BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP BỘ
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI – TRUNG DU PHÍA BẮC
Mã số: B2011-06-03
HỘI THẢO KHOA HỌC
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC TỈNH
MIỀN NÚI TRUNG DU –PHÍA BẮC
Hà Nội, 12/2012
MỤC LỤC
STT Tên bài viết Trang
1 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH NHẰM
THU HÚT FDI THỰC SỰ CÓ HIỆU QUẢ VÀO VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2011-2020
GS.TS. Đỗ Đức Bình
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
2
2 TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ XÃ
HỘI NẢY SINH TRONG FDI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
TS Vũ Quốc Bình
Viện Nghiên cứu KT - XH Hà Nội
10
3 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÁC TỈNH
MIỀN NÚI-TRUNG DU PHÍA BẮC
TS Đặng Thu Hương
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
17
4 NGHIÊN CỨU KINH NGHIỆM CỦA CÁC TỈNH BÌNH DƯƠNG
VÀ TÂY NINH VỀ THU HÚT FDI VÀ RÚT RA NHỮNG BÀI HỌC
CHO CÁC TỈNH MIỀN NÚI -TRUNG DU PHÍA BẮC
TS Trần Thị Hồng Minh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
24
5 ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC TỈNH MIỀN
NÚI – TRUNG DU PHÍA BẮC: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ CẤP BÁCH ĐANG ĐẶT RA
PGS.TS. Ngô Thị Tuyết Mai
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
38
6 ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FDI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Tiến Long
Trường ĐH KT&QTKD - ĐH Thái
Nguyên
56
7 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG
THU HÚT FDI VÀO CÁC TỈNH MIỀN NÚI - TRUNG DU PHÍA BẮC
TS Đỗ Thị Hương
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
71
8
TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA
NHẬT BẢN VÀO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT
NAM
ThS Bùi Thị Hải Yến
Công ty TNHH 1 TV Hanel
84
2
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH NHẰM
THU HÚT FDI THỰC SỰ CÓ HIỆU QUẢ VÀO VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011-2020
GS.TS. Đỗ Đức Bình
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và chính sách thu hút FDI trong
những năm qua, đặc biệt là giai đoạn 2001-2010 đã đưa lại nhiều kết qủa khả quan
trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Có thể nói thời kỳ dải thảm đỏ để thu
hút FDI đã chấm dứt. Trong bối cảnh khắc phục khủng hoảng kinh tế toàn cầu, xu
hướng mới của dịch chuyển FDI và cạnh tranh dòng FDI đòi hỏi phải điều chỉnh,
đổi mới chính sách thu hút FDI cho thích ứng, đặc biệt là Việt Nam phải làm gì và
làm như thế nào để thu hút được công nghệ nguồn từ các chính sách xuyên quốc
gia (Top 500 TNC) của các quốc gia phát triển. Bài viết sẽ góp phần giải đáp các
vấn đề này.
1. Khái quát về chủ trương, chính sách thu hút FDI đã và đang thực thi
tại Việt Nam
1.1 Tổng quan thực trạng đóng góp của FDI vào Việt Nam giai đoạn
2001-2010
1.1.1 Khái quát đặc điểm hiện trạng FDI vào Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Từ tình hình FDI vào Việt Nam thời gian qua, cho phép chúng ta khái
quát nên một số điểm sau:
Quy mô của vốn FDI cũng như tốc độ tăng của vốn FDI gia tăng qua
các năm, nhưng chưa ổn định. Điều này được thể hiện rõ qua 03 giai đoạn: 1)
phục hồi sau khủng hoảng Châu Á-Thái bình dương (2001-2004); 2) Giai đoạn
tăng nhanh (từ năm 2005 đến năm 2008) và, 3) giai đoạn suy giảm (từ năm
2009 đến tháng 11/2010).
3
Quy mô vốn FDI thực hiện tăng từng năm, nhưng khả năng hấp thụ vốn
có dấu hiệu khó khăn. Điều này thể hiện ở chỗ tỷ lệ giảỉ ngân vốn FDI thời kỳ
2001-2004 đạt bình quân 77,5%, nhưng trong 4 năm tiếp theo, tỷ lệ này tụt
xuống chỉ còn 24%. Đặc biệt là vào năm 2008, trong khi tỷ lệ vốn FDI thực
hiện đạt 11,5 tỷ USD, cao gấp 1,45 lần so với năm 2007, nhưng tỷ lệ giải ngân
vốn lại thấp nhất (khoảng 16%).
Khu vực FDI có tốc độ tăng trưởng nhanh so với khu vực đầu tư trong
nước nhưng thiếu sự ổn định (thời kỳ 2001-2009), khu vực có vốn FDI có tốc
độ tăng nhanh nhất, đạt 9,9%, gấp 1,42 lần so với khu vực trong nước. Nhưng
tính ổn định không cao, do tác động của các cú sốc khó lường trên thế giới và
cuộc khủng hoảng kinh tế và suy thoái toàn cầu.
FDI tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm và địa phương có nhiều
tiềm năng, điều kiện thuận lợi trong phát triển, nhưng tác động lan toả chưa đạt
được như mong muốn. Các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu là
các nhà đầu tư nhỏ và ở khu vực Châu Á, nên tác động lan toả về công nghệ có
hạn (chủ yếu là công nghệ bậc trung và công nghệ lạc hậu) và do đó chưa có
tác dụng nhiều đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước.
Biểu 1: Cơ cấu dự án và vốn FDI theo ngành kinh tế:
ĐVT: %
Năm 2000 2005 2007 2008 2009
DA Vốn DA Vốn DA Vốn DA Vốn DA Vốn
Tổng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Nông nghiệp 10,5 2,9 2,0 0,8 1,0 0,3 2,0 0,4 2,4 0,6
Công nghiệp 78,4 90,9 71,2 74,1 70,0 56,9 51,7 56,6 45,5 22,4
Dịch vụ 11,1 6,2 26,8 25,2 29,0 42,8 46,3 43,0 52,1 77,0
Nguồn: Cục ĐTNNH-Bộ KH&ĐT
FDI chưa hướng mạnh vào khu vực nông nghiệp, thậm chí rất ít; chỉ tập
trung vào khu vực phi nông nghiệp, nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu
4
hiện đại hoá của nền kinh tế Việt Nam. Bản thân khu vực công nghiệp, các dự
án FDI chủ yếu tập trung vào công nghệ gia công, lắp ghép, chưa hướng vào
công nghệ chế tạo để tạo ra các ngành, lĩnh vực “đầu tàu”, mũi nhọn cho nền
kinh tế.
Hiệu quả của khu vực FDI có chiểu hướng giảm. Điều này được thể
hiện ở chỗ hiệu suất sử dụng vốn (ICOOR) thấp hơn bình quân của nền kinh
tế, nhưng có dấu hiệu gia tăng, năng suất lao động của khu vực FDI đạt cao
nhất trong nền kinh tế, nhưng tốc độ lại liên tục sụt giảm.
1.1.2 Đóng góp của FDI đối vơi nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2010:
Đóng góp vào gia tăng quy mô nền kinh tế có xu hướng tăng. Theo tính
toán của Bộ KH&ĐT, đóng góp của khu vực FDI vàp GDP của Việt Nam cao
hơn hẳn mức trung bình của thế giới (18,3% so với 10,6%). Điều này cho
thấy ảnh hưởng của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam là khá hơn.
Đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của khu vực FDI có chiều hướng
không biến động nhiều và có xu hướng giảm từ năm 2007 dến nay. Cụ thể là
đóng góp vào tăng trưởng trong năm 2009 của khu vực này chỉ còn là 12,2%,
giảm 5,3% so với năm 2000 và bình quân đóng góp của khu vực FDI giai
đoạn 2001-2009 cho tăng trưởng là 16,4%.
Khu vực kinh tế có vốn FDI có vai trò đặc biệt quan trọng đối với xuất
khẩu. Trong 5 năm 2001-2005, giá trị xuất khẩu không kể dầu thô đạt hơn
34,6 tỷ USD, cao gấp 3 lần so với thời kỳ 5 năm trước đó. Trong năm 2009,
nếu không có đóng góp của khu vực FDI thì kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam còn giảm nhiều hơn. Trên thực tế trong những năm gần đây, các doanh
nghiệp FDI luôn chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của
Việt Nam.
Từ hiện trạng FDI tại Việt Nam thời gian qua đang nổi lên một số điểm
cần suy nghĩ, tiếp tục giải quyết, đó là: Khu vực FDI nhìn chung hiệu quả cao
5
hơn so với khu vực đầu tư trong nước, nhưng đang nổi lên tình trạng “lãi thật,
lỗ giả”; lợi dụng các chính sách ưu đãi về đầu tư, về thuế … của Việt Nam, …
và vấn đề chuyển giá; gây ô nhiẽm môi trường ở nhiều nơi; mới chỉ có một ít
số tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia (Top 500 Công ty mẹ) đầu tư sản xuất
kinh doanh tại Việt Nam, nên chưa tạo ra tiền đề lan toả ra thế giới và thu hút
được nhân lực, công nghệ đỉnh cao từ các nước vào Việt Nam (theo thống kê
của UNCTAD, năm 2008, tại Việt Nam hiện có 326 tập đoàn xuyên quốc gia
trên thế giới đến đầu tư, nhưng chỉ có 04 tập đoàn xuyên quốc gia (TNC) lớn
xuất phát tử Công ty mẹ).
1.2 Khái quát các chủ trương, chính sách thu hút FDI đã và đang được
thực thi tại Việt Nam
Cùng với quá trình đổi mới, mở cửa và hội nhập KTQT, Đảng và Nhà
nước ta đã thực hiện đột phá khá mạnh mẽ trong các chủ trương, chính sách
để thu hút FDI. Khởi đầu là việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987.
Trong quá trình thực hiện, Luật này liên tục được điều chỉnh, bổ sung cho
hoàn thiện và thông thoáng hơn. Tính đến nay, Luật này đã được sửa đổi và
hoàn thiện 05 lần vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và gần đây nhất là
năm 2005 với việc ban hành Luật đầu tư chung.
Chính sách thu hút FDI trong hơn 23 năm qua đã có những thay đổi
mạnh mẽ trên 04 mặt chính. Một là, sự thay đổi về nhận thức, tư duy và quan
điểm của Đảng và Nhà nước đối với khu vực FDI; Hai là, tăng tính cạnh tranh
trong thu hút vốn FDI giữa các nước trong khu vực và thế giới; Ba là, thực thi
các chính sách hội nhập KTQT và Bốn là, thực thi các chính sách FDI tác
động đến môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam.
Mặc dù có những thay đổi mạnh mẽ ở 04 mặt trên, nhưng như ở mục
1.1.1 của bài viết đã chỉ ra, trong những năm qua Việt Nam chủ yếu chỉ thu
6
hút được vốn FDI và công nghệ của các nhà đầu tư nhỏ và ở khu vực Châu Á.
Do đó, nhìn tổng thể chúng ta chưa thu hút được “công nghệ nguồn”, công
nghệ tiên tiến, hiện đại của các TNC của các quốc gia có trình độ phát triển
cao (Mỹ, EU, Nhật Bản). Kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng nhiều quốc gia
đã coi những tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu trên thế giới (top 500 TNC
mẹ) là những đối tác chiến lược (có vốn lớn; công nghệ cao tiên tiến, hiện đại;
đầu tư ổn định; …) trong thu hút FDI của mình và theo chúng tôi Việt Nam
không phải ngoại lệ. Đã đến thời điểm Việt Nam phải chấm dứt ngay tình
trạng “dải thảm đỏ”, đưa ra nhiều chính sách quá ưu đãi đối với thu hút FDI.
Trái lại, việc thu hút FDI giai đoạn 2011-2020 phải kèm theo những điều kiện
chặt chẽ và những mục tiêu rõ ràng, minh bạch, bình đẳng đối với tất cả các
đối tác đầu tư.
2. Một vài kiến nghị về định hướng chính sách nhằm thu hút FDI
giai đoạn 2011-2020
Nhiều nghiên cứu quốc tế và trong nước đã chỉ ra rằng hiện trại và
tương lai các công ty xuyên và đa quốc gia vẫn giữ vai trò quan trọng nhất đối
với FDI của thế giới và các nước tiếp nhận đầu tư. Trên thực tế, các TNC vẫn
có ưu thế vượt trội về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, nghiên cứu và triển
khai (R & D), khả năng cạnh tranh và xâm nhập thị trường, … xu hướng
chung các TNC tiếp tục đầu tư mạnh vào các ngành công nghiệp ô tô, viễn
thông, dược phẩm, dầu khí, thiết bị điện, tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, …
về các thị trường đầu tư. Mạc dù Trung Quốc, Ấn Độ, Nga được đánh gía là
những điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư, nhưng theo báo cáo của
UNCTAD năm 2009, thì một số quốc gia Đông Nam Á, trong đó có
Inđônêxia và Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng về FDI và do đó trong những
năm tới Việt Nam vẫn có thể duy trì tăng trưởng về FDI, cho dù vẫn đang
phải đối mặt với khủng hoảng toàn cầu.
7
Để có thể tiếp tục và đẩy mạnh hơn nữa thu hút FDI của các đối tác
chiến lược, đó là các TNC của các quốc gia có trình độ phát triển cao (các
quốc gia phát triển)-nơi có “công nghệ nguồn”, công nghệ tiên tiến, hiện đại
vào thực hiện có hiệu quả và vững chắc quá trình CNH-HĐH đất nước, để
đến năm 2020 Việt Nam thực sự trở thành nước công nghệ có trình độ tiên
tiến, hiện đại không thua kém và tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực và
toàn cầu, Việt Nam cần thực thi một số chính sách thu hút FDI theo hướng
sau đây:
- Điều chỉnh chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào những
ngành kinh doanh phù hợp với hướng chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng
theo chiều rộng sang tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu (chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả tăng trưởng)
- Xây dựng quy hoạch tổng thể trên cơ sở chiến lược phát triển tổng thể
của đất nước và chính sách phát triển ngành, vùng và lĩnh vực nhằm phát
huy có hiệu quả nguồn nội lực, kết hợp với ngoại lực; sớm tạo ra những
“đầu tàu” về công nghệ và tốc độ phát triển và lan toả tốt về công nghệ
nhằm nâng cao mạnh mẽ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và
hàng hoá của Việt Nam trên thương trường; sớm tạo dựng được các
ngành vừa tạo ra giá trị gia tăng cao, vừa tạo ra những sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ thay thế nhập khẩu và hướng đến thị trường xuất khẩu và
có sức cạnh tranh mạnh. Điều có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả
của đầu tư là cần phải có quy định rõ ràng, chi tiết về công nghệ sử dụng;
cần xây dựng các căn cứ pháp lý thuận lợi cho việc chuyển giao công
nghệ; đưa ra các biện pháp khuyến khích cụ thể cho các nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Chỉ khuyến khích đối với
các công nghệ tiên tiến, hiện đại “công nghệ xanh”; hạn chế tiến tới sớm
và triệt để loại bỏ công nghệ lạc hậu, bậc trung gây ô nhiễm môi trường;
8
- Xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho lập, xây dựng và đánh giá
các dự án đầu tư, cũng như hoạt động trong khu vực FDI. Đây là điều
kiện tiên quyết để Việt Nam có thể tiếp thu được công nghệ tiên tiến,
hiện đại, trình độ quản lý … của các TNC thuộc top 500 TNC mẹ trên
thế giới. Đi đôi với việc bồi dưỡng, đào tạo để có đội ngũ nguồn nhân
lực có tính chuyên biệt, là những chuyên gia, những “nhân tài”, cần phải
có cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ tương xứng với
tình độ năng lực, hiệu quả công việc đã thực thi. Phải có những điều kiện
đảm bảo này thì mới có thể thực thi tốt các mục tiêu đề ra;
- Thực hiện chính sách ưu đãi đặc biệt dành cho các đối tác đầu tư chiến
lược (các TNC của các quốc gia có trình độ phát triển cao-top 500 TNC
mẹ để có công nghệ nguồn) với sự cam kết thực sự của Nhà nước.
Không ưu đãi đối vơi tất cả các nhà đầu tư mà chỉ tập trung vào những
đối tác đa dạng cần để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 thực sự là nước
công nghiệp phải đạt trình độ tiên tiến, hiện đại không tụt hậu so với
nhiều nước trong khu vực và thế giới.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng quản trị Nhà nước và quản trị doanh
nghiệp, đẩy mạnh xây dựng các chương trình xúc tiến đầu tư có hiệu quả
và có tầm nhìn tổng thể và dài hạn. Đi đối với việc phân cấp đầu tư, cần
phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát của các
cơ quan Nhà nước, Trung ương. Thực hiện mạnh mẽ việc “thổi còi” đối
với các dự án thu hút FDI (nói riêng) không tuân thủ quy hoạch, chiến
lược tổng thể về thu hút FDI đã đề ra.
Thực hiện các vấn đề này đòi hỏi phải khắc phục triệt để tư tưởng thu
hút đầu tư mang tính chủ quan, tràn lan, tính nhiệm kỳ, tính phong trào, … đề
cao thành tích bề nổi, coi nhẹ tính hiệu quả. Bên cạnh các công việc Nhà nước
phải thực thi, cần đề cao tính thụ chịu trách nhiệm, chịu sự giám sát đối với
9
các cơ quan thực thi chính sách từ xã hội dân sự, khu vực tư nhân và mọi
công dân, thực sự tích cực sửa chữa kịp thời các sai lầm. Đề cao tư tưởng và
hành động luôn luôn dám đối mặt với sai lầm, không lẩn tránh khi đã mắc
phải, tích cực sửa sai và đưa ra các quyết sách đúng và khách quan không vi
phạm các cam kết quốc tế và các nguyên tắc của kinh tế thị trường.
Tài liệu tham khảo
1. FDI tại Việt Nam-những bất cập về chính sách và giải pháp hoàn thiện. Tạp
chí kinh tế và phát triển, số 145, tháng 9/2009.
2. Kinh tế và dự báo các số tháng 10 và 11 tháng 11 năm 2010.
3. Các báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài - Bộ KH&ĐT.
4. Dự thảo báo cáo kết quả giai đoạn I “Đề án nghiên cứu về xu hướng chiến
lược đầu tư của một số đối tác tiềm năng đối với Việt Nam-Bộ KH&ĐT.
5. Dự thảo các văn kiện của Đảng trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
10
TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ XÃ
HỘI NẢY SINH TRONG FDI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
TS Vũ Quốc Bình
Viện Nghiên cứu KT - XH Hà Nội
Thực tế đã khẳng định, FDI có vai trò và tác động ngày càng to lớn và
khá hiệu quả đối với các nước đang coi trọng thực hiện chiến lược tăng cường
và mở rộng tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình đầu tư nảy
sinh không ít các vấn đề về kinh tế xã hội, làm giảm hiệu quả trong phát triển
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội đối với nước tiếp nhận FDI. Nói cách
khác, các vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong FDI thường dẫn đến những rủi
ro cho nước tiếp nhận.
2. Tác động về kinh tế
Thứ nhất, Giảm tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế ở nước tiếp nhận
Các nhà đầu tư nước ngoài thường có nhiều ưu thế trong việc đổi mới
công nghệ theo hướng ngày càng tiên tiến, hiện đại hơn. Để thực hiện được
công việc này, họ luôn chủ động trong việc chuyển giao những công nghệ
đang sử dụng, thậm chí đã lạc hậu cho các nước tiếp nhận (mà chủ yếu là các
nước đang và kém phát triển). Hơn nữa, để tận dụng tối đa những lợi thế của
nước tiếp nhận có lao động dồi dào, rẻ, tài nguyên thiên nhiên phong phú…
Họ chỉ tập trung vào thực hiện các chiến lược, mục tiêu làm thế nào để khai
thác tốt nhất được nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn có… mà
không chú ý tới các vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI, cải thiện
năng lực cạnh tranh, cũng như mức độ lan toả công nghệ cho các doanh
nghiệp ở nước tiếp nhận… Những thụ hưởng của nước tiếp nhận về trình độ
khoa học công nghệ, về nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như sử dụng có
11
hiệu quả các nguồn lực… thấp hơn nhiều so với mong đợi. Mặc dù tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế đạt những con số khá khả quan, nhưng chất lượng
tăng trưởng hầu như rất thấp.
Thực tiễn thế giới hết sức sống động chỉ ra rằng, thông thường các nhà
đầu tư nước ngoài khi bắt đầu triển khai hợp tác và đầu tư thường hứa hẹn với
nhiều dự án hấp dẫn, công nghệ thích hợp hoặc hiện đại… song thực tế đã
khẳng định những con số về vốn FDI chỉ là số đăng ký, còn số thực hiện lại là
vấn đề khác và thường có khoảng cách khá xa so với vốn đăng ký. Ví dụ, ở
Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2009, tổng vốn FDI thực hiện là 66,9 tỷ USD,
chỉ bằng 34,7% tổng vốn đăng ký. Riêng năm 2008, mức vốn đăng ký kỷ lục là
71,7 tỷ USD, gấp 3 lần năm 2007, cao nhất từ trước đến nay, nhưng thực tế số
vốn thực hiện chỉ đạt 11,5 tỷ USD, chiếm 16% số vốn đăng ký. Hiện tại, nền
kinh tế Việt Nam luôn được đánh giá là tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào
thâm dụng lao động, tài nguyên và vốn. Trong khi đó, nguồn vốn FDI vào các
dự án không đúng như cam kết. Điều đó làm cho không ít các dự án triển khai
chậm, kém hiệu quả và do đó là một trong số các nguyên nhân làm giảm tốc
độ, chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam so với mục tiêu đặt ra.
Thứ hai, công nghệ tiếp nhận kém hiệu quả
Các nhà đầu tư nước ngoài luôn có mặt bằng công nghệ cao hơn mặt
bằng công nghệ của các nước tiếp nhận. Nếu luật pháp, chính sách ở nước
tiếp nhận không rõ ràng, thiếu minh bạch, trình độ quản lý yếu kém, các nhà
đầu tư lợi dụng kẽ hở này để chuyển giao công nghệ lạc hậu, công nghệ
không theo cam kết. Họ sẵn sàng chỉ tập trung đầu tư và chuyển giao cho
nước tiếp nhận công nghệ gia công, lắp ráp cho các ngành dệt may, da giày,
điện tử, ô tô… hầu như ít đầu tư vào ngành công nghệ cao và do đó không thể
sớm đưa các nước tiếp nhận thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước tiếp nhận khó có thể thực thi đúng
12
tiến độ và hiệu quả.
Thứ ba, giảm hiệu quả xuất khẩu
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, các nước tiếp nhận chưa
đầu tư thích đáng và phát triển tốt các ngành công nghiệp hỗ trợ, chưa có các
doanh nghiệp với tư cách là vệ tinh, cung cấp các yếu tố đầu vào cho các
doanh nghiệp FDI, hầu hết các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh
doanh phải nhập khẩu. Điều đó phản ánh các quốc gia tiếp nhận FDI cho dù
đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu về lượng, nhưng hiệu quả xuất khẩu đạt
được là rất khiêm tốn do giá trị gia tăng nội địa thấp.
Nếu cơ chế quản lý ở nước tiếp nhận không phù hợp, yếu kém, các
nhà đầu tư nước ngoài sẵn sàng chuyển hướng không đầu tư vào sản xuất nữa,
mà đầu tư vào nhập khẩu, tiếp đó là lắp ráp sản phẩm tại các nước tiếp nhận
và biến nước tiếp nhận thành thị trường tiêu thụ sản phẩm của họ, tiêu diệt và
làm phá sản các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành hàng ở nước tiếp nhận…
Đây cũng là nguyên nhân làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm xuất
khẩu, và gây ra nguy cơ thâm hụt thương mại ở các nước tiếp nhận đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Thứ tư, hậu quả của chuyển giá trong FDI
Những nước phải đối mặt với hiện tượng chuyển giá của các doanh
nghiệp FDI, thường phải gánh chịu những hậu quả sau:
- Các doanh nghiệp FDI với thủ thuật chuyển giá không chỉ làm cho ngân sách
Nhà nước ở quốc gia tiếp nhận bị mất đi một khoản thu thuế lớn, mà còn làm
cho các nước này hàng năm phải cân đối một lượng ngoại tệ không nhỏ cho
việc nhập khẩu về những nguyên liệu, máy móc cao hơn giá trị thực của nó.
- Chuyển giá tạo ra môi trường kinh doanh, cạnh tranh không bình đẳng giữa doanh
nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, nhưng hưởng lợi luôn thuộc về các doanh
nghiệp FDI, gây thiệt hại đối với các doanh nghiệp trong nước.
13
- Khi tình trạng thua lỗ ảo kéo dài (“lỗ giả, lãi thật”), trong liên doanh bên nước
chủ nhà bị kiệt sức, phải rút vốn, “nhường sân” cho đối tác nước ngoài. Thực
tế đã cho thấy không ít doanh nghiệp “con” tại các nước tiếp nhận FDI đã bị
doanh nghiệp “mẹ” ở nước ngoài thôn tính.
- Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận sẽ bị đột ngột thay đổi do
hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp FDI (trong đó có các công ty đa
quốc gia) làm cho các luồng vốn chảy vào nhanh mạnh, sau đó lại có xu
hướng chảy ra trong thời gian ngắn. Hậu quả là gây ra tình trạng bất ổn định
kinh tế vĩ mô ở các quốc gia này trong các thời kỳ khác nhau.
- Với việc thực hiện chuyển giá và thao túng thị trường, chính phủ các nước
tiếp nhận đầu tư khó khăn trong hoạch định chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ
mô và thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước phát triển.
- Việc chuyển giá phá vỡ cán cân thanh toán quốc tế và các kế hoạch phát
triển kinh tế của các quốc gia tiếp nhận đầu tư. Vì vậy, nếu không kiểm
soát tốt sẽ dẫn tới sự lệ thuộc vào các nước chính quốc, lâu dài dẫn đến sự
lệ thuộc về chính trị.
Thứ năm, nhà đầu tư đột ngột rút vốn
Đây là loại rủi ro thường xảy ra trong đầu tư trực tiếp nước ngoài gây
thiệt hại cho cả bên xuất khẩu vốn đầu tư và quốc gia tiếp nhận. Tình trạng
này xảy ra khi nhà đầu tư không yên tâm về sự an toàn của các khoản vốn đầu
tư do quan hệ của quốc gia xuất khẩu vốn và quốc gia tiếp nhận xấu đi, do
chính sách thu hút và sử dụng vốn ở quốc gia tiếp nhận không ổn định, thiếu
nhất quán… Một khi các nhà đầu tư rút vốn với khối lượng lớn có thể dẫn đến
tình trạng mất ổn định về nhiều mặt đối với nước tiếp nhận như đồng nội tệ
mất giá; gia tăng thất nghiệp do các doanh nghiệp không vượt qua khỏi những
khó khăn trong sản xuất kinh doanh, buộc phải giảm quy mô, thậm chí ngừng
sản xuất kinh doanh, thị trường rối loạn…
14
Khi xảy ra hiện tượng thoái vốn của nhà đầu tư ở một nước tiếp nhận
nào đó, dẫn đến phản ứng dây chuyền lan toả rộng khắp và do đó kéo theo sự
thoái lui, rút vốn đầu tư hàng loạt ở các nước khác. Thực tiễn hai cuộc khủng
hoảng kinh tế, tài chính gần đây (khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á năm
1997 - 1998 và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 - 2009) đã cho
thấy rõ nét về vấn đề này. Do khủng hoảng kinh tế buộc các nước phải thả nổi
tỷ giá hối đoái và phá giá tiền tệ, hàng loạt doanh nghiệp, ngân hàng bị phá
sản làm cho lòng tin của các nhà đầu tư bị sụt giảm nghiêm trọng và do đó
dẫn đến khủng hoảng cả về chính trị, xã hội…
2. Tác động về xã hội, môi trường
Thứ nhất, đình công gia tăng
Về mặt xã hội, khi các xung đột trong quan hệ chủ - thợ tại các doanh
nghiệp có vốn FDI gia tăng, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường lao động
trong doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung. Việc nhà đầu tư nước ngoài
không thực hiện đúng cam kết hợp đồng với người lao động về thời gian làm
việc, trả lương, và đảm bảo các điều kiện khác cho người lao động… dẫn đến
gia tăng các cuộc đình công, bãi công, thậm chí còn có những hành động đập
phá máy móc, nhà xưởng, doanh nghiệp… Tất cả điều đó đều gây ra những
tổn thất cho cả hai phía, giới chủ và người lao động.
Từ sự khác biệt về hệ giá trị và những quan niệm do các nền văn hoá
khác nhau tạo ra, làm cho quan niệm của nhà đầu tư nước ngoài và quan niệm
của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý và người lao động trong nước có sự khác
biệt rất lớn như quan niệm về khoảng cách quyền lực, ý thức tuân thủ kỷ luật
lao động, quy định về thời gian làm việc, nghỉ ngơi, trách nhiệm đối với công
việc, quan hệ đối với các nhà quản lý, cách thức sinh hoạt… Cách ứng xử
trong các mối quan hệ không thích hợp là nguyên nhân, nguồn gốc của tranh
chấp lao động.
15
Thứ hai, môi trường ô nhiễm nặng nề, tài nguyên cạn kiệt
Để đạt tốc độ tăng trưởng cao, các doanh nghiệp phải sử dụng và khai
thác nhiều hơn các tài nguyên thiên nhiên, đồng thời thải vào môi trường những
chất độc hại. Đây là nguyên nhân chính gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được tiến hành chủ yếu trong các ngành
sản xuất công nghiệp, những chất thải của chúng nếu không được xử lý và kiểm
soát chặt chẽ sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường. Bên cạnh đó, việc
chuyển giao công nghệ lạc hậu trong đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng là nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường trong các nước tiếp nhận đầu tư.
Mặt khác, do tiêu chuẩn kiểm soát môi trường và vấn đề bảo vệ môi
trường trong các nước đang phát triển chưa được quan tâm đúng mức, kết hợp
với sự cần thiết của thu hút FDI đã làm cho vấn đề môi trường ngày càng trở
nên nghiêm trọng. Lợi dụng vấn đề này, các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất
các sản phẩm trong các lĩnh vực gây hại cho môi trường đã chuyển các nhà
máy của họ sang các nước đang thu hút đầu tư nhằm tiết kiệm chi phí xử lý
chất thải và tránh né sự kiểm soát chặt chẽ của quốc gia đi đầu tư.
Hậu quả của ô nhiễm môi trường rất đáng quan ngại. Đó là những tác động
tổng hợp tới sức khỏe cộng đồng, sản xuất nông nghiệp, thủy sản, gây ra những
thiệt hại không nhỏ về kinh tế và ảnh hưởng xấu tới các hệ sinh thái tự nhiên.
Trên thế giới, 30 năm qua có khoảng 40 bệnh mới phát sinh và có
nguồn gốc từ ô nhiễm môi trường. Nổi bật là các bệnh về đường hô hấp và
đường tiêu hóa.
Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường đến sự phát triển kinh tế - xã hội
được biểu hiện cụ thể qua: (i) Các thiệt hại kinh tế do gia tăng gánh nặng bệnh
tật; (ii) Thiệt hại kinh tế do ảnh hưởng đến nông nghiệp, thủy sản; (iii) Thiệt
hại kinh tế đối với hoạt động du lịch; (iv) Thiệt hại kinh tế do chi phí cải thiện
môi trường; (v) Phát sinh xung đột về môi trường. Đây là xung đột về lợi ích
giữa các nhóm xã hội trong khai thác và sử dụng tài nguyên và môi trường;…
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Phương Hoa (2011), Tăng cường kiểm soát nhà nước đối
với hoạt động chuyển giá trong doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập
kinh tế ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại
Học Kinh tế Quốc dân.
2. Nguyễn Mại (2011), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển bền
vững ở Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, ngày
14/6/2011.
3. Võ Khắc Thường (2010), Tác động của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đến các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
4. Andrew K Jorgenson (2008), Foreign Direct Investment and the
Envivonment, the Mitigating Influence of Institutional and Civil
Society Factors, and Relationship between Industrial pollution and
Human Health: A panel study of Less-Developed Countries,
Department of Sociology & Anthropology North Carolina State
University.
5. Borensztein, E., Degregorio, J. and Lee, J.W (1995), “How does
Foreign Direct Investment Affect Economic Growth?”, NBER Working
Paper N.5057.
17
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÁC TỈNH
MIỀN NÚI-TRUNG DU PHÍA BẮC
TS Đặng Thu Hương
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của vốn FDI trong việc góp
phần đáng kể vào việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh
xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm, chuyển giao công nghệ và giúp khai
thác một cách hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia. Chính vì vậy thu hút
nguồn vốn FDI trở thành mục tiêu chủ chốt trong chính sách mở cửa của Việt
Nam khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới nền kinh tế.
Để thực hiện tốt mục tiêu này, từ năm 1987, Luật FDI đã ra đời và
không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của đất
nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nhiều chính sách ưu đãi đầu tư cũng
đồng thời được ban hành và những thành công trong thu hút FDI cũng không
hề nhỏ. Mặc dù nguồn vốn này hiện nay có mặt hầu hết các tỉnh/thành trong
cả nước nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở những thành phố lớn như Hà Nội,
Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương…bởi nơi đây có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng, về nguồn nhân lực, …còn ở
những địa phương khác như các tỉnh miền núi - trung du phía Bắc thì sự có
mặt của các nhà đầu tư nước ngoài ít hơn rất nhiều. Điều này cũng dễ hiểu
bởi chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của vùng miền núi trung du này được
đánh giá ở mức trung bình thấp. Đặc biệt, năm 2012, tỉnh Điện Biên chỉ đạt
45,12 điểm (xếp thứ 63/63 tỉnh, thành phố của cả nước); tỉnh Cao Bằng đạt
50,55 điểm (61/63); tỉnh Lai Châu đạt 52,47 điểm (55/63). Khá nhất chỉ có 2
tỉnh là Lào Cai đạt 63,08 điểm (3/63); tỉnh Thái Nguyên 60,07 điểm (17/63)
1
.
Chỉ số năng lực cạnh tranh này liên quan tới hàng loạt các nhân tố như: thủ
1 Theo báo cáo về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của VCCI năm 2012
18
tục hành chính, tính minh bạch và trách nhiệm; quy hoạch đất đai, năng lực
quản lý của cấp chính quyền, cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực…
Đây chính là những nhân tố cơ bản tác động đến thu hút FDI ở nước ta cũng
như ở các địa phương trên cả nước
1.2.1. Sự ổn định về chính trị, kinh tế
Sự ổn định về kinh tế, chính trị sẽ tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh
thuận lợi. Một chính quyền mạnh, thực thi hữu hiệu các chính sách phát triển
kinh tế -xã hội đáp ứng yêu cầu chính đáng của nhân dân sẽ đem lại lòng tin
và sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Một quốc gia có chính
trị ổn định, kinh tế phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tưu. Các
nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi bỏ vốn vào đầu tư lâu dài và ngược lại, nếu
một nước có chính trị không ổn định, có sự bất hòa với quốc gia khác thì khi
xảy ra xung đột, các quốc gia thường áp dụng chính sách cấm vận, trừng phạt
kinh tế, chính trị…điều này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến nhà đầu tư. Do vậy sự
ổn định kinh tế, chính trị là là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi
ro khi hoạt động đầu tư ở nước sở tại bởi vì đây là những nhân tố nhạy cảm,
tác động trực tiếp đến tâm lý và hành động thực tế của các chủ đầu tư. Các
nhà đầu tư quyết định bổ sung vốn để mở rộng sản xuất hay thu hẹp vốn cũng
chủ yếu phụ thuộc vào sự ổn định chính trị và xã hội.
Tóm lại, kinh tế - chính trị càng ổn định thì các địa phương càng có
nhiều khả năng thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức và các cá
nhân trong nước và quốc tế.
1.2.2. Môi trường luật pháp
Thu hút FDI là một nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động quản lý vĩ mô
về đầu tư nước ngoài của chính phủ. Việc thu hút FDI không chỉ gắn liền với
hiệu quả kinh tế- xã hội mà còn gắn liền với sự phát triển mọi mặt về đời sống
kinh tế xã hội của đất nước cũng như của từng địa phương. Đối với mỗi quốc
gia, hệ thống luật pháp và môi trường thể chế là thành phần quan trọng của
19
môi trường đầu tư bởi vì nó phản ánh chính sách mở cửa và chiến lược hội
nhập với nền kinh tế thế giới.
Thực tế cho thấy sự thành công hay thất bại trong việc hấp dẫn các nhà
đầu tư nước ngoài phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống luật pháp cũng như môi
trường thể chế. Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng
nước mà hệ thống luật pháp của mỗi nước có sự hấp dẫn đầu tư khác nhau.
Nếu hệ thống pháp luật của một nước càng đồng bộ, rõ ràng, chặt chẽ, không
có sự chồng chéo, phù hợp với hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả
năng thu hút FDI của nước đó sẽ càng cao và ngược lại. Các nhà đầu tư cho
rằng pháp luật quy định và điều chỉnh tất cả các hoạt động để gắn quyền lợi
với nghĩa vụ và trách nhiệm kinh tế - xã hội của họ trong sản xuất kinh doanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống luật pháp trong việc thu
hút FDI, Chính phủ cũng liên tục ban hành nhiều cơ chế, quy định mới
khuyến khích đầu tư nước ngoài. Bên cạnh khuôn khổ hành lang pháp lý
chung Nhà nước đưa ra, các địa phương trong cả nước cũng đã chủ động xây
dựng các chính sách ưu đãi đặc thù, phù hợp với đặc điểm riêng của tỉnh để
tăng cường thu hút đầu tư.
1.2.3. Cơ sở hạ tầng
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia luôn là
điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông
qua các quyết định và triển khai các dự án đầu tư đã cam kết.
Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông
vận tải đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường sá, kho bãi và các
phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế;
một hệ thống bưu điện thông tin liên lạc viễn thông với các phương tiện nghe
- nhìn hiện đại, có thể nối mạng thống nhất toàn quốc và liên thông với toàn
cầu; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất
20
kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại
dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại,
quảng cáo, v.v ) phát triển rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao.
Để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ
thuật là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy tiến trình đầu tư. Sức
cạnh tranh của nhiều ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, vận tải hàng
không, điện, vận tải biển ngày càng phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng
và chiều sâu ở tất cả các quốc gia, trong đó dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư
đóng vai trò rất quan trọng đối với cả những nước thu hút vốn nước ngoài lẫn
đối với các chủ đầu tư. Nội dung hoạt động dịch vụ này rất phong phú, đa
dạng và ngày càng được mở rộng, bao gồm từ việc cung cấp thông tin cập
nhật, tin cậy, có hệ thống về môi trường đầu tư, kinh doanh của nơi tiếp nhận
đầu tư cũng như các chủ đầu tư. Thực tế hiện nay ở Việt Nam, các địa phương
đều đã có trang web riêng của tỉnh, các chính sách, các dự án ưu đãi đầu tư
cũng được đăng tải khá chi tiết. Đây là những thông tin rất quan trọng đối với
các nhà đầu tư khi muốn tìm hiểu môi trường đầu tư tại địa phương. Ngoài ra
môi trường đầu tư còn bị ảnh hưởng khá lớn của hệ thống hạ tầng xã hội như
hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe, hệ thống giáo dục đào tạo, phong tục tập
quán, văn hóa, tôn giáo…
1.2.4. Công tác quy hoạch
Quy hoạch xây dựng là công việc quan trọng hàng đầu, để đảm bảo cho
hoạt động xây dựng có hiệu quả và phát triển bền vững, chính quyền địa
phương trên cơ sở xây dựng các chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế- xã hội 5 năm và hàng năm để định hướng cho các hoạt động đầu tư. Tuy
nhiên, chất lượng của công tác quy hoạch lại ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
và hiệu quả đầu tư. Nếu quy hoạch thiếu chiến lược, tầm nhìn ngắn, chưa phù
hợp với cơ chế thị trường, chưa thay đổi kịp với quá trình thay đổi của các
21
yếu tố khách quan thì sẽ không thể định hướng được cho các nhà đầu tư. Do
vậy quy hoạch phải mang tính khách, gắn với việc nghiên cứu nhu cầu của thị
trường và khả năng của DN.
Ở một số địa phương, quy hoạch chỉ mang tính tình thế, cần đến đâu,
phát triển đến đó, nhất là việc xây dựng các công trình giao thông, các nhà
máy trong khi nguồn vốn đầu tư có hạn, nhu cầu phát triển lớn, bố trí đầu tư
dàn trải dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian thi công của các công trình hoặc
thiếu sự liên kết giữa quy hoạch ngành với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
của vùng, lãnh thổ dẫn đến tình trạng mẫu thuẫn trong quy hoạch, quy hoạch
khép kín, không công khai minh bạch, gây nên sự lãng phí do phát triển
chồng chéo, dư thừa công suất, tạo ra sự độc quyền trong phát triển một số
ngành, một số sản phẩm, gây lãng phí cho nguồn vốn đầu tư.
Để cải thiện môi trường đầu tư, các tỉnh phải đặt quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội trong liên kết qui hoạch vùng, lãnh thổ. Chẳng hạn khi muốn
xây dựng các nhà máy sản xuất, chế biến cần phải cân nhắc và xem xét kỹ
nguyên liệu đầu vào trong phạm vi toàn vùng chứ không phải phạm vi của địa
phương để tránh tình trạng thiếu nguyên liệu và giảm hiệu quả đầu tư.
1.2.5. Chính sách, công cụ và thủ tục hành chính của chính quyền địa
phương về đầu tư
Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính r-
ườm rà, phức tạp, gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư.
Do vậy để DN nhanh chóng tiến hành sản xuất kinh doanh thì thời gian phê
duyệt, quyết định cấp giấy phép đầu tư, cũng như thời gian thẩm định thiết kế
kỹ thuật, thẩm định môi trường cho các dự án phải nhanh chóng.
Bên cạnh những vấn đề liên quan đến các thủ tục hành chính thì hiệu
quả quản lý của chính quyền địa phương cũng rất quan trọng, nhất là trong
phân cấp quản lý bởi vì việc phân cấp trong các khâu lập, thẩm định, phê
22
duyệt, thi công hợp lý sẽ phát huy được quyền tự chủ của địa phương và
DN. Ngược lại, giao quyền tự chủ cho các DN nhưng không có các chế tài
quản lý, kiểm tra, theo dõi sẽ dẫn đến tình trạng thả nổi DN. Sự lẫn lộn giữa
quyền sở hữu và quyền sử dụng dẫn đến cơ chế xin cho, tiêu cực cũng sẽ
dẫn đến thất thoát, lãng phí trong đầu tư và làm ảnh hưởng đến môi trường
đầu tư, kinh doanh tại địa phương.
Hiệu quả quản lý của nhà đầu tư nói lên năng lực điều hành của chính
quyền địa phương và sự phối hợp, phân cấp giữa các cơ quan công quyền
trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến quá trình sản xuất kinh
doanh của nhà đầu tư. Muốn có một bộ máy hành chính gọn nhẹ, sáng suốt,
các thủ tục hành chính và những quy định pháp lý đơn giản, công khai và nhất
quán đòi hỏi trình độ cán bộ công chức phải không ngừng được nâng cao về
chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, tin thông luật pháp và ứng xử
hợp lý, linh hoạt trong các tình huống
1.2.6. Chất lượng nguồn nhân lực
Nhân lực là một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất, như vậy chất
lượng lao động và giá cả lao động cũng sẽ quyết định hiệu quả sản xuất của
DN. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu của các
nhà đầu tư là một vấn đề rất cấp bách bởi vì DN có tồn tại và phát triển hay
không phụ thuộc rất lớn đến chất lượng nguồn nhân lực. Thực tế chứng minh
rằng chất lượng nguồn nhân lực có tác động rất mạnh đến khả năng thu hút
đầu tư và ngược lại chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ hạn chế khả năng tiếp
cận công nghệ tiên tiến, hiện đại. Thông thường một địa phương có năng lực
hấp thụ vốn cao và nguồn nhân lực có chất lượng tốt thì dòng vốn đầu tư đổ
vào địa phương đó càng nhiều. Hơn nữa một hệ thống DN trong nước phát
triển, đủ sức hấp thu công nghệ chuyển giao, và là đối tác ngày càng bình
đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để nước và địa
23
phương tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng
vốn nước ngoài. Hiện nay, không chỉ các tỉnh miền núi mà tất cả các địa
phương khác trong cả nước đều chú trọng đến nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực như mở các khóa đào tạo lao động tại chỗ, vận động các công ty,
DN tài trợ cho các trường dạy nghề, hoặc kết hợp với các công ty liên doanh
nước ngoài để đào tạo,ký kết các thoả thuận với chuyên gia nước ngoài về
đào tạo lao động bởi vì chất lượng nguồn nhân lực cũng là một lợi thế cạnh
tranh đối với các nhà đầu tư. Bên cạnh đó sự cần cù chịu khó, ý thức chấp
hành tốt kỷ luật và pháp luật của người lao động cũng là những yếu tố rất
quan trọng trong môi trường cạnh tranh để thu hút đầu tư đang ngày càng
khốc liệt như hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Hải Hồ (2011), Cải thiện môi trường đầu tư ở các tỉnh vùng trung du,
miền núi phía Bắc Việt Nam, Luận án tiến sĩ.
2. Ngô Thị Tuyết Mai (2012), 25 năm FDI: Nhìn nhận và tháo gỡ, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, tập 9, số 521, trang 22-25
3. Sajid Anwar and Lan Phi Nguyen (2010), Foreign direct investment and
economic growth in Vietnam, Asia Pacific Business Review, Vol. 16, Nos.
1–2, January–April 2010, 183–202
4. Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh Bắc Giang, Hòa Bình, Thái Nguyên (2010-
2012), Báo cáo phát triển Kinh tế - Xã hội
24
NGHIÊN CỨU KINH NGHIỆM CỦA CÁC TỈNH BÌNH DƯƠNG
VÀ TÂY NINH VỀ THU HÚT FDI VÀ RÚT RA NHỮNG BÀI
HỌC CHO CÁC TỈNH MIỀN NÚI -TRUNG DU PHÍA BẮC
TS Trần Thị Hồng Minh
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong những năm gần đây, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam luôn là một
trong những khu vực kinh tế năng động và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều
nhất trong cả nước. Trong đó, nổi bật trong thu hút FDI là các tỉnh Bình Dương,
Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai và Tây Ninh, luôn trong nhóm 10 tỉnh, thành dẫn
đầu về thu hút đầu tư nước ngoài. Sức hấp dẫn thu hút các dòng vốn đầu tư của
vùng vẫn đã và đang được phát huy với mục tiêu nâng cao hiệu suất đầu tư ở mức
cao nhất. Kinh nghiệm của các tỉnh này trong việc thu hút FDI phát triển kinh tế -
xã hội rất đáng để các tỉnh khác tham khảo.
1.3.1. Kinh nghiệm thu hút FDI tỉnh Bình Dương
Là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ được tách ra từ tỉnh Sông Bé
(cũ) và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1997, Bình Dương nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với TP.HCM, Đồng Nai,
Bình Phước. Do có vị trí nằm gần TP.HCM - là trung tâm kinh tế - văn hóa,
đầu mối giao thông lớn của cả nước, đồng thời có các trục lộ giao thông huyết
mạch của quốc gia chạy qua như quốc lộ 13, quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh,
đường Xuyên Á …; cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và các cảng biển chỉ
từ 10–15km… nên Bình Dương có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển công
nghiệp cũng như phát triển kinh tế - xã hội toàn diện. Bình Dương hiện là một
trong 5 địa phương dẫn đầu về độ hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện
nay, Bình Dương có 28 KCN và cụm công nghiệp tập trung có tổng diện tích
hơn 8.700 ha với hơn 1.200 DN trong và ngoài nước đang hoạt động có tổng
vốn đăng ký hơn 13 tỷ đôla Mỹ.
25