Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tích hiện tượng “bẫy thu nhập trung bình” ở các nước đang phát triển Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.46 KB, 27 trang )

ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH HIỆN TƯỢNG “BẪY THU NHẬP
TRUNG BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN.
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.
1
MỤC LỤC
Phần 1: LỜI MỞ ĐẦU 2
Phần 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 4
Phần 3: NỘI DUNG ĐỀ TÀI 5
I. Khái quát hiện tượng “bẫy các nước thu nhập trung bình” 3
1. Các quan niệm về hiện tượng “bẫy các nước thu nhập trung bình” 5
2. Nguyên nhân tình trạng vướng vào “bẫy thu nhập trung bình” 6
3. Các giải pháp để thoát ra tình trạng “bẫy thu nhập trung bình” …………… 7
3.1 . Các giải pháp để thoát khỏi “bẫy thu nhập trung trung bình” dưới góc
nhìn của chuyên gia…………………………………………………… 7
3.2. Chính sách công nghiệp tiên phong…………………………………… 8
II. Bẫy thu nhập trung bình ở Malayxia và Thái Lan 9
III. Sức ép từ “bẫy thu nhập trung bình” đối với những nền kinh tế mới nổi…….12
IV. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và đề xuất giải pháp 18
1. Khái quát kinh tế Việt Nam 18
2. Bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm của Hàn Quốc và Thái Lan 21
3. Đề xuất giải pháp……… ………………………………………………… 23
V. Kết luận………………………………………………………………………… 25
2
Phần I
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong những năm vừa qua và
đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện rõ nhất qua tăng trưởng nhanh gắn liền với giảm
tỷ lệ nghèo. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ đó, nhiều hạn chế được bộc lộ
như hiệu quả đầu tư thấp, hạ tầng kỹ thuật ngày càng bất cập so với mức độ và nhu cầu
phát triển kinh tế; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường; hệ thống pháp


luật và hành chính còn quá nhiều rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp; hệ thống an sinh xã hội còn mỏng nên chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Tốc độ tăng trưởng nhanh cũng làm xuất hiện ngày càng nhiều hơn những vấn đề xã hội
mới và ô nhiễm môi trường rất đáng lo ngại. Những hạn chế nêu trên cho thấy chất lượng
tăng trưởng kinh tế, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong những năm qua còn
chưa cao.Dù suy giảm kinh tế từ năm 2008 là do tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới, nhưng phần lớn những suy giảm vẫn là do nguyên nhân nội tại của nền
kinh tế. Vì thế, một câu hỏi ngày càng trở nên cấp thiết được đặt ra là trước những diễn
biến phức tạp của khủng hoảng tài chính thế giới, suy giảm kinh tế toàn cầu và bối cạnh
tranh ngày một gay gắt hơn sau khủng hoảng, làm thế nào để tăng trưởng nhanh, bền
vững đi liền với cải thiện năng suất, chất lượng cuộc sống của người dân trong giai đoạn
tới?
Từ năm 2009, Việt Nam chính thức trở thành nước có thu nhập trung bình theo cách
phân loại của Ngân hàng Thế giới. Đây là cột mốc vô cùng quan trọng, mở ra nhiều cơ
hội mới cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Thế nhưng trên thực tế, có nhiều nền
kinh tế ở châu Á từ nghèo chuyển thành có thu nhập trung bình, nhưng có rất ít trong số
đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc.Philippines là quốc gia điển hình
của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung bình đã không thể vượt qua ngưỡng 2.000
USD trong nhiều thập niên. Indonesia cũng mất hơn một thập niên để từ trên 1.000 USD
vượt lên hơn 2.000 USD/người.Còn Thái Lan thì bất ổn kéo dài từ sau 2005 và cũng mất
hơn hai thập niên mới vượt qua con số 3.000 USD.
Để quá trình phát triển không dừng lại ở mức thu nhập trung bình, hay tránh rơi vào
“bẫy thu nhập trung bình”, Việt Nam phải hoạch định con đường phát triển đất nước
theo hướng duy trì tốc độ tăng trưởng cao một cách bền vững. Đặc biệt, Việt Nam cần có
năng lực bao quát và tầm nhìn phát triển một cách phù hợp, triển khai hiệu quả các biện
pháp thực hiện tầm nhìn ấy. Trên con đường ấy, có rất nhiều khó khăn, thách thức mà
Việt Nam cần phải vượt qua như mức độ ngày càng gay gắt của cạnh tranh trên thị
trường thế giới, tăng trưởng phải gắn lien với bền vững và bình đẳng xã hội; nâng cao
3
năng lực quản trị của nhà nước; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo công khai, minh

bạch; đẩy mạnh việc đa dạng hóa thị trường vốn; tự do hóa thương mại dịch vụ; mở rộng
các hệ thống giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từng bước
chuyển sang nền kinh tế tri thức. Điều này đòi hỏi cần phần nhìn nhận một cách toàn diện
hơn bản chất mô hình tăng trưởng ở nước ta, nhất là chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế trong giai đoạn vừa qua để có đối sách kịp thời. Trong bối
cảnh đó, việc tiến hành nghiên cứu, phân tích tác động của “bẫy thu nhập trung bình” ở
các nước đang phát triển, từ đó đề xuất các biện pháp cho Việt Nam tránh “bẫy thu nhập
trung bình”, cũng như chỉ ra những thách thức có thể nảy sinh đối với một nước thu
nhập trung bình là một nhiệm vụ mang tính cấp thiết và có ý nghĩa thực sự quan trọng.
Đó cũng chính là lý do nhóm tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài :
“Phân tích hiện tượng “bẫy thu nhập trung bình” ở các nước đang phát triển &
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay.”
4
Phần 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Lý thuyết cho chúng ta có được một cái nhìn tổng quan về các hiện tượng các quy
luật trong cuộc sống. Vì vậy cơ sở lí luận của một vấn đề nào đó là một phần rất quan
trọng trong quá trình đào sâu tìm hiểu và phân tích nó. Trong đề tài này chúng tôi tham
khảo và ứng dụng những lý thuyết làm nền tảng như sau:
• Quan điểm lý luận về “bẫy các nước thu nhập trung bình” , các giải pháp để thoát
khỏi tình trạng “bẫy của các nước thu nhập trung bình” dưới góc nhìn của các
chuyên gia như Indermit Gill, cố vấn và Homi Kharas, chuyên gia kinh tế trưởng
của Ngân hàng thế giới.
• Quan điểm lý luận về “bẫy các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập
trung bình” và khái niệm“chiếc trần thủy tinh vô hình”.của GS. Kenichi Ohno,
Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Tokyo.
• Kinh nghiệm và phương hướng của một số nhà lãnh đạo như Thủ tướng Malaixia
Najib Tun Razak,
Phần 3
NỘI DUNG ĐỀ TÀI

5
I. KHÁI QUÁT HIỆN TƯỢNG “ BẪY CỦA CÁC NƯỚC THU NHẬP TRUNG
BÌNH” Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN.
1. CÁC QUAN NIỆM VỀ HIỆN TƯỢNG “BẪY CỦA CÁC NƯỚC THU NHẬP
TRUNG BÌNH”
Theo đúng nghĩa, phát triển phải hình thành nhờ nâng cao chất lượng vốn con
người hơn là nhờ may mắn vì có được nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào hay vị trị địa
lý thuận lợi để dễ dàng tiếp nhận hỗ trợ và đầu tư nước ngoài. Nếu phụ thuộc vào những
yếu tố không tự mình tạo ra, quốc gia có thể tăng trưởng đến mức thu nhập thấp, trung
bình hay cao với một chút nỗ lực, nhưng rồi cuối cùng cũng sẽ bị mắc kẹt ở mức thu nhập
đó nếu không xây dựng được ý thức quốc gia và những thể chế để khuyến khích nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Tình trạng này được gọi là “Bẫy phát triển”. Nếu đất nước
có chút ít lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, đất nước đó sẽ dễ bị rơi vào
“Bẫy thu nhập trung bình”
Theo Indermit Gill, cố vấn và Homi Kharas, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân
hàng thế giới “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình”
là tình trạng không đáp ứng nổi những đòi hỏi cao và rất cao khi nền kinh tế đã đạt
đến mức thu nhập trung bình. Có hai mốc quan trọng: GDP trên 1000 USD người/năm
và khoảng 10.000 USD người/năm. Chỉ có nền kinh tế nào vượt qua mốc thứ nhất và sau
đó tiếp tục tăng trưởng mạnh để đạt tới mốc thứ hai, rồi vẫn tiếp tục tăng trưởng thì mới
trở thành nền kinh tế công nghiệp hóa.
Trong khi đó, GS. Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Tokyo
lại cho rằng : “ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình”
có thể được hình dung giống như “chiếc trần thủy tinh vô hình” ngăn cản sự phát triển
kinh tế giữa giai đoạn II với giai đoạn III trong quá trình 4 giai đoạn của sự tăng trưởng
và phát triển . Bốn giai đoạn của sự tăng trưởng và phát triển và “chiếc trần thủy tinh vô
hình” được thể hiện qua sơ đồ dưới đây:
6
“Chiếc trần thủy tinh vô hình” giữa giai đoạn II và giai đoạn III chính là “bẫy thu
nhập trung bình”. Vượt qua được sự ngăn cản của chiếc trần thủy tinh này, nền kinh tế

sẽ chuyển từ giai đoạn phụ thuộc một phần vào ngoại lực sang hoàn toàn dựa vào nội lực.
Lúc đó, nguồn nhân lực trong nước đủ trình độ thay thế hoàn toàn lao động nước ngoài,
nền kinh tế đủ trình độ là nhà xuất khẩu năng động với các sản phẩm chất lượng cao đáp
ứng và cạnh tranh với nền kinh tế thế giới.
Như vậy, “bẫy thu nhập trung bình” trong quan niệm của Kenichi Ohno và của
Homi Kharas có khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra khái niệm ngắn gọn về “
Bẫy của các nước thu nhập trung bình ” như sau:
“ Bẫy của các nước thu nhập trung bình” hay “Bẫy thu nhập trung bình” là một
thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng mắc kẹt của nhiều quốc gia đã thoát nghèo, gia nhập
vào nhóm nước có thu nhập trung bình nhưng mất nhiều thập niên vẫn không trở thành
quốc gia phát triển.
2. CÁC NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG VƯỚNG VÀO “BẪY THU NHẬP
TRUNG BÌNH”:
7
Các quốc gia đang phát triển lại vướng vào “ bẫy thu nhập trung bình” là do các
nguyên nhân chính sau :
+ Sự suy giảm hiệu quả vốn đầu tư sau quá trình kích thích tăng trưởng.
+ Tiếp tục tình trạng của một nền kinh tế gia công .
+ Sự phân hóa thu nhập dẫn đến phân cực và bất ổn.
Ngoài ra, quá trình phát triển từ thu nhập thấp đến thu nhập trung bình cũng ngầm
chứa nhiều yếu tố là nguyên nhân để một nước rơi vào bẫy trung bình. Đó là sự hủy hoại
môi trường sống mà phải mất nhiều nguồn lực và thời gian khắc phục, sự thay đổi môi
trường xã hội dễ tạo ra những xung đột, tâm lý đòi thưởng công trạng biểu hiện ở nhu cầu
hưởng thụ sớm.
Thực tế, có nhiều nền kinh tế ở châu Á từ nghèo chuyển thành có thu nhập trung
bình, nhưng có rất ít trong số đó vượt lên như trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc.
Philippines là quốc gia điển hình của tình trạng vướng vào bẫy thu nhập trung bình đã
không thể vượt qua ngưỡng 2.000 USD trong nhiều thập niên. Indonesia cũng mất hơn
một thập niên để từ trên 1.000 USD vượt lên hơn 2.000 USD/người. Còn Thái Lan thì bất
ổn kéo dài từ sau 2005 và cũng mất hơn hai thập niên mới vượt qua con số 3.000 USD.

Nước ta với mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 1.200 USD như hiện nay,
nếu không rút kinh nghiệm từ các nước láng giềng trên đây, cũng như không học tập mô
hình phát triển của Đài Loan và Hàn Quốc thì liệu 15 đến 20 năm nữa có vượt qua bẫy
thu nhập trung bình hay không? Chính vì thế mà Việt Nam phải cẩn trọng để tránh vướng
vào “bẫy thu nhập trung bình”.
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ THOÁT KHỎI TÌNH TRẠNG “ BẪY THU NHẬP
TRUNG BÌNH” :
3.1 Các giải pháp để thoát khỏi tình trạng “Bẫy thu nhập trung bình” dưới góc
nhìn của các chuyên gia
Ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu muốn nền kinh tế có những thành tựu trong tăng
trưởng và phát triển, mỗi nền kinh tế đều cần phải được quản lý sáng tạo và điều chỉnh
không ngừng. Tuy nhiên, nếu chỉ như thế, nền kinh tế vẫn không vượt qua được bẫy thu
nhập trung bình. Những đòi hỏi cao và rất cao để vượt qua bẫy này, theo Indermit Gill,
Homi Kharas và các chuyên gia WB, gồm:
+ Chuyển từ đa dạng hóa sang chuyên môn hóa: Khi bắt đầu tăng trưởng, các nền
kinh tế đều có xu hướng đa dạng hóa. Nhưng xu hướng này đảo ngược thành chuyên môn
hóa khi nền kinh tế đạt tới một ngưỡng nào đó về hiệu quả tính trên quy mô tương ứng. Ở
8
Singapore, ngưỡng này là 2500 USD người/năm. Một số nước khác từ 5000 - 8000 USD
người/năm.
+ Có ý chí và có phương thức đổi mới công nghệ: Khi các doanh nghiệp trong một
nền kinh tế đạt tới “biên giới công nghệ” thì cần phải khuyến khích sự xuất hiện của các
doanh nghiệp mới với công nghệ mới. Điều này đòi hỏi phải thay đổi từ luật lệ, chính
sách đến bản thân doanh nghiệp. Chọn thời điểm thực hiện bước chuyển này và xử lý
được sự phản kháng của các nhóm lợi ích là thách thức lớn đối với các chính phủ
+ Biết ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học: Chuyển ưu tiên
từ đầu tư chung cho giáo dục sang đầu tư cho các nghiên cứu khoa học (R&D) khi nền
kinh tế đạt tới trình độ nào đó về chuyên môn hóa, đòi hỏi phải sản xuất được những sản
phẩm mới với các quy trình công nghệ mới. Thông thường, do không biết chính xác các
hoạt động R &D nào cần đầu tư, các chính phủ buộc phải ưu tiên đầu tư cho giáo dục đại

học và sau đại học.
3.2 .Chính sách công nghiệp tiên phong:
Chính sách công nghiệp tiên phong nhằm củng cố sự cân bằng vốn rất mong manh
và hay thay đổi giữa chỉ đạo của nhà nước và định hướng thị trường, giữa cam kết toàn
cầu hóa và duy trì công cụ chính sách, giữa lãnh đạo quyết đoán với nhu cầu lắng nghe
doanh nghiệp tư nhân một cách cẩn trọng. Chính sách này rất khó thực hiện so với việc
đơn giản buông lỏng thị trường hoặc kiểm soát mọi việc bằng cỗ máy nhà nước. Hợp
phần chủ đạo của chính sách này là chấp nhận cơ chế thị trường và toàn cầu hóa, tinh
thần học hỏi linh hoạt của cả chính phủ và khu vực tư nhân, và mối tương tác phức tạp,
không ngừng thay đổi giữa hai khu vực này. Cụ thể hơn, chính sách công nghiệp tiên
phong phải thỏa mãn tất cả những điều kiện sau:
• Phát triển theo cơ chế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa: khu vực tư nhân
tham gia chủ yếu vào hoạt động sản xuất, đầu tư, thương mại và các hoạt động
kinh tế khác trong môi trường cạnh tranh mở do cơ chế thị trường và quá trình
toàn cầu hóa tạo ra. Nhà nước không tham gia vào hoạt động sản xuất, trừ những
lĩnh vực khu vực tư nhân chưa sẵn sang tiếp quản vai trò của nhà nước.
• Nhà nước mạnh: Nhà nước đảm đương vai trò vững chắc và chủ động trong việc
định hướng và hỗ trợ phát triển mặc dù về nguyên tắc, mọi hoạt động sản xuất đều
do tư nhân tiếp nhận là chủ yếu.
• Giữ lại những công cụ chính sách phù hợp cho các nước công nghiệp hóa đi sau
• Phát triển năng lực động: Nâng cao năng lực chính sách và tính năng động của
khu vực tư nhân
9
• Nội lực hóa kỹ năng và công nghệ có trong nguồn vốn con người của công dân
các nước: Đây là phần quan trọng nhất của mục tiêu và giải pháp chính sách công
nghiệp.
• Cộng tác công tư hiệu quả: Xây dựng mối quan hệ hợp tác hiệu quả giữa hai khu
vực nhà nước và tư nhân một cách vững chắc trên sự tin tưởng lẫn nhau và tham
gia một cách tích cực từ hai phía.
• Kiến thức sâu rộng về công nghiệp: nhằm tránh đánh giá sai chính sách và gây ảnh

hưởng chính trị. Chính phủ cần phải tích lũy đầy đủ những kiến thức về ngành
công nghiệp mà mình muốn can thiệp.
Trên thực tế, có rất nhiều dẫn chứng về chính sách công nghiệp tiên phong đã
được thực hiện, mà cụ thể là ở các nước Đông Á như Singapore, Malayxia, Thái
Lan.
II. “ BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” Ở MALAIXIA VÀ THÁI LAN
Đông Á được biết đến với mức tăng trưởng bứt phá đầy ấn tượng, nhưng không phải
tất cả các nền kinh tế trong khu vực đều phát triển thành công. Điển hình như Nhật Bản
bắt đầu công nghiệp hóa từ rất sớm, Đài Loan và Hàn Quốc cũng đạt được thu nhập và
năng lực công nghiệp tương đối cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Malaixia và Thái Lan vẫn
“khựng” lại ở mức thu nhập trung bình dù các nước này đã tiến hành công nghiệp hóa
cùng thời điểm với Đài Loan và Hàn Quốc từ những năm 1960. Trong khu vực ASEAN,
Malaixia với GDP bình quân đầu người là 7.750 đô la Mỹ (theo số liệu sơ bộ của quốc
gia năm 2009) và Thái Lan, với GDP bình quân đầu người là 3.973 đô la Mỹ ( theo ước
tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2009) có thể là nạn nhân của “bẫy thu nhập trung
bình”.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2009): “ Thách thức về trung hạn quan
trọng nhất đối với kinh tế Malaixia là gia nhập vào nhóm các nước có thu nhập cao.
Malaixia đã tăng trưởng vững chắc trọng vài thập kỷ qua, nhưng vẫn còn phụ thuộc vào
mô hình kinh tế dựa vào tích lũy vốn là chủ yếu .Mặc dù đã đạt được nhiều thành công
trong quá khứ nhưng khả năng tăng trưởng của Malaixia vẫn tụt hậu so với các nền kinh
tế khác trong khu vực. Nền kinh tế dường như bị mắc vào bẫy của thu nhập trung bình-
không thể duy trì tính cạnh tranh của một nhà sản xuất khối lượng lớn với chi phí thấp,
cũng như không thể nâng cấp chuỗi giá trị và tăng trưởng nhanh bằng cách thâm nhập
vào các thị trường hàng hóa và dịch vụ mang tính tri thức và sáng tạo đang tăng trưởng
mạnh”.
10
Thủ tướng Malaixia Najib Tun Razak, người nắm quyền vào tháng 4 năm 2009, đã
coi việc vượt qua bẫy thu nhập trung bình là mục tiêu kinh tế quan trọng nhất của chính
phủ. Để đạt được mục tiêu đề ra, thủ tướng Najib muốn huy động các chính sách và

nguồn lực hiện có để tự do hơn nữa nền kinh tế, thúc đẩy đầu tư tư nhân, hình thành các
ngành tạo giá trị mới, cải cách ngân sách, phát triển nguồn nhân lực- được coi là năm trụ
cột trong “Mô hình kinh tế mới” của ông:
Mô hình kinh tế mới của Malaixia
Ngược lại, Thái Lan đang nỗ lực từng bước phát triển công nghiệp bằng cách tiếp
tục con đường đang đi của mình. Thái Lan vẫn tiếp tục khuyến khích FDI vào lĩnh vực
chế tạo, thúc đẩy công nghệ khuôn mẫu, tăng cường năng lực và liên kết các nhà sản xuất
11
linh kiện nội địa. Việc tiếp tục củng cố các cụng công nghiệp ô tô vẫn là trụ cột trong
chính sách công nghiệp của Thái Lan.
Một trong các dự án hỗ trợ nỗ lực này là Dự án phát triển nguồn nhân lực trong
ngành công nghiệp ô tô hiện đang được triển khai với sự hỗ trợ toàn diện của bốn công ty
sản xuất ô tô lớn của Nhật Bản. Một định hướng chính sách khác là phát triển sản xuất ô
tô sinh thái. Đồng thời, Thái Lan cũng khuyến khích phát triển các lĩnh vực mới như du
lịch khám chữa bệnh, công nghệ sinh học và ITC. Dựa trên các thành quả đạt được trong
quá khứ, Thái Lan áp dụng cách tiếp cận hai chiều, vừa phát triển cơ sở công nghiệp cũ
đồng thời tìm kiếm các nguồn tăng trưởng mới.
5 chiến lược và 12 kế hoạch hành động của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan

Một điểm khác nhau dễ dàng nhìn thấy giữa Malaixia và Thái Lan đó việc lựa chọn
lực đẩy cơ bản của chính sách công nghiệp. Trong khi Thái Lan hoàn toàn theo thị trường
và toàn cầu hóa, nỗ lực xây dựng một môi trường kinh doanh mở và tự do, không kỳ
vọng vào việc tạo ra các thương hiệu quốc gia, thì Malaixia lại áp dụng các biện pháp chỉ
đạo và hành chính để dẫn dắt khu vực tư nhân hoặc khu vực nước ngoài đi theo một định
hướng nhất định, trong đó bao gồm cả việc phát triển và thúc đẩy việc sản xuất ô tô mang
thương hiệu quốc gia. Malaixia đang đặt cược vào cú nhảy cóc trong khi Thái Lan vẫn đi
12
trên con đường cũ. Cả hai đều kỳ vọng thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, nhưng cách
thức mỗi nước lựa chọn để đạt được mục tiêu tương đối khác nhau.
III. SỨC ÉP CỦA “BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” ĐỐI VỚI NHỮNG NỀN KINH

TẾ MỚI NỔI
1. TRUNG QUỐC
Tăng trưởng những năm gần đây của Trung Quốc ấn tượng đến mức tưởng chừng
khiến người ta phát ngại nếu trót đặt câu hỏi liệu nước này có thể tiếp tục duy trì được tốc
độ như vậy hay không?
Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế Barry Eichengreen thuộc ĐH California,
Berkeley, và Donghyun Park của Ngân hàng Phát triển châu Á cùng Kwanho Shin của
ĐH Hàn Quốc, vấn đề thu nhập trung bình đang ảnh hưởng xấu tới Trung Quốc và các
nước khác. Họ nghiên cứu tình hình ở các quốc gia thu nhập trung bình (thu nhập đầu
người trên 10.000 USD tính theo mức giá năm 2005), những nước có tăng trưởng GDP
bình quân ít nhất 3,5% duy trì vài năm trong vòng 50 năm nhưng tốc độ tăng trưởng sau
đó đã giảm xuống ít nhất 2 điểm phần trăm. Nghiên cứu khẳng định, việc mất đi dộng lực
tăng trưởng chủ yếu là do sự trưởng thành của nền kinh tế hơn là do thiếu hụt lao động
hay suy giảm đầu tư. Lực lượng lao động vẫn giữ tốc độ tăng như cũ sau suy giảm và
chất lượng lại liên tục cải thiện. Tăng trưởng vốn vật chất (nhà xưởng, văn phòng, đường
sá, máy móc ) cũng thu hẹp lại, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong suy giảm tăng
trưởng GDP.
Thay vào đó, phần lớn sự đi xuống đó là do sự đình trệ "năng xuất tổng các yếu tố"
- tức hiệu quả của lao động và dòng vốn sử dụng. Eichengreen và nhóm nghiên cứu chia
sẻ: "Suy giảm tăng trưởng, nói cho gọn, là suy giảm năng suất-tăng trưởng". Năng suất
tổng các yếu tố sẽ giảm khi giai đoạn tăng trưởng "dễ dàng" của nền kinh tế đến lúc kết
thúc. Việc di chuyển lao động từ các vùng nông thôn kém phát triển ra làm việc tại các
nhà máy và văn phòng với các thiết bị máy móc nhập khẩu giúp tăng năng suất. Nhưng
khi bộ phận lao động nông thôn được khai thác hết thì khả năng cải thiện năng suất cũng
không còn.
13
Theo ba nhà kinh tế, kiểu suy giảm này xuất hiện phổ biến nhất khi thu nhập trung
bình đạt khoảng 16.000 USD tính theo mức giá năm 2005; khi thu nhập đầu người tăng
bằng 58% của các nền kinh tế dẫn đầu; hay khi tỷ lệ lao động trong khu vực chế tạo đạt
đến 23%. Ba ngưỡng trên - trong đó thu nhập là yếu tố quan trọng nhất - sẽ không nhất

thiết đạt đến vào cùng một thời điểm. Trung Quốc có thể đã đạt đến ngưỡng về chế tạo
sản xuất, và nếu nền kinh tế này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 9%, ngưỡng
thu nhập trung bình cũng sẽ sớm bị vượt qua. Nhưng ngưỡng thu nhập tương đối thì vẫn
còn cách xa. Theo IMF, thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc năm 2010 bằng
16% của Mỹ.
Nghiên cứu chỉ ra, các nền kinh tế như Trung Quốc, với đồng tiền bị định giá thấp
hơn giá trị thực tế và tỷ lệ chi tiêu tiêu dùng thấp, có nguy cơ chịu kiểu suy giảm tăng
trưởng này hơn. Các kết luận trên được đưa ra dựa trên nghiên cứu của nhiều nước từng
trải qua các đợt suy giảm bất ngờ, và kinh nghiệm của các nước cũng rất khác nhau,
Eichengreen cảnh báo. Đây không phải là những quy luật bất di bất dịch. Mặc dù vậy,
gần như chắc chắn sự suy giảm sẽ diễn ra một khi giai đoạn bắt kịp dễ dàng chấm dứt.
Câu hỏi ở đây là liệu Trung Quốc có thể giảm nhẹ đà suy giảm thông qua thay đổi mô
hình tăng trưởng hay không. Đó là mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, do đó, nhu
cầu hầu hết từ nước ngoài. Để đáp ứng nhu cầu đó, Trung Quốc đã huy động lực lượng
lao động khủng lồ, cộng thêm một khối vốn vật chất không ngừng tăng cao, phần lớn đều
được nhập khẩu và tài trợ bằng tiền tiết kiệm trong nước. Do theo đuổi mô hình tăng
trưởng cần nhiều vốn, nên chi tiêu tiêu dùng của Trung Quốc cũng chỉ chiếm tỷ trọng rất
nhỏ trong GDP: năm 2010 tỷ lệ này còn giảm xuống chỉ còn 34% . Điều này càng làm
tăng tính lệ thuộc vào xuất khẩu.
Cơ chế tài chính Trung Quốc càng củng cố mô hình này. Dòng vốn qua biên giới bị
kiểm soát chặt chẽ. Trung Quốc hạn chế tăng giá nội tệ để đảm bảo tính cạnh tranh cho
hàng xuất khẩu bằng việc mua về lượng lớn ngoại tệ, tổng dự trự của nước này đã lên tới
3,2 nghìn tỷ USD, bằng 54% GDP năm 2010.
Hệ thống ngân hàng được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Ngân hàng
nước ngoài chỉ chiếm chưa đầy 2% tổng tài sản ngân hàng. Tiền mặt in ra để giúp giữ
đồng NDT yếu hơn so với các đồng tiền chủ chốt khác được "hấp thụ" bằng cách yêu cầu
các ngân hàng Trung Quốc phải mua trái phiếu "khử trùng" với lãi suất thấp hoặc phải
giữ lượng dự trữ tiền mặt lớn hơn. Lãi suất được ấn định có lợi cho các doanh nghiệp nhà
14
nước (thường là nhà cung cấp độc quyền cho các công ty xuất khẩu) và ít mang tính

khuyến khích chi tiêu với các hộ gia đình. Tín dụng tiêu dùng còn khan hiếm.
Nhưng khi tỷ trọng trong nền kinh tế thế giới của Trung Quốc tăng lên, nước này
không thể dựa dẫm mãi vào chi tiêu của các nước khác. Gánh nợ treo lơ lửng tại nhiều
quốc gia giàu có đồng nghĩa với việc khách hàng nước ngoài của Trung Quốc sẽ chi tiêu
dè xẻn hơn. Có thể nói Trung Quốc hái ra tiền từ khai thác nhu cầu của thế giới: thặng dư
tài khoản vãng lai tăng lên trên 10% GDP năm 2007, dù đã giảm một nửa từ đó đến này.
Đây chính là nguyên nhân gây căng thẳng: người Mỹ đang phàn nàn về việc chính sách
tỷ giá hối đoái của Trung Quốc đem lại những ưu đãi không công bằng cho các nhà xuất
khẩu trong nước và gây thiệt cho chính người lao động nước mình. Chiến lược tăng
trưởng dựa vào xuất khẩu cũng bắt đầu mất đi sức mạnh. Tìm kiếm lao động từ vùng
nông thôn vào làm việc tại các nhà máy phục vụ xuất khẩu cũng sẽ trở nên khó khăn hơn.
Nếu Trung Quốc muốn tránh được cái “bẫy thu nhập trung bình”, nước này cần
đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước. Trung Quốc phải từ bỏ kiểu phát triển các nhà
máy, cầu cảng và các tài sản cố định khác một cách bừa bãi và phân bổ vốn cũng như lao
động một cách hợp lý hơn, qua đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp dịch vụ nhỏ có thể
bùng nổ. Quá trình chuyển đổi này sẽ được thúc đẩy bởi hai nhân tố. Khi dân số trong độ
tuổi lao động bắt đầu thu hẹp vào năm 2015, tiết kiệm gia đình cũng giảm do các nước
với số lượng lao động chính ít hơn và tỷ lệ người phụ thuộc cao lại có xu hướng chi tiêu
nhiều hơn. Và thực tế Trung Quốc đã dành phần tỷ lệ GDP cho nghiên cứu và phát triển
lớn hơn các nước khác với cùng mức thu nhập. Điều này tạo cơ hội tốt hơn cho phép duy
trì tăng trưởng năng suất khi lợi ích từ việc thu nhận những công nghệ hiện có dần mất đi.
Nhưng những mặt khác của nền kinh tế Trung Quốc lại cản trở thay đổi. Đơn cử, Ngân
hàng thế giới (WB) đã xếp Trung Quốc đứng ở hạng 65 trên 183 quốc gia có điều kiện
tiếp cận tín dụng thuận lợi dành cho các doanh nghiệp, sau cả Ấn Độ (nước đứng thứ 32
trong danh sách).
Các trở ngại nêu trên cũng không dễ khắc phục. Chuyển sang một nền kinh tế tập
trung vào tiêu dùng cũng nghĩa là phải tái cơ cấu lại toàn bộ các ngành công nghiệp.
Tăng lương tại Trung Quốc, yếu tố cần thiết cho cuộc tái cơ cấu này, đã khiến một số
công ăn việc làm trong ngành dệt may bị chuyển sang Việt Nam và Campuchia. Xóa bỏ
các trợ cấp ngầm về cho thuê (nhà xưởng, kho bãi ) và lãi suất sẽ khiến lợi nhuận của

15
nhiều công ty suy giảm và dẫn tới thái độ phản đối. Các ngân hàng thường quen với việc
cấp vốn theo chỉ đạo của chính phủ sẽ cần đưa ra những thẩm định chính xác hơn, hạn
chế đổ tiền vào các ngành mang lại lợi nhuận thấp và chuyển sang các dự án đầu tư hứa
hẹn hơn. Nhưng vấn đề lại nằm ở chỗ, liệu Trung Quốc có thể phân biệt dự án nào đáng
đầu tư hay không.
2. BRA ZIL
Brazil là ví dụ nhãn tiền về sự suy giảm đột ngột của một quốc gia đang tăng
trưởng nhanh (dù không nêu trong nghiên cứu của nhóm Eichengreen). Nền kinh tế này
tăng trưởng gần 7% mỗi năm trong giai đoạn 1945-1980. Theo thống kê của Maddison,
GDP bình quân đầu người tăng từ chỉ bằng 12% của Mỹ lên 28%. Nhưng sau đó mọi
chuyện đột ngột đảo ngược lại. Các khoản nợ tích lũy để mua máy móc nhập khẩu trở
nên vượt quá sức chịu đựng do lãi suất tăng vọt. Các ngành phục vụ thị trường được bảo
hộ trong nước tỏ ra thiếu hiệu quả. Đồng tiền suy yếu và gia tăng chi phí lương thúc đẩy
lạm phát và sau đó là siêu lạm phát.
Một loạt các cải cách tiền tệ và tài khóa những năm 1990 giúp khống chế lạm phát
và chặn đứng đà suy giảm thu nhập tương đối. Thu nhập bình quân đầu người của Brazil
hiện tại bằng hơn 20% của Mỹ. Nhưng nền kinh tế cũng chứa đầy những khiếm khuyết,
tuy hơi khác với Trung Quốc. Đầu tư chiếm 19% GDP, thấp hơn nhiều Trung Quốc và
thấp hơn hẳn mức tiêu chuẩn của các nước giàu. Đó là một lý do tại sao năng suất không
hiệu quả, bên cạnh một phần nguyên nhân từ hệ thống giáo dục yếu kém và cơ sở hạ tầng
lạc hậu. Dự báo nền kinh tế đạt tăng trưởng khoảng 4%/năm, nhanh hơn hầu hết các nước
giàu, nhưng chập hơn so với các thị trường mới nổi khác.
Đầu tư yếu phản ánh mức tiết kiệm trong nước thấp. Brazil liên tục chịu thâm hụt
tài khoản vãng lai. Sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài đã khiến nước này trở nên dễ
tổn thương trước các cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán định kỳ, dù đã tích lũy được
tới 344 tỷ dự trữ ngoại hối làm phương tiện phòng ngừa trong tương lai. Nợ nước ngoài
ròng của Brazil (cả nợ công và nợ tư) đã lên tới 700 tỷ USD, so với mức tài sản ròng
chừng 3 nghìn tỷ USD của Trung Quốc.
16

Nhưng đổi lại tỷ tiết kiệm thấp của Brazil là chi tiêu tiêu dùng mạnh, chiếm
khoảng 61% GDP trong năm ngoái. Kinh doanh cung cấp vay nợ cho các hộ gia đình
đang bùng nổ, một phần vì BNDES (Ngân hàng phát triển của Nhà nước) cung cấp trợ
cấp tín dụng cho các công ty lớn thuộc quyền điều hành của nhà nước Brazil và cho một
số công ty khác. Điều này làm hạn chế cơ hội cho vay kinh doanh và vì thế các ngân
hàng tư nhân phải tìm kiếm khả năng kinh doanh khác.
Nền kinh tế Brazil có hai điểm mạnh lớn. Dân số trong độ tuổi lao động đang tăng
nhanh, và tài nguyên phong phú đúng lúc các thị trường mới nổi khác đang công nghiệp
hóa với tốc độ chưa từng có. Brazil cùng với Australia là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới
về quặng sắt, đa phần sang Trung Quốc. Diện tích đất canh tác lớn cũng là điểm lợi thế
lớn (một số vùng trồng cho thu hoạch 3 vụ/năm), nhờ điều kiện sáng mặt và nước sạch
thuận lợi. Dưới tầng muối khu vực ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Brazil được
phát hiện có chứa ít nhất 13% tỷ thùng dầu.
Bùng nổ hàng hóa cùng với việc phát hiện thêm nhiều mỏ dầu mới đã giúp Brazil
thoát khỏi áp lực về cán cân thanh toán. Ngoại tệ đang đổ vào, trước sự hấp dẫn về lãi
suất và những như lợi nhuận kỳ vọng tại Brazil sau khi dòng dầu bắt đầu chảy. Nhưng
việc này lại gây ra vấn đề mới: khi đồng tiền mạnh lên, nó sẽ tác động xấu tới các nhà
xuất khẩu khác không thuộc ngành liên quan tới khai thác tài nguyên.
Giải pháp mà ai cũng biết cho loại vấn đề "Căn bệnh Hà Lan" này là nâng cao năng
suất hoặc hạ thấp chi phí trong các ngành thương mại không được hưởng lợi từ sự bùng
nổ tài nguyên. Tháng 8 này, chính phủ cho biết sẽ xóa bỏ thuế thu nhâp trong bốn ngành
cần nhiều sức lao động: giày dép, may mặc, nội thất và phần mềm. Nhưng còn nhiều lĩnh
vực khác cũng cần tiếp tục hạ thấp "chi phí Brazil" - cách gọi của dân địa phương đối với
các vấn đề nổi bật tại Brazil, như đường sá xuống cấp, lãi suất cao, thuế thu nhập, thuế và
bộ máy hành chính.
Brazil là một trong những nước có môi trường kinh doanh khá khó khăn, đứng thứ
127 trên 183 quốc gia trong danh sách xếp hạng của Ngân hàng thế giới. Việc thuê và sa
thải lao động hay đóng cửa doanh nghiệp có thể mất hàng năm. Hệ thống thuế phức tạp
và khó áp dụng bởi các quy định chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Một nhà kinh tế tại São
Paulo nói vui: "Nếu bạn là người trung thực và muốn tuân thủ bộ luật thuế, bạn cần một

kế toán và một luật sư thuế phục vụ mình cả đời".
17
Lãi suất thực tại Brazil cũng thuộc hạng cao nhất thế giới. Lãi suất cơ bản của
Ngân hàng Trung ương là 12% và có thể sẽ tăng hơn nữa để kiềm chế lạm phát hiện đã
cao hơn nhiều mức mục tiêu 4,5%. Lãi suất cao một phần là hậu quả của cuộc lạm phát
trước từng làm nản lòng người tiết kiệm. Văn hóa tiết kiệm chưa ăn sâu vào lối sống, vì
thế nhu cầu tín dụng vẫn vượt quá cung. Chính sách tài khóa lỏng lẻo cũng là một phần
nguyên nhân. Nền kinh tế đang vận hành vượt quá công suất. Tỷ lệ thất nghiệp là 6%,
mức hiếm khi có thể thấp hơn. Ngân sách có xu hướng thặng dư. Nợ chính phủ được gia
hạn ba năm một lần và chèn lấn (crowd out) các khoản tiền vay khác. Nhưng một thị
trường nợ với kỳ hạn dài hơn đòi hỏi phải kiểm soát chặt chẽ bảng lương tại khu vực
công và các khoản trợ cấp của nhà nước.
Brazil hy vọng những mỏ dầu mới phát hiện sẽ được khai thác sao cho có thể hỗ trợ
thay vì thiệt hại cho các ngành khác. Chính phủ nhấn mạnh, công ty dầu mỏ nhà nước
Petrobras, với toàn quyền vận hành các mỏ dầu dưới tầng muối, phải mua phần lớn sản
phẩm phục vụ nhu cầu của mình ở trong nước.
Eike Batista, một ông trùm có tiếng trong các ngành khai khoáng, thăm dò dầu khí
và dịch vụ hậu cần, đang xây dựng một cảng hoàn thiện với một xưởng đóng tàu (hợp tác
với công ty Hyundai của Hàn Quốc) để đảm bảo tuân thủ đúng các quy định về hàm
lượng nội địa. "Yêu cầu của của Petrobras là hai xưởng đóng tàu", ông nói. Một cảng
hiện đại sẽ khuyến khích nhà sản xuất nước ngoài đến xây dựng nhà xưởng dọc bờ biển
Brazil và phục vụ thị trường trong nước. Nhưng một số người khác lại lo ngại Brazil
đang theo đuổi mô hình công nghiệp hóa dưới sự chỉ đạo của nhà nước và hướng nội
từng thất bại trước đó.
Giáo sư ĐH Harvard Dani Rodrik so sánh sự phục hồi của Hàn Quốc sau cuộc
khủng hoảng tại Đông Á năm 1998 (cũng như sau các rắc rối trước đó) với với tình trạng
đình trệ mà Brazil và các quốc gia Mỹ Latinh khác phải chịu đựng trong những năm
1980. Ngành công nghiệp Hàn Quốc đã đã được khẳng định tại các thị trường xuất khẩu
vì thế có thể tạo dựng phục hồi dựa trên sức mạnh công nghiệp. Brazil thiếu sức mạnh
đó. Nhưng Hàn Quốc có thể phục hồi nhanh hơn còn vì mỗi nhóm lợi ích đều thống nhất

chấp nhận chia sẻ một phần khó khăn từ khủng hoảng. Chính phủ cam kết sẽ nỗ lực hết
sức để giúp đất nước vượt qua khủng hoảng nhưng các doanh nghiệp cũng không ngồi
không chờ đợi mà góp phần vào quá trình ấy bằng cách hạn chế sa thải và công đoàn
cũng nhân nhượng các đòi hỏi về lương bộc. Ngược lại, ở Brazil, ai nấy đều không chịu
18
một mức sống thấp hơn và cố gắng đẩy phần khó khăn sang cho người khác. Lạm phát
tăng cao và GDP bình quân đầu người của Brazil giậm chân tại chỗ trong suốt 15 năm.
3. ẤN ĐỘ
Thách thức chính của Ấn Độ là sự kết hợp giữa các khó khăn của cả Brazil và
Trung Quốc đang gặp phải. Giống như Trung Quốc, Ấn Độ đang có tốc độ tăng trưởng
cao hơn mức trung bình tại các thị trường mới nổi, khoảng 8%/ năm. Tuy vậy, nước này
vẫn còn nhiều điều phải làm: Ấn Độ nghèo hơn Trung Quốc, vì thế khoảng cách bắt kịp
sẽ rộng hơn. Đầu tư chiếm 38% GDP. Phần lớn đầu tư của Ấn Độ được lấy từ chính túi
tiền của các doanh nghiệp, một biểu hiện của hệ thống tài chính còn non yếu. Hầu hết các
doanh nghiệp không thể trông cậy vào vốn bên ngoài, dù các tập đoàn lớn của Ấn Độ,
như Tata, đều có thể khai thác thị trường vốn quốc tế.
Cũng như Brazil, Ấn Độ cũng đang hết sức cần hệ thống đường sá tốt để gắn kết
các thị trường quá cách xa nhau ở trong nước. Đây là quốc gia trẻ, với tỷ lệ dân số trong
độ tuổi lao động dự báo tăng 1,7%/ năm cho tới năm 2015, nhanh hơn cả Brazil. Nhưng
tỷ lệ người có học vấn cao lại quá ít. Như ở Brazil, các công ty tại Ấn Độ phải đào tại lại
từ đầu khi tuyển dụng mới nhân công. Hệ thống pháp luật rối rắm khiến hoạt động của thị
trường lao động gặp khó khăn. Tham nhũng gây tổn thất lớn trong các dự án cơ sở hạ
tầng. Nền kinh tế có xu hướng quá nóng và đang bị thâm hụt tài khoản vãng lai.
Điều này nói nên một điểm yếu sâu xa của các thị trường mới nổi. Từ trước đây, họ
đã không điều tiết tốt nhu cầu trong nước. Dựa vào xuất khẩu cho phép họ vừa tăng
trưởng vừa tiết kiệm. Nhưng hiện nay, các nền kinh tế lớn đang gặp khó khăn khiến sự
phụ thuộc này trở nên rủi ro hơn bao giờ hết. Bóng đen của cuộc khủng hoảng tại các thị
trường mới nổi trong quá khứ lại hiện về: bội chi ngân sách, tăng trưởng tín dụng nhanh
và lạm phát. Raghuram Rajan, cựu chuyên gia kinh tế trưởng của IMF và hiện đang công
tác tại Trường Kinh doanh Booth ở Chicago, phân tích: Quá trình dịch chuyển từ nền

kinh tế thu nhập trung bình sang nền kinh tế giàu phụ thuộc vào các chính sách tiền tệ, tài
khóa và quản lý hợp lý.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1. KHÁI QUÁT KINH TẾ VIỆT NAM
19
1.1 Các chỉ số tăng trưởng.
Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 7,4% trong giai đoạn 1991 – 2010. Năm 1990, Việt Nam là một trong những
quốc gia nghèo nhất thế giới với GDP bình quân đầu người là 98 USD (theo dữ liệu
của ADB). Đến năm 2009, với mức GDP bình quân đầu người là 1.109 USD, Việt
Nam đã được xếp vào các nước có mức thu nhập trung bình thấp theo xếp hạng của
ngân hàng thế giới.
.
20
Diễn đàn phát triển Việt Nam. Nguồn: Tổng cục thống kê, các chỉ số chính của Ngân
hàng phát triển châu Á (2008), Các tính toán về tăng trưởng – Đại học kinh tế Quốc
dân giai đoạn 1990 – 2004
Các số liệu thống kê tăng trưởng cho thấy: cho đến giữa những năm 1990, hệ số
vốn trên một đơn vị sản lượng ( ICOR) ở mức thấp, mức đóng góp của năng suất nhân
tố tổng hợp ( TFP ) ở mức cao – điều này cho thấy tăng trưởng nhanh do tăng hiệu
suất. Giai đoạn sau đó, chỉ số ICOR tăng lên, đóng góp của TFP đối với tăng trưởng
giảm xuống và đóng góp của vốn tăng lên đáng kể. Điều này cho thấy tăng trưởng có
được nhờ đầu tư ồ ạt, nhưng mức hiệu quả sử dụng vốn thấp.
1.2.Nhận xét mô hình tăng trưởng của Việt Nam.
Về cơ bản, mô hình tăng trưởng Việt Nam bao gồm các điểm chính: coi mở cửa
và hội nhập khu vực là yếu tố tiên quyết đối với tăng trưởng, củng cố thương mại nội
vùng và đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiết kiệm và đầu tư ở mức cao, chuyển đổi năng
động cơ cấu công nghiệp, đô thị hóa và di cư nông thôn – thành thị, giải quyết các vấn
đề liên quan đến tăng trưởng như chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm, tắc nghẽn giao
thông

Sau hơn 25 năm Đổi mới, Việt Nam đã thu được những thành tựu rất có ý nghĩa
trong thúc đẩy tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người dân,…
Những thành tựu đó có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ bản chất của quá trình Đổi
mới: đó là đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội cùng với mở rộng cơ hội và quyền lựa
chọn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của người dân thông qua việc tiến hành những
cải cách định hướng thị trường và “mở cửa”, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên thực tế, mô hình phát triển của Việt Nam đã chứa đựng nhiều yếu tố đáp
ứng tư duy mới về phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay: có sự kết hợp giữa
Nhà nước, thị trường và hội nhập, chính sách kinh tế với chính sách xã hội, môi
trường,… Ý tưởng chủ đạo trong xây dựng mô hình phát triển đã được Đại hội IX
(năm 2001) và Đại hội X (năm 2006) Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh là “nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN” và gắn với “chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế”.
Đồng thời, thực tiễn Đổi mới, cải cách ở Việt Nam cũng cho thấy sự phức tạp
của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Dấu ấn tư duy quản lý nhà nước, nhất là trong phân bổ
nguồn lực của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung còn khá đậm nét; khung khổ
21
pháp lý còn thiếu đồng bộ, mâu thuẫn (cả trong thể hiện văn bản và thực thi), và có
những điểm chưa thật tương thích với cơ chế thị trường và tiến trình hội nhập. Hiệu
lực thực thi, khả năng giải trình yếu, và việc thiếu ràng buộc trách nhiệm của bộ máy
là những vấn đề nổi cộm. Sự phối hợp hoạch định, thực thi chính sách, giám sát và
trao đổi phản hồi cũng còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thiếu
sức cạnh tranh, các chính sách và thể chế còn yếu kém so với chuẩn mực các nước
trong khu vực Đông Nam Á. Các hoạt động công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế
biến hàng xuất khẩu, vẫn chủ yếu do công ty nước ngoài nắm giữ, trong khi giá trị mà
người lao động và các công ty trong nước còn hạn chế.
2. BÀI HỌC CHO VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN CỦA HÀN
QUỐC VÀ THÁI LAN
Sự thành công và thất bại trong quá trình thoát khỏi “ bẫy của các nước thu

nhập trung bình” của một số nước trong khu vực Châu Á như Hàn Quốc và Thái
Lan đã để lại nhiều bài học có giá trị mà chúng ta cần phải học hỏi.
2.1. Liên hệ từ Hàn Quốc.
Hàn Quốc nền kinh tế bắt đầu từ mức thu nhập thấp – đã cất cánh vào cuối
những năm 1960 và đã cải thiện thu nhập một cách nhanh chóng. Cuối thế kỷ
20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất
trong lịch sử thế giới hiện đại. GDP (PPP) bình quân đầu người của đất nước đã nhảy
vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên mức kỉ lục 10.000 USD vào năm 1995 và 25.000
USD vào năm 2007. Bất chấp các ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế
châu Á 1997, nước này đã khôi phục kinh tế rất nhanh chóng và vững chắc. Hiện nay,
Hàn Quốc là một trong bốn con rồng châu Á, với khả năng tăng trưởng ở mức cao và
có chiều sâu. Để đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trên, đó là một quá trình cải
cách, đổi mới, với nhiều chính sách nhằm tăng trưởng kinh tế:
• Tập trung tăng trưởng xuất khẩu.
• Đầu tiên, với triết lý cơ bản của chính quyền của Tổng thống Park Chung Hee lúc
đó là “xuất khẩu là hàng đầu” và “xây dựng đất nước bằng thúc đẩy xuất khẩu”.
Chính phủ Hàn Quốc đã có những can thiệp mạnh mẽ bằng việc cung cấp các
nguồn đầu tư và các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô. Tất cả những ngành xuất
khẩu đều được Chính phủ Hàn Quốc tài trợ, hỗ trợ trong giai đoạn ban đầu.
• Sau khi củng cố khả năng công nghệ, vào những năm giữa thế kỷ XX, Hàn Quốc
đã bắt đầu tự do hóa thương mại bằng việc giảm thuế quan.
22
• Dựa vào sở hữu trong nước, có xu hướng công nghiệp hóa kiểu “cú hích lớn”.
Nâng cấp và tái cấu trúc ngành công nghiệp từ thâm dụng vốn và lao động sang
thâm dụng công nghệ.
• Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trình độ cao có kĩ năng phục vụ cho quá trình
phát triền ngành công nghệ cao và xuất khẩu nhân lực có kĩ năng sang các nước
khác.
 Liên hệ thực tiễn Việt Nam
• Việc tập trung vào xuất khẩu cũng là một hướng đi đúng cho Việt Nam với thế

mạnh về hàng nông sản. Bên cạnh đó thị trường nội địa cho nông sản Việt Nam
cũng cần được quan tâm chú trọng.
• Học tập từ Nhật Bản và Hàn Quốc trong việc tập trung đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao. Xây dựng những chính sách khuyến học, tạo cơ hội đi học tập ở
nước ngoài, khuyến khích sự sang tạo, nghiên cứu khoa học, mở thêm nhiều
trường dạy nghề ở các vùng nông thôn, vùng nghèo.
2.2. Liên hệ từ Thái Lan:
Thái Lan mặc dù đã có những tăng trưởng nhất định trong tiến trình công nghiệp
hóa, nhưng cùng với Malaysia, Thái Lan chưa thành công trong vượt “bẫy của các
nước thu nhập trung bình”. (GDP bình quân đầu người: 3.973 $; theo ước tính
của IMF 2009).
• Dựa vào nguyên tắc tăng trưởng kinh tế dựa trên công nghiệp hóa phải thông qua
sự phát triển của ngành chế tạo.
• Tuy nhiên, Thái Lan hiện nay vẫn chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp
thâm dụng lao động và tài nguyên như trước khủng hoảng. Việc tái cơ cấu kinh tế
đã không xảy ra. Theo nhiều đánh giá, nền công nghiệp Thái Lan hiện nay chủ yếu
gia công và lắp ráp, nghĩa là Thái Lan chưa làm chủ được công nghệ, mà chủ yếu
vẫn phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài.
• Sự phục hồi sau khủng hoảng của Thái Lan là nhờ tăng trưởng xuất khẩu và tiêu
dùng tư nhân do các khuyến khích tài chính và tín dụng chỉ định.
• Tuy nhiên vốn đầu tư tư nhân tại Thái Lan lại tập trung vào xây dựng dân dụng
chứ không phải ngành chế tạo như tiêu chí ban đầu(sự bất ổn chính trị làm mất
lòng tin của các nhà đầu tư).
• Thái Lan đang dần mất đi lợi thế so sánh do “mắc kẹt” trong sức ép từ các nước
xuất khẩu hàng hóa thâm dụng lao động giá rẻ, cũng như hàng công nghệ cao từ
các nước phát triển hơn. Việc thiếu hụt lao động kỹ năng sẽ tạo ra những rào cản
cho tăng trưởng của nước này.
23
• Sự bất bình đẳng và chênh lệch trong chính sách phát triển giữa các khu vực, vùng
miền và các nhóm người trong xã hội, tạo ra những khía cạnh tiêu cực về mặt xã

hội.
 Liên hệ thực tiễn Việt Nam
• Việt Nam cũng cần chú trọng đến việc phát triển đồng đều giữa các khu vực vùng
miền khi nước ta vẫn đang có nhiều tỉnh nghèo, còn nhiều nguồn lực chưa khai
thác hết, sự đầu tư vẫn tập trung vào các thành phố lớn và khu trọng điểm công
nghiệp. Tình trạng này còn dẫn đến sự phân bố dân cư không đồng đều gây ra
nhiều vấn đề xã hội.
• Ổn định chính trị và khiến cho nhân dân tin vào Chính Phủ là một yếu tố quan
trọng nhất trong việc tăng trưởng dài hạn và thoát khỏi bẫy này. Nhìn từ bài học
của Thái Lan để thấy hậu quả của việc “nội bộ lục đục”. Không những từ cấp cao
mà còn toàn bộ bộ máy chính quyền địa phương phải tạo lòng tin trong dân chúng.
Làm việc minh bạch là điều mà nhân dân mong muốn.
• Việc tái cơ cấu nền kinh tế cũng là đòi hỏi bức thiết lúc này của Việt Nam. Chính
phủ cũng đã có hướng đi đúng đắn với 3 hướng chính: tái cơ cấu đầu tư công, tái
cơ cấu doanh nghiệp và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Việc thực hiện tái cơ cấu
này nhằm phát triển ngành công nghiệp phụ trợ thu hút nguồn vốn đầu tư tránh
việc để mất nhiều cơ hội (năm mở cửa 1993 và năm Thái Lan bị lũ lụt 2011).
3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM THOÁT KHỎI “BẪY THU NHẬP
TRUNG BÌNH”

Năm 2009 Việt Nam (VN) bước qua ngưỡng thu nhập bình quân đầu người
trên 1000 USD. Đây là một trong những dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế VN.
Tuy nhiên nhiều người cho rằng VN sẽ đứng trước nguy cơ mới của xã hội là
“bẫy của các nước thu nhập trung bình” của nền kinh tế. Vậy làm thế nào VN có
thể thoát khỏi cái bẫy đó.
Trước tiên, chúng ta cần biết ngọn nguồn của căn bệnh này, đó chính là nền
kinh tế thiếu năng suất và chất lượng mà chỉ nhờ vào tài nguyên và những lợi thế
ban đầu nhất định. Để làm được điều này vai trò của chính phủ là rất quan trọng
trong việc cải cách hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội để đưa đất nước thoát khỏi
tình trạng “bẫy của các nước thu nhập trung bình”, tạo điều kiện đổi mới liên

tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện thực tế nhằm nâng cao
chất lượng và năng suất lao động.
Thứ nhất, về mặt thể chế, để một đất nước tăng trưởng cao và phát triển bền
vững cần phải có một nền tảng pháp lý vững chắc và nghiêm minh. Nước ta đang
xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ắt hẳn sẽ không
24
tránh khỏi những thất bại mà thị trường tạo nên, vậy nên hệ thống pháp luật kinh
tế là không thể thiếu để đảm bảo cho sự vận hành cơ chế thị trường được diễn ra
theo đúng lịch trình của nó.
Ngoài ra, phát triển cơ sở hạ tầng cũng là một yếu tố vô cũng quan trọng,
đầu tiên là hệ thống đường sá sau đó là điện năng, cảng và hệ thống cấp thoát
nước.
Hệ thống quản trị với tham nhũng, hối lộ, mua bán chức quyền bằng cấp
luôn là một vấn đề nan giải đối với nước ta, nếu còn những tình trạng này thì Việt
Nam sẽ không bao giờ có thể đi lên bằng chính năng suất và chất lượng được.
Điều cấp thiết đặt ra là hãy tạo một môi trường quản trị trong sạch và liêm chính.
Cân đối vĩ mô, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính sách tiền tệ và tài khóa,
đưa ra được đường lối chiến lược phù hợp với thực tiễn đất nước. Việt Nam cần
tăng trưởng chất lượng thay vì chạy theo số lượng. Tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp tư nhân phát triển bằng cách cải cách hành chính, bãi bỏ các giấy phép, quy
định và thủ tục không cần thiết.
Xây dựng hệ thống tài chính với nhiều ngân hàng có chất lượng và có tính
cạnh tranh cao, quản lý chặt chẽ các hoạt động của ngân hàng tránh tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh và mất thanh khoản cao dẫn đến nguy cơ sụp đổ.
Thứ hai, về mặt con người, trước tiên cần đáp ứng đầy đủ những nhu cầu
cơ bản của con người: lương thực, nhà ở, sức khỏe và sự bảo vệ; đảm bảo mức
sống chung được cải thiện, xóa bỏ tình trạng nghèo đói tuyệt đối (hay tình trạng bị
thiếu thốn các mặt hang thiết yếu cho cuộc sống).Giảm mức độ bất bình đẳng
trong thu nhập và cơ hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, sử dụng công
cụ thuế để giảm thiểu mức độ bất bình đẳng, có những chính sách hỗ trợ đối với

nông thôn và dân nghèo.
Đầu tư giáo dục cũng là một trong những lĩnh vực quan trọng giúp phát
triển con người, trước tiên, chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn trong việc coi
đào tạo như một hình thức đầu tư vì vậy nước ta phải thường xuyên nâng cao chất
lượng giáo dục đặc biệt là chất lượng giảng dạy, chất lượng giáo trình, sách giáo
khoa, cơ sở vật chất, các chính sách liên kết bên trong và bên ngoài của chính quá
trình đào tạo đó. Giáo dục ngày nay không chỉ gói gọn ở cấp phổ thông mà còn
cao hơn là bậc đại học và sau đại học, làm nền tảng cho những lao động tương lai
với tay nghề cao, có kỹ năng và có sáng tạo. Trong quá trình đào tạo, cần mở rộng
hợp tác quốc tế trong giáo dục và thúc đẩy quá trình tiếp thu nhanh những công
nghệ hiện đại của thế giới với những hình thức phù hợp. Với một đội ngũ lao động
25

×