Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.77 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ - LUẬT
KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ
CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
CỦA VIỆT NAM
Lời mở đầu
Trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới và khu vực, nước ta đã và
đang từng bước hòa mình để phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Việc
buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như với các
nước trên thế giới ngày càng đa dạng phong phú.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế
tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ đó, một số sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ của nước ta không những đứng vững ở thị trường trong nước, mà còn có khả
năng vươn ra thị trường nước ngoài, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập
khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước quan
tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới.
Để quản lý được các hoạt động mua bán với các nước, Nhà nước đã có nhiều
biện pháp, trong đó thuế xuất nhập khẩu là một trong những công cụ chủ yếu. Thông
qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu, chúng ta có thể nắm đủ
tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện cho nhà nước có căn cứ đề ra chính
sách ngoại thương đúng đắn, cân đối cung, cầu hàng hóa xuất nhập khẩu và cân bằng
cán cân thanh toán.
Do đó với đề tài về Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đây là
một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đối với ngoại thương Việt Nam. Và với xu thế toàn
cầu hóa Nhà nước cần có những điều chỉnh sao cho phù hợp với thế giới và tạo điều
kiện thuận lợi cho ngoại thương Việt Nam phát triển.
1. VÀI NÉT VỀ NGOẠI THƯƠNG HIỆN NAY:
Ngoại thương nước ta trong thời gian qua đã thực sự giúp cho nền kinh tế đất nước


khai thác thế mạnh trong sản xuất hàng hóa về xuất khẩu. Ngoại thương đóng góp rất
lớn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và thay đổi bộ mặt nền công nghiệp, dịch vụ và cả
trong sản xuất nông nghiệp nữa. Để có thể hiểu rõ chính sách ngoại thương của nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay, chúng ta sẽ cùng phân tích những điều kiện thuận lợi
cũng như bất lợi cho sự phát triển ngoại thương của đất nước.
1.1. Những lợi thế trong phát triển ngoại thương của Việt Nam:
Lợi thế về vị trí địa lý:
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam châu Á, là vùng có tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao nhất thế giới, bình quân mỗi nước ở khu vực này mức tăng trưởng kinh tế đạt 6-
7% năm.Viện Nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế; ven biển. nhất là
từ Phan Thiết trở vào có nhiều cảng nước sâu tàu bè có thể cập bến an toàn quanh
năm.Sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng, cách đều các thủ đô thành phố quan
trọng trong vùng Đông Nam Á. Vị trí địa lý thuận lợi cho phép ta mở rộng quan hệ
kinh tế ngoại thương và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên:
So với một số nước khác thì nước ta thuộc loại có tài nguyên tương đối phong phú:
• Về đất đai: diện tích đất đai cả nước khoảng 330.363 Km
2
trong đó có tới
khoảng 50% là đất vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Khi hậu nhiệt đới mưa
nắng điều hòa cho phép chúng ta phát triển nông lâm sản xuất khẩu có hiệu
quả cao như gạo, cao su và các nông sản nhiệt đới. Chiều dài bờ biển bờ
biển, diện tích sông ngòi và ao hồ cho phép phát triển ngành thủy sản xuất
khẩu và phát triển thủy lợi, vận tải biển và du lịch.
• Về khoáng sản: dầu mỏ hiện nay là nguồn tài nguyên mang lại nguồn thu
ngoại tệ đáng kể, sản lượng khai thác hàng năm gia tăng và là nơi thu hút
hiều vốn đầu tư nước ngoài. Than đá trữ lượng cao, mỏ sắt với trữ lượng vài
trăm triệu tấn; cả 3 miền Bắc, Nam, Trung, đều có nguồn clanh-ke để sản
xuất xi măng dồi dào.
Lợi thế về lao động:

Đây là thế mạnh của nước taLao động dồi dào, giá nhân công rẻ;tỷ lệ thất nghiệp
lớn. Lao động là 1 lợi thế cơ bản để phát triển các ngành hàng sử dụng nhiều lao động
như dệt, may, chế biến nông lâm thủy sản, lắp ráp sản phẩm điện, điện tử….
1.2. Những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của Ngoại thương:
Diện tích đất canh tác bình quân đầu người của ta thấp so với bình quân của thế
giới. Sản lượng lương thực có cao nhưng trước hết phải đảm bảo nhu cầu của dân nên
không thể tạo ra 2 nguồn tích lũy lớn cho những đòi hỏi cao của sự phát triển kinh tế.
Về tài nguyên tuy có phong phú nhưng phân bố tản mạn. Giao thông vận tải kém
nên khó khai thác, trữ lượng chưa xác định và chưa khoáng sản nào có trữ lương lớn
để trở thành mặt hàng chiến lược. Tài nguyên rừng, biển, thủy sản bị khai thác quá
mức mà không được chăm bối.
Vị trí địa lý hẹp nhưng cơ sở hạ tầng yếu kém, các hải cảng ít và nhỏ, đường xá và
phương tiện giao thông lạc hậu.
Trình độ quản lý kinh tế, xã hội kém, bộ máy chính quyền kém hiệu quả, quan lieu,
tham nhũng; chính sách, pháp luật không rõ ràng, thiếu đồng bộ, lại hay thay đổi gây
cản trở cho quá trình đổi mới kinh tế.
Trình độ quản lý của cán bộ và tay nghề công nhân còn thấp cho nên năng suất lao
động thấp, chất lượng hàng hóa chưa cao.
Công nghệ và trang thiết bị của nhiều ngành kinh tế còn ở trình độ thấp, hàng hóa
của Việt Nam chưa mang tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Những năm đầu thế kỷ 21, trong xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam có nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh tế ngoại thương, tạo điều kiện cho đất nước
hòa nhập với nền kinh tế kinh tế thế giới. Tuy nhiên còn có nhiều khó khăn trở ngai
cho tiến trình này. Việc đề ra một đường lối phát triển ngoại thương phù hợp cho phép
khai thác nhưng những lợi thế, hạn chế tối thiểu những trở ngại mang tính cấp bách và
thiết thực.
1.3. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY:
1.3.1. Xuất khẩu:
Vai trò của xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay:
Xuất khẩu hàng hóa không chỉ đơn giản là bán hàng hóa ra nước ngoài, xuất khẩu

có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát triển kinh tế đất nước. Tầm quan trọng của
xuất khẩu thể hiện qua các vai trò sau:
• Thứ nhất, xuất khầu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thỏa mãn nhu cầu nhập
khẩu và tích lũy phát triển sản xuất.
• Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu được xem như là yếu tố quan trọng kích thích sự
tăng trưởng kinh tế: Việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản
xuất , nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu gây phản ứng dây
chuyền giúp các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản
phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản phẩm xã hội
và nền kinh tế phát triển nhanh , hiệu quả.
• Thứ ba, xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản
xuất: Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường về quy cách, chất lượng sản phẩm
thì một mặt phải đổi mới trng thiết bị phục vụ sản xuất, một mặt người lao động
phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
• Thứ tư, đầy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế
ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương
đối của đất nước.
• Thứ năm, đẩy mạnh xuất khẩu làm cho sản lượng sản xuất của quốc gia sẽ tăng
thông qua mở rộng với thị trường quốc tế.
• Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển xuất khẩu có tác động tích cực và có hiệu quả
đến nâng cao mức sống của nhân dân.
• Thứ bảy, đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường hợp tác quốc tế giữa các
nước.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là hướng phát triển có tính chất chiến lược để đưa
nước ta thành nước công nghiệp mới trong giai đoạn hiện nay.
Định hướng phát triển xuất khẩu giai đoạn 2001-2010
Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục chủ trương giành ưu tiên cao
nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức mạnh
cao để xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại
tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu hàng hóa và

dịch vụ thời kỳ 2001- 2010 phải đạt mức tăng tưởng bình quân từ 15% năm trở lên.
Dựa vào kết quả xuất khẩu giai đoạn 10 năm, 1990- 2000, tốc độ xuất khẩu
nước ta tăng trưởng bình quân 22% năm, Chính phủ đã đưa ra 1 định hướng phấn
đấu tăng trưởng thấp hơn nhiều giai đoạn trước đó. Chỉ tiêu phấn đấu này phù hợp
với tình hình thực tế, dự kiến, sau năm 2005, khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi
vào hoạt động, kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm, trong khi phần kim ngạch
này chiếm tỷ trọng khoảng 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 định ra
rằng “ cơ cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh theo hướng tăng các sản
phẩm biến chế, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất
xám cao; bên cạnh đó phải quan tâm khai thác các mặt hàng chủ yếu sử dụng
nguyên vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong cũng như
ngoài nước có nhu cầu; đồng thời phải khai thác mọi nguồn hàng có khả năng xuất
khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu hiện nay của chúng ta mặt hàng thô vẫn còn chiếm tỷ trọng
rất cao.Tỷ trọng mặt hàng điện tử và dệt may có gia tăng, nhưng rõ ràng, các sản
phẩm “chế tạo” của chúng ta chiếm tỷ trọng còn rất bé trong tổng kim ngạch xuất
khẩu.
Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 còn nêu các vấn đề về cơ sơ hạ tầng, về
qui hoạch sản xuất và thị trường xuất khẩu như sau:
- chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất khẩu;
giảm xuất khẩu chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ
mới.
- phải có qui hoạch vùng cho từng nhóm sản phẩm; từng bước xây dựng tiêu
chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khẩu với nhãn hiệu “sản
xuất tại Việt Nam”.
Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị trường thế
giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẩu mã hàng hóa. Mối loại hàng hóa phải
hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị
trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị tường khác theo hướng đa

phương hóa, đa dạng hóa theo quan hệ buôn bán, từng bước giảm dần việc xuất
khẩu qua cá thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để
duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở châu Á, Nhật; thị
trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu, thâm nhập Đông Âu, châu Mỹ , Phi.
Một số chính sách có thể sử dụng nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu:
• Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực:
Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có
thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi.Việc xác định mặt
hàng chủ lực có vai trò quan trọng, giúp doanh nghiệp tập trung đầu tư, cải tiến công
nghệ, đứng vững trên thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện mở rộng thương mại và tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu.
• Gia công xuất khẩu
Gia công xuất khẩu là một hình thức xuất khẩu lao động nhưng là loại lao động
dưới dạng được sử dụng tại chỗ ( được thể hiện trong hàng hóa), chứ không phải dưới
dạng xuất khẩu nhân công ra nước ngoài.
• Đầu tư cho xuất khẩu
Theo các nhà chuyên môn, mức tiêu dùng thực tế của dân ta trong những năm gần
đây thực tế đã giảm. Nhà nước đang có chủ trương kích cầu chính là tăng mức tiêu
dùng của dân cư nhằm tạo ra tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế quốc dân. Vai trò đẩy
mạnh xuất khẩu đang là hướng trọng điểm nhằm cải thiện mức tổng cung, tăng thu
nhập cho nông dân, đạt mục tiêu kích cầu đã đề ra.
Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu: gồm vốn đầu tư trong nước và
nước ngoài ( gồm ODA, FDI, vốn vay thương mại từ nước ngoài, vốn đầu tư của các
cơ quan ngoại giao….)
• Lập các khu chế xuất:
Lợi ích :
- Thu hút được vốn và công nghệ.
- Tăng cường khả năng xuất khẩu tại chỗ
- Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động
- Góp phần làm cho nền kinh tế nước chủ nhà hòa nhập với nền kinh tế thế giới

và của các nước trong khu vực.
• Nhà nước thực hiện bảo hiểm đối với XK:
Để khuyến khích thương nhân mạnh dạn đẩy mạnh xuất khẩu bằng cách bán
chịu, các quỹ bảo hiểm xuất khẩu của nhà nước đứng ra đền bù nế bị mất vốn.
• Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu:
• Nhà nước thực hiện trợ cấp xuất khẩu:
Đây là sự ưu đãi về tài chính mà nhà nước dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu
khi họ bán được hàng ra thị trường bên ngoài, giúp cho cá doanh nghiệp tăng thu nhập;
tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới,
tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu.
Có 2 loại trợ cấp xuất khẩu: trợ cấp trực tiếp và trợ cấp gián tiếp. Về mức độ trợ
cấp: xu hướng chung là tăng cường trợ cấp gián tiếp, trợ cấp trực tiếp có xu hướng
giảm vì nếu phát triển loại hình này nhìn chung không phù hợp với xu hướng mậu dịch
thế giới ngày càng tự do hóa.
• Chính sách về tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng, cụ thể là đẩy xuất khẩu để thu nhiều ngoại tệ
cho đất nước. Nhà nước phải tiến hành điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo các quá trình
lạm phát có liên quan tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu thực hiện cạnh tranh
thành công trên thị trường quốc tế.
Từ những năm 1991 trở về trước, nhà nước ta chưa xây dựng được chính sách ngội hối
cho thích hợp. Hiện nay, tỷ giá hối đoái được ngân hàng trung ương công bố hàng
ngày, các ngân hàng thương mại giao dịch mau bán với biên độ là 0.5% so với tỷ giá
hối đoái ngân hàng trung ương qui định.
• Các biện pháp thuộc về cơ chế tổ chức quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu
của nhà nước:
Nhóm biện pháp này thực sự ra là những hình thức trợ cấp gián tiếp cho xuất khẩu,
có thể thực hiện các biện pháp này như sau:
Nhà nước thành lập các viện nghiên cứu để tổng hợp và cung cấp thông tin cho nhà
xuất khẩu.
Nhà nước tổ chức các trường đào tạo các loại chuyên gia, các cán bộ khoa học kỹ

thuật để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Nhà nước lập các phòng thương mại thuộc đại sứ quán ở các nước ta mà nước ta có
quan hệ ngoại giao để nghiên cứu chính sách thương mại, luật, thị trường hàng hóa…
Nhà nước đứng ra ký kết các hiệp định về thương mại, hiệp định về hợp tác kinh
doanh trên cơ sở đó để thúc đẩy XNK.
1.3.2. Nhập khẩu:
Vai trò của nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay;
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động 1
cách trực tiếp và quyết định sản xuất và đời sống trong nước.
- Tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa đất nước
- Bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế.
- Góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu vừa thỏa
mãn nhu cầu trực tiếp về hàng tiêu dùng ; đảm bảo đầu vào cho sản xuất,tạo
việc làm ổn định cho người lao động đồng thời qua đó tác động tích cực lại
công tác xuất khẩu.
Nguyên tắc của chính sách nhập khẩu:
Chính sách nhập khẩu cảu nước ta hiện nay phải được đề ra phù hợp với những
nguyên tắc chung về chính sách bào hộ mậu dịch của các tổ chức quốc tế.
- Sử dụng ngoại tệ với tinh thần tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao,.
- Dành ưu tiên cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất đồng thời có chú ý thích đáng
nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân.
- Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước tong nước phát triển, tăng nhanh xuất
khẩu
- Kết hợp giữa nhập khẩu và xuất khẩu
- Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu
- Kết hợp giữa nhập khẩu và xuất khẩu
- Xây dựng thị trường nhập khẩu ổn định vững chắc và lâu dài.
Chính sách nhập khẩu của Việt Nam :
Chính sách nhập khẩu giai đoạn 2001- 2010 được đề ra cụ thể như sau:

- Nhập khẩu phải được định hướng chặt chẽ; tăng trưởng bình quân của nhập
khẩu cả thời kỳ 2001- 2010 được duy trì ở mức 145 năm.
- Chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu của các ngành chế biến
nông, lâm, thủy hải và sản xuất hàng công nghiệp nhẹ; đồng thời phải gắn với
việc phát triển, sử dụng các công nghệ , giống cây con và vật liệu mới được sản
xuất trong nước.
Hàng nhập khẩu có thể chia làm 3 nhóm ngành hàng:
• Thiết bị máy móc: Gồm máy móc, nguyên vật liệu, công nghệ được nhập bảo
đảm sự hoạt động hoàn chỉnh của công trình. Khi nhập khẩu thiết bị phải cố
gắng đạt được các yêu cầu theo thứ tự ưu tiên sau:
- Kỹ thuật tiên tiến, chất lượng tốt.
- Cho phép sản xuất sản phẩm xuất khẩu với khả năng cạnh tarnh cao.
- Giá cả phải chăng, có điều kiện thanh toán lợi nhuận.
- Phù hợp với điều kiện sản xuất và trình độ tay nghề của công nhân.
- Mang lại hiệu quả kinh tế cao.
• Nguyên nhiên vật liệu:
Hàng năm tỉ trọng nhập khẩu khẩu nhóm ngành hàng này rất cao vì để thỏa mãn
40-90 % nhu cầu nguyên liệu trong nước.
Nguyên liệu vật liệu được nhập khẩu dựa vào nhu cầu thực tế của sản xuất đồng
thời phải theo quan điểm tận dụng nguyên nhiên vật liệu trong nước, sử dụng tiết
kiệm và hiệu quả.
• Hàng tiêu dùng:
Nhập khẩu hàng tiêu dùng sẽ được thực hiện để đáp ứng nhu cầu trong nước đồng
thời cũng phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội trong nước
như sau:
- Cơ cấu hàng tiêu dùng trong toàn bộ kim ngạch nhập khẩu ở mức độ vừa phải.
- Nhập khẩu có tác dụng khuyến khích và bảo vệ sản xuất hàng tiêu dùng trong
nước. Khuyến khích sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng là chiến
lược kinh tế cơ bản của nhà nước ta.
- Cân nhắc mặt hàng tiêu dùng.

Ngoài ra, để nèn kinh tế có thể phát triển được cần phải nhập khẩu cả dịch vụ và
bằng phát minh sáng chế.
1.4. Xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO:
Sau 2 năm gia nhập WTO, hoạt động ngoại thương nói chung, đặc biệt hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi để phát triển.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn,
những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt giảm. Chúng ta
có thị trường xuất khẩu rộng lớn đã và sẽ được cắt giảm cùng các biện pháp phi quan
thuế cũng sẽ được loại bỏ theo Nghị định thư gia nhập của các thành viên này
mà không bị phân biệt đối xử; tăng cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài cho các
sản phẩm của nước ta.
Về xuất khẩu hàng hoá:
Năm 2008, giá trị xuất khẩu hàng hoá ước đạt 65 tỷ USD, tương đương 73%
GDP, tăng 33,9% so với năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của năm
2008 đạt mức cao gấp nhiều lần so với những năm trước đó. Khu vực doanh nghiệp
FDI đạt kim ngạch xuất khẩu 37,3 tỷ USD (kể cả dầu khí), chiếm tỷ trọng 57,4% tổng
kim ngạch cả nước và tăng 34,6% so với năm 2007. Doanh nghiệp vốn trong nước
chỉ đạt 27,7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 42,6% tổng kim ngạch cả nước và tăng 36,5% so
với năm 2007.
Năm 2007 – 2008, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh hơn 2 lần so với tốc độ tăng GDP;
tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cao gấp 1,6 lần so với tổng giá trị GDP. Gia
nhập WTO, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam duy trì và mở rộng
cả thị trường truyền thống và thị trường xuất nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU
và Nhật Bản, đến năm 2008 Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 230 nước trên
thế giới, trong đó hàng hoá của ta xuất sang 219 nước.
Trong 3 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng. Một số mặt hàng
tăng khá, mặt hàng gạo đạt 1.743 nghìn tấn, tăng 71,3%; Hạt tiêu: 25 nghìn tấn, tăng
64,5%.
Về nhập khẩu hàng hoá:
Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 của Việt nam đạt 84 tỷ USD, tăng 34% so với

năm 2007. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài là 28,5 tỷ USD, chiếm 33,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp
100% vốn trong nước ước đạt 55,5 tỷ USD, chiếm 66,1% tổng kim ngạch nhập khẩu
cả nước và tăng 35,5% so với năm 2007.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc, thiết bị, phụ tùng, xăng dầu,
thép… Thị trường nhập khẩu năm 2008 tập trung chủ yếu vào Châu Á, trong đó nổi
bật là các thị trường Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan…
Nhập khẩu quý I/ 2009 giảm mạnh. Một số mặt hàng giảm mạnh như: sữa và sản
phẩm sữa thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, xăng dầu…
Thời gian qua chúng ta cũng đã thực hiện tích cực các biện pháp kiềm chế nhập
khẩu như tăng thuế nhập khẩu với một số mặt hàng như ôtô và linh kiện ôtô, vàng;
kiểm soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu; tiết giảm tiêu dùng và cắt giảm đầu tư…đã
góp phần kiềm chế nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách hiệu quả. Bên cạnh những
tác động thuận lợi khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức như:
Gia nhập WTO đòi hỏi tự do hoá thương mại và áp dụng các nguyên tắc tối huệ quốc
và đối xử quốc gia, điều này tất yếu dẫn đến tình trạng cạnh tranh ngày càng quyết liệt
ngay trên thị trường nội địa. Đặc biệt các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã quen với việc
sản xuất những hàng hoá và dịch vụ phục vụ thị trường nội địa trong điều kiện có bảo
hộ bằng thuế quan hoặc các hàng rào phi thuế quan thì nay phải cạnh tranh với các
doanh nghiệp nước ngoài, đây là một thách thức vô cùng lớn, nếu không có lợi thế tất
yếu sẽ bị loại bỏ, trước hết là các doanh nghiệp thương mại. Như vậy sẽ gia tăng
sức ép cạnh tranh quốc tế khắc nghiệt ngay trong thị trường nội địa. Các cơ sở xuất
khẩu của Việt Nam chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả với các rào cản thương mại
và những biến động khó lường của thị trường thế giới, bởi các rào cản thương mại
quốc tế được các nước nhập khẩu dựng lên ngày càng tinh vi, phức tạp và tỷ giá
hối đoái biến động trên thị trường thế giới theo hướng bất lợi cho hoạt động xuất
khẩu. Năng lực cạnh tranh phần lớn sản phẩm của ta là thấp. Hiện nay các mặt hàng
có tiềm năng xuất khẩu hàng đầu của Việt nam vẫn là các mặt hàng sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và công nghiệp nhẹ, sử dụng lao động rẻ. Nhập siêu của Việt Nam
hiện còn ở mức cao tác động xấu đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc

tế. Mức thuế quan của Việt Nam còn tương đối cao so với các nước trong khu vực
cũng như thế giới. Theo nguyên tắc của WTO là chỉ sử dụng thuế quan để bảo hộ sản
xuất trong nước, do vậy Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm các hàng rào phi
thuế quan một cách hợp lý, đây cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam…
Một trong những công cụ đắc lực, rõ ràng, ổn định, thuận tiện, là bộ phận không
thể thiếu trong biện pháp thực hiện chính sách ngoại thương, đó là thuế quan.
2. THUẾ QUAN VÀ CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN CỦA VIỆT NAM TRONG
THỜI KÌ HIỆN NAY.
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với 160 nước và vùng
lãnh thổ, tham gia 86 hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 40 hiệp
định chống đánh thuế 2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 70 nước,
chính thức là thành viên thứ 150 của WTO năm 2006. Đối với mỗi quốc gia, thuế
quan có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước; đóng góp
nguồn thu cho ngân sách và điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của mỗi
quốc gia.
2.1. Vài nét về thuế quan:
Thuế quan (Tariff) :
-Là thuế chính phủ đánh vào hàng hóa được chuyên chở qua biên giới quốc gia
hoặc lãnh thổ hải quan, là công cụ bảo hộ lâu đời nhất trong thương mại nhằm điều
chỉnh mối quan hệ giữa thị trường rong nước và thị trường quốc tế. Thuế quan gồm
thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu (thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu).
-Thuế xuất khẩu là một công cụ mà các nước đang phát triển thường sử dụng để
đánh vào một số mặt hàng nhằm tăng lợi ích quốc gia. Trái lại, ở nhiều nước phát triển
người ta không sử dụng thuế xuất khẩu do họ không đặt mục tiêu tăng nguồn thu ngân
sách từ thuế xuất khẩu. Vì vậy, ở những nước đó, khi nói tới thuế quan người ta đồng
nhất nó với thuế nhập khẩu. Để xác định mức độ chịu thuế của các hàng hóa khác nhau
mỗi nước đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế quan là một bảng tổng hợp quy
định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh vào các loại hàng hóa chịu thuế
khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu thuế quan có thể được xây dựng dựa trên phương

pháp tự định hoặc phương pháp thương lượng giữa các quốc gia. Có hai biểu thuế
quan là biểu thuế quan đơn và biểu thuế quan kép. Biểu thuế quan đơn là biểu thuế
quan trong đó chỉ quy định một mức thuế quan cho mỗi loại hàng hóa. Hiện nay, hầu
hết các nước không còn áp dụng biểu thuế quan này. Biểu thuế quan kép là biểu thuế
quan trong đó mỗi loại hàng hóa quy định từ hai mức thuế trở lên. Những loại hàng
hóa có xuất xứ khác nhau sẽ chịu những mức thuế khác nhau.
-Thuế quan có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, theo phương pháp
tính thuế, thuế quan được chia thành thuế quan đặc định, thuế suất theo giá trị và thuế
suất hỗn hợp. Thuế suất đặc định là thuế tính trên một đơn vị hiện vật của hàng hóa, ví
dụ thuế tính trên 1 tấn, 1 chiếc Thuế trị giá là thuế đánh vào giá trị hàng hóa và được
tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị hàng hóa đó. Thuế quan hỗn hợp là sự kết hợp
giữa thuế đặc trưng và thuế suất theo giá trị. Theo mục đích đánh thuế, thuế quan được
phân chia thành thuế quan tài chính và thuế quan bảo hộ. Thuế quan tài chính là thuế
quan nhằm vào mục tiêu tăng thu cho ngân sách quốc gia. Thuế quan bảo hộ là thuế
quan nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng
nhập khẩu. Theo mức thuế, thuế quan được chia ra mức thuế tối đa, mức thuế tối thiểu
và mức thuế ưu đãi. Mức thuế tối đa được áp dụng cho những hàng hóa có xuất xứ từ
các nước chưa có quan hệ thương mại bình thường. Mức thuế tối thiểu được áp dụng
cho những hàng hóa có xuất xứ từ các nước có quan hệ bình thường. Mức thuế ưu đãi
được áp dụng cho hàng hóa xuất xứ từ các nước có thỏa thuận hợp tác.
-Hoạt động thuế quan ở nước ta xuất hiện từ thời Lý (thế kỷ XI) và trở thành
một bộ phận hữu cơ của nền ngoại thương. Ngày 10-9-1945, Sở thuế quan và thuế
gián thu được thành lập. Thuế quan Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp xâm lược (từ 19-12-1946 đến tháng 7-1954): về cơ bản, luôn có mối quan hệ mật
thiết với các lực lượng vũ trang, dân quân du kích và ngoại thương. Thuế quan Việt
Nam thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước
ở miền Nam đã phục vụ nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn lịch sử có nét đặc
thù riêng.
-Ngày 29-12-1987, Quốc hội khóa VIII kỳ họp lần thứ 2 thông qua Luật Thuế
xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, đồng thời có ban hành kèm theo biểu thuế chung, biểu

thuế xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng, chưa tách 2 biểu thuế riêng biệt. Biểu thuế
này, được xây dựng dựa trên danh mục hàng xuất nhập khẩu Việt Nam theo tiêu chuẩn
của Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV). Biểu thuế này hoàn toàn tuân theo từng
mục đích sử dụng. Nói chung, biểu thuế xuất nhập khẩu và cả Luật Thuế xuất khẩu,
Thuế nhập khẩu chỉ phù hợp cho giai đoạn nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường, Luật Thuế xuất - nhập khẩu cũ bộc lộ nhiều nhược
điểm và chưa bảo vệ nền sản xuất hàng hóa nội địa, hướng dẫn tiêu dùng, tăng thu cho
ngân sách Vì vậy, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng và trình Quốc hội
thông qua Luật Thuế xuất - nhập khẩu ngày 26-11-1991. Mục đích của thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu là bảo vệ nền kinh tế trong nước, tăng thu ngân sách cho Nhà nước và
hướng dẫn bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Năm 1993, 1998 Quốc hội ban hành
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu cho phù
hợp với tình hình kinh tế chính trị của từng giai đoạn lịch sử. Sau 20 năm đổi mới,
nước ta đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, tham gia và ký kết nhiều cam kết,
hiệp định quốc tế. Do đó, chính sách pháp luật cũng phải thay đổi để phù hợp với
thông lệ quốc tế Ngày 7-11-2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
WTO, chúng ta phải thực hiện Cam kết về thủ tục nhập khẩu.
Mức cam kết chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600
dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn
13,4% thực hiện dần trung bình trong vòng 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với
hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong vòng 5
- 7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong
vòng 5 - 7 năm.
-Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ
yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền
kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ô-tô, xe máy vẫn duy trì
được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt
may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện
tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng
dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một

số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là
hiệp định tự nguyện của WTO, nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một
số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và
thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với
ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
Vai trò của thuế quan:(bổ sung thêm)
Thuế quan ở nước ta đóng vai trò quan trọng trong việc thu ngân sách quốc gia
(chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách). Trong giai đoạn 2001 - 2005, ngành hải quan
luôn đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu
ngân sách của Bộ Tài chính. Số thu năm sau luôn cao hơn số thu năm trước, cụ thể:
năm 2001 đạt 29.381 tỷ đồng, năm 2002 đạt 36.784 tỷđồng, năm 2003 đạt 39.178 tỷ
đồng, năm 2004 đạt 46.017 tỷ đồng, năm 2005 đạt 52.000 tỷ đồng và năm 2006 đạt
khoảng 58.000 tỷ đồng (tốc độ tăng thu bình quân hàng năm 15%).
Đây là một nỗ lực rất lớn của ngành hải quan trong bối cảnh chúng ta đang
thực hiện cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế (như cắt giảm thuế theo lộ trình
thực hiện CEPT trong ASEAN, các hiệp định song phương và gia nhập WTO). Đặc
biệt, đây là giai đoạn đầu thực hiện xác định trị giá hải quan theo các nguyên tắc của
Hiệp định trị giá GATT, tình trạng trốn thuế, gian lận qua giá còn khá phổ biến, nhưng
ngành đã tập trung chỉ đạo và đưa ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo nhiệm vụ thu thuế
đồng thời chống thất thu qua gian lận trị giá.
Tác động của thuế quan đối với nền kinh tế.
Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế cho
nước đánh thuế. Nhưng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, thuế quan lại làm giảm
phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế thế giới.
Nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của
một quốc gia. Thuế quan có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Thuế quan cao sẽ ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa được
tiêu thụ. Thuế quan cao cũng sẽ kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan càng cao, buôn
lậu càng phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và
giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở

nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó cũng
không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công
nghệ để tăng năng xuất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay
thế thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu
và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan
trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp
non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các
nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh
của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu có thể giúp cải thiện thương mại
của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm mà giá của chúng không tăng đáng kể
khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này thuế quan có thể khuyến khích nhà sản
xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước
nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả
năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu.
2.2. Tình hình thuế quan hiện nay:
Tình hình xuất nhập khẩu tháng 9/2009 đã có những dấu hiệu tích cực so với
dự đoán từ đầu năm. Kim ngạch xuất nhập khẩu của tháng 9 ước đạt gần 10,88 tỷ
USD, tăng 4,9% so với tháng 8/2009. Như vậy, với kết quả này thì tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu 9 tháng năm 2009 ước đạt 90 tỷ USD, giảm 20,5% so với cùng kỳ năm
2008, trong đó xuất khẩu ước đạt 41,7 tỷ USD, giảm 14,3% và nhập khẩu ước là 48,3
tỷ USD, giảm 25,2%.
Trong bối cảnh nhập khẩu tăng vào những tháng cuối năm, số thu của ngành
Hải quan đang có những dấu hiệu khả quan. Tính đến ngày 25/9/2009, số thu của
ngành Hải quan đạt 91.555 tỷ đồng, bằng 75,5% so với dự toán năm. Trong đó, thuế
XNK và thuế tiêu thụ đặc biệt đạt khoảng 47.529 tỷ đồng bằng 84% dự toán, thuế
GTGT đạt 43.947 tỷ đồng, bằng 68% dự toán. Số thu khác chiếm khoảng 80 tỷ đồng.
Để có được số thu này, trong quý III/2009, ngành Hải quan đã thực hiện hiệu quả các
chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính về cải cách hành chính, hiện đại hoá công tác
theo dõi thu, nộp thuế tại các đơn vị ngành dọc. Công tác kiểm tra sau thông quan đã
giúp ngành Hải quan phát hiện những vụ việc gian lận gây thất thu cho ngân sách nhà

nước. Trong đó, điển hình là các trường hợp thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe ô tô
chở tiền nhập khẩu, xe ô tô tải VAN nhập khẩu, than xuất khẩu…. Chính một
số ý kiến trong ngành hải quan thừa nhận, thuế xuất nhập khẩu ngày càng khó theo kịp
với sự đa dạng của hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, vướng mắc lớn nhất là hàng
hóa của doanh nghiệp bị chậm thông quan vì phải chờ hải quan đi khảo giá để xây
dựng giá tính thuế mới đối với những mặt hàng mới hoặc lạ đối với thị trường Việt
Nam. Trong khi đó, thời gian gần đây tại các cửa khẩu đang có hiện tượng một số mặt
hàng được các doanh nghiệp nhập khẩu về với giá tính thuế được khai báo thấp một
cách đáng nghi ngờ, nhất là ôtô, linh kiện ôtô và hàng điện tử, điện lạnh
2.3. Chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập:
Nhìn chung chính sách thuế quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay
đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế
trên cơ sở các hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc xây
dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất
nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan đã
có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các nước trong
liên minh và các nước ngoài liên minh Điều này dường như đã trở thành một xu
hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương
mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh của
hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do hóa thương mại, lợi ích thương
mại cho các thành viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ đó sẽ tận
dụng triệt để những nguồn lực có thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không hiệu
quả, đồng thời người dân cũng sẽ được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất
lượng tốt hơn. Trong trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một
ngành duy nhất, có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu
những sản phẩm của các nước trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên,
liên minh thuế quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu
như một nước chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một
ngành khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành viên.
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu

to lớn trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Là thành viên của WTO, nước ta có được vị
thế bình đẳng trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội thiết
lập một trật tự kinh tế mới công bằng, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của
đất nước, của doanh nghiệp. Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các
nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà
các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân
biệt đối xử. Điều đó tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng
kinh doanh, dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế trong một
thế giới toàn cầu hóa, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có
năng lực dự báo và phân tích tình hình, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những
biến động trên thị trường thế giới.
2.4. Những mặt tích cực của chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam
hiện nay:
Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở
thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do họ
sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó cũng không khích lệ các
nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng
năng xuất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp,
thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn
mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu.
Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt
là bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng
hóa, do vậy sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ
làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu
có thể giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm
mà giá của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này
thuế quan có thể khuyến khích nhà sản xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận
sẽ được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng
đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới
của hàng hóa nhập khẩu.

Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành đã có nhiều thay đổi căn bản
và hoàn thiện hơn nhiều so với trước đây. Cụ thể:
- Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành được xây dựng trên cơ sơ danh
mục điều hòa (HS) 1996 của Hội đồng hợp tác hải quan thế giới, đã bước đầu tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phân loại hàng hóa dựa trên cấu tạo, đặc điểm của hàng
hóa góp phần làm cho chính sách thuế xuất nhập khẩu dần dần phù hợp với thông
lệ quốc tế.
- Thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng được thiết kế hợp lý hơn. Hiện
nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số mặt hàng như dầu
thô, một số loại quặng và song mây. Thuế nhập khẩu được quy định có 3 mức:
thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường và thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong
những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào mức độ quan hệ thương mại giữa VN với
các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế, phù hợp với các quy định quốc
tế mà nước ta cam kết thực hiện. Theo tài liệu của Bộ thương mại, hiện nay VN đã
có thỏa thuận về đối xư ưu đãi đặc biệt trong quan hệ thương mại với một số nước
trong khu vực như: Brunei, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines,
Singapore, Thái Lan. Nước ta đã có th ỏa thuận về đối xư tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với 66 nước trên thế giới.
- Mức thuế nhập khẩu tối đa có xu hướng giảm. Ngoài việc giảm số lượng các mặt
hàng chịu sự quản lý giá tối thiểu của nhà nước xuống còn 15 mặt hàng, nhà nước còn
quy định bỏ áp dụng giá tối thiểu đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Công tác quản lý thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu được hoàn thiện hơn.
Quy trình hành thu thuế xuất nhập khẩu mới được ban hành có hiệu lực từ 1.1.1999.
Theo quy trình này, người khai báo hải quan khi làm thủ tục hải quan phải tự kê khai,
tự tính thuế, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc khai báo của
mình. Tổng cục hải quan ban hành mẫu tờ khai HQ 99 - XNK phù hợp trong điều kiện
chúng ta áp dụng thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu.
Các thủ tục hải quan được thực hiện nhanh chóng, công khai, đảm bảo thông thoáng,
nhanh chóng và thuận tiện tạo điều kiện tốt cho hoạt động xuất nhập khẩu.

Do hệ thống chính sách, cơ chế quản lý trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được cải
tiến theo hướng ngày càng đơn giản, thông thoáng hơn đã có tác dụng tích cực
thúc đẩy sản xuất xuất khẩu tăng nhanh và hướng nhập khẩu phục vụ tốt cho sản xuất
và đời sống.
Có thể nói rằng chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nước ta đã có tác động
tích cực trong việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu, mơ rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần phát triển, bảo vệ sản
xuất trong nước, hướng dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
2.5. Những hạn chế trong chính sách thuế xuất nhập khẩu hiện nay:
Khó khăn lớn đầu tiên đối với hệ thống thuế của Việt Nam là phải xây dựng lộ
trình cắt giảm thuế phù hợp với các nguyên tắc của WTO. Phải sử dụng thuế như một
công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh
của các DN, góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam mới được hình thành vào cuối những năm 80
cùng với việc chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh
tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế.
Mặc dù đã từng bước được cải cách và hoàn thiện vào những năm 1990-2000,
nhưng hiện nay chính sách thuế vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải cách, sửa
đổi cho phù hợp với các nguyên tắc của WTO.
-Về thuế suất thuế nhập khẩu: thuế nhập khẩu hiện nay với chức năng bảo vệ
sản xuất trong nước nên thuế xuất thường xuyên được thay đổi cho phù hợp với những
mặt hàng trong nước đã sản xuất được, do đó đã góp phần hỗ trợ tích cực cho sản xuất
trong thời kỳ đầu phát triển. Nhưng chính điều này cũng tạo ra những lệch lạc trong
định hướng đầu tư trong nước, đặc biệt là trong thu hút đầu tư nước ngoài. Trong
những năm qua, đầu tư nước ngoài đã được thu hút vào những ngành sản xuất ra các
sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao, phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước chứ
không nhằm chủ yếu vào xuất khẩu. Do tính chất quản lý, điều hành xuất nhập khẩu
còn nhiều yếu kém nên có tình trạng khoảng 50% sản phẩm của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài không xuất khẩu mà cung ứng vào thị trường nội địa, và đây là
việc làm đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước trong việc tiêu thụ

sản phẩm. Điều này đã dẫn đến vốn đầu tư này chưa thực sự góp phần tăng tiềm lực
xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế VN và đẩy nhanh được khả năng

×