu
của việc nghiên cứu giới nhằm tạo nên sự phát triển tốt đẹp và sự phân
công hợp lý giữa hai giới nam và nữ không chỉ trong lao đọng sản xuất ở
các ngành nghề mà còn trong các hoạt động tổ chức, xây dựng cuộc sống
6
gia đình và nuôi dạy con cái. Ở cả hai lĩnh vực hoạt động- gia đình và xã
hội - đều cần có sự tham gia và phát triển tài năng trí tuệ của cả hai giới,
phù hợp với đặc điểm về giới của họ, góp phần tạo nên sự hài hoà trong
từng gia đình.
- Đề tài nghiên cứu “Sự phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn và
vai trò của người phụ nữ” được thực hiện bởi trung tâm nghiên cưú phụ
nữ vào năm 1989. Nội dung chủ yếu cho thấy tầm quan trọng và khả năng
phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn. Trong đó phụ nữ nông thôn

đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp thu nhập, đóng góp thời gian
lao động sản xuất cho gia đình và xã hội. Song chưa nhấn mạnh đến sự
phân công lao động theo giới trong các gia đình nông thôn.
Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của người phụ
nữ và nam giới trong đời sống gia đình như :
- “Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ 21” trung tâm
nghiên cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển, NXB thế giới,
Hà Nội 2000
- “Gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội” trung tâm nghiên
cứu giới, gia đình và môi trường trong phát triển, NXB khoa học xã hội
1995.
- “Người phụ nữ và gia đình Việt Nam hiện nay” trung tâm nghiên
cứu khoa học về gia đình và phụ nữ, NXB khoa học xã hội 1991
- “Nghiên cứu và đào tạo giới ở Việt Nam” NXB khoa học xã hội
1999
- “Vai trò của nam chủ hộ ngư dân ven biển” tạp chí xã hội học 1998
- “Vai trò của người cha” tạp chí xã hội học 2002.
Nhìn chung, bức tranh phân công lao động giữa hai giới đã được dựng
lên khá rõ nét ở nhiều góc độ và hình thức nghiên cứu phong phú, nhưng
dường như các đề tài mới chỉ tập trung vào việc phân tích sự thay đổi vị
7
trí, vai trò của người phụ nữ thông qua các hoạt động sống của gia đình
nói chung.
Đời sống không ngừng biến đổi, vì thế sự phân công lao động gia đình
nói chung và sự phân công lao động các công việc nội trợ trong các gia
đình nói riêng cũng cần sự biến đổi, để tạo nên một môi trường xã hội
phát triển ổn định và bền vững. Trong báo cáo này, người viết cố gắng
nhìn nhận vấn đề từ cả hai góc độ quan điểm của những phụ nữ và nam
giới trong việc xem xét sự phân công lao động trong gia đình để thấy
được các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia vào các công việc gia đình

của cả hai giới, hy vọng đưa ra những khuyến nghị hướng tới sự phát triển
toàn diện của cả hai giới trong mối tương quan với gia đình và xu thế biến
đổi mới hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Sự phân công lao động theo giới trong gia đình vùng nông thôn thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
4. Khách thể phạm vi nghiên cứu.
4.1. Khách thể nghiên cứu.
Các hộ gia đình tại xã Kim Long - huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
4.2.1. Phạm vi không gian.
Xã Kim Long - huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc.
4.2.2. Phạm vi thời gian.
Điều tra từ ngày 1 tháng 12 đến ngày 3 tháng 12 năm 2014.
4.2.3. Phạm vị nội dụng nghiên cứu.
Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình
8
5. Câu hỏi nghiên cứu:
- Thực trạng phân công lao động theo giới trong gia đình vùng nông
thôn hiện nay như thế nào?
- Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong công việc nội trợ diễn
ra như thế nào?
- Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong công việc chăm sóc
các thành viên trong gia đình và con cái diễn ra như thế nào?
- Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong các công việc lao
động sản xuất diễn ra như thế nào?
- Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong công việc quyết định
các việc lớn trong gia đình, tham gia các hoạt động cồng động và
dòng họ?
6. Giả thuyết nghiên cứu:

- Sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình cơ bản dựa
trên mô hình phân công lao động truyền thống: Người vợ đảm nhận
những công việc thiết yêu của gia đình là nội trợ, một phần công việc
nông nghiệp.
- Người vợ đảm nhận vai trò chính trong việc chăm sóc con cái và gia
đình
- Người chồng đảm nhận chính các công việc sản xuất,
- Người chồng đại diện cho gia đình tham gia các hoạt động trong
dòng họ hay đoàn thể.
- Yếu tố kinh tế, văn hóa, học vấn, nghề nghiệp, tuổi tác động mạnh
mẽ đến sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình.
9
7. Khung lý thuyết:
10
Điều kiện kinh tế-văn hoá-xã hội
Các yếu tố thuộc
về cấu trúc gia
đình(độ dài hôn
nhân, nhóm tuổi).
Nhận thức về vai trò
giới của người vợ
và người chồng.
Sự phân công lao động theo giới trong
gia đình
Các công việc nội
trợ: đi chợ,nấu
nướng, giặt giũ,
dọn dẹp nhà cửa.
Công việc chăm
sóc các thành viên

trong gia đình và
giáo dục con cái.
Việc quyết định các
công việc lớn trong
gia đình và đại diện
gia đình tham gia các
hoạt động trong dòng
họ và đoàn thể.
Biến đổi phân công lao động trong
gia đình
8. Phương pháp nghiên cứu.
8.1. Phương pháp luận .
8.1.1 Phương pháp luận của xã hội học Mác- Lênin.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã vận dụng một cách cụ thể
phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử của Triết học Mác-Lênin. Quy luật biện chứng trong các mối
quan hệ xã hội yêu cầu nghiên cứu phải xem xét mối quan hệ giữa vợ và
chồng trong các vai trò mà họ đảm nhiệm trong gia đình
Nghiên cứu quy luật phát triển của sự vật hiện tượng phải đặt trong
mối quan hệ tương tác lẫn nhau và trong hoàn cảnh, môi trường cụ thể
trong xã hội của chính nó để lý giải vì sao bất bình đẳng giới vẫn còn tồn
tại trong việc phân công lao động trong các gia đình ở nông thôn, nông
thôn mới hiện này.
Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng một số phương pháp luận, một số lý
thuyết của chuyên ngành Xã hội học cũng như một số chuyên ngành khác
để có cái nhìn đa chiều về vấn đề nghiên cứu.
Như vậy, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng cùng với việc vận
dụng triệt để nhưng lý thuyết, lý luận làm cơ sở để nghiên cứu. Đề tài đã
có được thực hiện một cách khách quan, khoa học, khắc phục được những
thiếu sót từ đó tăng thêm tính chặt chẽ, logic của đề tài.

8.2. Cơ sở lý luận.
8.2.1 Lý thuyết vị thế - vai trò
Lý thuyết xã hội học về vị thế vai trò cho phép nghiên cứu hành vi của con
người trong hệ thống của những cấp độ “cá nhân - nhóm xã hội - xã hội”. Nó
cho phép mở ra cơ chế cụ thể những liên hệ qua lại và tương tác của nó với
những yếu tố cơ cấu xã hội khác và với xã hội nói chung. Lý thuyết này
không chỉ mở ra sự phụ thuộc của các cá nhân và hành vi của họ với xã hội
11
và cơ cấu xã hội với môi trường xung quanh mà còn chú ý đến thế giới nội
tâm của cá nhân khi xác định hành động và hành vi. Nhưng lý thuyết vị thế -
vai trò chủ yếu phân tích hành vi của các cá nhân chứ ít hướng vào phân tích
hành vi của nhóm xã hội với tư cách là một chỉnh thể.
Cần thấy rằng sự phân công lao động theo giới trong gia đình vùng nông
thôn hiện nay trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thời kỳ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, do đó, nó không đơn thuần bị quy
định bởi vị thế - vai trò cá nhân của mỗi cá nhân mà còn bị qui định bởi các
yếu tố ở cấp độ vĩ mô như những biến đổi về chính sách phát triển kinh tế, cơ
chế thị trường và những thay đổi trong hệ giá trị văn hoá, trong thiết chế xã
hội, cơ cấu xã hội.
8.2.2 Lý thuyết về cơ cấu - chức năng
Sử dụng cách tiếp cận cơ cấu- chức năng trong việc làm rõ vị trí, vai trò
của các thành viên trong gia đình để thấy được mối quan hệ tương tác giữa
các thành tố của cơ cấu đó, đặc biệt là cơ cấu vai trò giới. Thông qua sự tương
tác này chúng ta sẽ đánh giá được việc thực hiện các chức năng của gia đình
trong điều kiện hiện nay.
8.2.3 Quan điểm xã hội học về cách tiếp cận giới tính
- Quan điểm của lý thuyết giới và phát triển
Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị
xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh cụ thể. Nói cách khác, giới
đề cập đến những khác biệt giữa nam và nữ do xã hội qui định. Do đó giới

không phải là do tự nhiên sinh ra, mà là sản phẩm của xã hội. Các nhà khoa
học cho rằng giới là cấu trúc xã hội hay nói cách khác giới là do xã hội tạo
nên.
“Cách tiếp cận giới và phát triển cho rằng nếu chỉ chú trọng đến phụ nữ
một cách tách biệt sẽ bỏ qua một thực tế là nam giới có vị thế áp đảo đối với
12
phụ nữ. Vì vậy các lý thuyết giới và phát triển thường nhấn mạnh nội dung
bản sắc xã hội của mối tương quan giới, về tính hợp pháp của các vai trò giới
đã được gán cho cả phụ nữ và nam giới”.
- Lý thuyết vai trò giới
Vai trò giới được định nghĩa là những hành vi, những quan điểm được
trông đợi trong một xã hội đối với mỗi giới. Những vai trò này bao gồm các
quyền và trách nhiệm được chuyển hoá đối với từng giới trong một xã hội cụ
thể.
Lý thuyết vai trò giới xuất phát từ những nguồn gốc sinh học mà nó xác
định sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà. Những nguồn gốc sinh học này tạo
nên nguyên liệu thô, từ đó tổ chức nên những hành vi cụ thể, được gọi là
những vai trò giới. Các vai trò này hình thành thông qua quá trình xã hội hoá.
Những vai trò này hướng dẫn các hành vi của hai giới được xem là phù hợp
với những mong đợi của xã hội. Đó chính là thể hiện sự phân công lao động
theo giới.
- Lý thuyết chức năng giới
Lý thuyết này cho rằng nam giới được gán cho chức năng chuyên môn
(công cụ, nghề nghiệp) để tạo ra của cải vật chất, còn phụ nữ có chức năng
biểu đạt (văn hoá, tình cảm) để tạo ra của cải tinh thần.
Emile Durkheim nhà xã hội học người pháp là một trong những đại diện
tiêu biểu của lý thuyết này. Theo ông, chức năng giới được qui định một cách
tự nhiên sinh học, “bẩm sinh” “vốn có”. Do vậy, sự phân công lao động trong
xã hội phải tôn trọng và tuân theo sự hợp lý của tự nhiên,nếu khác đi là có
“vấn đề”, là “không bình thường”. Ngay cả sự khác biệt đến mức bất bình

đẳng giữa nam và nữ về lao động, việc làm và thu nhập cũng được một số tác
giả thuộc trường phái chức năng cho là cần thiết và “hợp lý” để đảm bảo trật
tự của hệ thống gia đình và xã hội.
Sự phân công lao động theo giới là hình thức tổ chức lao động trong xã hội
có từ rất lâu đời nhưng điều đó không có nghĩa là nó không bị biến đổi. Như
13
Mác và Ănghen đã nhận xét “Sự phân công lao động cũng phát triển, lúc đầu
chỉ là phân công lao động trong hành vi tình dục và về sau sự phân công lao
động tự hình thành hoặc hình thành một cách tự nhiên do những thiên tính
bẩm sinh, do những nhu cầu, do những sự ngẫu nhiên ”
Quan điểm giới và sự phát triển hiện nay không chỉ nhấn mạnh đến tương
tác vai trò của mỗi giới mà còn nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của người phụ
nữ trong việc hoạch định thực hiện và đánh giá các mục tiêu phát triển kinh
tế,văn hoá, xã hội và sự tiến bộ của mỗi giới trong sự ổn định và phát triển xã
hội. Do đó, nó đòi hỏi sự xác định mục tiêu và biện pháp thích hợp đáp ứng
nhu cầu của mỗi giới, trong đó tạo cơ hội cho phụ nữ phát huy năng lực của
mình, phát triển toàn diện, bình đẳng với nam giới cùng sự phát triển xã hội
bền vững.
Các lý thuyết, quan điểm xã hội học nêu trên đã bổ xung cho nhau và giúp
cho chúng ta có một cách tiếp cận nghiên cứu tổng - tích - hợp về sự phân
công lao động theo giới trong gia đình vùng nông thôn thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước.
8.3. Phương pháp thu thập thông tin.
Để thu thập thông tin xã hội học làm cơ sở cho việc phân tích các vấn đề
đặt ra, nghiên cứu này đã sử dụng một số phương pháp sau:
8.3.1 Phương pháp chọn mẫu.
Để phục vụ cho quá trình thu thập thông tin trong quá trình nghiên
cứu, đề tài đã sử dụng phương pháp chọn mẫu với nguyên tắc chọn mẫu là
dung lưỡng mẫu được xác định trên cơ sở chọn ngẫu nhiên.
Từ phương pháp này đề tài dự kiến chọn mẫu theo cách chọn ngẫu

nhiên 816 hộ gia đình (chọn mẫu toàn bộ) trong huyện Tam Dương, tỉnh
Vĩnh Phúc để tiến hành thu thập thông tin cho quá trình nghiên cứu.
14
8.3.2 Phương pháp phân tích tài liệu.
Đề tài sử dụng những tài liệu đó là các công trình khoa học, những đề
tài nghiên cứu của các tác giả đi trước để phục vụ cho công trình nghiên
cứu của mình. Các tài liệu đa phần là những công trình nghiên cứu xã hội
về gia đình và giới.
Đồng thời đề tài còn sử dụng các thông tin trong các giáo trình, các
sách báo, tư liệu, tạp chí chuyên ngành, các thống kê xã hội, các thông tin
trên internet trên tình thần tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo, phát triển.
Báo cáo đã sử dụng các tư liệu, các thông tin kinh tế xã hội và các
thông tin chuyên ngành từ các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu như: các báo cáo chi tiết của cán bộ xã Kim Long - huyện
Tam Dương - Vĩnh Phúc về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội của xã; tạp
chí khoa học về phụ nữ; tạp chí xã hội học; các chuyên đề nghiên cứu của
trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ nhằm củng cố
những luận cứ về mặt lí thuyết và thực tiễn.
8.3.3 Phương pháp phỏng vấn cấu trúc.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, đề tài đã sử dụng bảng hỏi để tiến
hành phỏng vấn cấu trúc trên 816 mẫu được chọn. Vì phương pháp này là
phương pháp thu thập thông tin định lượng cho ra các kết quả nghiên cứu
cụ thể nên phương pháp này thường xuyên được sử dụng trong các nghiên
cứu khoa học.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là những khái quát về thực trạng
vấn đề nghiên cứu, đưa ra những con số thống kế cụ thể nhằm tạo nên tính
khoa học cho đề tài nghiên cứu
15
8.3.4 Phương pháp phỏng vấn sâu.
Để thu thập các thông tin định tính, đề tài nghiên cứu đã thực hiện 5

cuộc phỏng vấn sâu đối với người dân tại huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh
Phúc nhằm khai thác thông tin theo chiều sâu cho đề tài nghiên cứu.
8.3.5 Phương pháp thu thập, xử lý và phân tích thông tin.
Ngoài các phương pháp luận như dựa trên nền tẳng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, các lý thuyết Xã hội học, các lý luận phân công lao động,
bình đẳng xã hội , trên thực tế đề tài còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu Xã hội học cụ thể để làm rõ hơn các vấn đề nghiên cứu.
8.3.6 Phương pháp quan sát.
Qua thực tế sinh hoạt và làm việc tại địa phương kết hợp với phỏng
vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng hỏi, tôi có sử dụng các biện pháp quan
sát như nghe, nhìn trong khi đi phỏng vấn để qua đó thu thập thông tin về
các hiện tượng liên quan tới mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Đồng thời
quan sát thái độ của người trả lời nhằm đánh giá độ chính xác của thông
tin thu được.
• Các vấn đề đạo đức và các cảnh báo về dữ liệu
Kết quả nghiên cứu được thu thập thông tin từ thực địa bằng phương
pháp phỏng vấn sâu và phỏng vấn cấu trúc do tác giả và đoàn nghiên cứu
thu thập thông tin.
Cảnh báo dữ liệu: Dữ liệu có thể bị sai lệch do điều tra viên lần đầu
tiên
9. Hệ khái niệm.
9.1. Khái niệm lao động.
Lao động là một thiết chế xã họi trong đó hoạt động con người được
định hướng, được tổ chức, sắp xếp nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng
16
nhu cầu cá nhân, của nhóm và của xã hội. (Lê Ngọc Hùng – tập bài giảng
XHH Lao động).
Xã hội học xem xét “lao động” với tư cách là hiện tượng xã hội nảy
sinh, biến đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Trong đề tài này “lao
động” được nhìn nhận trong sự liên quan với quan hệ giữa vợ và chồng

trong gia đình dưới tác động của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Nó hoạt động tạo nên sự phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình.
9.2. Khái niệm phân công lao động.
Khái niệm phân công lao động được hiểu từ hai góc độ khoa học liên
quan đến khái niệm chức năng theo quan niệm kinh tế học bắt nguồn từ A.
Smith “phân công lao động là sự chuyên môn hóa nhiệm vụ lao động
nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát triển xã hội, củng cố mối quan
hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội. Phân công lao động không
đơn thuần là sự chuyên môn hóa lao động mà thực chất là quá trình gắn
liền với sự phân hóa xã hội, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội”
Trong tác phẩm “Sự phân công lao động xã hội” (1893) E. Durkheim
đã chỉ ra rằng phân công lao động không chỉ có ý nghĩa thuần túy kinh tế,
để làm giàu và nâng cao năng suất, hiệu quả lao động mà phân công lao
động còn thực hiện chức năng to lớn hơn, quan trọng hơn đối với cuộc
sống con người. Đó là việc tạo ra sự đoàn kết xã hội, sự hội nhập xã hội
kiểu mới trong xã hội hiện đại. Với trình độ phân công lao động ngày một
cao, vai trò nhiệm vụ càng bị phân hóa và chuyên môn hóa sâu sắc thì các
cá nhân ngày càng phải tương tác với nhau. Sự phụ thuộc lẫn nhau cùng
với cùng với các trách nhiệm, nghĩa vụ được chia sẻ do sự phân công lao
động đã tạo ra gắn kết các cá nhân và các nhóm xã hội lại với nhau. Trong
xã hội hiện đại, sự đoàn kết xã hội chủ yếu nảy sinh từ sự đa dạng, phong
phú của cách suy nghĩ và kiểu hành vi xã hội mà những khuân mẫu hành
17
động đó được các cá nhân tán đồng chia sẻ. Sự phân công lao động trong
xã hội có thể xảy ra trên cơ sở khác nhay về đặc điểm tự nhiên của chủ thể
lao động, cũng như dựa vào các đặc điểm, yêu cầu phát triển của nền kinh
tế - xã hội.
Sự khác biệt giữa nam và nữ dẫn đến sự phân công lao động nam – nữ
trong xã hội và gia đình. Trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình của chế độ

tư hữu và Nhà nước”, Mac và Anghen đã nhận xét “Sự phân công lao
động là hoàn toàn có tính chất tự nhiên, chỉ tồn tại giữa nam và nữ, lúc
đầu đó chỉ là sự phân công lao động trong hành vi tình dục, về sau sự
phân công lao động chuyển thành sự phân chia phạm vị hoạt động theo
giới một cách tự nhiên và đã dẫn đến sự sở hữu có tính đặc trưng theo
giới, mỗi giới làm chủ trong lĩnh vực hoạt động của riêng mình”. Trong
các xã hội, sự phân công lao động theo giới biểu hiện qua sự phân chia
khu vực lao động nghề nghiệp. Ngoài ra, sự phân công lao động theo giới
còn thể hiện trong cách tổ chức cuộc sống gia đình.
“Phân công lao động trong gia đình” là sự đảm nhiệm các công việc
trong gia đình của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình nhằm
thực hiện những chức năng của gia đình trong chăm sóc, giáo dục đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển ổn định của gia đình. Sự phân công lao
động trong gia đình chủ yếu dựa trên 3 nhóm công việc: các công việc tạo
thu nhập, các công việc tái tạo sức lao động và các hoạt động nhằm duy trì
mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình với họ hàng, cộng đồng
Phân công lao động theo vợ chồng là yếu tố hình thành vai trò giới
trong gia đình và xã hội. Phụ nữ có vai trò biểu đạt tình cảm, nam giới có
vai trò là công cụ tạo ra thu nhập. Theo thuyết chức năng, lao động của
phụ nữ có chức năng tình cảm và lao động của nam giới có chức năng tư
duy và hành động giải quyết vấn đề.
18
9.3. Khái niệm “gia đình”.
Gia đình là một tập thể xã hội có từ hai nguời trở lên trên cơ sở huyết
thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau. Gia đình là một cơ
chế trung tâm của tất cả con người, là thiết chế xã hội đặc biệt tập hợp
nhau về thân phận, vai trò, chuẩn mực và lương tri để đạt tới các mục tiêu
xã hội quan trọng. Các mục tiêu này bao gồm cả sự kiểm soát xã hội về
sinh đẻ, xã hội hoá của xã hội mới và vị trí của trẻ em trong xã hội rộng
lớn. Gia đình mang dấu ấn của xã hội và đến lượt mình gia đình cũng

đóng góp chủ yếu cho việc gìn giữ xã hội. Các mối quan hệ trong gia đình
được sử dụng là sự nối kết, hợp đồng, sự gắn bó và bổn phận giữa con
người với nhau và nó tạo ra một hình mẫu riêng biệt.
(Tập bài giảng xã hội học gia đình - TS. Lê Thị Quí)
Gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới
ngay từ những buổi đầu cuộc sống con người và chuyển tải chúng từ thế
hệ này sang thế hẹ khác. Con người đưa ra hầu hết các quyết định cơ bản
của cuộc sống trong phạm vi hộ gia đình - như việc có con và nuôi dạy
chúng, đi làm hay nghỉ ngơi và đầu tư cho tương lai. Những nhiêm vụ và
nguồn lực sản xuất đó được phân bổ như thế nào giữa con trai và con gái,
chúng được trao quyền tự chủ đến đâu và kỳ vọng của cha mẹ ở những
đứa trẻ này có khác nhau hay không? Tất cả những điều này sẽ tạo ra và
khoét sâu hay sẽ giảm bớt sự phân biệt giới.
9.4. Khái niệm “giới”
Khi đề cập đến khái niệm “giới” ta phải đi từ khái niệm “giới tính” để
thấy sự khác biệtgiữa hai khái niệm này từ đó hiểu rõ hơn về khái niệm
“giới”.
9.3.1 Giới tính
Là một khái niệm sinh học để chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ- hai cá
thể người. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất
19
con người và di truyền nòi giống. Con người sinh ra đã được xác định
những điểm khác nhau về giới tính.
9.3.2 Giới
Là một khái niệm để chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội.
Nói đến giới là nói đến hành vi xã hội của nam giới và nữ giới, nói đến
vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho
nam và nữ.
Giới là một thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và
những kỳ vọng liên quan đến nam và nữ. Phụ nữ và nam giới khác nhau

về mặt sinh học nhưng mọi văn hoá đều lí giải và quy định chi tiết những
khác biệt sinh học vốn có đó thành một hệ thống những kỳ vọng xã hội về
những hành vi và hành động được coi là thích hợp, những quyền hạn,
nguồn lực hay quyền lực mà họ có. Tuy những kỳ vọng trong các xã hội
khác nhau thì không giống nhau nhưng vẫn có những điểm tương đồng
nổi bật. Thí dụ, hầu như tất cả các xã hội đều coi phụ nữ và các bé gái có
vai trò chính yếu trong việc chăm sóc trẻ em và con cái; còn nghĩa vụ
quân sự hay tham gia quốc phòng là việc của nam giới.
Giống như màu da, chủng tộc và đẳng cấp, giới là một phạm trù xã hội
có vai trò quyết định chủ yếu đến cơ hội cuộc sống của con người, xác
định vai trò của họ trong xã hội và trong nền kinh tế. Trong khi một vài xã
hội không có sự phân biệt về màu da hay chủng tộc thì tất cả các xã hội lại
đều không có sự tương xứng về giới- khác biệt và thiên lệch ở các mức độ
khác nhau.Thông thường những sự không tương xứng đó cần phải có thời
gian để thay đổi nhưng còn lâu mới đạt tới trạng thấi ổn định.
“Giới” và “giới tính” khác nhau ở các đặc trưng của nó. “giới tính” có
đặc trưng sinh học còn “giới” có những đặc trưng xã hội. Hai cá thể
“nam” và “nữ” sinh ra đã được quy định về giới tính nhưng phải trải qua
cả một quá trình học hỏi những giá trị, chuẩn mực mà xã hội quy định,
20
mới có thể mang trong mình những đặc tính giới, mới có thể trở thành
“nam giới” và “nữ giới”.
9.3.3 Vai trò giới
Là một khái niệm được sử dụng như là cách thức tổ chức hành vi của
con người trong một ý nghĩa tổng thể. Nó ứng xử như một cơ chế để hiểu
được những cách thức mà ở đó những trông đợi của xã hội, những hành
động được phản ánh, những khuân mẫu chung về những hành vi được
trông đợi. Dựa trên sự hiểu biết các quan hệ giới sẽ dẫn đến sự xác định
các vai trò của nữ giới và nam giới. Những vai trò này hướng dẫn các
hành vi của hai giới được xem như là phù hợp với những mong đợi của xã

hội.
Khi nói đến giới là nói đến các điều kiện và các yếu tố xã hội qui định
vị trí và hành vi xã hội của mỗi giới trong hoàn cảnh cụ thể. Chính vì bị
qui định bởi các yếu tố xã hội cho nên vị trí vai trò và hành vi của giới
không phải là bất biến mà luôn thay đổi khi các điều kiện qui định thay
đổi.
9.3.4 Quan hệ giới
Quan hệ giới không chỉ là những tương quan đơn thuần, những mối
liên hệ giản đơn thiết lập từ nhừng thành tố phân tán, biệt lập vào trong
một cơ cấu mà là sự liên kết hữu cơ một cách tất yếu giữa các thành tố
tham gia vào cơ cấu vai trò giới. Quan hệ giới là sự phối hợp của các vai
trò giới, liên quan đến việc xã hội chập nhận những đặc điểm hành vi đặc
thù được tạo thành, phù hợp với bản sắc giới của mỗi con người, do vậy
vai trò giới có thể khác nhau do sự khác nhau về văn hoấ và thời kỳ lịch
sử.
9.3.5 Bình đẳng giới
Trong một thời gian dài, “bình đẳng giới” được coi là sự ngang bằng
nhau về mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội với phương châm: phụ nữ có
21
thể làm tất cả những gì mà đàn ông có thể làm, phụ nữ có quyền tương
đương với nam giới. Giải quyết bình đẳng theo cách này gặp phải một hạn
chế là giữa nam giới và nữ giới có những khác biệt về mặt sinh học.
Gần đây, cấc nhà nghiên cứu giới đã đưa ra những quan niệm mới về sự
bình đẳng giới, những quan niệm này tỏ ra rất tích cực trong việc khắc phục
những hạn chế cũ. Bình đẳng giới biểu hiện một sự công bằngmà trong đó
phụ nữ và nam giới được tạo điều kiện tốt nhất. tương đương nhau về hưởng
thụ chính đáng những thành quả lao động của bản thân, thực hiện những
quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ kể cả trong gia đình và ngoài
xã hội “bởi vì cơ sở của sự bình đẳng là hường về sự nâng cao khả năng của
con người mà nó cần phải được phân phối đều cho cả hai giới” (Một vài suy

nghĩ về ý nghĩa và tầm quan trọng của CEDAW trong thực tiễn - TS. Lê Thị
Quí). Bình đẳng giới là mọi vấn đề của cả hai giới, phải được xem xét trong
quan hệ với nhau và dựa trên tinh thần tôn trọng sự khác biệt tự nhiên của cả
hai giới.
22
II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Bối cảnh của địa bàn nghiên cứu
 Về điều kiện tự nhiên
Tam Dương là huyện nằm ở khu vực trung tâm tỉnh Vĩnh Phúc, tổng diện
tích tự nhiên năm 2009 là 10.718,55 ha; phía Bắc giáp huyện Tam Đảo, huyện
Lập Thạch, huyện Sông Lô; phía Nam giáp Thành phố Vĩnh Yên và huyện
Yên Lạc; phía Đông giáp huyện Bình xuyên; phía Tây giáp huyện Lập Thạch
và Vĩnh Tường. Huyện hiện có 13 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn: Thị trấn
Hợp Hòa, các xã: Đồng Tĩnh, Hoàng Hoa, Hướng Đạo, An Hòa, Đạo Tú, Kim
Long, Duy Phiên, Hoàng Đan, Thanh Vân, Hợp Thịnh, Vân Hội và xã Hoàng
Lâu.
Là đơn vị hành chính của tỉnh có địa thế chuyển tiếp giữa đồng bằng
trung du và miền núi; nằm trên trục phát triển quan trọng, kết nối Sơn Dương
- Tam Đảo - Việt Trì - Vĩnh Yên - Phúc Yên và thủ đô Hà Nội. Tam Dương
giáp ranh với Thành phố Vĩnh Yên - là trung tâm chính trị kinh tế xã hội của
tỉnh đồng thời cũng tiếp giáp với huyện Tam Đảo; gần kề với nhiều trung tâm
phát triển; khu công nghiệp, khu nghỉ mát; có nhiều di tích lịch sử và danh
lam thắng cảnh.
Trên địa bàn huyện Tam Dương, có hệ thống các đường quốc lộ, đường
tỉnh lộ (quốc lộ 2, 2B, 2C và tỉnh lộ 310, 305, 316, 306) và tuyến đường sắt
Hà Nội - Lào Cai chạy qua. Triển vọng có tuyến đường cao tốc Hà Nội-Lao
Cai được xây dựng mới. Các tuyến quốc lộ và tỉnh lộ đều đang được cải tạo,
nâng cấp. Đặc biệt trục giao thông đối ngoại cao tốc Hà Nội-Lao Cai có 2 nút
giao thông đấu nối với quốc lộ 2B và 2C tại địa bàn huyện là nút Kim Long
và Đạo Tú tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho giao lưu kinh tế từ địa bàn Tam

Dương đi các địa phương trong nước và quốc tế bằng đường bộ. Các tuyến
đường vành đai 1, vành đai 2 của đô thị Vĩnh Phúc được qui hoạch và xây
23
dựng đều đi qua nhiều xã của huyện Tam Dương. Hệ thống giao thông đối
ngoại, đối nội được xây dựng và hoàn thành trong thời kỳ qui hoạch tạo cho
Tam Dương có lợi thế đặc biệt là huyện ở vùng trung du nhưng có mật độ
giao thông phát triển cao hơn nhiều địa phương khác.
Ngoài ra trên địa bàn huyện hiện có hai dự án đầu tư xây dựng hai
trường đại học là Đại học Công lập Dầu khí và Đại học dân lập Trưng Vương
tại xã Kim Long.
- Những đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế nêu trên đã tạo ra những lợi
thế đặc biệt cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Nằm ở vùng địa hình
trung du chuyển tiếp tự nhiên miền núi tới đồng bằng, sản xuất nông nghiệp
của Tam Dương có thể phát triển mạnh cây ăn quả, chăn nuôi gia cầm, gia
súc, thuỷ sản. Với thuận lợi về đầu mối giao thông đối ngoại và quĩ đất gò đồi
trung du huyện có thể xây dựng các KCN, cụm công nghiệp tập trung thu
hút các nhà đầu tư phát triển công nghiệp cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu
xây dựng, chế biến thực phẩm, phát triển TTCN làng nghề để thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện theo hướng CNH - HĐH.
So với năm 2005, năm 2010 cơ cấu kinh tế trên địa bàn huyện chuyển
dịch theo hướng tích cực: Ngành Công nghiệp - Xây dựng tăng từ 29,3% lên
41,96% năm 2010, Nông ,Lâm nghiệp-thủy sản giảm từ 47,9% xuống còn
36,89%, ngành thương mại -dịch vụ tăng từ 22,8% lên 41,96%. Tổng thu
ngân sách trên địa bàn năm 2010 ước đạt 250,58 tỷ đồng, gấp 4,59 lần so với
năm tỉ lệ hộ nghèo (chuẩn mới) 2010 giảm còn 11%. Thu nhập bình quân đầu
người năm 2010 ước đạt 19 triệu đồng/người/năm. Tổng sản lượng lương
thực có hạt ước năm 2010 đạt 39.000 tấn. Giá trị sản xuất bình quân 1 ha canh
tác 2010 ước đạt 57 triệu đồng (giá hiện hành). Như vậy kinh tế - xã hội
huyện Tam Dương có sự phát triển vượt bậc so với đầu thời kỳ (năm 2005).
Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều đạt và vượt mục tiêu nghị quyết đại hội Đảng

bộ huyện lần thứ 27 và chỉ tiêu của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã
hội huyện đến 2010 đặt ra. Tuy nhiên Tam Dương vẫn thuộc huyện nghèo,
24
kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn, thu nhập bình quân đầu người/
năm mới đạt bằng 2/3 mức bình quân đầu người của cả tỉnh Vĩnh Phúc.
Dân số trung bình năm 2010 của huyện Tam Dương là 96.142 người. Tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên hàng năm đạt mức khá cao. Phân bố dân cư không đồng
đều trong các xã, thị trấn, chủ yếu là cư dân sống ở khu vực nông thôn (chiếm
90,2%). Số người trong độ tuổi lao động khá cao khoảng 60.450 người, chiếm
53,16% trong tổng số dân cư toàn huyện. Mật độ dân số của huyện khoảng
889 người/km
2
.
Tam Dương là huyện có quy mô dân số trung bình, tốc độ tăng gia dân số
không cao, với chỉ số gia tăng là 1,232%. Lao động nông lâm nghiệp thủy sản
có khoảng 34.007 người chiếm 77% tổng lao động các ngành trong huyện.
 Về Kinh tế :
+ Giai đoạn (2001-2005) thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội của huyện Tam Dương theo nghị quyết đại hội đảng bộ huyện lần thứ
26 nhiệm kỳ (2001-2005) và qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trên
địa bàn huyện (2001-2010), kinh tế huyện Tam Dương có sự phát triển khá
ổn định. Tăng trưởng giá trị sản xuất đạt 13,3%/năm, trong đó nhóm ngành
nông lâm-thủy sản tăng 6,6%/năm, công nghiệp-xây dựng tăng 21,5%/năm,
thương mại-dịch vụ tăng 14,5%/năm. Qui mô kinh tế huyện năm 2005 tăng
gấp 1,72 lần so với năm 2000. Thu nhập bình quân đầu người năm 2000 đạt
2,04 triệu đồng, năm 2005 đạt 5,8 triệu đồng (giá thực tế)
+ Giai đoạn (2006-2010), thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của Nghị
quyết đại hội đảng bộ huyện lần thứ 27, mặc dù gặp nhiều khó khăn thách
thức như diễn biến phức tạp các dịch bệnh và thời tiết, biến động của giá cả
vật tư, kinh tế - xã hội trên địa bàn Huyện tiếp tục phát triển và đạt tốc độ

tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn
2006-2010 ước đạt 23,39%/năm, cao hơn giai đoạn 2001-2005 đạt
11,5%/năm. Như vậy so với mục tiêu đại hội 27 đề ra tăng trưởng (15%/năm)
thực hiện vượt 8,39%; quy hoạch đề ra tăng trưởng bình quân 20%/năm thực
25

×