Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

nghiên cứu về tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.4 KB, 134 trang )

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG:
Mục tiêu của chương Đại cương về tài chính tiền tệ là nhằm giới thiệu những
vấn đề cơ bản về tài chính – tiền tệ, bao gồm bản chất và chức năng của tiền tệ, sự
phát triển của các hình thái tiền tệ, khối tiền tệ, chế độ tiền tệ, bản chất và chức năng
của tài chính. Sau khi học xong chương này sinh viên có khả năng:
- Nhận biết được bản chất của tiền tệ, đồng thời phân tích được các chức năng
của tiền tệ đối với nền kinh tế, từ đó thấy được tầm quan trọng của tiền tệ đối với
mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội.
- Giải thích được sự ra đời và sự phát triển của tiền tệ qua các hình thái biểu
hiện của tiền tệ.
- Phân biệt được các khối tiền tệ theo quan niệm được nhiều nhà kinh tế thừa
nhận.
- Trình bày được các hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ qua sáu chế độ tiền tệ:
chế độ song bản vị, chế độ bản vị tiền vàng, chế độ bản vị vàng thỏi, chế độ bản vị
vàng hối đoái, chế độ bản vị ngoại tệ và chế độ bản vị tiền giấy.
- Nhắc lại được sự ra đời của tài chính trong lịch sử phát triển của kinh tế và
xã hội.
- Trình bày được bản chất của tài chính và phân tích đầy đủ nội dung các chức
năng của nó đối với hoạt động phát triển của nền kinh tế.
1. Bản chất của tiền tệ
1.1. Sự ra đời của tiền tệ
Kinh tế học đã chỉ ra rằng, tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền
với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Khi nghiên cứu về quá trình ra đời của tiền tệ, C.Mác kết luận: “Trình bày
nguồn gốc phát sịnh của tiền tệ, nghĩa là phải khai triển cái biểu hiện của giá trị,
biểu hiện bao hàm trong quan hệ giá trị của hàng hóa, từ hình thái ban đầu đơn
giảng nhất và ít thấy rõ nhất cho đến hình thái tiền tệ là hình thái mà ai nấy đều
1
thấy” (C.Mác – Tư Bản – Quyển I, Tập I, trang 75 – Nhà xuất bản Sự Thật – Hà


Nội 1963).
Trong quan hệ trao đổi, hình thức giá trị được biểu hiện qua 4 hình thái:
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên:
Trong hình thái này giá trị (tương đối) của một vật được biểu hiện ở giá trị của
một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá “đơn nhất” với ba đặc điểm:
+ Giá trị sử dụng trở thành hình thái biểu hiện của giá trị
+ Lao động cụ thể trở thành hình thái biểu hiện của lao động trừu tượng.
+ Lao động tư nhân trở thành lao động xã hội trực tiếp.
- Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng:
Ở hình thái này giá trị của một vật không phải được biểu hiện ở giá trị sử dụng
của một vật khác mà được biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hóa khác, có tác
dụng làm vật ngang giá. Đây là những vật ngang giá “đặc thù”. Những vật ngang
giá đặc thù tồn tại song song với nhau và đều có quyền lực như nhau trong vai tò vật
ngang giá. Nhược điểm của hình thái này:
+ Biểu hiện tương đối giá trị của một hàng hóa chưa được hoàn tất vì có nhiều
hàng hóa làm vật ngang giá và chưa có điểm dừng ở vật ngang giá chung.
+ Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa là không thuần nhất và
hết sức rời rạc.
+ Nếu giá trị tương đối của mỗi hàng hóa đều biểu hiện ra trong hình thái mở
rộng này, thì hình thái giá trị tương đối của mỗi hàng hóa sẽ là một chuỗi biểu hiện
giá trị vô cùng vô tận, khác với hình thái giá trị tương đối của bất kỳ một hàng hóa
nào khác.
- Hình thái giá trị chung:
Trong hình thái này, giá trị chung của tất cả các hàng hóa biểu hiện giá trị của
chúng ở một hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá chung. Do vậy, nó trở thành hình
thái giá trị phổ biến, được xã hội thừa nhận và làm cho quá trình trao đổi trở nên
thuận tiện, đơn giản hơn, đó là điều kiện quan trọng để thúc đẩy kinh tế hàng hóa
phát triển. Lúc này người ta không trao đổi sản phẩm hàng hóa trực tiếp như các
hình thái trên, mà trao đổi một cách gián tiếp thông qua vật ngang giá chung.
- Hình thái giá trị tiền tệ:

2
Khi nền sản xuất hàng hóa phát triển, theo đó lực lượng sản xuất phát triển, thị
trường càng mở rộng thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung nên gây khó khăn
cho lưu thông trao đổi hàng hóa. Vật ngang gái chung bằng kim loại thay thế dần
vật ngang giá khác. Sau đó Bạc, Vàng chiếm ưu thế tuyệt đối. Cuối cùng cố định ở
Vàng. Chỉ đấn lúc này thì hình thái giá trị tiền tệ mới được xác lập và Vàng với tư
cách là vật ngang giá chung đã trở thành tiền tệ.
Từ hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên đến hình thái tiền tệ là một quá
trình lịch sử lâu dài, nhằm giải quyết các mâu thuẩn vốn có trong bản thân hàng
hóa. Tiền tệ ra đời đã làm cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ được dễ dàng và
nhanh chóng hơn.
Nghiên cứu về lịch sử tiền tệ, các giáo sư PAUL A. SAMUELSON (Viện Dự
trữ liên bang và ngân khố Mỹ) và WILLIAM D. NORDHAUS (trường Đại học
Yale Mỹ) cũng kết luận rằng: “Do các xã hội có mua bán rộng rãi không thể vượt
qua được các cản trở quá lớn của hình thức trao đổi hiện vật, nên việc sử dụng một
vật trung gian làm phương tiện trao đổi được mọi người chấp nhận. Đó là tiền tệ”
(Kinh tế học – Tập I, trang 332 – Viện quan hệ Quốc tế Việt Nam biên dịch năm
1989).
1.2. Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ có biểu hiện ở rất nhiều thứ khác nhau. Đối với hầu hết các dân tộc,
tiền là những đồng xu bằng kim loại, những tờ giấy bạc, những tấm thẻ, hoặc là
những khoản tiết kiệm ở ngân hàng,… Nhưng đối với một số dân tộc trong quá khứ
không xa lắm, tiền là những chuổi hạt, vỏ ốc được xâu lại vì đó là những vật họ cho
là có giá trị. Các dân tộc đã từng coi những vật như vậy là “tiền” bởi vì chúng đều là
những phương tiện được thừa nhận và thỏa thuận trong thanh toán.
Lịch sử phát triển của tiền tệ đã chứng minh rằng tiền tệ là sản phẩm tất yếu
của nền kinh tế hàng hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình troa đổi hàng
hóa, dịch vụ. Suy cho cùng, về bản chất, tiền tệ là vật ngang giá chung, làm
phương tiện để trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thanh toán các khoản nợ.
3

2. Chức năng của tiền tệ
2.1. Chức năng là đơn vị đo lường giá trị
Tiền tệ là đơn vị đo lường giá trị, nghĩa là nó được dùng để đo lường giá trị
của hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện trao đổi. Người ta đo giá trị của hàng hóa
và dịch vụ bằng tiền giống như người ta đo trọng lượng của một vật bằng kilogram,
đo chiều dài của một vật bằng mét. Để thấy được vì sao chức năng này quan trọng,
chúng ta hãy so sánh quá trình trao đổi hiện vật với trao đổi hàng hóa có tiền làm
môi giới trung gian.
Trong quá trình trao đổi trực tiếp, có 3 mặt hàng đưa ra trao đổi: A, B, C thì
chúng ta chỉ cần biết 3 giá để có thể trao đổi các hàng hóa này với nhau. Đó là:
- Giá của hàng hóa A được tính bằng bao nhiêu hàng hóa B.
- Giá của hàng hóa A được tính bằng bao nhiêu hàng hóa C.
- Giá của hàng hóa C được tính bằng bao nhiêu hàng hóa B.
Tương tự, nếu có 10 mặt hàng đưa ra cần trao đổi, chúng ta phải cần biết 45
giá để có thể trao đổi hàng này để lấy một hàng hóa khác, với 100 mặt hàng chúng
ta cần tới 4.950 giá, và với 1.000 mặt hàng thì chúng ta cần biết 499.500 giá (theo
công thức tính tổng quát số cặp khi có N phân tử = N (N-1)/2).
Nếu nền kinh tế có tiền tệ làm môi giới, thì người ta định giá bằng đơn vị tiền
tệ cho tất cả các hàng hóa đem trao đổi trên thị trường. Do vậy, có bao nhiêu hàng
hóa đưa ra trao đổi thì có bấy nhiêu giá cả. Có nghĩa là, nếu có 3 hàng hóa đưa ra
trao đổi thì có 3 giá, có 10 hàng hóa đưa ra trao đổi thì có 10 giá, có 1.000 hàng hóa
đưa ra trao đổi thì có 1.000 giá. Vậy là, việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá sẽ thuận
lợi rất nhiều cho quá trình trao đổi hàng hóa, giảm được chi phí trong trao đổi do
giảm được số giá cần xem xét.
Khi nền kinh tế phát triển thì lợi ích của chức năng đo lường giá trị của tiền tệ
ngày càng tăng lên. Ngày nay, người ta đo lường giá trị của hàng hóa, dịch vụ
không phải chỉ bằng tiền mặt mà còn đo lường giá trị hàng hóa, dịch vụ bằng Séc,
hối phiếu, kỳ phiếu hoặc là các chứng từ có giá khác.
4
Số lượng giá trong một nền kinh tế hiện vật ứng với số lượng giá trong nền

kinh tế tiền tệ.
Số mặt hàng trao đổi
Số lượng giá trong nên
kinh tế hiện vật
Số lượng giá trong nền
kinh tế tiền tệ
3 3 3
10 45 10
100 4.950 100
1.000 499.500 1.000
10.000 49.995.000 10.000
Từ bảng trên chúng ta có thể thấy rằng việc dùng tiền làm một đơn vị đánh
giá, giảm được chi phí thời gian để giao dịch trong nền kinh tế do giảm số giá cần
phải xem xét.
Để tiền tệ làm tốt chức năng đo lường giá trị đòi hỏi:
- Đơn vị tiền tệ đó phải có giá trị nội tại của nó, nếu không, dù có bắt buộc dân
chúng vẫn không chấp nhận nó như một công cụ đo lường giá trị.
- Giá trị của đơn vị tiền tệ đó, hay sức mua của đồng tiền phải ổn định hoặc có
thay đổi thì vẫn không thay đổi nhiều qua thời gian.
2.2. Chức năng là phương tiện trao đổi
Trong nền kinh tế, tiền tệ làm phương tiện trao đổi khi nó được dùng để mua
bán hàng hóa, dịch vụ, hoặc thanh toán các khoản nợ cả trong và ngoài nước. Việc
dùng tiền làm phương tiện trao đổi đã nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế,
bởi nó đã tiết kiệm được các chi phí quá lớn trong quá trình trao đổi trực tiếp hàng
đổi hàng, các chi phí giao dịch thường rất cao. Bởi vì, người mua, người bán phải
tìm được những người trùng hợp với mình về nhu cầu trao đổi, thời gian trao đổi,
không gian trao đổi. Quá trình trao đổi chỉ được diễn ra khi có sự phù hợp đó. Tiền
tệ làm môi giới trung gian trong trao đổi đã hoàn toàn khắc phục được các hạn chế
đó của quá trình trao đổi trực tiếp. Người có hàng bán lấy tiền, sau đó sẽ mua được
hàng mà họ cần. Bởi vậy, người ta coi tiền như thứ dầu mỡ bôi trơn, cho phép nền

kinh tế hoạt động trôi chảy hơn, khuyến khích chuyên môn hóa và phân công lao
động.
Việc dùng tiền làm một phương tiện trao đổi giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền
kinh tế, qua việc loại bỏ được nhiều thời gian dành cho việc đổi chác hàng hóa hay
5
dịch vụ qua nhiều lần trao đổi trực tiếp lấy hàng. Để làm tốt chức năng này tiền phải
đạt một số ưu điểm sau:
- Phải được tạo ra hàng loạt một cách dể dàng, có tính đồng nhất cao để thuận
tiện cho việc xác định giá trị trong từng quốc gia.
- Phải được chấp nhận một cách rộng rãi của những người trao đổi hàng hóa.
- Có thể chia nhỏ được, nhờ đó tạo thuận lợi cho người trao đổi.
- Dể chuyên chở, di chuyển.
- Không bị hư hỏng một cách nhah chóng do tác động của khí hậu, thời tiết,
môi trường,….
2.3. Chức năng là phương tiện dự trữ về mặt giá trị
Tiền tệ làm phương tiện dự trữ giá trị nghĩa là nơi chứa sức mua hàng hóa
trong một thời gian nhất định. Nhờ chức năng này của tiền tệ mà người ta có thể
tách thời gian từ lúc có thu nhập đến lúc tiêu dùng nó. Chức năng này là quan trọng
vì mọi người đều không muốn chi tiêu hết thu nhập của mình ngay khi nhận nó, mà
dự trữ để sử dụng nó trong tương lai. Tất nhiên, tiền không phải duy nhất là nơi
chứa đựng giá trị, mà các tài sản khác cũng là nơi chứa giá trị, như cổ phiếu, thương
phiếu,… Nhưng tiền là tài sản có tính lỏng cao nhất, bởi nó là phương tiện trao đổi,
nó không cần phải chuyển đổi thành bất cứ cái gì khác khi với mục đích mua hàng
hóa chi trả tiền dịch vụ. Những tài sản khác đòi hỏi chi phí giao dịch khi cần chuyển
sang tiền.
Vì vậy, tiền là một phương tiện dự trữ về mặt giá trị có nhiều ưu điểm trong
nền kinh tế hàng hóa. Tuy vậy nó phải tùy thuộc vào mức giá vì giá trị của tiền
được ấn định theo mức giá. Nếu các giá đều tăng gấp hai thì nghĩa là giá trị của tiền
đã sụt một nửa, ngược lại nếu các giá giảm đi một nửa thì giá trị tiền sẽ tăng lên hai
lần. Trong một cuộc lạm phát khi mức giá tăng lên nhanh chóng, vì tiền mất giá quá

nhanh nên dân chúng giữ tiền như một biện pháp bất đắc dĩ. Điều này thể hiện rõ
nhất trong thời kỳ siêu lạm phát. Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường thì mức độ
quan trọng của tiền cũng thay đổi, vì ngoài tiền ra còn có các tài sản khác như:
thương phiếu, hối phiếu, chừng chỉ tiền gửi…
3. Sự phát triển của các hình thái tiền tệ
6
Tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Sau khi ra đời, tiền tệ là
công cụ quan trọng để phát triển nền kinh tế - xã hội. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho lưu thông hàng hóa và dịch vụ, phát triển nền kinh tế xã hội, hình thái của tiền
tệ cũng ngày càng được hoàn thiện hơn
3.1. Hóa tệ
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ đã lần lượt tồn tại
dưới các hình thức khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế
đặc biệt là của hoạt động sản xuất, trao đổi và lưu thông hàng hóa. Lịch sử ghi nhận
rằng, thời kỳ nguyên thủy của tiền tệ, vai trò tiền tệ thường được thể hiện ở gia súc
(dân tộc cổ đại Slavo), da thú (ở các dân tộc Scăng-đi-nap và Nước Nga cổ đại), vỏ
ốc quý (quần đảo Thái Bình Dương và Châu Phi), chè (Tây Tạng và Mông Cổ),
muối (ở Tây Su Đăng), lúa mì, bong (Ai Cập), kê, lụa (Trung Quốc),…Các hình
thái này có thể xếp chung vào một nhóm là tiền tệ dưới dạng hàng hóa hay còn
gọi là hóa tệ.
Cùng với sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai, thủ công nghiệp tách
khỏi nông nghiệp, vai trò tiền tệ chuyển dần sang các kim loại. Cuối cùng thời kỳ
này, vai trò tiền tệ đã được cố định ở Vàng. Bởi vì Vàng có nhiều đặc tính ưu việt
hơn các hàng hóa khác lúc bấy giờ trong việc thực hiện các chức năng của tiền tệ.
Đó là:
- Tình đồng nhất của Vàng rất cao. Điều đó rất thuận lợi trong việc đo lường,
biểu hiện giá cả của hàng hóa trong quá trình trao đổi.
- Dể phân chia mà không làm ảnh hưởng đến giá trị vốn có của nó. Điều đó có
ý nghĩa quan trọng trong việc biểu hiện giá cả và lưu thông hàng hóa trên thị
trường. Bởi lẽ, hàng hóa trên thị trường rất đa dạng và giá cả rất khác nhau.

- Dễ mang theo, bởi vì một thể tích nhỏ và trọng lượng nhỏ của Vàng có thể
đại diện cho giá trị một khối lượng hàng hóa lớn.
- Thuận tiện trong việc thực hiện chức năng dự trữ giá trị của tiền tệ.
Trình độ sản xuất ngày càng phát triển, khối lượng hàng hóa và dịch vị đưa ra
trao đổi ngày càng nhiều. Trong khi đó, khả năng về Vàng lại rất có hạn. Do vậy,
theo thời gian, giá trị của Vàng lớn đến mức người ta khó có thể chia nhỏ ra để tiến
hành những việc mua bán bình thường. Mặt khác hàng hóa đóng vai trò tiền tệ trước
7
đây đều có khuynh hướng tự bản than nó phải có giá trị và phải có một công dụng
nhất định nào đó. Còn ngày nay, giá trị của tiền tệ là do tính pháp định của nhà
nước. Việc tìm kiếm một loại hình tiền tệ mới thay thế cho vàng trong lưu thông đã
trở nên cần thiết.
3.2. Tín tệ
Tín tệ là thứ tiền tệ được lưu dụng nhờ vào sự tín nhiệm của công chúng, chứ
bản than nó không có hoặc có giá trị không đáng kể. Nó đã được nhân loại phát
minh ra và sử dụng thay thế cho Vàng hay Bạc, là những loại tiền thực không xuất
hiện trong lưu thông. Về hình thức, tín tệ có hai loại: tín tệ kim loại (tiến cắc) và
tiền giấy.
Tiền kim loại – là loại tín tệ được đúc bằng kim loại rẻ tiền thay vì đúc bằng
kim loại quý như Bạc hay Vàng nhằm mục tiêu: tiết liệm lượng vàng bạc của quốc
gia, đồng thời giảm bớt sự căng thẳng do thiếu vàng bạc làm phương tiện lưu thông
khi nền kinh tế ngày càng phát triển.
Tiền Giấy (tiền dấu hiệu) – Sau một thời gian dài, thời đại tiền bằng hàng
hóa đã nhường chổ cho thời đại tiền giấy. Lúc đầu những tờ giấy bạc ngân hàng là
những dấu hiệu đại diện cho vàng đáng lẽ phải có trong lưu thông. Những giấy bạc
ngân hàng đó được tự do chuyển đổi ra vàng theo Luật định. Về sau, do Ngân hàng
phát hành ra nhiều giấy bạc hơn so với số vàng dự trữ, làm cho nó không còn được
tự do chuyển đổi ra vàng. Việc sử dụng tiền giấy đã trở thành phổ biến, do tính
thuận tiện của nó trong việc làm phương tiện trao đổi hàng hóa. Đó là:
- Dể mang theo để làm phương tiện trao đổi hàng hóa, thanh toán nợ.

- Thuận tiện khi thực hiện chức năng dự trữ của cải dưới hình thức
giá trị.
- Bằng cách thay đổi các con số trên mặt đồng tiền, một lượng giá trị
lớn hay nhỏ đều được biểu hiện.
- Bằng chế độ độc quyền phát hành giấy bạc với những quy định
nghiêm ngặt của Chính phủ, tiền giấy có thể giữ được giá trị của nó,…
3.3. Bút tệ
Bút tệ là thứ tiền tệ vô hình sử dụng bằng cách ghi chép trên sổ sách của ngân
hàng, nó chính là số dư trên tài khoản tiền gửi ở ngân hàng. Về nguồn gốc, người ta
8
cho rằng bút tệ ra đời vào giữa thế kỹ 19 khi Ngân hàng Anh quốc tìm cách né tránh
các thể lệ phát hành tiền giấy quá cứng nhắc nên đã sang chế ra hệ thống thanh toán
bằng cách ghi trên sổ sách ngân hàng. Ngày nay, bút tệ được sử dụng rộng rãi ở hầu
hết các nước, nhưng ở các nước phát triển, dân chúng có thói quen sử dụng bút tệ
hơn ở các nước kém phát triển, do hệ thống ngân hàng ở các nước phát triển hoạt
động tốt hơn.
3.4. Tiền điện tử
Trong những năm gần đây, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin và công
nghệ ngân hàng nên các loại thẻ tín dụng và thẻ thanh toán ngày càng được sử dụng
rộng rãi, kể cả trong và ngoài nước. Những loại thẻ này có thể thực hiện được các
chức năng của tiền tệ và ngày càng thay thế tiền giấy trong đời sống kinh tế. Do
vậy, chúng cũng được xem là một hình thái tiền tệ mới – Tiền điện tử.
4. Khối tiền tệ (cách đo lượng cung ứng tiền)
Quan niệm về khối tiền tệ được nhiều nhà kinh tế thừ nhận hơn cả là việc
dùng những số đo lượng tiền cung ứng được gọi là tổng lượng tiền với các ký hiệu
M
1
, M
2
, M

3
, L. Sở sĩ có sự phân chia giữa M
1
, M
2
, M
3
là nhằm tách biệt những loại
tiền khác nhau về mặt thanh khoản ra từng nhóm. Các nhóm tiền càng đi về sau này,
càng có thanh khoản kém hơn và càng mang tính chất của một khoản đầu tư.
4.1. Khối tiền tệ M
1
Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao
gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hóa, mà không
phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng
bao gồm:
- Tiền đang lưu hành: bao gồm toàn bộ tiền mặt do Ngân hàng Trung ương
phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng.
- Tiền gửi không kỳ hạn ở các ngân hàng thương mại: là tiền gửi mà chủ sở
hữu của nó có thể phát séc để thanh toán tiền mua hàng hay dịch vụ.
4.1. Khối tiền tệ M
2
Khối tiền tệ này, với một cách nhìn rộng hơn về lượng tiền cung ứng. Theo
khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
- Lượng tiền theo M
1
.
9
- Tiền gửi tiết kiệm ở các ngân hàng thương mại.
4.1. Khối tiền tệ M

3
Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
- Lượng tiền theo M
2
- Tiền gửi có kỳ hạn ở các ngân hàng thương mại.
4.1. Khối tiền tệ L
Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm:
- Lượng tiền theo M
3
- Chứng từ có giá có tính “lỏng” cao (dể chuyển thành tiền mặt): Chứng chỉ
tiền gửi, thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu,…
5. Chế độ tiền tệ
Chế độ tiên tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia, được
quy định bằng luật pháp. Chế độ tiền tệ bao gồm ba nhân tố:
- Bản vị tiền tệ: là cơ sở đánh giá đồng tiền quốc gia, là tiêu chuẩn chung mà
mổi nước chọn làm cơ sở cho chế độ tiền tệ của mình.
- Đơn vị tiền tệ: Mỗi quốc gia đều có đơn vị tiền tệ riêng của mình và được
quy định bằng pháp luật. Đơn vị tiền tệ của Việt nam là “đồng”, ký hiệu quốc tế là
“VND”; đơn vị tiền tệ của Mỹ là “đô la”, ký hiệu quốc tế là “USD”, đơn vị tiền tệ
của Nhật là “yên”, ký hiệu quốc tế là “JPY”,…
- Công cụ trao đổi: tức là những công cụ được sử dụng để thực hiện mua bán
hàng hóa, dịch vụ, thanh toán các khoản nợ như tiền giấy, tiến cắc, tiền điện tử,…
Nói chung, trong chế độ tiền tệ, yếu tố thường thay đổi là bản vị tiền tệ. Lịch
sử tiền tệ phát triển cho thấy rằng, bản vị tiền tệ của các nước do điều kiện kinh tế
cụ thể củ mổi thời kỳ quyết định. Cho đến nay, các chế độ bản vị tiền tệ sau đây đã
được sử dụng:
5.1. Chế độ song bản vị
Dưới chế độ song bản vị, đồng tiền của một nước được xác định bằng một
trọng lượng cố định của 2 kim loại, thường là vàng và bạc. Ví duk, năm 1972, ở Mỹ
1 đôla vàng = 1,603 gam vàng ròng, 1 đôla bạc = 24,06 gam bạc ròng. Tức trọng

lượng 1 đôla bạc nặng gấp 15 lần trọng lượng 1 đôla vàng.
10
Giả sử rằng , Nhà nước ấn định tỷ lệ đúc tiền chính thức của 2 kim loại bạc và
vàng là 15/1, điều đó có nghĩa là, 1 trọng lượng đơn vị tiền tệ bằng bạc gấp 15 lần
trọng lượng tiền tệ bằng vàng. Do đó, bất cứ một sự thay đổi nào trong giá trị thị
trường của một kim loại so với kim loại khác, có thể làm cho thứ kim loại có giá trị
cao hơn biến khỏi lưu thông. Bởi vì kim loại rẻ tiền hơn trên thị trường sẽ được đúc
thành tiền, kim loại đắt tiền hơn trên thị trường sẽ được đưa ra khỏi lưu thông để cất
trữ hay đúc thành thỏi để bán. Nói cách khác, một tỷ lệ đúc tiền cố định và một tỷ lệ
thị trường thay đổi, cho phép người ta giữ lại đồng tiền có giá trị hơn và cho lưu
thông đồng tiền có giá trị kém hơn.
Điều đó đã xaye ra ở Mỹ trong thế kỹ XIX, khi mà Mỹ đang giữ chế độ song
bản vị vàng và bạc theo luật định. Trong suốt giai đoạn đầu từ 1792 đến 1834 vàng
rút khỏi lưu thông và trên thực tế quốc gia chỉ còn là bản vị bạc. Nhưng từ 1834 –
1893 bạc rút khỏi lưu thông và thực chất quốc gia chỉ còn bản vị vàng.
5.2. Chế độ bản vị tiền vàng
Chế độ bản vị tiền vàng là chế độ bản vị mà đồng tiền của một nước được đảm
bảo bằng một trọng lượng vàng nhất định theo pháp luật. Những nhân tố cần thiết
của bản vị tiền vàng bao gồm:
- Nhà nước không hạn chế việc đúc tiền vàng.
- Tiền giấy quốc gia được Nhà nước xác định bằng một trọng lượng vàng nhất
định và được tự do chuyển đổi ra vàng theo tỷ lệ đã quy định.
- Tiền vàng được lưu thông không hạn chế.
Chế độ bản vị tiền vàng được sử dụng phổ biến ở các nước trong những năm
cuối thế kỹ XIX và đầu thế kỷ XX.
5.3. Chế độ bản vị vàng thỏi
Chế độ bản vị vàng thỏi cũng quy định cho đơn vị tiền tệ quốc gia một trọng
lượng vàng cố định. Nhưng vàng được đúc thành thỏi mà không đúc thành tiền.
Trong chế độ này, vàng không lưu thông trong nền kinh tế, mà chỉ dự trữ để
làm phương tiện thanh toán quốc tế và chuyển dịch tài sản ra nước ngoài. Tiền giấy

quốc gia được đổi ra vàng theo luật định, nhưng phải một số lượng tiền giấy nhất
định, ít nhất phải tương đương với 1 thỏi vàng.
11
Chế độ bản vị vàng thỏi được áp dụng ở Anh năm 1925 và quy định muốn đổi
tiền giấy lấy vàng phải đổi ít nhất là 1.500 Bảng Anh, áp dụng ở Pháp năm 1928 với
số tiền giấy phải đổi ích nhất là 225.000 Francs,…
5.4. Chế độ bản vị vàng hối đoái
Chế độ bản vị vàng hối đoái là chế độ bản vị trong đó tiền giấy quốc gia không
được trực tiếp chuyển đổi ra vàng, muốn đổi ra vàng phải thông qua một ngoại tệ.
Ngoại tệ đó phải được chuyển đổi ra vàng, như đôla Mỹ, bảng Anh,…
Chế độ bản vị vàng hối đoái được áp dụng tại Ấn Độ năm 1898, Đức 1924, Hà
Lan 1928,…
5.5. Chế độ bản vị ngoại tệ
Chế độ bản vị ngoại tệ là chế độ tiền tệ mà đơn vị tiền tệ quốc gia được xác
định bằng đơn vị tiền tệ của nước ngoài (ngoại tệ). Đó phải là các ngoại tệ mạnh và
được tự do chuyển đổi trên thị trường.
Chế độ bản vị này được sử dụng phổ biến đối với các nước thiếu vàng hoặc về
mặt chính trị bị lệ thuộc vào nước khác (các nước trong khối cộng đồng Anh sau
cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất).
Để khuyết khích thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế một cách có trật
tự, chế độ bản vị ngoại tệ này được hình thành ở các nước tư bản chủ nghĩa. Chế độ
bản vị này được thịnh hành vào năm 1944 đến năm 1971 và có 2 sự kiện nổi bật:
- Vào cuối chiến tranh thế giới lần thứ hai, Mỹ chiếm hữu phần lớn vàng của
thế giới. Do đó, Bộ Tài chính Mỹ, theo Hiệp định quốc tế đã quy định vàng và đôla
Mỹ có thể chuyển đổi được lẫn nhau, theo tỷ lệ 35 đôla cho 1 ounces vàng.
- Theo đó, các nước khác theo Hiệp định quốc tế, Ngân hàng trung ương các
nước đó đã tham gia hiệp định duy trì một tỷ giá cố định đồng tiền của họ so với
đồng đôla Mỹ.
Chế độ bản vị ngoại tệ này đã hoàn thành sứ mệnh khuyến khích thương mại
quốc tế và khôi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng từ những ănm

1960 chế độ này bắt đầu sụp đổ, bởi đồng đola Mỹ lạm phát và dự trữ vàng của Mỹ
giảm sút nghiêm trọng. Chế độ bản vị này đã kết thúc khi Tổng thống Mỹ Nixơn
tuyên bố không đổi đôla giấy ra vàng ngày 15/08/1971.
12
5.6. Chế độ tiền giấy không chuyển đổi ra vàng
Chế độ tiền giấy là chế độ tiền tệ trong đó đơn vị tiền tệ của một nước không
thể tự do chuyển đổi ra kim loại quý, mà giá trị thực tế của đồng tiền các nước phụ
thuốc vào sức mua của nó, tức là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà có thể mua
được.
Đầu những năm 1930 chế độ bản vị này đã trở thành phổ biến. Vàng chỉ được
dùng để thanh toán những khoản nợ quốc tế
Chế độ tiền giấy (tiền dấu hiệu) nó bị rút khỏi lưu thông trong nước vì không
dùng làm tiền tệ và không được chuyển đổi tiền giấy ra vàng.
Từ đó, giá trị thực tế của một đồng tiền được xác định bằng sức mua của nó và
được đo bằng số nghịch đảo của mức giá cả chung. Như vậy, mức giá cả chung
càng cao thì giá trị hay sức mua của một đơn vị tiền tệ càng thấp và ngược lại.
6. Bản chất của tài chính
6.1. Sự ra đời của phạm trù tài chính
Trong nền kinh tế hàng hóa, việc trao đổi hàng hóa được tiến hành trao đổi
một cách dể dàng thông qua tiền tệ làm môi giới trung gian. Từ đó người ta sử dụng
tiền tệ với các chức năng trao đổi và lưu trữ để phân phối tổng sản phẩm xã hội, qua
đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế, nhằm mục đích tiêu dùng và
đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Các quỹ tiền tệ này được tạo lập và sử dụng bởi các
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân. Các quan hệ kinh tế đó đã làm nảy sinh
phạm trù tài chính.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cũng đã chứng minh rằng, khi xã hội
có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, thì có sự phân chia giai cấp và xuất
hiện phạm trù Nhà nước. Nhà nước ra đời, với chức năng và quyền lực của mình đã
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng phạm vi hoạt
động của tài chính. Mặt khác để duy trì hoạt động của mình, Nhà nước đã tạo lập

quỹ ngân sách nhà nước thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới
hình thức giá trị và hình thành lĩnh vực hành chính nhà nước. Như vậy, bên cạnh
những tiền đề quyết định làm nảy sinh phạm trù tài chính là sản xuất hàng hóa và
tiền tệ, Nhà nước ra đời làm cho hoạt động tài chính ngày càng phát triển hơn.
6.2. Bản chất của tài chính
13
Về bản chất, tài chính là các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm
xã hội dưới hình thức giá trị, thông qua đó tạo lập và sữ dụng các quỹ tiền tệ, nhằm
đáp ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội.
Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính, ở đây cần phân biệt tài chính với một số
phạm trù tài chính có liên quan khác.
Thứ nhất: phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù tiền tệ. Nhìn bề ngoàitaif
chính được người ta cảm nhận như những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau
trong xã hội. Nhưng tài chính không phải là tiền tệ. Tiền tệ về bản chất là vật ngang
giá chung trong trao đổi hàng hóa với các chức năng vốn có của nó. Tài chính là sự
vận động độc lập tương đối của tiền tệ trong lĩnh vực phân phối nhằm tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ.
Thứ hai: phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù giá cả: Giá cả là một phạm
trù kinh tế liên quan đến phân phối dưới hình thức giá trị. Nhưng sự phân phối của
giá cả được tiến hành thông qua sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả của hàng hóa
trong trao đổi. Tài chính là phạm trù phân phối phản ánh sự chuyển dịch giá trị
thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Thứ ba: phân biệt phạm trù tài chính và phạm trù tiền lương: Tiền lương cũng
là phạm trù phân phối. Đó là một lượng tiền tệ nhất định được trả cho người lao
động, theo những nguyên tắc nhất định. Phạm trù tiền lương không thể đồng nhất
với phạm trù tài chính vì phạm trù tài chính là phân phối phản ánh sự chuyển dịch
giá trị thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
Tiền lương muốn được thực hiện phải thông qua tài chính, tức là thông qua
quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị sau
đây:

- Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian với các cơ quan, tổ
chức kinh tế phi tài chính, dân cư.
- Quan hệ kinh tế giữa các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư với nhau và các
quan hệ kinh tế trong nội bộ các chủ thể đó.
- Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới,…
7. Chức năng của tài chính
14
Chức năng của tài chính là những đặc tính khách quan vốn có của phạm trù tài
chính, là khả năng bên trong theo biểu lộ tác dụng xã hội của tài chính. Thể hiện cụ
thể ở ba chức năng cơ bản sau đây: chức năng phân phối, chức năng giám đốc và
chức năng tạo lập vốn.
7.1. Chức năng phân phối
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài
lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác
nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo cho những nhu cầu,
những lợi ích khác nhau của các chủ thể trong nền kinh tế xã hội.
Phân phối tài chính là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá
trị. Thông qua chức năng này, các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được
hình thành và sử dụng vào những mục đích nhất định. Phân phối qua tài chính bao
hàm cả quá trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối lại.
Quá trình phân phối lần đầu là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội cho các chủ
thể tham gia vào quá trình sản xuất vật chất và dịch vụ. Trong quá trình phân phối
lần đầu, giá trị tổng sản phẩm xã hội sẽ được hình thành các quỹ tiền tệ sau đây:
Quỹ bù đắp những chi phí vật chất đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, tiến hành dịch
vụ. Phần này hình thành quỹ khấu hao tài sản cố định và khôi phục lại vốn lưu động
đã bỏ ra. Quỹ tiền tệ này nhằm đảm bảo sản xuất giản đơn của mọi quá trình sản
xuất xã hội.
- Quỹ tích lũy nhằm tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế.
- Quỹ tiêu dùng, bao gồm tiêu dùng cho cá nhân và cho nhà nước.

Quá trình phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập
cơ bản, những quỹ tiền tệ đã được hình thành trong quá trình phân phối lần đầu ra
phạm vi rộng hơn, bao gồm cả lĩnh vực không sản xuất vật chất và dịch vụ.
7.2. Chức năng giám đốc
Chức năng giám đốc của tài chính nói đến khả năng khách quan của phạm trù
tài chính. Nhờ khả năng đó mà người ta có thể tổ chức kiểm tra quá trình vận động
của các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Khả năng đó được
biểu hiện ngay trong quá trình thực hiện chức năng phân phối của tài chính. Ở đó,
người ta có thể kiểm tra về mục đích, quy mô và hiệu quả của quá trình tạo lập và
15
sử dụng các quỹ tiền tệ. Khác với chức năng giám đốc tài chính, công tác kiểm tra
tài chính là các hoạt động chủ quan của con người trong việc kiểm tra quá trình
phân phối để tạo lập và sữ dụng các quỹ tiền tệ.
Đối tượng giám đốc của tài chính là các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua giám đốc tài chính, để kiểm tra và điều chỉnh
các quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ. Đồng thời, qua đó để kiểm tra
việc tạo lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, quá
trình hạch toán kinh tế, việc chấp hành các đạo luật về tài chính, các chính sách chế
độ tài chính của Nhà nước,…
7.3. Chức năng tạo lập vốn
Sản xuất, lưu thông hàng hóa đòi hỏi phải có trước nguồn vốn, tiền tệ đầu tư
vào các yếu tố sản xuất, vốn tiền tệ để trở thành tiền đề cho quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa, vốn tiền tệ có được nhờ tài chính có chức năng tạo lập vốn.
Trong bất cư phương thức sản xuất nào, việc tạo lập vốn đều dựa vào sản xuất thặng
dư tiết kiệm được, tích lũy được các quỹ khác nhau. Thực hiện chức năng này yêu
cầu các chủ thể phải thiết lập chính sách huy động vốn có hiệu quả trên cơ sở phân
tích các yếu tố như là tính toán nhu cầu và quy mô vốn cần tạo lập, lựa chọn các
công cụ tài chính và đòn bẩy kinh tế trong tạo lập vốn. Nói cách khác, để tạo lập
vốn ngày càng phong phú, đa dạng cũng như để nuôi dưỡng và phát triển các nguồn

tài chính cần chú trọng các vấn đề sau đây:
- Một là hoàn thiện và đòi hỏi công cụ tạo lập vốn phù hợp vơis điều kiện của
các nước.
- Hai là hỗ trợ các công cuộc cải cách khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ
phát triển ngành nghề mới, sản phẩm mới, đổi mới cơ cấu sản xuất kinh doanh.
- Ba là đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất hiện có và lực lượng sản xuất
mới.
7.4. Mối quan hệ giữa các chức năng của tài chính
Là những thuộc tính khách quan vốn có bên trong của phạm trù tài chính, các
chức năng phân phối, giám đốc và tạo lập vốn của tài chính có mối lien hệ hữu cơ
gắn bó với nhau. Chính sự hiện diện của chức năng phân phối đã đòi hỏi sự cần
thiết của chức năng giám đốc để đảm bảo cho quá trình phân phối được đúng đắn,
hợp lý hơn theo mục tiêu đã định. Trong thực tiễn, công tác giám đốc – kiểm tra tài
16
chính có thể diễn ra đồng thời với công tác phân phối, công tác tổ chức sự vận động
của các nguồn tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, cũng có thể
diễn ra độc lập tương đối, không đi liền ngay với hoạt động phân phối, mà có thể đi
trước hành động phân phối, hoặc có thể được thực hiện sau khi hành động phân
phối đã kết thúc.
TÌNH HUỐNG THẢO LUẬN:
1. Tình hình thanh toán tiền điện tử ở Việt nam
- Sơ lược thực trạng tình hình thanh toán tiền điện tử ở VN
- Những tiện ích của việc thanh toán tiền điện tử và những khó khăn khi sử
dụng tiền điện tử ở VN.
2. Những hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt tại VN và các nguyên
nhân của nó.
3. Các chức năng của tiền kim loại và tiền dấu hiệu.
BÀI ĐỌC THÊM
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam

Lịch sử Việt Nam đã trải qua hơn 4.000 năm, nhưng có thể nói rằng hệ thống
tài chính Việt Nam - hệ thống tài chính do các ngân hàng đóng vai trò chủ đạo bắt
đầu hình thành rõ nét từ năm 1858, năm Việt Nam trở thành một nước phong kiến
nửa thuộc địa của Pháp. Thực ra hệ thống tài chính, các phương tiện thanh toán (tiền
tệ) luôn là những công cụ không thể thiếu trong bất kỳ một nền kinh tế nào, đã tồn
tại từ khi hình thành ra nước Việt Nam. Nhưng hệ thống tài chính, thanh toán thời
bấy giờ rất khác so với hiện nay. Một sự kiện đáng chú ý nhất trong thời phong
kiến liên quan đến hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam là vào đầu thế kỷ 15, lần đầu
tiên Hồ Quý Ly đã cho phát hành và lưu thông tiền giấy.
Để thấy rõ quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam,
có thể chia ra làm ba loại hình là: ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm.
1.1 Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam
17
Căn cứ vào đặc thù của Việt Nam, ta có thể xem xét quá trình phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam qua từng thời kỳ gồm: Quá trình phát triển của hệ thống
ngân hàng Việt Nam thời Pháp thuộc; Quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng ở
miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975; Quá trình phát triển của hệ thống ngân
hàng ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 và Quá trình phát triển của hệ
thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
1.1.1. Hệ thống ngân hàng thời Pháp thuộc
Trước khi người Pháp đặt chân lên Việt Nam vào năm 1858, Việt Nam chưa
có tổ chức ngân hàng và tín dụng. Các hoạt động kỹ nghệ, nông nghiệp và thương
nghiệp còn ở trong tình trạng thô sơ và lạc hậu. Việc mua bán giao dịch với các
thương gia nước ngoài chủ yếu nằm trong tay nhà vua và các hoàng thân quốc thích,
và thường trả bằng vàng bạc hay bằng cách trao đổi các sản phẩm nội địa như
đường, hồ tiêu, yến sào…
Đến cuối thế kỷ thứ 19, khi nền đô hộ đã được thiết lập trên toàn cõi Đông
Dương thì Việt Nam, trở thành một thị trường độc chiếm của sản phẩm Pháp. Các
thương gia Pháp đã lập tại các thành phố lớn và thị trấn, tập trung nhất là ở thành
phố Sài Gòn, những xí nghiệp xuất nhập cảng lớn. Các kỹ nghệ gia của họ đầu tư

xây dựng những nhà máy lớn: xi măng, giấy, thuốc lá, tơ sợi, đường, rượu Một
số người còn lập những đồn điền lớn trồng cao su, cà phê, chè. Trong kế
hoạch củng cố và khai thác những tiềm năng ở Việt Nam, việc phát triển nông
nghiệp đòi hỏi những công trình thủy lợi lớn, việc đầu tư vào công nghiệp,
thương nghiệp và hệ thống giao thông vận tải, đặc biệt là vụ trùng tu và mở rộng
cảng Sài Gòn và x ây dựng những cơ sở vật chất khác của guồng máy thuộc địa đòi
hỏi sự luân chuyển của những khối tiền tệ lớn lao. Các hoạt động kinh tế của người
Pháp ở Đông Dương bành trướng mạnh nên chính phủ phải lập các ngân hàng để hổ
trợ các hoạt động ấy. Lúc đầu có 2 ngân hàng được hình thành, trụ sở đặt tại Pháp,
nhưng các chi nhánh được thiết lập tại các thành phố lớn ở Đông Dương.
Ngân hàng Đông Dương (Banque de l'Indochine) thành lập từ 1873, đến 
năm 1875 được quyền phát hành tiền tệ cho toàn cõi Đông Dương. Phạm vi hoạt
động của ngân hàng này trải rộng khắp Đông Dương và các vùng đất Ấn thuộc
Pháp. Vào khoảng năm 1930, nó trở thành một phân nhánh thực thụ của các ngân
18
hàng kinh doanh lớn: Société Generale, Credit Industriel et commercial, Crédit
foncivo de France, Crédit Lyonnais. Là một công cụ hữu hiệu của chính quyền
thuộc địa, Ngân hàng Đông Dương là cơ quan tài chính lớn nhất của chính quyền và
tài phiệt Pháp. Ngoài độc quyền phát hành tiền tệ như một Ngân hàng Trung ương,
nó còn là một ngân hàng kinh doanh thương mại lớn nhất. Ngân hàng Đông Dương
cung cấp vốn cho hoạt động kinh tế của người Pháp ở Đông Dương như Công ty
Hỏa xa Hải Phòng-Vân Nam, Công ty Than Hòn Gai-Cẩm Phả, Công ty Rượu
Đông Dương, Công ty đường Hiệp Hòa, Công ty Cao su Đất Đỏ.
Pháp-Hoa Ngân hàng (Banque Franco-Chinoise) được thành lập với mục 
đích hỗ trợ các giao dịch thương mại giữa Pháp, Đông Dương và Trung Hoa cũng
như với một vài nước khác ở Á Đông như Nhật, Thái Lan. Ngoài hai ngân hàng
trên, các nước có quyền lợi kinh tế trong vùng cũng có thiết lập các ngân hàng ở
Việt Nam như The Chartered Bank, The Hong Kong and Shanghai Banking
Corporation của Anh, Trung Quốc ngân hàng và Giao thông ngân hàng của Trung
Quốc.

Từ cuối thế kỷ 19 đến 3 thập niên đầu thế kỷ 20, các hoạt động ngân hàng đều
ở trong tay người nước ngoài. Mãi đến năm 1927, một số tư bản người Việt Nam
mới thành lập một ngân hàng lấy tên là An Nam ngân hàng (sau đổi tên là Việt Nam
ngân hàng) với vốn hoàn toàn của người Việt, chủ yếu hỗ trợ cho các hoạt động
nông nghiệp. Cho đến năm 1954, người Việt có ngân hàng thứ hai là Việt Nam
công thương ngân hàng.
1.1.2. Hệ thống ngân hàng Việt Nam ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975
Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL
thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam với các nhiệm vụ chính gồm: Phát hành
giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất.
Ngày 21/1/1960, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam giải phóng 1975, tháng 7 năm 1976, Ngân
hàng Quốc gia ở miền Nam được hợp nhất vào Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tạo
thành hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống
nhất của Ngân hàng Nhà nước bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở chính tại
19
thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và các chi điếm
ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam ở Miền Bắc có thể
được chia làm hai thời kỳ như sau:
Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được
thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện chức
năng: Phát hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý
Kho bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân
sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá.
Thời kỳ 1955 - 1975: Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện
những nhiệm vụ cơ bản gồm: Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định,
góp phần bình ổn vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế;
Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh khôi

phục và phát triển nông, công, thương nghiệp. Trong giai đoạn có hai ngân hàng
chuyên doanh được thành lập đó là Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (1957), nay là
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam
(1963).
1.1.3. Hệ thống ngân hàng ở miền Nam giai đoạn 1954-1975
Sau Hiệp định Geneve, chính phủ Pháp ký một loạt hiệp định với Nam Việt
Nam, Campuchia và Lào, chính thức công bố sự phá vỡ tình trạng hợp nhất tiền tệ
và quan thuế giữa ba nước ĐôngDương, giải thể các định chế bốn bên do Pháp
khống chế, khẳng định nguyên tắc mỗi quốc gia được quyền tự do phát hành và
kiểm soát tiền tệ, ấn định hối suất, độc lập đề ra các chính sách tiền tệ, ngoại hối và
ngoại thương. Và từ đó, cùng với chủ quyền về chính trị, người Việt Nam bắt đầu
làm chủ về hoạt động ngân hàng và phát triển nó trên qui mô nhà nước, trực tiếp
ảnh hưởng đến các giới kinh doanh, dần dần thay thế vai trò hệ thống ngân hàng
thuộc địa cũ. Có thể phân sự phát triển của ngành ngân hàng miền Nam Việt Nam
thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn từ 1954-1964: Ngày 31-12-1954, với dụ số 48 của Bảo Đại, 
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập, thay thế viện phát hành Đông
Dương, chính thức phát hành giấy bạc cho cả miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ảnh
20
hưởng của hệ thống ngân hàng Pháp vẫn còn đè nặng trên những hoạt động kinh tế
của Sài Gòn. Theo thói quen dân chúng và giới kinh doanh vẫn ưa chuộng các ngân
hàng Pháp còn hoạt động: Vẫn thích ký thác tiền và sử dụng những dịch vụ của
ngân hàng này. Giới kinh doanh người Hoa, do những quan hệ thị trường với Hong
Kong, Đài Loan, Malaysia và Singapore, vẫn tiếp tục sử dụng các ngân hàng Anh,
Hong Kong, Đài Loan. Những quyền lợi kinh tế của người Pháp ở miền Nam vẫn
còn nhiều và hoạt động về ngân hàng của họ cũng khá mạnh. Vào cuối năm 1953,
khi Ngân hàng Đông Dương chấm dứt các hoạt động thương mại của nó thì một
phần nhiệm vụ của nó được chuyển qua Ngân hàng Việt Nam Thương tín và một
phần được chuyển qua Ngân hàng kế nghiệp của người Pháp ở miền Nam là Pháp Á
ngân hàng, ngân hàng tư lớn nhất hoạt động trong thời kỳ này, qui tụ giới tư bản

kinh doanh của Pháp đang tiếp tục kinh doanh khai thác các đồn điền cao su, cà phê,
trà và các nhà kinh doanh công nghiệp của các hãng Dumarest, Oligastre, Alcan
etCie Denis Freres, BGI, Mitac, Caric Ngoài ra còn có các Ngân hàng của một số
nước khác như Bangkok bank, thiết lập 1961, The Bank of Tokyo, thiết lập năm
1962.
Giai đoạn 1965-1975: Những chuyển biến hoạt động ngân hàng từ 1954 
đến 1964 đã tạo tiền đề và điều kiện cho một giai đoạn phát triển rầm rộ từ năm
1965 đến năm 1972 của các ngân hàng thương mại ở Miền Nam Việt Nam. Trong 7
năm đầu của giai đoạn này, 18 ngân hàng mới được thành lập, nâng tổng số lên đến
31 ngân hàng với 178 chi nhánh ở các tỉnh vào năm 1972. Tính theo số dân khoảng
19 triệu lúc đó thì bình quân ở Miền Nam mỗi chi nhánh ngân hàng phục vụ cho
100.000 dân, một con số không thua kém tỉ lệ ở các nước đang phát triển ở Đông
Nam Á. Tính đến trước tháng 04/1975, hệ thống ngân hàng ở Miền Nam bao gồm
hai loại: ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng trung ương thuộc
nhà nước, còn các ngân hàng khác, tùy theo nguồn vốn, có thể phân biệt nhóm ngân
hàng của Chính phủ và nhóm ngân hàng tư nhân. Tổng số lên đến 32 ngân hàng
thương mại với 180 chi nhánh, 2 ngân hàng phát triển và 60 ngân hàng nông thôn
xuất phát từ hệ thống này được thành lập tới cấp quận tại các tỉnh miền Nam.
1.1.4. Hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 1975-nay
21
Với những đặc thù riêng của thời kỳ này, quá trình phát triển của hệ thống
ngân hàng Việt Nam từ năm 1975 đến nay có thể được chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1975-1985: Sau năm 1975, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ở miền
Nam đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại
tiền mới, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối
những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một
công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc
thị trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng chuyển dần
sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối những

năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay.
Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý Nhà nước
ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang
hạch toán, kinh doanh. Trong giai đoạn này có một sự kiện tác động không tốt đối
với hệ thống ngân hàng Việt Nam (đây cũng có thể là một bài học đắt giá nhưng rất
hữu ích cho việc phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam sau này), đó là sự đổ
bể của hệ thống các quỹ tín dụng. Chính bài học từ sự kiện này cộng với những yêu
cầu về đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tháng 5/1990, hai pháp
lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh
Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế
hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó lần đầu
tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân
biệt rạch ròi:
Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt động 
kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi nhiệm vụ
của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền; Là
ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước; NHTW là cơ quan tổ
chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền
làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với
hệ thống các ngân hàng cấp 2.
22
Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, 
thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các
Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là 
quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp 2 với các loại hình sở
hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên
doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác xã tín
dụng, Quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính Trong thời gian này, 4 ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn đã được thành lập gồm: Ngân hàng Nông nghiệp Việt

Nam; Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam; Ngân hàng Công thương Việt
Nam; Ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Trong đó, Ngân hàng Công thương Việt
Nam được thành lập mới, ba ngân hàng còn lại đã được thành lập từ trước đó, trong
giai đoạn này chỉ cơ cấu và chuyển đổi chức năng hoạt động.
Từ năm 1991 đến nay: Đây là giai đoạn hệ thống ngân hàng Việt Nam có rất
nhiều chuyển biến dần theo hướng một hệ thống ngân hàng hai cấp hiện đại qua các
cột mốc chính sau:
Từ năm 1991, khi Pháp lệnh Ngân hàng có hiệu lực, các chi nhánh, văn 
phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập tại Việt
Nam. Trong giai đoạn này, 4 ngân hàng liên doanh của 4 ngân hàng thương mại
quốc doanh với các ngân hàng nước ngoài được thành lập ở Việt Nam. Các ngân
hàng thương mại cổ phần bắt đầu được thành lập.
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền
tệ quốc tế (IMF, WB, ADB)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với 
hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt 
Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ
1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu long (Quyết
định số 769/TTg, ngày 18/9/1997).
Đây cũng chính là năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á. Và điều
này đã tác động tiêu cực đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, sau giai đoạn này, một
23
số ngân hàng cổ phần hoạt động yếu kém được xắp xếp lại. Từ hơn 50 ngân hàng
thương mại cổ phần, đến cuối năm 2004 chỉ còn lại 37 ngân hàng.
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các Ngân hàng thương 
mại Nhà nước và cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các Ngân hàng Thương Mai
cổ phần. Trong đó có thêm một sự kiện đáng chú ý là việc thành lập các công ty
quản lý tài sản tại các ngân hàng thương mại.

Năm 2001: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Trong 
hiệp định này, Việt Nam đã cam kết mở cửa thị thường tài chính ngân hàng theo
một lộ trình nhất định.
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng - 
Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu
ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với 
chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập Ngân hàng Chính sách
xã hội trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch tín dụng
chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành sửa bước 1
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Năm 2004: Sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Trong giai đoạn này, có một sự kiện rất quan trọng ảnh hưởng đến hệ 
thống ngân hàng Việt Nam nói riêng, hệ thống tài chính nói chung, đó là Hiệp định
thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ được ký kết. Theo hiệp định này, Thị trường tài
chính ngân hàng Việt Nam từng bước được mở cho các doanh nghiệp của Hoa Kỳ
và đến năm 2010, các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ được đối xử bình đẳng như các
tổ chức tài chính của Việt Nam. Đây là điều kiện tốt để thị trường tài chính Việt
Nam phát triển, nhưng cũng là một thách thức rất lớn cho các tổ chức tài chính
trong nước, nhất là các ngân hàng thương mại.
1.2. Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Song song với những đổi mới về hoạt động ngân hàng, những ý tưởng về việc
hình thành một thị trường chứng khoán tại Việt Nam đã bắt đầu được triển khai.
24
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam có thể hình
dung theo những mốc chính sau:
Thành lập ban nghiên cứu và phát triển thị trường vốn (1993): Một trong
những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng thị trường chứng
khoán (TTCK) ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển
thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày

6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng
đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo bước đi thích hợp.
Thành lập uỷ ban chứng khoán nhà nước (1996): Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước được thành lập ngày 28/11/1996 theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, là
cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc thành lập cơ quan quản lý thị trường
chứng khoán trước khi thị trường ra đời là bước đi phù hợp với chủ trương xây
dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của
TTCK sau đó hơn 3 năm.
Khai trương trung tâm giao dịch chứng khoán (2000): Kể từ khi thành lập Uỷ
ban chứng khoán nhà nước và có kế hoạch thành lập ngay trung tâm giao dịch
chứng khoán. Nhưng do quá trình chuẩn bị các điều kiện cần thiết bị kéo dài và tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực năm 1997, mặc dù được thành
lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998, nhưng sau 4 năm, ngày
28/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh chính thức được
đưa vào hoạt động với hai Công ty niêm yết đầu tiên và Công ty cổ phần cơ điện
lạnh (REE) và Công ty vật liệu Viễn thông (SACOM). Sau gần 5 năm hoạt động,
trên thị trường có cổ phiếu của 26 công ty, 120 loại trái phiếu. Trong đó chủ yếu là
trái phiếu Chính phủ. Chỉ có một loại trái phiếu công ty được niêm yết trên trị
trường là trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Đưa Uỷ ban chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ tài chính (2004): Qua hơn 5
năm hoạt động, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã thực thi chức năng, nhiệm vụ đạt
được nhiều kết quả, thể hiện vai trò là người tổ chức và vận hành Thị trường chứng
khoán Việt Nam. Tuy nhiên, để triển khai có hiệu quả hơn nhiệm vụ điều phối hoạt
động của các Bộ ngành chức năng trong việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×